Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tư tưởng chính trị thời thuộc pháp ở Việt Nam (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG VĂN TOÀN

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI THUỘC PHÁP
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG VĂN TOÀN

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI THUỘC PHÁP
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ MẠNH TOÀN

HÀ NỘI, 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn với đề tài " Tư tưởng chính trị thời thuộc pháp
ở Việt Nam " là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hoàng Văn Toàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 4
Chương 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ
BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM THỜI THUỘC PHÁP7
1.1. Việt Nam thời thuộc Pháp ............................................................................. 7
1.2. Đặc điểm tư tưởng chính trị Việt Nam thời thuộc Pháp ...................... 12
Chương 2: MỘT SỐ TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ TIÊU BIỂU
THỜI THUỘC PHÁP .......................................................................................... 27
2.1. Tư tưởng chính trị canh tân........................................................................ 27
2.2. Tư tưởng chính trị dân chủ tư sản ............................................................ 37
Chương 3: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ THỜI
THUỘC PHÁP ...................................................................................................... 62
3.1. Đánh giá chung về tư tưởng chính trị thời thuộc Pháp ........................ 62
3.2. Giá trị của tư tưởng chính trị thời thuộc Pháp....................................... 65
3.3. Một số hạn chế ............................................................................................... 73
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 80



MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng chính trị thuộc hình thái ý thức xã hội phản ánh thực tiễn
chính trị của xã hội. Tư tưởng chính trị thể hiện quan điểm, tư tưởng của các
giai cấp về việc giành, giữ, và thực thi quyền lực nhà nước, quyền điều hành
và quản lý xã hội nhằm đảm bảo lợi ích giai cấp.
Tư tưởng chính trị thời thuộc pháp có ảnh hưởng sâu sắc đến các phong
trào yêu nước và phong trào cách mạng của nước ta trước khi giành được độc
lập, nghiên cứu tư tưởng chính trị thời thuộc pháp vừa có ý nghĩa về mặt lý
luận vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Những nội dung trong tư tưởng chính trị
thời thuộc Pháp là kết quả của thực tiễn đấu tranh giành độc lập chống giặc
ngoại xâm của ông cha ta trong nửa sau thế kỷ IXX và đầu thế kỷ XX.
Tuy những tư tưởng trên còn những hạn chế nhất định những đã mang
lại những giá trị trong hoạt động thực tiễn các phong trào yêu nước của dân
tộc, hun dậy ngọn lửa đấu tranh giành độc lập cho đất nước; việc nghiên cứu
cũng có ý nghĩa trong học tập nghiên cứu những tư tưởng chính trị thời kỳ
Pháp thuộc, đó là sự kế thừa và tiếp thu phát triển tư tưởng chính trị của các
nhà trí thức của Việt Nam.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tư tưởng thời kỳ Pháp
thuộc ở nhiều mức độ khác nhau, ở nhiều góc độ khác nhau, từ văn học, sử
học, triết học đến nhà nước pháp luật…công trình này góp phần nghiên cứu
về tư tưởng chính trị thời thuộc Pháp trên cơ sở nghiên cứu một số nhà tư
tưởng tiêu biểu dưới góc độ tiếp cận của chính trị học.
Nhận thức được ý nghĩa của tư tưởng chính trị thời thuộc Pháp trong
tiến trình lịch sử tư tưởng chính trị của Việt Nam cũng như đối thực tiễn
nghiên cứu chính trị và thực tiễn chính trị hiện nay, nên tôi chọn đề tài: “Tư
tưởng chính trị thời thuộc Pháp ở Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình.

1



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về tư tưởng chính trị thời thuộc Pháp ở Việt Nam đã có
nhiều công trình thuộc các lĩnh vực khác nhau nghiên cứu như: Văn học, Lịch
sử, Triết học…
Cuốn sách Lịch sử tư tưởng Việt Nam của tập thể tác giả Nguyễn Tài
Thư, Phan Đại Doãn, Nguyễn Đức Sự, Hà Văn Tấn, Hà Sỹ Thắng thuộc Viện
Triết học, Viện Khoa học xã hội biên soạn, đã đi sâu nghiên cứ lịch sử tư
tưởng Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử cụ thể với nội dung là nghiên cứu
tổng thể các vấn đề của lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thời nguyên thủy đến
đầu thế kỷ XIX. Các tác giả khẳng định lịch sử tư tưởng Việt Nam cơ bản là
lịch sử tư tưởng triết học và những tư tưởng có quan hệ mật thiết với triết học,
những tư tưởng đó gắn bó với nhau tác động qua lại với nhau với mức độ vận
động của xã hội.
Bộ sách Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách
mạng tháng Tám gồm 3 (1973) tập của Trần Văn Giàu đã bàn sâu về các hình
thái ý thức dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX và sự bất lực của nó trước thực tiễn
xã hội, trước các nhiệm vụ lịch sử. Công trình cũng nói về những điều kiện
hình thành và phát triển tư tưởng trong giai đoạn lịch sử sau phong trào Cần
vương đến chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tác giả đã đi sâu phân tích chủ
trương đổi mới, học tập nước ngoài nhằm canh tân đất nước và đường lối khai
dân trí, chấn dân khí. Ngoài ra tác giả cũng đề cập đến nhiều tư tưởng chính
trị cũng như những vấn đề chính trị đầu thế kỷ XX. Các vấn đề chính trị cơ
bản như cầu viện hay tự lực, bạo động hay cải lương, quân chủ và dân chủ,
xây dựng nhà nước theo chế độ nào chế độ cộng hòa hay chế độ dân chủ
nhằm giành độc lập đưa đất nước phát triển đi lên, nâng tầm dân tộc, thực
chất những quan điểm đó là tiếp thu tư tưởng của phương Tây, tác giả cũng
chỉ ra rằng trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất Việt Nam chưa hình thành
giai cấp tư sản, lực lượng tiếp thu những tư tưởng mới về dân chủ tư sản chủ
2



yếu là tầng lớp nho sĩ, có tư tưởng tiến bộ nhưng vẫn mang những đặc tính
của con người và tâm hồn Việt Nam.
Cuốn sách Tư tưởng Triết học Việt Nam trong bối cảnh du nhập các tư
tưởng chính trị Đông Tây nửa đầu thế kỷ XX là tập hợp các báo cáo tham gia
hội thảo quốc tế do trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội tổ
chức năm 2005. Bài viết của các tác giả được biên tập làm ba phần: Tư tưởng
triết học Việt Nam đầu thế kỷ XX; phương pháp tiếp cận; sự du nhập các trào
lưu tư tưởng phương Đông vào Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng
Triết học Việt nam đầu thế kỷ XIX. Các tác giả của sách đều cho rằng đầu thế
kỷ XIX là một thời kỳ đặc biệt các nhà Nho thời bấy giờ có cơ hội tiếp cận
với tư tưởng phương Tây thông qua tân thư, và các tư tưởng triết học, chính
trị...cơ bản là sự kết hợp giữa tư tưởng truyền thống và tư tưởng dân chủ tư
sản tạo ra những trào lưu tư tưởng ở nước ta.
Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do Đinh
Xuân Lâm chủ biên bao gồm 3 chương: Tân thư; sự du nhập tư tưởng, văn
minh phương tây và phương Đông. Các tác giả đều nhận định rằng sự chuyển
biến trong cơ cấu kinh tế xã hội đầu thế kỷ XIX là nền tảng vật chất cho các
luồng tư tưởng mới của phong trào cách mạng.
Cuốn sách Góp phần tìm hiểu Nho giáo, Nho sĩ, trí thức Việt Nam trước
năm 1945 của tác giả Chương Thâu đã khái quát lịch sử phát triển của Nho giáo
Việt Nan từ thời Bắc thuộc đến đầu thế kỷ XX và đã đưa ra một số nhận xét về
vai trò tư tưởng nho sĩ Việt Nam thời cận đại, khi đất nước bị thực dân xâm lược
triều đình thất thủ nhưng các nho sĩ yêu nước có tư tưởng kiên quyết chống giặc
cứu nước, chống cả vua quan phản động, đớn hèn, trong đó có cả biện pháp văn
hóa, giáo dục tư tưởng duy tân và đấu tranh vũ trang.
Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu cuộc đời sự nghiệp của
các nhà tư tưởng, nhà nho yêu nước của các nhà nho đầu thế kỷ XX. Điểm
mạnh của các công trình này là tính chất văn bản, tư liệu, nhưng lại thiếu tính

3


hệ thống và đặc biệt là phân tích theo nội dung tư tưởng như là tư tưởng nhân
sinh, tư tưởng chính trị, tư tưởng giáo dục...còn hạn chế.
Có thể kể đến như Tổng tập văn học Việt Nam, tập 21, tuyển tập thơ
văn yêu nước của phái duy tân đầu thế kỷ XX. Trong đó có các tác phẩm của
các nhà duy tân yêu nước tiêu biểu như; Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Đăng Nguyên Cẩn,
Ngô Đức Kế, Trần Quý Cáp.....chủ yếu là các bài thơ, phú văn của các tác giả
có giới thiệu sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của các tác giả, không phân
tích nội dung tư tưởng.
Phan Châu Trinh cuộc đời và tác phẩm là cuốn sách nói về cuộc đời và
sự nghiệp của nhà nho yêu nước Phan Châu Trinh. Xuất phát từ thực tế, nhận
định và đánh giá về tính chất, vị trí, xu hướng của phong trào Đông kinh
nghĩa thục còn có sự khác biệt nên Chương Thâu viết cuốn Đông Kinh Nghĩa
Thục và phong trào cải cách đầu thế kỷ XX.
Như vậy, có rất nhiều công trình tiếp cận từ góc độ khác nhau như: Văn
học, lịch sử, triết học nghiên cứu về quá trình chuyển biến tư tưởng của nho sĩ
Việt Nam thời thuộc Pháp. Trong những công trình này, các học giả đã đề cập
một cách rời rạc về tư tưởng chính trị thời kỳ này. Do vậy, việc nghiên cứu một
cách có hệ thống về sự xuất hiện, phát triển các trào lưu chính trị thời thuộc Pháp
là cần thiết để rút ra những đánh giá về giá trị, hạn chế của các tư tưởng này đối
với cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng bảo vệ đất nước trong bối cảnh
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn trình bày một cách hệ thống những tư tưởng chính trị cơ bản
thời thuộc Pháp, nhằm rút ra một số đánh giá về tư tưởng chính trị thời này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên của luận văn có nhiệm vụ:
+ Khái quát bối cảnh kinh tế, chính trị xã hội thời thuộc Pháp
4


+ Trình bày và phân tích một số tư tưởng chính trị tiêu biểu
+ Đánh giá những giá trị và một số hạn chế của tư tưởng chính trị thời
thuộc Pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn làm rõ nội dung tư tưởng chính trị thông qua phân tích tư
tưởng chính trị của một số nhà tư tưởng tiêu biểu thời thuộc Pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu một số tư tưởng chính trị theo xu hướng canh
tân và dân chủ tư sản tiêu biểu thời thuộc Pháp ở Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dùng các phương pháp như: Logic và Lịch sử; phân tích –
tổng hợp; so sánh; quy nạp; diễn dịch; khái quát hóa; phân tích văn bản…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận:
+ Luận văn góp phần làm rõ hơn nội dung của một số tư tưởng chính trị
tiêu biểu thời thuộc Pháp.
+ Rút ra những giá trị và một số hạn chế trong tư tưởng chính trị tiêu
biểu thời thuộc Pháp.
- Về thực tiễn:
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho

việc nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng chính trị thời thuộc Pháp.

5


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Quá trình hình thành và những đặc điểm cơ bản của tư
tưởng chính trị Việt Nam thời thuộc Pháp
Chương 2: Một số trào lưu tư tưởng chính trị tiểu biểu thời thuộc Pháp
Chương 3: Một số đánh giá về tư tưởng chính trị Việt Nam thời
thuộc Pháp.

6


Chương 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN
CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM THỜI THUỘC PHÁP
1.1. Việt Nam thời thuộc Pháp
Pháp thuộc là thời gian bắt đầu từ 1884 khi triều đình Huế chấp nhận sự
bảo hộ của Pháp cho đến 1945 kéo dài 61 năm khi Pháp mất quyền cai trị ở
Đông Dương. Cũng có nhiều tài liệu cho rằng thời kỳ Pháp thuộc cần được tính
từ năm 1867, khi Nam Kỳ Lục tỉnh bị nhà Nguyễn cắt nhượng cho Pháp, trở
thành lãnh thổ đầu tiên Pháp chiếm được trong quá trình.[104]
Sau khi Việt Nam tiến hành cách mạng tháng 8 thành công lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 9 năm 1945 thực dân Pháp đem
quân trở lại tấn công Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Tuy nhiên dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược

của thực dân Pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và thực
hiện kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam.
Nửa đầu thế kỷ XX xã hội Việt Nam có rất nhiều biến động về mọi mặt
của đời sống chính trị - xã hội. Việt Nam từ chỗ là nước Phong kiến tự chủ thì
lúc này trở thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam lúc
này tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản là; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ
yếu là nông dân, với giai cấp phong kiến, mâu thuẫn giữa toàn dân Việt Nam
với chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược, thống trị. Bên cạnh đó, sự hiện diện
của truyền thống tư tưởng, văn hoá dân tộc, trong đó nổi bật là tinh thần nhân
ái, ý thức độc lập, tự cường và tình cảm cố kết cộng đồng, giữ vai trò quy
định trực tiếp mọi quan hệ xã hội. Đồng thời, sự tiếp nhận một cách sáng tạo
những tinh hoa văn hoá phương Đông và văn minh phương Tây được xem
như một nhân tố cần thiết để phát triển đời sống tư tưởng của dân tộc. Vào
7


cuối những năm 20 của thế kỷ trước, với sự thắng lợi và ảnh hưởng của cuộc
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại, Nguyễn Ái Quốc nhận thức
và lĩnh hội lý luận cách mạng và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin trên mặt
trận đấu tranh chính trị giành độc lập dân tộc và dân chủ xã hội có ý nghĩa đặc
biệt to lớn, tạo ra bước nhảy về chất và lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi tới
thắng lợi.
Một là, về vấn đề kinh tế
Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương bao gồm Bắc Kì,
Trung Kì, Nam Kì và Campuchia, trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa theo
Sắc lệnh ngày 17-10-1887. Ngày 19- 4-1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp
nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt thành Bắc
Kì, Trung Kì và Nam Kì với chế độ cai trị khác nhau. Nam kỳ hoàn toàn
thuộc về Thực dân Pháp, Bắc Kì và Trung Kì là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại
chính quyền phong kiến về hình thức, hai nước Lào và Campuchia cũng là đất

bảo hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông Dương. Việt Nam, Lào,
Campuchia không còn tên trên bản đồ thế giới. Trong thời gian này thực dân
Pháp chú trong vào lĩnh vực khai thác mỏ và nông nghiệp.
Triều đình nhà Nguyễn kí điều ước nhượng quyền khai khẩn đất hoang
cho thực dân Pháp năm 1897. Thực dân Pháp tăng cường cướp đoạt đất đai, lập
các đồn điền cao su lớn và đặc biệt quan tâm tới khai thác mỏ than và kim loại.
Tất cả khoáng sản khai thác được ở Việt Nam được chở về Pháp để luyện
kim, Pháp không xây dựng xí nghiệp nhà máy luyện kim ở Việt Nam. Các xí
nghiệp phục vụ cho khai mỏ nằm trong tay những tập đoàn tư bản Pháp. Tận
dụng nhân công lao động rẻ mạt bóc lột sức lao động của người công nhân,
sao cho chi phí sản xuất giảm xuống mức thấp nhất để thu lợi nhuận cao.
Thực dân Pháp cũng xây dựng hệ thống giao thông hiện đại, phục vụ lợi ích
kinh tế và phục vụ lợi ích quân sự. Việt Nam trở thành thị trường độc quyền
8


của tư bản Pháp, Pháp độc quyền thu thuế xuất nhập khẩu. Tất cả hàng hóa
Việt Nam mà Pháp cần đều phải ưu tiên xuất sang Pháp, không được xuất
khẩu sang nước khác, những hàng hóa mà Pháp thừa ế hoặc kém phẩm chất
so với hàng hóa của các nước khác thì Pháp xuất sang Việt Nam. Ở Bắc Kỳ
tính đến năm 1902, người Pháp đã chiếm hữu 182.000 héc ta đất trong đó có
50.000 héc ta ở các vùng trù phú nhất. Sau khi chiếm đất, thực dân Pháp chủ
yếu vẫn áp dụng phương pháp phát canh thu tô. Một số tư bản thực dân có
kinh doanh trong những sở đồn điền mới theo lối tư bản chủ nghĩa, nhưng số
này ít, chủ yếu là nhằm tận dụng nhân công rẻ mạt. Ngoài địa chủ Pháp, giáo
hội Thiên Chúa chỉ riêng ở Nam Kỳ đã sở hữu 1/4 diện tích đất canh tác[54,
t.121].
Hai là, về vấn đề xã hội
Văn hóa và giáo dục, chính quyền thực dân ở Việt Nam cho mở hai hệ
thống trường học: trường Hán học có cải tổ đôi chút và hệ thống trường Pháp

- Việt. Trường Hán học chỉ duy trì tạm thời, đã được thay thế bằng trường
Pháp - Việt trên cả nước kể từ thập niên 1910. Phần lớn học sinh và sinh viên
đại học, cao đẳng đều là con em các gia đình giàu có hoặc có địa vị nhất định
trong xã hội lúc bấy giờ. Các gia đình nông dân, nhân dân lao động nghèo rất
ít có khả năng cho con em theo học. Cho đến năm 1930, tổng số học sinh,
sinh viên tất cả các trường từ tiểu học đến đại học chỉ chiếm 1,8% dân số Việt
Nam. Do số người được đi học thấp, kết quả là tới năm 1945, trên 95% dân số
Việt Nam bị mù chữ[104]. Chính sách giáo dục của chính quyền Pháp nhằm
dụng ý là để chuyển hướng tư duy của đại chúng, xóa bỏ những ảnh hưởng
của văn minh Trung Quốc, truyền bá văn minh Pháp nhằm đồng hóa người
Việt Nam, đồng thời đào tạo ra một tầng lớp cán bộ và nhân viên phục vụ cho
nền cai trị và công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp. Mối đe dọa đáng sợ cho
chính quyền thực dân Pháp là văn hóa Nho giáo qua các sách vở Hán văn, bởi
9


Nho giáo trui rèn con người về lòng yêu nước chống ngoại xâm. Vì vậy người
Pháp đã dồn nhiều nỗ lực vào việc cải biến nền giáo dục bản xứ và loại bỏ
Nho học và cấm giảng dạy lịch sử Việt Nam, thay vào đó là các kiến thức
khoa học phương Tây, văn chương và lịch sử Pháp. Một chứng cứ là sách
giáo khoa thời Pháp thuộc không dùng danh từ Việt Nam mà chỉ nhắc đến
Đông Pháp và các xứ lệ thuộc. Các kỳ thi Khoa bảng Việt Nam cũng bị loại
bỏ, thay vào đó là các kì thi bằng chữ quốc ngữ phỏng theo các kỳ thi của
Pháp.
Ba là, vấn đề chính trị xã hội và các phong trào yêu nước
Trong khi cố gắng khai thác tài nguyên thiên nhiên của Đông
Dương và nhân lực để đánh Chiến tranh thế giới thứ nhất,Pháp trấn áp
tất cả hoạt động tụ tập yêu nước ở Việt Nam. Nhiều cuộc nổi loạn chống
thực dân bộc phát tại Việt Nam nhưng đã bị Pháp đàn áp dễ dàng.
Cuộc phản kháng đầu tiên là do Tôn Thất Thuyết đã tiến hành cuộc

phản kháng đầu tiên với trận phản công ở Kinh thành Huế, nhưng sau đó bị
quân Pháp đẩy lùi, triều đình Hàm Nghi lui về Quảng Trị, rồi Hà Tĩnh. Ngày
13 tháng 7, Hàm Nghi ban Chiếu Cần Vương, phái chủ chiến và các thổ hào ở
các địa phương khởi nghĩa hưởng ứng, tạo nên phong trào Cần Vương rất sôi
nổi, phong trào đã thu hút được một số các quan lại trong triều đình và văn
thân. Bên cạnh đó, phong trào còn thu hút đông đảo các tầng lớp người Việt
yêu nước thời bấy giờ tham gia hưởng ứng.
Các cuộc khởi nghĩa hưởng ứng phong trào Cần Vương đã nổ ra rộng
khắp và tập trung nhất ở các tỉnh đồng bằng, nhưng quân đội Pháp dùng
những ưu thế về hỏa lực để nhanh chóng đàn áp các nghĩa quân. Các cuộc
khởi nghĩa tiêu biểu thời kỳ này như khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Nghệ
An, khởi nghĩa Bình Định, khởi nghĩa Thái Bình, Nam Định, hoạt động của
Nghĩa hội Quảng Nam...Phong trào Cần vương thực chất đã trở thành một hệ
10


thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần
Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ 1885 cho đến 1896, tuy nhiên phong
trào chưa được tổ chức một cách thống nhất.
Năm 1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, ông đã không hợp tác với thực
dân Pháp.Thực dân Pháp quyết định đưa vua Hàm Nghi đi đày tại Algérie,
một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi của Châu Phi. Sau khi Hàm Nghi bị bắt và
phải đi đày các cuộc khởi nghĩa chống Pháp vẫn tiếp tục nhưng suy yếu dần.
Các lực lượng nghĩa quân bị thực dân Pháp đàn áp và bị đẩy lùi về các khu
vực thượng du, trung du hay vùng lau sậy rậm rạp như Hùng Lĩnh của Tống
Duy Tân, Thanh Sơn của Đốc Ngữ, Rừng Già của Đề Kiều, Bãi Sậy, Hai
Sông của Nguyễn Thiện Thuật,Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao
Thắng... Đến năm 1896, phong trào Cần Vương tan rã và thất bại hoàn toàn.
Trong thời kỳ này còn có khởi nghĩa Yên Thế, thủ lĩnh của cuộc khởi
nghĩa Yên Thế là Hoàng Hoa Thám có liên quan tới phong trào Cần Vương.

Cuộc khởi nghĩa này kéo dài tới năm 1913 thì bị dập tắt.
Ngày 27/7/1908, xảy ra vụ Hà thành đầu độc nhằm vào binh lính Pháp
ở Hà Nội có sự tham gia của Hoàng Hoa Thám. Cuộc binh biến này được
chuẩn bị rất chu đáo, theo đó nghĩa quân sẽ bắn phá đồn binh Pháp tại Đồn
Thủy (nay là Bệnh viện Quân đội 108, Hà Nội) bằng đại bác nhằm vô hiệu
hóa đồn này. Các đồn binh tại Sơn Tây và Bắc Ninh sẽ bị chặn đánh, không
cho quân Pháp tiếp cứu Hà Nội. Quân của Hoàng Hoa Thám chờ ngoài thành
Hà Nội, chờ tín hiệu từ trong thành, sẽ tiến hành đánh Gia Lâm và cắt đường
xe lửa và điện thoại. Tuy nhiên cuộc binh biến thất bại, quân Đề Thám phải
rút về, 24 người tham gia cuộc binh biến bị Pháp xử tử bằng cách chém đầu,
70 người bị xử tù chung thân.
Năm 1916, vua Duy Tân xuất cung tham gia cuộc nổi dậy do Thái
Phiên và Trần Cao Vân tổ chức. Người Pháp được mật báo kế hoạch nổi dậy.
11


Pháp bắt Triều đình Huế phải xét xử, 4 đại thần gồm Thái Phiên, Trần Cao
Vân, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu bị chém đầu ở An Hòa. Vua Duy
Tân bị truất ngôi và đày đi đảo La Réunion ở Ấn Độ Dươngcùng với vua cha
là Thành Thái vào năm 1916.
Một trong những cuộc nổi dậy lớn nhất năm 1916 là cuộc khởi
nghĩa Thái Nguyên ở miền Bắc. Khoảng 300 binh lính người Việt đã nổi
dậy, phóng thích và cấp súng ống cho 200 tù binh chính trị cùng vài trăm
dân địa phương. Nghĩa quân đánh chiếm và làm chủ Thái Nguyên trong
nhiều ngày liền, với hy vọng được tiếp viện bởi Trung Quốc Quốc Dân
Đảng. Khi không ai đến giúp họ, Pháp đã đánh chiếm lại Thái Nguyên và
truy sát hầu hết các nghĩa quân.
Như vậy, trong thời kỳ này đất nước ta có những đặc điểm kinh tế
chính trị và xã hội hết sức đặc biệt, đất nước nằm dưới sự cai trị của thực
dân pháp và bộ máy tay sai. Dưới sự bóc lột của chế độ thực dân hà

khắc, kinh tế, xã hội có nhiểu biết đổi sâu sắc, với tinh thần yêu nước
của nhân dân Việt Nam muốn giành lại độc lập chủ quyền cho đất nước,
rất nhiều cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước đã diễn ra nhưng đều dẫn
tới thất bại. Đó cũng là những nội dung thể hiện rõ nét tình hình đấu
tranh chính trị trong giai đoạn này và qua đó cũng thể hiện sự bế tắc về
đường lối phương pháp cách mạng giành lại độc lập chủ quyền cho đất
nước trong thời kỳ này.
1.2. Đặc điểm tư tưởng chính trị Việt Nam thời thuộc Pháp
1.2.1. Xuất hiện các trào lưu chính trị mới
Bối cảnh lịch sử nêu trên chính là nền tảng và nguồn sức sống để tư
tưởng chính trị Việt Nam thời thuộc Pháp xuất hiện và phát triển, sự biến
đổi của đời sống hiện thực đã tạo nên sự biến chuyển của tư tưởng chính trị

12


trong suốt nửa đầu thế kỷ vừa qua. Sự biến chuyển này diễn ra qua hai giai
đoạn nhỏ.
Thứ nhất, sự chuyển biến từ hệ tư tưởng phong kiến sang tư tưởng canh
tân cuối thế kỷ XIX và khởi xướng tư tưởng dân chủ tư sản vào đầu thế kỷ XX.
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử Việt Nam
có những biến đổi hết sức to lớn. Thực dân Pháp xâm lược và biến nước ta
thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Chế độ phong kiến Việt Nam cùng
với hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc
chống ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, một số nhà tư
tưởng tiêu biểu như Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ,
Nguyễn Lộ Trạch, Trần Quý Cáp… đến Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Nguyễn An Ninh, Hồ Chí Minh…đã thực hiện một bước chuyển tư tưởng
chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Từ sự phê phán hệ tư tưởng phong kiến, các ông đã đề xuất tư tưởng

canh tân vào cuối thế kỷ XIX và sau đó, khởi xướng tư tưởng dân chủ tư sản
vào đầu thế kỷ XX, tạo nên ảnh hưởng lớn đối với xã hội Việt Nam. Hồ Chí
Minh viết: “Năm 1926 có một sự thức tỉnh trong toàn quốc tiếp theo sau cái
chết của một nhà quốc gia chủ nghĩa Phan Châu Trinh” [65, tr.20]. Phong trào
cách mạng dân chủ tư sản tuy thất bại, nhưng con người, tư tưởng đổi mới của
nó vẫn có ý nghĩa nhất định đối với sự nghiệp cứu nước, cứu dân sau này.
Với việc phê phán hệ tư tưởng phong kiến, các nhà tư tưởng đã đề xuất
tư tưởng canh tân, chuẩn bị từ bỏ hệ tư tưởng cũ và đi tìm con đường mới cứu
nước, cứu dân. Vào cuối thế kỷ XIX, nhận thấy Nho giáo đã đi vào con đường
suy tàn, bất lực trước yêu cầu của lịch sử, nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đã đề
xuất tư tưởng canh tân, đổi mới nhằm chấn hưng đất nước, tiêu biểu như
Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Trần

13


Quý Cáp v.v.. “Họ chính là những người đã trồng cái mầm khai hóa trước
tiên”[7, tr.383].
Đặng Huy Trứ (1825 - 1874), Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871) là
những nhà tư tưởng tiêu trong trào lưu tư tưởng canh tân. Nguyễn Trường Tộ
là người viết rất nhiều bản điều trần gửi vua, quan nhà Nguyễn kêu gọi đổi
mới toàn diện đất nước. Theo Nguyễn Trường Tộ thì ông cho rằng xã hội
luôn vận động và phát triển, xã hội bây giờ đã khác do vậy con người phải
thay đổi tư duy cho phù hợp với xã hội “Thời đại nào có chế độ ấy. Con
người sinh ra thời đại nào cũng chỉ đủ làm công việc của thời đại ấy mà thôi.
Vậy thì người sinh vào thời xưa làm xong công việc của thời xưa. Rồi dần
dần thời thế đổi dời, làm sao có thể mãi mãi ôm giữ phép xưa mãi được” [5,
tr.260]. Nhưng trong vấn đề cải cách chính trị Nguyễn Trường Tộ vẫn mang
nặng tư tưởng phong kiến vẫn muốn duy trì chế độ quân chủ không muốn
thay đổi chế độ quân chủ mà muốn có một người lãnh đạo đủ khả năng lãnh

đạo nhân dân tiến hành canh tân đất nước. Tuy vẫn muốn duy trì chế độ quan
chủ nhưng Nguyễn Trường Tộ lại có những nhận thức tiến bộ ông nhận thức
vai trò của pháp luật rất quan trong trong việc duy trì và phát triển của xã hội
và cho rằng vua cũng phải nên chấp hành và tuân thủ pháp. Ông viết: “Bề
trên lo giữ pháp độ, lo việc nước thì chỉ dùng người hiền, đã theo công
lý giữ pháp luật thì trên sẽ hợp điển chế không ai dị nghị, sự nghiệp
không suy đốn”[5, tr.204]. Qua đó cho thấy, trong quan điểm của
Nguyễn Trường Tộ, những yếu tố của tư tưởng dân chủ đã xuất hiện, đan
xen tồn tại với quan điểm Nho giáo, phản ánh sự dao động tư tưởng khi
hệ tư tưởng cũ lung lay, hệ tư tưởng mới chưa được xác lập.
Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ đã đề xuất tư tưởng canh tân đất
nước. Trước thực trạng đất nước suy vi, ông và nhiều nhà tư tưởng canh tân
khác cho rằng, cần phải bỏ lối học tầm chương trích cú của Nho học, không
14


thể chỉ dùng văn chương lý lẽ mà phải tiếp thu khoa học kỹ thuật của phương
Tây để thúc đẩy sản xuất, phát triển đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh.
Ông viết: “Làm cho dân giàu nước mạnh đâu phải là một việc chẳng cần lo
toan nhiều” và “Làm ra của cải, cái đạo lý lớn ấy là việc không thể coi nhẹ
được” [75, tr.374]. Theo ông, muốn dân tộc được tự cường đủ sức đánh Pháp
phải nhanh chóng thay đổi cách nghĩ, từ chỗ xem đạo đức, lễ nghĩa là cái
quan trọng nhất phải thấy sản xuất của cải vật chất cũng là việc quan trọng.
Ông ra sức phản đối việc dùng lời lẽ, đạo lý nhà Nho để xin giặc rủ lòng
thương của phái cầu hòa, bởi nếu “chỉ dựa vào đối đáp, ai là người có thể làm
nguội lạnh được tim gan giặc”[75, tr.251].
Bên cạnh việc phát triển kinh tế, Đặng Huy Trứ còn cho rằng, phải xây
dựng nền quân sự vững mạnh, bởi vì kinh tế và quân sự có mối quan hệ hữu
cơ với nhau trong vấn đề giữ vững độc lập dân tộc. Ông viết: “Cấy cày và
canh cửi là gốc của cơm áo. Nhưng nếu không hiểu việc binh để giữ lấy thì dù

có thừa thóc trong kho, thừa vải trên khung cửi cũng bị kẻ địch lấy đi”[75,
tr.506]. Trong tư tưởng Đặng Huy Trứ, quan niệm về dân là một nét mới khá
nổi bật trong tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Ông coi “dân là
gốc của nước, là chủ của thần”; “Khí mạnh của nước là lấy dân làm gốc. Theo
ông bồi bổ cái gốc đó mới là thầy thuốc giỏi”[75, tr.284]. Những quan niệm
đó đánh dấu sự đổi mới trong suy tư của dân tộc ta cuối thế kỷ XIX. Có thể
nói, xu hướng cải cách xã hội là xu thế tất yếu đặt ra cho dân tộc Việt Nam
trong giai đoạn này. Các nhà tư tưởng, như Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ,
Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch… đã nắm bắt được xu thế đó và bước
đầu tạo ra một bước chuyển trong tư tưởng chính trị, từ tư tưởng quân chủ
sang tư tưởng dân chủ, từ vương quyền sang dân quyền. Nhưng do hạn chế
bởi điều kiện lịch sử, lập trường và tầm nhìn, cũng như ảnh hưởng khá sâu

15


nặng của ý thức hệ phong kiến nên tư tưởng cải biến xã hội của các ông chỉ
mang tính chất cách tân, trong khuôn khổ trật tự của xã hội cũ.
Tiếp thu tư tưởng của các nhà canh tân cuối thế kỷ XIX, một số nhà tư
tưởng đầu thế kỷ XX, như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng, Nguyễn An Ninh,… tiếp tục phát triển tư tưởng đó lên trình độ mới,
cao hơn về chất. Các ông đã từ bỏ dần hệ tư tưởng phong kiến tiếp thu hệ tư
tưởng mới cho dân tộc. Theo Phan Bội Châu, hệ tư tưởng Nho giáo đã không
còn thực hiện được vai trò của lịch sử. Ông viết: “… nước Việt Nam mơ
màng đôi mắt ngủ, uể oải một thân bệnh, tôn quân quyền, ức dân quyền, trọng
hư văn, khinh võ sĩ, trộm cướp rình mò ở sân, mà vợ con say hát trong nhà,
chủ nhân nằm dài trên giường luôn luôn ngáp mỏi mệt. Than ôi! Nguy ngập
lắm thay” [7, tr.107]. Theo Phan Bội Châu, Nho học thì không thiết thực, tạo
nên tầng lớp văn sĩ đã lỗi thời không đáp ứng được yêu cầu xã hội: “Các triều
đình chuyên chế đã dùng khoa cử làm cái bẫy ràng buộc hào kiệt, tai mắt xóm

làng cũng chỉ chuyên chú đến trường thi, làm cho người ta sinh ra từ tám tuổi
trở lên đã vùi đầu, mờ mắt vì cái ngục tù bát cổ thi phú. Tiếng nói là văn sĩ,
chứ thực ra chỉ là một vật chết không biết cái gì, cũng không làm được trò gì”
[7, tr.434 - 435]. Phan Châu Trinh cũng cho rằng, do chế độ phong kiến đã
thực sự thối nát, mục ruỗng, nhu nhược, nên đã để cho quyền lực chính trị rơi
vào thực dân Pháp. Bộ máy của chế độ phong kiến là bù nhìn, như quân trên
bàn cờ tướng: “Một ông tướng lác đứng trong cung, Sĩ tượng khoanh tay
chẳng vẫy vùng”[21, tr.71]. Tầng lớp Nho sĩ vẫn chìm đắm trong hư văn,
chưa kịp chuyển biến theo thời thế: “Việc đời nhìn lại thấy chẳng còn gì, sông
núi không còn nước mắt để khóc các bậc anh hùng. Muôn nhà làm tôi tớ dưới
ách cường quyền, nhiều người đang ngủ mê trong giấc mộng văn chương bát
cổ”[21, tr.74]. Là trí thức Tây học, Nguyễn An Ninh cũng coi sai lầm lớn nhất
là quá đề cao tư tưởng Nho giáo, dẫn đến sự cản trở quá trình phát triển của
16


lịch sử. Ông nói: “… suy tôn học thuyết của Khổng Tử lên tới giá trị cao nhất
về tinh thần, thì lại là một bước khác, khó cho ta dấn tới được” [94, tr.78].
Không chỉ có vậy, việc nhào nặn tư tưởng Khổng Tử theo quan điểm của các
nhà Nho phong kiến cũng rất tai hại. Nhiều nhà tư tưởng tiến bộ khác, như
Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can,… cũng đã kịch liệt phê
phán Nho giáo và chế độ phong kiến, thể hiện trong tư tưởng và sự bất hợp
tác với chế độ phong kiến.
Từ việc phê phán chế độ phong kiến, các nhà tư tưởng đã tiếp thu tư
tưởng dân chủ tư sản, học tập kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản Trung
Quốc, Nhật Bản, bắt đầu xây dựng những phạm trù dân chủ tư sản ở Việt
Nam và phát động phong trào Duy Tân. Ở Việt Nam, các nhà tư tưởng lựa
chọn dân chủ tư sản là vì lợi ích của dân tộc: đi tìm con đường cứu nước,
giành độc lập tự do. Những người hấp thụ và truyền bá tư tưởng dân chủ tư
sản chủ yếu là tầng lớp sĩ phu được tư sản hóa trong hoàn cảnh giai cấp tư sản

Việt Nam ra đời muộn và yếu. Cho nên, tư tưởng dân chủ tư sản ở nước ta có
tính đặc thù riêng không thuần thục, điển hình như ở phương Tây, các phạm
trù dân chủ tư sản vẫn chịu ảnh hưởng của Nho giáo và mang sắc thái văn hóa
Việt Nam. Mặc dù vậy, tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã được các nhà
tư tưởng phác họa những nội dung cơ bản, phản ánh sự vận động và phát triển
tất yếu của lịch sử tư tưởng.
Thứ hai, sự chuyển biến từ tư tưởng chính trị theo hướng canh tân và
dân chủ tư sản sang tư tưởng chính trị Mác – Lênin.
Tư tưởng chính trị cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX là một bước
chuyển, là khâu trung gian để chuyển từ hệ tư tưởng phong kiến sang hệ tư
tưởng vô sản.

17


Giai đoạn thứ nhất của thời thuộc Pháp, tư tưởng chính trị theo hướng canh
tân và dân chủ tư sản tạo là tư tưởng nổi bật. Còn ở giai đoạn thứ hai, tư tưởng
chính trị Mác - Lênin là ngọn cờ và cốt lõi của ý thức dân tộc và cách mạng.
Từ thất bại của tư tưởng dân chủ tư sản, với sự tác động của phong trào
cách mạng vô sản, các nhà tư tưởng dân chủ tư sản đã đến gần với chủ nghĩa
Mác – Lênin. Khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, các nhà tư tưởng
dân chủ tư sản Việt Nam có khuynh hướng ngả theo cách mạng vô sản. Phan
Bội Châu đã viết bài ca ngợi V.I.Lênin, viết về chủ nghĩa xã hội, kêu gọi đọc
lý luận của C.Mác và tỏ rõ sự tin tưởng con đường cách mạng vô sản mà
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn. Ông viết: “Hiện nay đã có người khác giỏi hơn
lớp chúng tôi nhiều đứng ra đảm đang công việc để làm trọn cái việc mà lớp
chúng tôi không làm xong. Ông có nghe tiếng Nguyễn Ái Quốc không?…
Ông ấy còn thì nước ta nhất định độc lập”[92, tr.415]. Phan Châu Trinh đã
nghiên cứu tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin và trong bức thư gửi Nguyễn
Ái Quốc năm 1922, ông viết: “Tôi biết anh hấp thu được cái chủ nghĩa của

ông C.Mác, ông V.I.Lênin nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn
cho anh rõ” và ông khuyên Nguyễn Ái Quốc: “Bởi vậy tôi thành tâm mong
mỏi anh thay đổi cái phương pháp cũ kỹ đi để mà mưu đồ đại sự” [21, tr.701].
Nguyễn An Ninh, mặc dù đi theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản,
nhưng lại rất có cảm tình với chủ nghĩa Mác. Trong bài viết để chống lại triết
học Nietzsche, ông đã đánh giá rất cao tư tưởng của C.Mác: “Các tác phẩm
của Mác là những công trình đồ sộ, như những cánh tay vĩ đại muốn ôm lấy
toàn bộ cuộc sống và nâng nó lên cao mãi theo ước vọng của loài người”[94,
tr. 334]. Ông là người đầu tiên ở Việt Nam đăng tải “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” của C.Mác và Ph.Ăngghen trên báo Chuông rè (La Cloche fêlée).
Có thể thấy rằng, việc chuyển đổi trên đây, một mặt, là do những điều
kiện vật chất và văn hoá của hiện thực xã hội; mặt khác, không thể không tính
18


đến nhân tố tiếp nhận hệ tư tưởng chính trị từ phương Tây, Nhật Bản và chủ
nghĩa Mác - Lênin được Nguyễn Ái Quốc truyền về nước. Đồng thời, sự
chuyển đổi tư tưởng chính trị từ dân chủ tư sản sang tư tưởng chính trị theo
chủ nghĩa mácxít đã diễn ra một cách “lịch sử – tự nhiên”. Rõ ràng là, khi chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Nguyễn Ái Quốc xuất hiện và được truyền bá ở
nước ta thì ngay lập tức, nhiều phong trào, tổ chức yêu nước đã tự giác tiếp
nhận, coi những tư tưởng đó như là con đường đúng đắn nhất, triệt để nhất để
giải phóng dân tộc, giải phóng người dân nô lệ, đem lại độc lập cho dân tộc và
tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Không ít nhà tư tưởng dân tộc ở giai đoạn
trước đã chuyển sang thừa nhận tư tưởng cộng sản và, bằng cách này hay
cách khác, đã tham gia vào việc phổ biến chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Nguyễn Ái Quốc. Trong lịch sử phát triển tư tưởng, triết lý của dân tộc, sự
dung hợp các xu hướng tư tưởng khác nhau vừa bảo đảm cho sự phong phú
những giá trị chung của ý thức dân tộc, vừa làm cho mỗi xu hướng trở nên
đặc sắc hơn trong tính riêng biệt, độc đáo của mình trên cái nền của sự phát

triển toàn xã hội, toàn dân tộc.
Những mục tiêu mang tinh thần dân tộc và phù hợp với xu thế thời đại
lúc bấy giờ đều dựa trên nền tảng của chính trị dân chủ tư sản, thuyết tiến hoá,
lý luận biến pháp, chủ nghĩa tam dân của các nhà triết học tư sản phương Tây
và phương Đông. Mặc dù các tư tưởng chính trị trên đây đề cao tự do – bình
đẳng – bác ái, tiến bộ xã hội, dân chủ, nhân văn; song, tư tưởng duy tân,
nhưng những tư tưởng đó đã không có được một hệ tư tưởng, một ý thức giai
cấp, một cơ sở triết học nhất quán, khoa học, triệt để, một thực tiễn cách mạng
- điều mà sau đó chỉ có được ở phong trào cộng sản và ở những người cộng
sản. Mặt khác, lập trường, đường lối và mục đích cứu dân, cứu nước của các
nhà duy tân đã không thoát ra khỏi các quan điểm chính trị tư sản vốn ngay từ
khi ra đời đã mang nhiều khuyết tật, thậm chí là bệnh tật vô phương cứu chữa
19


và đang đi vào khủng hoảng. Đồng thời, dù là “bạo động” hay “cải cách”, thì
cũng không nhận ra được cái gốc rễ của xã hội là vấn đề kinh tế xã hội, cùng
với bản chất của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc đang thống trị nước ta
lúc bấy giờ.
Về thực chất, các nhà tư tưởng chính trị – xã hội thuộc các nhóm nói trên
đều không có một cơ sở chính trị rõ ràng, nhất quán để có thể thuyết phục và phổ
biến rộng rãi. Các quan điểm lý luận của họ thường vụn mảnh, hỗn tạp, thiếu
tính khoa học, không triệt để và đặc biệt, chúng không phù hợp với nhu cầu thực
tiễn cách mạng, với hiện thực của dân tộc. Vì vậy, các xu hướng tư tưởng trên
dần dần cũng tự đánh mất tiếng nói trong công luận, trong dân chúng.
1.2.2. Hình thành các quan điểm chính trị mang tính cách mạng
Tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được thể
hiện qua các nhà tư tưởng tiêu biểu; trong đó, tập trung vào một số nội dung
chính, như tư tưởng về tự cường dân tộc, nâng cao dân trí, bồi dưỡng sức dân,
truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản...Mặc dù có những nội dung mới, cách

mạng và tiến bộ, song do điều kiện lịch sử cũng như lập trường và tầm nhìn
của các nhà tư tưởng, tư tưởng chính trị Việt Nam giai đoạn này còn có những
biểu hiện dao động, mơ hồ, thậm chí có lúc đi đến thoả hiệp.
Thứ nhất, về mục đích cách mạng
Các nhà tư tưởng đều thống nhất mục đích là cứu nước, cứu dân, giành
độc lập dân tộc. Phan Bội Châu viết: “Phan Bội Châu lấy việc cứu quốc làm
chủ nghĩa, cho nên muốn cho nước ta độc lập. Lại lấy việc cứu dân làm chủ
nghĩa, cho nên không muốn ngó thấy dân ta phải lầm than”[8, tr. 478]. Đối
với ông, “phải xóa bỏ chính thể quân chủ, vì đó là một chính thể rất xấu xa
vậy” và phải “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam và thành lập
nước Cộng hòa dân chủ”[8, tr.134-135]. Còn Phan Châu Trinh, người khởi
xướng tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam thì xác định rõ chủ đích của mình
20


là đánh đổ chế độ phong kiến và đưa dân tộc đi theo con đường dân chủ tư
sản. Ông viết: “… năm 1911 tôi được qua Tây để xem xét cái học thuật văn
minh Âu châu. Đã mười hai năm, tôi ăn nằm trên cái mảnh đất dân chủ, hớp
cái hơi không khí tự do, nhờ vậy mà tôi hiểu được lẽ chánh đáng trong thế
giới, phần nghĩa vụ của quốc dân, và cũng biết được chắc cái mục đích của
nước nhà nên thay đổi lại thế nào. Chúng ta bây giờ cần phải đánh thức nhau
dậy,… làm cho tiệt hẳn cả cái sức ma quỷ chuyên chế nó đã ám ảnh chúng ta
mấy ngàn năm nay;… ấy là cái chủ ý và mục đích của tôi đấy”[21, tr.592].
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, vấn đề giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu của dân tộc ta. Vì vậy, có thể nói, tuy bằng nhiều con đường cứu
nước khác nhau, song các nhà tư tưởng đều hướng đến độc lập dân tộc.
Như vậy, về nhận thức về mục tiêu cách mạng của các nhà tư tưởng
đều hướng tới việc giành chính quyền, giành lại độc lập dân tộc.
Thứ hai, về phương pháp cách mạng
Đối với vấn đề phương pháp các mạng, các nhà tư tưởng đề ra hai

phương pháp: cách mạng bạo động và đấu tranh ôn hòa, các tư tưởng về
phương pháp cách mạng cũng có những nhận thức khác nhau với những đại
biểu tiêu biểu.
Một là, với trường phái ủng hộ cách mạng bạo động tiêu biểu là Phan
Bội Châu, với về vấn đề phương pháp cách mạng thì ông cho rằng, thực dân
Pháp là kẻ thù không đội trời chung với dân tộc ta; chúng không cho dân tộc
ta phát triển kinh tế, mở mang văn hóa, giáo dục, đàn áp dã man mọi sự phản
kháng, kể cả phản kháng hòa bình nhất. Cho nên không thể sử dụng con
đường hòa bình để giành độc lập dân tộc, mà chỉ có sự lựa chọn duy nhất là
phương pháp bạo động. Ông viết: “Vẫn biết bạo động với tự sát đều là việc
làm của những kẻ kiến thức hẹp hòi, không biết lo xa, nhưng nếu sự thể buộc
tự sát, thà rằng xoay ra bạo động mà chết còn hơn. Vì cứ bạo động may ra còn
21


×