Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Di chuyển lao động ở Trung Quốc từ đầu thể kỷ XXI đến nay thực trạng và vấn đề (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG HOÀNG THUỲ VÂN

DI CHUYỂN LAO ĐỘNG Ở TRUNG QUỐC
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XXI ĐẾN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ

Hà Nội - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG HOÀNG THUỲ VÂN

DI CHUYỂN LAO ĐỘNG Ở TRUNG QUỐC
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XXI ĐẾN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số

: 60 31 01 06

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ QUỐC TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Phạm Thị Thanh Bình

Hà Nội, 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DI CHUYỂN LAO
ĐỘNG………………………………………………………………………..….....11
1.1. Khái quát về di chuyển lao động ....................................................................... 11
1.2.Thực tiễn tiếp cận đối với di chuyển lao động của Trung Quốc .......................26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ DI CHUYỂN LAO ĐỘNG CỦA
TRUNG QUỐC TỪ ĐẦU THỂ KỶ XXI ĐẾN NAY .......................................... 29
2.1. Thực trạng di chuyển lao động của Trung Quốc ............................................... 29
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với lao động di chuyển của Trung Quốc ................... 38
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA DI CHUYỂN LAO ĐỘNG TỚI SỰ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM………………………………………………..................…......54
3.1. Tác động của di chuyển lao động tới sự phát triển kinh tế Trung Quốc ........... 54
3.2. Kinh nghiệm từ di chuyển lao động Trung Quốc..............................................59
3.3. Hàm ý cho Việt Nam trong quản lý di chuyển lao động ................................... 61
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................... 70


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt

Nghĩa tiếng Anh

Computable General

Nghĩa tiếng Việt
Cân bằng tổng thể Khả toán

1

CGE

2

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

3

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

4

GNP

Gross National Product


Tổng sản phẩm quốc gia

5

GNI

Gross National Income

Tổng thu nhập quốc gia

Equilibrium

Information and
6

ICT

Communication
Technology (ICT)

7

ILO

8

LCL

International Labour

Organization
Labor Contract Law

Thông tin và công nghệ
truyền thông
Tổ chức lao động quốc tế
Luật hợp đồng lao đồng

Ministry of Human
9

MOHRSS

Resources and Social

Bộ nhân lực và An sinh xã

Security of the People’s

hội Trung Quốc

Republic of China
Doanh nghiệp đa quốc gia

10

MNEs

Multinational enterprises


11

R&D

Research and Development Nghiên cứu và phát triển

12

SSB

State Statistical Bureau

Cục thống kê nhà nước

13

WTO

World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Phân bổ lao động theo vùng tại Trung Quốc (2000 – 2014) ................... 34
Bảng 2.2: Di chuyển lao động và việc làm TP của Trung Quốc (2000-2007) ......... 36

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.2. Lương hưu cơ bản đô thị tại Trung Quốc (2006-2015) ....................... 43
Biểu đồ 2.3. Bảo hiểm y tế cơ bản ở các thành phố của Trung Quốc ...................... 45

Biểu đồ 2.4. Số lượng lao động tại Trung Quốc được tham gia bảo hiểm tai nạn lao
động (triệu người) ..................................................................................................... 47
Biểu đồ 2.5. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội của lao động di cư nông thôn (20082013)...... ................................................................................................................... 51

Biểu đồ 2.6: Dự báo hướng di chuyển lao động thời kỳ từ 1999-2024……...63


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với các quốc gia đang phát triển, cùng với các nhân tố sản xuất thì lao
động được xem là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển - cũng là nguồn lực bị
dư thừa nhiều nhất. Các nước đang phát triển được đặc trưng bởi nền kinh tế kép
(dual economy) có lực lượng lao động dư thừa nhiều trong nông nghiệp và năng
suất lao động nông nghiệp thấp. Vì vậy, di chuyển lao động là một trong những
cách thức khai thác, tận dụng nguồn lao động dư thừa và phân bổ nguồn lực hiệu
quả nhất. Tuy nhiên, tác động của di chuyển lao động lại là khác nhau đối với
mỗi quốc gia tùy thuộc vào đặc điểm của từng nền kinh tế. Di chuyển lao động
không phải luôn là động lực của tăng trưởng kinh tế thành công, thậm chí đôi
khi nó gây ra những bất bình đẳng về kinh tế và xã hội do bản chất tự phát và sự
kìm hãm của tổ chức hành chính.
Từ sau khi cải cách và chuyển đổi nền kinh tế năm 1978, làn sóng dịch
chuyển lao động của Trung Quốc bắt đầu gia tăng cả ở trong nước và ngoài
nước. Ở trong nước, một dòng chảy lao động lớn từ nông thôn ra thành thị sau
cải cách kinh tế và thể chế đất nước. Theo Chính phủ Trung Quốc, tỷ trọng dân
số thành thị ở Trung Quốc đã tăng đáng kể từ 18% năm 1978 lên 31% vào cuối
thế kỷ 20 [52]. Chính sách di chuyển lao động là một phần trong chính sách phát
triển của Trung Quốc. Bằng việc thừa nhận di chuyển lao động là công cụ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, chính phủ Trung Quốc luôn điều chỉnh chính sách lao
động phù hợp với từng giai đoạn cải cách và phát triển. Tuy nhiên, cũng giống
như nhiều nước đang phát triển khác, các vấn đề thất nghiệp, bất bình đẳng và

môi trường được đặt ra với chính phủ Trung Quốc trong quá trình đô thị hóa và
dịch chuyển lao động một cách ồ ạt. Ngoài ra, việc phân bổ nguồn lực lao động
không đồng đều giữa các khu vực địa lý dẫn tới những bất cập lớn về phát triển.
Những vấn đề này sẽ tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế của quốc gia
1


nói chung và với Trung Quốc nói riêng. Hơn nữa, việc nghiên cứu trường hợp
của một quốc gia đông dân nhất thế giới như Trung Quốc sẽ là một điển hình
cho các nghiên cứu về di cư và phát triển kinh tế, có thể dùng để so sánh với
kinh nghiệm của các quốc gia đang phát triển khác trong khu vực nhằm rút ra
bài học kinh nghiệm và chính sách cho Việt Nam. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn
đề tài: “Di chuyển lao động ở Trung Quốc từ đầu thể kỷ XXI đến nay: thực
trạng và vấn đề” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế quốc tế tại Học
viện Khoa học xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở trong nước nghiên cứu về di chuyển lao động cũng được rất nhiều tác
giả quan tâm ở các khía cạnh và góc độ khác nhau. Có thể tìm thấy lý thuyết về
di chuyển lao động trong những tài liệu trong nước như:
“Di chuyển lao động quốc tế” của tác giả Nguyễn Bình Giang (2011)
[6], tác phẩm đã cung cấp một cái nhìn tổng quát dưới góc độ kinh tế học về di
chuyển lao động quốc tế thể hiện qua những vấn đề nổi bật và những tác động
chủ yếu trong thập niên đầu của thế kỷ XXI. Tác giả cũng đưa ra những dự báo
về xu hướng di chuyển lao động chính trong giai đoạn 2011-2020, cuốn sách
này đã tập trung nghiên cứu, đánh giá một số nét nổi bật trong di chuyển lao
động quốc tế.
Các tác giả Hà Thị Phương Tiến, Hà Quang Ngọc (2000) [10] với tác
phẩm “Lao động nữ di cư tự do từ nông thôn ra thành thị” đã đưa ra nghiên
cứu về vấn đề di chuyển lao động của các lao động nữ từ nông thôn lên thành

thị, qua đó cho thấy việc nữ lao động di chuyển gặp phải rất nhiều vấn đề, đặc
biệt là vấn đề xã hội. Thực trạng này đã xảy ra ở hầu hết tất cả các quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Sau khi phân tích thực tế, các tác giả cũng đưa ra một số
kiến nghị nhằm đảm bảo quyền lợi cho nữ lao động di chuyển.

2


Tác giả Đặng Nguyên Anh (2009) [1] với công trình “Di dân đến khu đô
thị và các khu công nghiệp - Thực trạng và một số vấn đề chính sách qua
nghiên cứu đánh giá tư liệu 2004 – 2009” đã nêu lên một vấn đề người lao
động di chuyển tới các khu công nghiệp để làm việc. Trong công trình này, tác
giả tập trung nghiên cứu thực trạng của việc di dân đến các khu đô thị và khu
công nghiệp của Việt Nam từ năm 2004 đến năm 2009, thông qua phân tích,
đánh giá các tư liệu tác giả cho thấy việc di dân này rất bất cập, người di
chuyển chưa được đáp ứng đầy đủ các điều kiện lao động, điều kiện sinh
hoạt,… từ đó tác giả đã đưa ra một số kiến nghị về chính sách di dân của Việt
Nam trong thời gian tới.
Trong hai tác phẩm: “Những vấn đề toàn cầu trong thời đại ngày nay”
của Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Kim Lai [8] và “Những vấn đề toàn cầu trong hai
thập niên đầu thế kỷ XXI”của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [5] làm chủ biên
đều tập trung mô tả tình hình và một số xu thế lớn của hiện tượng di chuyển lao
động quốc tế, chủ yếu là trong nửa cuối thể kỷ XX, đồng thời chỉ ra những
nguyên nhân cơ bản của vấn đề này. Trong đó những nước đang phát triển là
nguồn của lao động di cư, đặc biệt là di cư lao động kể từ những năm cuối thế
kỷ XX, ngược lại, các nước phát triển của phương Tây và Trung Đông thu hút
nhiều người di cư quốc tế. Bên cạnh đó, những kinh nghiệm từ hoạt động xuất
khẩu lao động, du học của một số quốc gia trên thế giới cũng được phân tích, từ
đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết về lao động di cư trên các tạp chí lớn như

bài viết:
Tác giả Phạm Thị Thanh Bình và cộng sự với các công trình nghiên cứu
như: “Di chuyển lao động ở Trung Quốc: Thực trạng và kinh nghiệm” tạp chí
nghiên cứu Trung Quốc, số 8/2010 [3]; “Xu hướng và đặc điểm của di chuyển
lao động từ các nước đang phát triển” Viện Kinh tế chính trị thế giới; “Kinh
nghiệm và cách tiếp cận di chuyển lao động của Trung Quốc” tạp chí Nghiên
3


cứu Trung Quốc, số 2/2011[2]… trong các công trình này, các tác giả đã đi sâu
vào nghiên cứu thực trạng di chuyển lao động tại một số quốc gia như Trung
Quốc, Thái Lan… các tác giả đánh giá sự tác động của di chuyển lao động tới
phát triển kinh tế quốc gia, ngoài ra các tác giả cũng làm nổi bật các vấn đề mà
hiện tượng di chuyển lao động gây ra, từ đó đề xuất một số biện pháp khắc
phục và đưa ra các hàm ý cho Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề liên
quan tới di chuyển lao động.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên chủ yếu đưa ra lý thuyết chung và một
số kinh nghiệm về di chuyển lao động của một số nước như Trung Quốc, Thái
Lan, Việt Nam... chưa có sự tập trung phân tích về các vấn đề mà di chuyển
lao động tác động, đặc biệt là tại Trung Quốc.
2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Những nghiên cứu liên quan đến các lý thuyết di chuyển lao động và
khái quát chung về hiện tượng di chuyển lao động, thực trạng di chuyển lao
động tại các quốc gia, khu vực trên thế giới.
Tác giả Cat Moody (2006) [22] với công trình “Migration and Economic
Growth: A 21st Century Perspective” (Di chuyển lao động và tăng trưởng kinh
tế: Thế kỷ 21), New Zealand Treasury, Working paper 06/02, đã đưa ra một số
các lý thuyết về di chuyển lao động, phân loại di chuyển lao động và các xu
hướng di chuyển lao động từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Ông đưa ra các phân tích
về mối quan hệ giữa di chuyển lao động và phát triển kinh tế, tác động của di

chuyển lao động đến phát triển kinh tế, các vấn đề tồn tại và nguyên nhân. Tác
giả cũng đưa ra một số các khuyến nghị chính sách sử dụng lao động di chuyển
một cách hợp lý và hiệu quả.
Trong công trình nghiên cứu “Order (and Disorder) at the Border:
Mobility, International Labour Migration and Border Controls in Southeast
Asia, in Mobility, Labour Migration and Border Controls in Asia” (Di chuyển
lao động, di chuyển lao động quốc tế và kiểm soát biên giới ở Đông Nam Á, di
4


chuyển lao động, di chuyển lao động quốc tế và kiểm soát biên giới ở Châu Á)
của tác giả Kaur, A, (2006) [2], ông đã chỉ rõ di cư lao động là một tính năng nổi
trội của lịch sử lao động khu vực Đông Nam Á từ năm 1870, phù hợp với biên
giới mở, hội nhập gia tăng của khu vực vào nền kinh tế toàn cầu. Sau khi Chiến
tranh thế giới thứ hai và giải phóng thuộc địa, pháp luật hạn chế đã được đưa ra
để ngăn chặn di cư lao động phổ thông vào khu vực. Từ năm 1970 trở đi, nhu
cầu thị trường lao động thay đổi. Mục tiêu di cư và các dòng di cư cũng thay đổi
và nhằm vào quốc tịch, chủng tộc, nguồn gốc địa lý, giới tính và kỹ năng của
người di cư, do đó di cư tự do đã mở đường cho chính sách di cư hạn chế và
tăng cường kiểm soát biên giới, các biện pháp thực thi nội bộ phức tạp hơn, và
hình thành một khu vực gồm nhiều quy định và thủ tục hành chính. Mặc dù có
các biện pháp khuyến khích kinh tế cho người lao động di chuyển, tuy nhiên
việc hạn chế nhập cư và tăng cường kiểm soát biên giới ở các nước xuất khẩu
lao động hiện nay đã tạo thành rào cản chính đối với di cư lao động quốc tế
trong khu vực. Cũng chính Amarjit Kaur (2016) [1] với công trình “Managing
the Border: Regulation of International Labour Migration and State Policy
Responses to Global Governance in Southeast Asia” (Quản lý biên giới: Quy
định về di chuyển lao động quốc tế và chính sách nhà nước trong Quản trị toàn
cầu tại khu vực Đông Nam Á), University of England. Đã nêu lên vấn đề di
chuyển lao động tại biên giới các quốc gia Đông Nam Á, nơi mà diễn biến di

chuyển lao động diễn ra mạnh mẽ nhất. Tác giả đưa ra các vấn đề thực tế mà các
quốc gia này phải đối diện như việc kiểm soát lao động, nhập cư trái phép qua
biên giới (lao động chui)… tác giả cũng đưa ra một số gợi ý về chính sách cho
các quốc gia.
Những nghiên cứu liên quan đến vấn đề di chuyển lao động tại Trung Quốc.
Liên quan đến di chuyển lao động tại Trung Quốc, các tác giả Cai Fang,
Du Yang and Wang Meiyan (2009) [22], trong công trình nghiên cứu
“Migration and Labour Mobility in China” (Di cư và di chuyển lao động ở
5


Trung Quốc), thuộc Human Development Research Paper (báo cáo nghiên cứu
phát triển con người), UNDP, N 9, April, bằng những số liệu nghiên cứu thực tế
về di cư và di chuyển lao động của Trung Quốc từ thời kỳ đổi mới đến năm
2009, các tác giả chỉ rõ: Trung Quốc đã chứng kiến sự di chuyển lao động lớn
nhất kể từ khi cải cách và chính sách mở cửa đã được thực hiện. Theo số liệu
thống kê gần đây nhất, tổng số nông thôn lao động nhập cư thành thị đạt 136
triệu. Những người di cư được định nghĩa là những người đã bỏ ra khỏi thị trấn
trong hơn 6 tháng. Các luồng di cư đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi kinh tế và
xã hội ở Trung Quốc thông qua nâng cao năng suất lao động và chuyển dịch cơ
cấu xã hội. Theo đó, chính phủ Trung Quốc đã cải thiện các chính sách di cư
bằng cách tăng lưu lượng di cư và những thay đổi của thị trường lao động. Báo
cáo này được trình bày theo những nội dung sau: Phần I: giới thiệu về di cư và
di chuyển lao động, xét lịch sử, quy mô và xu hướng, tác động của di cư ở Trung
Quốc và các tổn thương của người di cư. Phần II: đánh giá sự thay đổi chính
sách di cư chủ yếu trong ba thập kỷ qua. Phần III: phân tích những tác động của
di cư và di chuyển lao động đến sự phát triển kinh tế và chuyển đổi ở Trung
Quốc. Phần IV: thảo luận về sự liên quan những kinh nghiệm của Trung Quốc
với các nền kinh tế đang phát triển khác trong việc phát triển kinh tế và thay đổi
chính sách nhập cư.

Ding Lu (2009) [35], The Economic Consequence of Labour Mobility in
China's Regional Development, The Earth Institute at Columbia University and
the Musachusetts Institute of Technology. Di chuyển lao động đóng một vai trò
quan trọng trong sự tăng lên của mức thu nhập khu vực. Bài viết này xem xét vai
trò của di chuyển lao động trong phát triển kinh tế khu vực của Trung Quốc
trong quá trình chuyển đổi nhân khẩu học và sự tồn tại của các rào cản về thể
chế. Những phát hiện của tác giả cho thấy rằng hai nguồn quan trọng nhất của sự
chênh lệch thu nhập liên vùng đều là giá cổ phiếu vốn lao động và trình độ công
nghệ. Giải thích hiện tượng này qua 2 nguyên nhân: Một là, vốn và phong trào
6


lao động chỉ đóng vai trò hạn chế trong cân bằng lợi nhuận cận biên của họ trên
khắp khu vực bất chấp thực tế là vai trò của di chuyển lao động đã tăng đáng kể
từ năm 2000. Hai là, do tác động của những thay đổi nhân khẩu học với tăng
trưởng thu nhập đã không đồng đều giữa các vùng giàu và vùng nghèo. Đây là
hiện tượng phổ biến của di cư lao động liên vùng Trung Quốc.
Ngoài những công trình nhằm đưa ra khung lý thuyết về di chuyển lao
động quốc tế, cả ở trong nước lẫn ngoài nước đều còn rất nhiều nghiên cứu thực
tiễn hiện đại tập trung phân tích các vấn đề liên quan để tìm ra xu hướng, quy
luật vận động của các dòng di chuyển. Trong các nghiên cứu thực tiễn hiện đại
về di chuyển lao động thì vấn đề di chuyển lao động lại được đề cập khá nhiều ở
các phạm vi khác nhau.
2.3. Đánh giá chung
Như vậy, có thể thấy, hầu hết các nghiên cứu tập trung bàn luận khá sâu
sắc về vấn đề di chuyển lao động quốc tế nói chung kể cả lý thuyết và thực tiễn.
Những công trình nghiên cứu về di chuyển lao động chủ yếu là các vấn đề thực
tiễn. Các tác giả tập trung vào việc xem xét hệ thống các chính sách phù hợp cho
các Chính phủ các quốc gia thành viên. Cũng có thể nhận thấy, lý thuyết về di
chuyển lao động nội khối còn khá khiêm tốn và còn thiếu vắng các công trình có

giá trị. Chưa có công trình nào nghiên cứu sâu sắc về tác động của di chuyển lao
động tới nền kinh tế các quốc gia, cụ thể, là tác động của di chuyển lao động tới
xã hội Trung Quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích tổng quát của đề tài là tìm hiểu thực trạng vấn đề di chuyển lao
động của Trung Quốc từ năm 1978 đặc biệt là từ đầu thế kỷ XXI đến nay.
Mục đích cụ thể của đề tài là tìm hiểu nhưng lý luận chung về di chuyển
lao động; nghiên cứu và đánh giá tác động của di chuyển lao động tới sự phát
triển kinh tế của Trung Quốc từ sau giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế vào năm
7


1978 tới nay đặc biệt là từ đầu thế kỷ XXI. Qua các thời kỳ và những thay đổi
khác nhau, đề tài sẽ làm rõ được sự đặc trưng di chuyển lao động của Trung Quốc
và những hệ quả mà nó tác động tới sự phát triển của nền kinh tế, xã hội Trung
Quốc. Từ đó, đề tài cũng đề xuất một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục tiêu này, các nhiệm vụ cụ thể cần giải quyết là: (1)
Nghiên cứu, làm rõ khái niệm di chuyển lao động và mối liên hệ lý thuyết của di
chuyển lao động tới sự phát triển kinh tế (2) Phân tích sự di chuyển lao động của
Trung Quốc qua các thời kỳ; (3) Đánh giá hoạt động di chuyển lao động của
chính phủ Trung Quốc và tác động của nó tới sự phát triển kinh; (4) Một số bài
học kinh nghiệm cho các quốc gia đang phát triển.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là thực trạng và vấn đề di chuyển
lao động của Trung Quốc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng và vấn đề di chuyển lao động trong

nước của Trung Quốc.
Về không gian: Di chuyển lao động trong nước tại Trung Quốc
Về thời gian: Từ sau giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế vào năm 1978 tới
nay đặc biệt là từ đầu thế kỷ XXI.
Đề tài tập trung nghiên cứu với trường hợp điển hình của nền kinh tế
Trung Quốc và những tác động của di chuyển lao động tới sự phát triển kinh tế
Trung Quốc trong gần hai thập niên qua.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Nhằm thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, trên cơ sở phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như:
8


Phương pháp phân tích, đánh giá được sử dụng để phân tích các dữ liệu,
số liệu rồi đánh giá những vấn đề còn tồn tại liên quan đến đề tài luận văn, lựa
chọn và xác định những vấn đề thuộc nội dung luận văn cần và sẽ tập trung giải
quyết. Phương pháp lịch sử nhằm tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của vấn
đề di chuyển lao động tại Trung Quốc, nhiệm vụ của phương pháp lịch sử là
thông qua các nguồn tư liệu để nghiên cứu và phục dựng đầy đủ các điều kiện
hình thành, quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp
của các sự kiện, hiện tượng, đồng thời đặt quá trình phát triển đó trong mối quan
hệ tác động qua lại với các nhân tố liên quan khác trong suốt quá trình vận động
của chúng, từ đó có thể dựng lại bức tranh chân thực của sự vật, hiện tượng như
đã xảy ra.
Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu tổng quát các sự kiện,
hiện tượng lịch sử, loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, không cơ bản để làm bộc lộ
bản chất, tính tất yếu và quy luật vận động và phát triển khách quan của sự kiện,
hiện tượng lịch sử đang “ẩn mình” trong các yếu tố tất nhiên lẫn ngẫu
nhiên phức tạp.

Do nghiên cứu các nền kinh tế ở nước ngoài Trung Quốc nên luận văn
chủ yếu sử dụng số liệu thứ cấp, để có được nguồn số liệu đầy đủ và đáng tin
cậy, luận văn sử dụng phương pháp thu thập số liệu từ tham khảo tài liệu, đặc
biệt là các tài liệu tham khảo quốc tế.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học dựa trên số liệu và những diễn
biến thực tế về di chuyển lao động tại Trung Quốc, đưa ra các đánh giá về tác
động của di chuyển lao động tới xã hội Trung Quốc. Đặc biệt là sử dụng phương
pháp diễn dịch và quy nạp nhằm đảm bảo tính toàn diện, có hệ thống và logic
của các vấn đề nghiên cứu.

9


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn làm bổ sung và làm phong phú thêm cơ sở lý thuyết về di
chuyển lao động.
Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thực trạng và các vấn đề
của di chuyển lao động tại Trung Quốc từ đầu thể kỷ XXI đến nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đề xuất một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về vấn đề di
chuyển lao động trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
từ viết tắt, đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về di chuyển lao động
Chương 2: Thực trạng và vấn đề di chuyển lao động của Trung Quốc từ
đầu thế kỷ XXI đến nay.
Chương 3: Đánh giá tác động của di chuyển lao động tới sự phát triển của
Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DI CHUYỂN LAO ĐỘNG
1.1. Khái quát về di chuyển lao động
1.1.1. Khái niệm lao động, thị trường lao động và di chuyển lao động
Trong cuối thể kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, việc di chuyển lao động trong
nước và quốc tế đã trở nên quen thuộc với số lượng ngày càng tăng. Đó là do
sự phát triển kinh tế trên phạm vi toàn cầu đang có những chuyển biến về chất
và không đồng đều giữa các vùng trong nước và giữa các quốc gia dựa trên cơ
sở phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật. Thực tế cho thấy, sức lao động của
các quốc gia có dư thừa lao động đến giai đoạn hiện nay đã được xem như là
một loại hàng hoá có thể mang lại nguồn thu ngoại tệ rất lớn cho ngân sách quốc
gia. Do vậy, để nghiên cứu về di chuyển lao động trước hết cần phải tìm hiểu và
làm rõ các khái niệm có liên quan:
Lao động (labour): là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người
nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Thực
chất là sự vận động của sức lao động trong qua trình tạo ra của cải vật chất cho
xã hội, lao động cũng chính là quá trình kết hợp của sức lao động và tư liệu sản
xuất để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu con người. Có thể nói lao động là
yếu tố quyết định cho mọi hoạt động kinh tế.
Thị trường lao động (labour market) hoặc thị trường sức lao động là nơi
thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động (người lao động làm
thuê) và người mua sức lao động (người sử dụng sức lao động), thông qua các
hình thức thỏa thuận về giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện làm việc
khác, trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông
qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác.
Di chuyển lao động (labour movement) còn gọi là di cư lao động (labour

migration) là thuật ngữ được quốc tế thừa nhận rộng khắp ở các nước đang phát
11


triển. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về di chuyển lao động. Theo quan niệm
thông thường, với nghĩa rộng, di chuyển lao động có thể được hiểu là sự chuyển
dịch của con người trong một không gian, thời gian nhất định kèm theo sự di
chuyển nơi cư trú tạm thời hoặc vĩnh viễn. Theo từ điển Oxford Concise
Dictionary of Politics cho rằng: “di cư là sự di chuyển vĩnh viễn của các cá
nhân hoặc tập thể từ nơi này đến nơi khác”, hoạt động di chuyển lao động bao
gồm hai chủ thể chính là người di cư và người nhập cư. Cùng theo quan niệm
trên nhưng ở góc độ khác, di chuyển lao động là sự di chuyển của lao động tự
một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác nhằm thiết lập một công
việc, một cuộc sống mới trong một khoảng thời gian nhất định. Theo từ điển
Oxford Advanced Learner’s Dictionary định nghĩa: “di chuyển lao động là sự di
chuyển một số lượng người lao động từ nơi này đến nơi khác”, người di chuyển
lao động“là người di chuyển từ nơi này sang nơi khác để tìm kiếm công việc”.
Theo Công ước của ILO về Di cư về việc làm năm 1949, (số 97) trong Điều 11,
cho rằng: "di chuyển lao động có nghĩa là một người di chuyển từ nơi này sang
nơi khác với mục đích tìm kiếm việc làm”.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt di cư có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là “dời,
chuyển đến nơi khác để sinh sống” và nghĩa thứ hai là “hiện tượng di chuyển đi
lại theo chu kỳ và theo tuyến ổn định của một bộ phận hay toàn thể một quần thể
động vật”[15].
Di cư được hiểu là hiện tượng di chuyển nơi cư trú từ đơn vị hành chính
lãnh thổ này sang đơn vị hành chính lãnh thổ khác, thông thường trong một
khoảng thời gian tương đối dài, gắn liền với việc tìm kiếm những điều kiện, khả
năng tồn tại, phát triển của cá nhân hay một cộng đồng người nhất định.
Khái niệm di cư cũng gần với khái niệm di dân “di chuyển dân cư khỏi
một ranh giới hành chính nào đó đến nơi định sẵn theo những mục đích nhất

định”. Có tác giả cho rằng, thuật ngữ nhập cư, di cư, di dân, di trú, di chuyển,
chuyển cư... là những cách hiểu khác nhau về bản chất của sự di cư, do vậy, đều
12


chỉ một khái niệm có nhiều tên gọi; và tác giả sử dụng thuật ngữ di cư để: “chỉ
chung cho sự xuất cư khỏi nơi ở cũ và sự nhập cư vào nơi ở mới và như vậy nó
được hiểu như là một quá trình xuất cư – nhập cư, bởi xuất cư bao giờ cũng gắn
kết với nhập cư, xuất cư từ đâu và nhập cư vào đâu”[13].
Theo Liên Hợp Quốc, di cư hay di dân là sự dịch chuyển từ khu vực này
sang khu vực khác thường là qua một địa giới hành chính hoặc là sự dịch chuyển
theo một khoảng cách xác định nào đó thực hiện trong một khoảng thời gian
nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú.
Di chuyển lao động bao gồm hai quá trình: xuất cư và nhập cư.
- Xuất cư (emigration): là quá trình chuyển đi của dân cư tự một vùng hay
một quốc gia này sang một vùng hay một quốc gia khác để sinh sống thường
xuyên hoặc tạm thời (trong một khoảng thời gian dài).
- Nhập cư (immigration): là quá trình chuyển đến của dân cư từ một vùng
hay một quốc gia khác để sinh sống thường xuyên hay tạm thời (trong một
khoảng thời gian dài).
Cả hai quá trình xuất cư và nhập cư đều có những ảnh hưởng đến cơ cấu
và động lực tăng dân số của một vùng hay một quốc gia, nhất là quá trình nhập cư
đôi khi đóng vai trò quyết định trong việc hình thành dân cư ở một số khi vực.
Di chuyển lao động được phân làm hai loại, di chuyển lao động trong
nước (domestic labor mobility) và di chuyển lao động quốc tế (international
labour movement). Di chuyển lao động trong nước được hiểu là việc người lao
động di chuyển từ một địa phương, vùng miền này đến một địa phương, vùng
miền khác trong phạm vi một quốc gia nhằm mục đích tìm kiếm việc làm, tăng
thu nhập, cái thiện cuộc sống. Điển hình là di chuyển lao động từ nông thôn lên
thành thị. Lao động di chuyển từ nông thôn ra thành phố là những lao động di

chuyển phố trong một khoảng thời gian nhất định. Là một quá trình di chuyển từ
khu vực kém phát triển hơn đến khu vực phát triển hơn;

13


Di chuyển lao động quốc tế được định nghĩa là sự di chuyển của người lao
động từ nước này sang nước khác với mục đích tìm kiếm việc làm.
Như vậy, di chuyển lao động về cơ bản là sự phản ứng những thay đổi về
phân bổ nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, trật tự thế giới, sự biến đổi của môi
trường, sự phát triển của kinh tế và công nghệ… Con người di chuyển từ nơi này
đến nơi khác nhằm tận dụng lợi thế về điều kiện, khí hậu, nguồn tài nguyên
thiên nhiên để có được nguồn thu nhập cao hơn, có nhiều việc làm hơn hoặc để
thoát khỏi sự phân biệt đối xử.
1.1.2. Nguyên nhân di chuyển lao động
Di chuyển lao động quốc tế được thúc đẩy bởi các nhân tố cầu đẩy (push)
và cầu kéo (pull). Nhân tố cầu đẩy là các nhân tố từ phía cung (supply), khuyên
khích mong muốn di chuyển và các nhân tố kéo xuất phát từ phía cầu (demand).
Từ phía cung, thu nhập cao hơn ở các nước chủ nhà là nhân tố chính quyết định
sự di chuyển lao động, trong khi từ phía cầu là việc sử dụng lao động chuyên
môn cao với chi phí thấp hơn và do thiếu lao động có chuyên môn cao của các
nước chủ nhà trong một số lĩnh vực.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng di chuyển lao động nhưng tình
trạng bất bình đẳng là nguyên nhân chính thúc đẩy con người di chuyển nơi làm
việc. Bên cạnh đó, khủng hoảng tài chính toàn cầu thúc đẩy lao động di chuyển
tại các khu vực trong nước và ra quốc tế, hiện tượng này tại các nước đang phát
triển diễn ra ngày càng tăng nhanh. Di chuyển lao động là vấn đề tất yếu mà các
quốc gia đang phát triển phải đối mặt trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Mục đích duy nhất của sự di chuyển lao động nhằm tạo dựng một cuộc sống đầy
đủ hơn cho bản thân, gia đình và xã hội.

Phân tích cụ thể, ta thấy có những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, do có sự mất cân đối về số lượng lao động, khi nguồn lao động
tại một nơi không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng tại nơi đó. Sự dư
thừa lao động, vượt quá nhu cầu sử dụng tại một địa phương hay một quốc gia
14


có thể là do địa phương, quốc gia đó có tỷ lệ phát triển dân số cao, nền sản xuất
lại lạc hậu, kém phát triển nên nhu cầu sử dụng thấp hoặc do địa phương, quốc
gia đó có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế mà trong giai đọan chuyển tiếp nền kinh
tế chưa thể phù hợp ngay với cơ chế mới nên đã giảm sút nghiêm trọng, sản xuất
bấp bênh, số lao động dôi thừa tăng nhanh.
Trong khi đó, nhiều địa phương khác trong nước hay một quốc gia khác
có nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu sử dụng lao động lớn trong khi tốc độ
tăng dân số lại quá thấp nên đã xảy ra hiện tượng thiếu lao động.
Thứ hai, do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề nhất định mà tại địa
phương hay một quốc gia không có hoặc không đủ. Ví dụ: ở một số nước phát
triển rất thiếu lao động trong các ngành nặng nhọc, độc hại còn ở nước nghèo lại
thiếu các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao hoặc một thành phố phát
triển rất nhiều khu công nghiệp nhưng lại thiếu lao động phổ thông. Trình độ
phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật của mỗi địa phương, quốc gia
không thể giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao đổi lao
động với các địa phương khác hay quốc gia khác. Hành vi trao đổi lao động
xuyên quốc gia dẫn đến sự ra đời và phát triển của xuất khẩu lao động.
Thứ ba, đối với di chuyển lao động quốc tế là do có sự chênh lệch giá cả
sức lao động trong nước và sức lao động nước ngoài. Nhiều nơi mặc dù không
dư thừa lao động cũng tiến hành xuất khẩu lao động vì có lợi cho cán cân thanh
toán do họ có được những hợp đồng xuất khẩu lao động có giá cao và bù lại họ
nhập khẩu lao động tự những nước có giá cả thấp hơn. Điều này lý giải vì sao có
những nước vừa nhập khẩu lại vừa xuất khẩu lao động như: Cuba, Malaysia,

Bungari...
Thứ tư, do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa người lao
động tại địa phương này với địa phương trong một nước hoặc người lao động
trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì lý do này mà nhiều

15


người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn muốn đi lao động tại nơi
khác để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống bản thân và gia đình.
Thứ năm, do xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, lực lượng sản xuất
phát triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới quốc gia
mà mở rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc tế. Hơn nữa,
việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc tế sẽ tất yếu kèm
theo việc phát triển di chuyển lao động.
1.1.3. Phân loại lao động di chuyển
Di chuyển lao động diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau gồm:
Theo pháp lý
Bao gồm: Di chuyển lao động có tổ chức (di chuyển lao động hợp pháp)
và Di chuyển lao động không hợp pháp. Di chuyển lao động có tổ chức: diễn ra
trong khuôn khổ chương trình của nhà nước, trong trường hợp này những người
di chuyển lao động thường nhận một khoản trợ cấp hỗ trợ và thường di chuyển
nơi ở thường trú của gia đình. Di chuyển lao động hợp pháp: là việc chuyển đến
nơi sinh sống mới do bản thân người di chuyển lao động tự quyết định bao gồm
cả việc lựa chọn địa bàn nhập cư, tổ chức di chuyển, cũng như trang trải mọi phí
tổn và tìm việc làm…
Di chuyển lao động bất hợp pháp: là việc chuyển đến nơi ở mới giống như
di chuyển lao động hợp pháp, tuy nhiên người di chuyển lao động lờ đi các quy
định và cố gắng tránh liên lạc với các cấp chính quyền.
Theo nơi đi và nơi đến

Di chuyển trong nước dựa theo nơi đi và nơi đến có 4 loại hình: nông thôn
– nông thôn, nông thôn – thành thị, thành thị - thành thị và thành thị - nông thôn.
Di chuyển quốc tế thì cũng có 4 loại hình: nước đang phát triển – nước đang
phát triển, nước đang phát triển - nước phát triển, nước phát triển - nước đang
phát triển, nước phát triển – nước phát triển.
Theo thời gian
16


Theo thời gian, di chuyển lao động có thể chia thành 3 nhóm: di chuyển
lao động lâu dài, di chuyển lao động ngắn hạn (tạm thời) và di chuyển lao động
theo mùa vụ.
Di chuyển lao động lâu dài: Là nhóm những người di chuyển lao động
đến một khoảng thời gian tương đối dài và có ý định ở lại nơi đến. Di chuyển
lao động dài hạn mang tính ổn định cao thường là kết quả của những áp lực về
chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, chính trị và kinh tế hoặc sự kết hợp của những vấn
đề trên.
Di chuyển lao động ngắn hạn (tạm thời): là những người được coi là sinh
sống, làm việc ngoài nơi cư trú trong khoảng thời gian trên 3 tháng nhưng không
quá 1 năm, đồng thời những hoạt động như đi buôn bán, giao dịch, chữa bệnh,
thăm viếng người thân không được coi là di chuyển lao động.
Di chuyển lao động theo mùa vụ: Là trường hợp đặc biệt của di dân tạm
thời. Thuật ngữ “mùa vụ” không nhất thiết mang nghĩa mùa vụ thu hoạch, mặc
dù nó có thể là như vậy đối với người di dân. Thuật ngữ này còn hàm ý những
hoạt động mùa khác như mùa xây dựng hoặc mùa du lịch, theo các dự án… bao
gồm cả loại hình đi làm ăn xa ở nông thôn. Có thể nói, di chuyển lao động theo
mùa vụ là những người ra thành phố trong những lúc nông nhàn để tìm kiếm
việc làm, không có ý định cư trú lâu dài và sẽ quay về khi có nhu cầu lao động
và công việc gia đình ở quê hương.
Di chuyển lao động theo mục đích

Tại mỗi nơi đến thường đưa ra những điều kiện cho những người nhập cư
vào sinh sống hay hoạt động kinh tế trên địa bàn của mình. Điều đó tạo nên
những dạng khác nhau của người di chuyển.
Di chuyển lao động với mục đích định cư: người lao động muốn rời bỏ
quê hương để cư trú vĩnh viễn tại nơi đến, tuy nhiên người lao động muốn nhập
cư phải đáp ứng được rất nhiều điều kiện mà nơi đến đặt ra.

17


Di chuyển lao động với mục đích kinh tế - lao động: Đây là dạng phổ
biến, vì đa phần người di chuyển lao động di chuyển tới nơi khác là để tìm kiếm
cơ hội việc làm có mức thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, các công việc mà người di
chuyển tới làm thường bị giới hạn. Người di chuyển lao động thường chỉ gắn
liền với một công việc cụ thể và một người thuê lao động trong suốt thời gian họ
chuyển tới.
Những cách phân loại trên tuy không hoàn toàn đầy đủ nhưng cũng giúp
chúng ta hiểu thêm về vấn đề di chuyển lao động. Mỗi học giả, quốc gia hay tổ
chức lại đưa ra một cách phân loại riêng, dựa trên những tiêu chí khác nhau để
tìm ra các loại hình thích hợp. Sự phân loại chỉ mang tính chất tương đối và có
nhiều điểm đan xen lẫn nhau. Xác định được những loại hình phù hợp sẽ tạo
điều kiện cho các cơ quan, tổ chức nói riêng và cộng đồng tìm ra cách quản lý,
giúp đỡ và bảo vệ người lao động một cách hiệu quả.
1.1.4. Đánh giá tác động của di chuyển lao động tới phát triển kinh tế
Di chuyển lao động là khái niệm phát triển được quốc tế thừa nhận rộng
khắp ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên tác động của di chuyển lao động
khác nhau giữa các nước. Trong nội bộ quốc gia, di chuyển lao động không phải
luôn luôn là động lực của tăng trưởng kinh tế thành công, thậm chí đôi khi nó
gây ra những bất bình đẳng về kinh tế và xã hội do bản chất tự phát và sự kìm
hãm của tổ chức hành chính. Trong phạm vi quốc tê, nếu như di chuyển lao

động đem đến nguồn thu nhập tăng cho gia đình, cộng đồng và đất nước. Rõ
ràng, di chuyển lao động đã tạo ra sự phát triển trong nước. Di chuyển lao động
Trung Quốc đem lại hiệu quả và lợi ích cho tất cả các bên tham gia nhờ có sự
thay đổi kịp thời phù hợp với xu hướng di chuyển lao động trong từng thời kỳ.
Dù là di chuyển lao động trong nước hay di chuyển lao động quốc tế thì di
chuyển lao động nói chung đã trở thành một tính năng quan trọng của toàn cầu
hóa và nền kinh tế toàn cầu bởi thu nhập của lao động di chuyển được chuyển
giao cho từ thành thị về nông thôn và từ các nước phát triển về các nước đang
18


phát triển qua các hình thức tiền gửi về. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực để
đảm bảo việc bảo vệ lao động di chuyển, vẫn còn nhiều người dễ bị tổn thương
và chịu rủi ro đáng kể trong quá trình di chuyển. Di chuyển lao động đã nổi lên
như một vấn đề lớn trên toàn cầu có ảnh hưởng đến hầu hết các quốc gia trên thế
giới và xếp hạng cao trên quốc tế, khu vực và chương trình chính sách quốc gia.
Khi được quản lý đúng cách, di chuyển lao động có ảnh hưởng sâu rộng tiềm
năng cho những người di chuyển, cộng đồng, nơi xuất xứ và nơi đến và cả cho
nhà tuyển dụng, cũng như kinh tế, xã hội nói chung. Cụ thể, đối với di chuyển
lao động trong nước sẽ thúc đẩy quá trình đô thị hóa, lao động công nghiệp tăng,
việc làm được giải quyết… Đối với di chuyển lao động quốc tế, các nước có lợi
từ nguồn gốc di chuyển lao động vì nó làm giảm áp lực thất nghiệp và góp phần
phát triển thông qua kiều hối, chuyển giao kiến thức, và tạo ra các mạng lưới
kinh doanh và thương mại. Mặt khác, đối với những nơi phải đối mặt với tình
trạng thiếu lao động, lao động di chuyển có trật tự và quản lý tốt có thể làm giảm
tình trạng khan hiếm lao động.
Di chuyển lao động ngoài những phúc lợi về lao động cơ bản thì họ còn
được hưởng phúc lợi đặc biệt do là người lao động trên đất khách quê người.
Khi lao động ra nước ngoài làm việc với thu nhập cao hơn làm việc trong
nước. Người lao động gửi khoản tiền đó về gia đình làm khoản tiết kiệm. Khoản

tiền người lao động gửi về nhà được chia là hai phần: một phần gia đình chi tiêu
vào việc nâng cao mức sống, chăm sóc sức khỏe của gia đình đặc biệt là chi tiêu
cho việc học tập của con cái góp phần nâng cao dân trí; một phần lớn dành để
tiết kiệm nhằm mục đích đầu tư trong tương lai. Di chuyển lao động ra làm việc
ở nước ngoài góp tăng chi tiêu hộ gia đình và tăng đầu tư tư nhân trong dài hạn.
Để tăng chất lượng nguồn lao động di chuyển, Chính phủ phải đầu tư về cơ sở
vật chất, đội ngũ giảng viên và các điều kiện khác đảm bảo cho việc đào tạo và
đào tạo lại người lao động. Điều này sẽ làm tăng chi tiêu của Chính phủ. Khi chi

19


tiêu cho đầu tư của Chính phủ tăng sẽ góp phần làm tăng GDP cả trong ngắn hạn
và dài hạn, điều này cũng làm tăng tri thức cho dân di cư lao động. Bên cạnh đó,
trình độ người lao động đi làm việc ở nước ngoài được nâng cao nhờ được đào
tạo và đào tạo lại trong thời gian làm việc ở nước ngoài. Chính người lao động
đi làm việc ở nước ngoài sẽ là động lực của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
vì đây là nguồn lao động có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư
theo chiều sâu.
Những nhân tố thúc đẩy sự tăng nhanh di chuyển lao động chuyên môn
cao gồm: những thay đổi công nghệ, đặc biệt phát minh mới trong công nghệ
thông tin viễn thông ICT; toàn cầu hóa thị trường sản xuất và liên kết thông qua
thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI; khu vực hóa
các doanh nghiệp đa quốc gia MNEs; tiếp cận các lĩnh vực phát minh mới, cơ
hội kinh doanh công nghệ cao; chuyển giao công nghệ và quốc tế hóa các hoạt
động nghiên cứu và phát triển (R&D) các công ty quốc gia. Các nhân tố này có
vai trò rất quan trọng trong làn sóng di chuyển lao động chuyên môn cao ở các
nước phát triển và đang phát triển. Hơn nữa, các nhân tố như sự khác nhau trong
thị trường lao động, trong chi trả cho chuyên môn, trong cơ hội tìm việc và triển
vọng nghề nghiệp... vẫn tiếp tục được coi là những xu hướng chính của di

chuyển lao động chuyên môn quốc tế trong nền kinh tế toàn cầu. Di chuyển lao
động chuyên môn cao quốc tế đã mang lại cả những tác động tích cực và tác
động tiêu cực cho nước nhận lao động và nước gửi lao động.
Tác động tích cực:
Thứ nhất, giải quyết việc làm cho lao động dư thừa và xóa đói giảm
nghèo ở nông thôn.
Do chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phát triển các khu đô thị, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhiều nông dân bị mất đất sản xuất - là tư
liệu sản xuất chủ yếu, hậu quả là hàng triệu nông dân bị mất việc làm. Do đó, họ

20


×