Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Quan hệ Nhật Bản - Philippines từ sau chiến tranh lạnh đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.2 KB, 30 trang )

Header Page 1 of 126.

Đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn

Lấ QUANG CNG

QUAN H NHT BN-PHILIPPINES
T SAU CHIN TRANH LNH N NAY

luận văn thạc sĩ
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế

Hà Nội, 2016

Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

Đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn

Lấ QUANG CNG

QUAN H NHT BN-PHILIPPINES
T SAU CHIN TRANH LNH N NAY

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 60 31 02 06
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS. TSKH. Trn Khỏnh



Hà Nội, 2016

Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 7
6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 7
CHƢƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ
NHẬT BẢN-PHILIPPINES SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN 2016 ..... 9
1.1. Khái quát về quan hệ Nhật Bản-Philippines trƣớc năm 1991 ......... 9
1.2. Bối cảnh quốc tế, khu vực của quan hệ Nhật Bản-Philippines từ sau Chiến
tranh Lạnh đến năm 2016............................................................................. 12
1.2.1. Tình hình thế giới .......................................................................... 12
1.2.2. Tình hình khu vực ....................... Error! Bookmark not defined.0
1.3. Tình hình của Nhật Bản và Philippines từ sau Chiến tranh Lạnh
đến năm 2016.......................................... 17Error! Bookmark not defined.
1.3.1. Tình hình Nhật Bản và chính sách đối ngoại của Nhật Bản ...... 17
1.3.2. Tình hình Philippines và chính sách đối ngoại của Philippines. 23
1.3.3. Nhận thức chung của hai nước .................................................... 26
Tiểu kết ....................................................................................................... 28
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ NHẬT BẢN-PHILIPPINES

TRÊN CÁC LĨNH VỰC TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN 2016 .. 29
2.1. Quan hệ Chính trị - Ngoại giao và Quốc phòng - An ninh ............. 29
2.1.1. Quan hệ Chính trị - Ngoại giao ....................................................... 29
2.1.2 Quan hệ Quốc phòng - An ninh........................................................ 36
2.2. Quan hệ kinh tế ................................................................................... 42
2.2.1. Hợp tác về ODA và FDI ................................................................... 42

Footer Page 3 of 126.

1


Header Page 4 of 126.

2.2.2. Thương mại mậu dịch song phương44Error!

Bookmark

not

defined.
2.3. Các quan hệ hợp tác khác .................................................................. 45
2.3.1. Hợp tác về khoa học, kỹ thuật ....................................................... 45
2.3.2. Hợp tác về văn hóa, giáo dục, du lịch ........................................... 46
Tiểu kết ....................................................................................................... 50
CHƢƠNG 3: NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ NHẬT BẢN-PHILIPPINES
VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CỦA MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG
THỜI GIAN TỚI....................................... 51Error! Bookmark not defined.
3.1. Thành tựu và hạn chế trong mối quan hệ Nhật Bản-Philippines .. 51
3.1.1. Thành tựu ................................... 51Error! Bookmark not defined.

3.1.2. Hạn chế ...................................... 54Error! Bookmark not defined.
3.2. Đặc điểm của quan hệ Nhật Bản-Philippines .................................. 56
3.2.1. Cùng có nhu cầu hợp tác về quốc phòng-an ninh và kinh tế ..... 56
3.2.2. Cùng có tranh chấp trên biển với Trung Quốc ........................... 57
3.2.3. Cùng có là đồng minh của Mỹ ..................................................... 58
3.3. Tác động của mối quan hệ này đến khu vực và Việt Nam ............. 59
3.3.1. Đối với khu vực ............................................................................. 59
3.3.2. Đối với Việt Nam ....................... 60Error! Bookmark not defined.
3.4. Triển vọng phát triển của quan hệ Nhật Bản-Philippines ... 62Error!
Bookmark not defined.
3.4.1. Kịch bản thứ nhất .......................................................................... 62
3.4.2. Kịch bản thứ hai .............................................................................. 65
Tiểu kết ....................................................................................................... 66
KẾT LUẬN ............................................ 67Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................... 68Error! Bookmark not defined.

Footer Page 4 of 126.

2


Header Page 5 of 126.

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ sau Chiến tranh Lạnh, tình hình thế giới có những thay đổi hết sức
nhanh chóng, trật tự thế giới đa cực đang hình thành rõ rệt, trong đó Nhật Bản
đang nỗ lực phục hồi và duy trì vị trí cường quốc về kinh tế, cũng như cố
gắng trở thành nước lớn về chính trị và quân sự. Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng
tích cực mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước, các khu vực trên thế giới

nhằm khẳng định vị trí, vai trò tại khu vực, cũng như cạnh tranh với Trung
Quốc bằng chính sách ngoại giao đa phương và củng cố quan hệ đồng minh
chiến lược với Mỹ.
Mặt khác, những năm gần đây, xu thế đa cực hóa cấu trúc an ninh toàn
cầu nói chung, khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng đang chuyển từ
định hướng chiến lược sang định hình chiến lược. Trong đó, các liên minh
song phương do Mỹ chi phối vẫn tồn tại; các thể chế đa phương khu vực và
ASEAN làm trung tâm tiếp tục phát triển; cùng với đó sự “trỗi dâ ̣y” c ủa
Trung Quốc và nỗ lực trở thành “nước lớn quân sự” của Nhật Bản cũng là
những vấ n đ ề lớn, đã và đang chi phối sự hình thành, phát triển của cấu trúc
an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Việc Nhật Bản chuẩn bị dư luận sửa đổi Hiến pháp năm 1946, nhằm tăng
cường sức mạnh cho liên minh Nhật - Mỹ, hỗ trợ chiến lược “tái cân bằng”
của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương là một trong những động thái nhằm
củng cố liên minh này. Theo đó, “quyền phòng vệ tập thể” bên ngoài lãnh thổ
được thể hiện trong Luật an ninh mới (Quốc hội Nhật Bản thông qua vào
tháng 9/2015) được Nhật Bản xác định không chỉ đối với đồng minh Mỹ mà
còn với những quốc gia Đông Nam Á khác, như: Philippines, Malaysia,
Indonesia… Qua đó, giúp Nhật Bản thuận lợi hơn trong việc cạnh tranh với
Trung Quốc, khẳng định vai trò nước lớn tại khu vực, cũng như tiến tới trở
thành “cường quốc bình thường”- một cường quốc về kinh tế, quân sự và
chính trị.
Nghiên cứu mối quan hệ Nhật Bản - Philippines từ sau chiến tranh lạnh
đến nay để thấy được vị trí và vai trò của Philippines, khu vực Đông Nam Á
trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản, cũng như vai trò của Nhật Bản đối
với Philippines trong sự phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh. Mối quan hệ

Footer Page 5 of 126.

3



Header Page 6 of 126.

này còn có ảnh hưởng, tác động nhất định tới môi trường an ninh khu vực
cũng như trên thế giới, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Bàn về quan hệ Nhật
Bản - Philippines đã có những công trình nghiên cứu tại Việt Nam, Nhật Bản,
cũng như trên thế giới. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào đi sâu vào
nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về quan hệ Nhật Bản Philippines, đặc biệt là từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Vì vậy, tôi đã lựa
chọn đề tài “Quan hệ Nhật Bản-Philippines từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay”
làm luận văn cao học cho mình. Hy vọng đề tài đóng góp được một phần nhất
định vào nghiên cứu quan hệ giữa Nhật Bản và Philippines từ 1991 đến nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tài liệu tiếng Việt
Cuốn “Chính sách đối ngoại kinh tế của Nhật Bản đối với các nước
ASEAN từ sau Chiến tranh Lạnh” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hường, Học
viện Ngoại giao (2006). Tác giả đã nghiên cứu, phân tích chính sách đối ngoại
kinh tế của Nhật Bản đối với các nước ASEAN, trong đó có Philippines, dưới
tác động của bối cảnh thế giới và khu vực, nhưng Nhật Bản vẫn coi trọng hợp
tác với ASEAN. Trong cuốn sách này, tác giả nhấn mạnh sau Chiến tranh
Lạnh tình hình trong khu vực có những thay đổi sâu sắc, ASEAN đã trở thành
tổ chức với đầy đủ các thành viên quốc gia trong khu vực và ngày càng có uy
tín trên thế giới nên quan hệ giữa Nhật Bản và các nước ASEAN càng thắt
chặt hơn. Trong các chuyến thăm các nước ASEAN, các vị Thủ tướng Nhật
Bản đều cam kết tăng cường quan hệ với tổ chức này trên mọi lĩnh vực, điều
này được thể hiện rõ nét trong các học thuyết do Nhật Bản đưa ra và hiện nay
Nhật Bản là một bên đối thoại quan trọng của Hội nghị cấp cao các nước
ASEAN. Quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản với các nước ASEAN cũng không
ngừng phát triển trên 3 lĩnh vực là viện trợ, thương mại và đầu tư. Tính đến
nay các nước ASEAN nhận được nhiều viện trợ kinh tế nhất của Nhật Bản,

chiếm khoảng trên 30% tổng kim ngạch viện trợ hàng năm của Nhật Bản cho
các nước trên thế giới.
Cuốn “Quan hệ Nhật Bản - ASEAN: Chính sách và tài trợ ODA” của
tác giả Ngô Xuân Bình, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia
(1999). Tác giả đã nghiên cứu, phân tích mối quan hệ Nhật Bản - ASEAN
trên nhiều lĩnh vực, trong đó có mối quan hệ với PHILIPPINES, dưới tác
động của bối cảnh thế giới và khu vực nhưng tập trung nhất vẫn là về tài trợ
ODA. Cuốn sách gồm 7 chương, tập trung làm rõ chính sách ngoại giao kinh
tế và chính trị hóa chính sách ngoại giao kinh tế; học thuyết Fukuda- xác định
chính sách Đông Nam Á mới của Nhật Bản; tài trợ theo tinh thần học thuyết

Footer Page 6 of 126.

4


Header Page 7 of 126.

Fukuda; Nhật Bản-Indonesia; Nhật Bản-Philippines; Nhật Bản-Thái Lan;
Nhật Bản-Malaysia; Nhật Bản-Việt Nam
Cuốn“Hợp tác Nhật Bản - ASEAN và tác động của nó tới quá trình
xây dựng cộng đồng ASEAN”. Tác giả Trần Quang Minh, Viện KHXH
(2007). Tác giả đã phân tích những cơ sở cho mối quan hệ hợp tác NB ASEAN nói chung và quan hệ Nhật Bản - Philippines nói riêng, thành tựu nổi
bật trong quá trình hợp tác và tác động tới xây dựng cộng đồng ASEAN.
Cuốn Luận án Tiến sĩ “Quan hệ Nhật Bản - ASEAN (1975-2000). Tác
giả Ngô Hồng Điệp, Đại học khoa học, Đại học Huế (2008). Tác giả đã phân
tích mối quan hệ hợp tác Nhật Bản - ASEAN nói chung và quan hệ Nhật Bản
- Philippines nói riêng, đánh giá triển vọng và tác động tới khu vực. Luận án
đã chỉ rõ đối với ASEAN, Nhật Bản là nguồn cung cấp vốn, công nghệ hiện
đại hết sức quan trọng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Xuất phát từ nhận

thức và vai trò, vị trí của nhau trong khu vực và trên trường quốc tế, từ sự
thống nhất về mục tiêu coi sự liên kết hợp tác là yêu cầu phát triển nên việc
duy trì củng cố và đẩy mạnh quan hệ Nhật Bản-ASEAN là hết sức cần thiết.
Một số bài viết: “Thấy gì trong quan hệ Nhật Bản - ASEAN”, Nguyễn
Thị Ngọc, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (2008); “Nhật Bản Philippines ký hiệp định tự do thương mại”, TTXVN (2006); “Nhật Bản hối
thúc Philippines phê chuẩn FTA song phưong trong năm 2008”, TTXVN
(2008); “TTg Abe: Nhật Bản cần ASEAN”, TTXVN (2007); “Chính sách
ngoại giao của Nhật Bản đối với ASEAN trong thế kỷ mới”, TTXVN (2007);
“ASEAN - một trong những mục tiêu giành giật giữa Nhật Bản và Trung
Quốc”, TTXVN (2008). Hầu hết các tác giả đã đề cập và làm nổi bật mối
quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản - ASEAN, Nhật Bản - Philippines từ sau
Chiến tranh Lạnh đến nay.
Bài viết “Xác lập vai trò an ninh chính trị của Nhật Bản ở Đông Nam
Á trong thập niên sau Chiến tranh Lạnh” (2007), Ngô Hồng Điệp, Viện
nghiên cứu Đông Nam Á, tác giả đã làm nổi bật vai trò an ninh chính trị của
Nhật Bản tại khu vực, qua đó thấy được mối quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản ASEAN về lĩnh vực an ninh.
Bên cạnh đó còn có “Những động thái tăng cường chính sách châu Á
của ông Koizumi” của Thái Văn Long, Viện nghiên cứu Đông Nam Á (2002).
Cuốn “Quan hệ của Nhật Bản với Philippines thế kỷ XVI-XVII” của
Nguyễn Văn Kim, Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), cũng cung cấp cái nhìn
về mối quan hệ giữa Nhật Bản và Philippines trong thời kỳ sau Chiến tranh
Lạnh, đặc biệt là hợp tác kinh tế.

Footer Page 7 of 126.

5


Header Page 8 of 126.


Tài liệu tiếng Anh
Cuốn sách “Towards A Shared Future Through Mutual Understanding.
Proceeding of the First International Conference on Philippines - Japan
relation”, De La Salle University de Press and The Japan Foudation (1995)
đã đề cập tới mối quan hệ Nhật Bản - Philippines trên các mặt, nhất là về
chính trị, ngoại giao và kinh tế.
Trong cuốn “Japan and ASEAN Partnership for a Stable and
Prosperous Future” (2006) của tác giả Takaaki Kojima đã phân tích quan hệ
hợp tác Nhật Bản - ASEAN cho sự bền vững và phát triển trong tương lai.
Cuốn “Japan and the Philippines 1868 - 1898” của tác giả Josefa M.
Saniel, New York (1973), đã làm rõ quan hệ Nhật Bản - Philippines trên các
mặt giai đoạn 1868 - 1898, nổi trội là hợp tác kinh tế, thương mại.
Có thể thấy với các cách tiếp cận ở nhiều mức độ khác nhau, tất cả
công trình trên đã đề cập một số một số nội dung về mối quan hệ hai nước.
Tuy nhiên, tôi chưa tiếp cận được một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu
mang tính tổng hợp về mối quan hệ song phương, cũng như đa phương giữa
Nhật Bản và Philippines từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Về không gian, luận văn đề cập chủ yếu đến quan hệ song phương giữa
hai nước Nhật Bản-Philippines.
Về thời gian nghiên cứu, đề tài giới hạn mối quan hệ giữa hai nước từ
sau Chiến tranh Lạnh đến nay.
Về mặt nội dung, luận văn nghiên cứu quan hệ Nhật Bản-Philippines
trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, thương mại, chính trị, ngoại giao, an ninh
quân sự. Nhận định, đánh giá của tác giả trong triển vọng quan hệ hai bên,
những tác động của mối quan hệ này đối với khu vực và thế giới.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu chính của đề tài
Làm rõ sự vận động của mối quan hệ Nhật Bản - Philippines từ sau
Chiến tranh Lạnh đến năm 2016 trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại

giao, quốc phòng-an ninh. Từ đó, rút ra những thành tựu, hạn chế và đánh giá
tác động, cũng như triển vọng của mối quan hệ song phương.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích những nhân tố tác động đến quan hệ Nhật Bản Philippines từ sau Chiến tranh Lạnh đến năm 2016, bao gồm nhân tố lịch sử,

Footer Page 8 of 126.

6


Header Page 9 of 126.

tình hình hai nước về bối cảnh thế giới, khu vực tác động đến quan hệ hai
nước.
Thứ hai, làm rõ quá trình vấn động của mối quan hệ Nhật BảnPhilippines trên các mặt khác nhau, nhất là quan hệ về kinh tế, chính trị, ngoại
giao, quốc phòng-an ninh.
Thứ ba, đưa ra nhận xét, đánh giá tác động và dự báo xu hướng tiến triển
của quan hệ Nhật Bản-Philippines.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và đóng góp của luận văn
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài việc vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp nghiên cứu quan
hệ quốc tế, phương pháp nghiên cứu lịch sử, trong đó xem xét sự vận động
của mối quan hệ Nhật Bản - Philippines được soi sáng bằng các lý thuyết như
chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa thể chế, chủ nghĩa kiến tạo và được đặt trong
bối cảnh cụ thể của thế giới, khu vực và của mỗi nước.
5.2. Đóng góp của luận văn
Đây có lẽ là nỗ lực đầu tiên ở Việt Nam trong việc đưa ra bức tranh
toàn cảnh và sự vận động của mối quan hệ Nhật Bản - Philippines một cách

tương đối toàn diện và có hệ thống. Từ đó, đánh giá thực trạng, đặc điểm, tác
động và dự báo xu hướng tiến triển của mối quan hệ Nhật Bản-Philippines.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn được chia thành 3 chương:
Chƣơng 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ Nhật Bản-Philippines từ
sau Chiến tranh Lạnh đến năm 2016
Chương này trước hết đề cập đến những nét chính về quan hệ Nhật
Bản-Philippines trước năm 1991 và từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay nhằm
thấy được đây là mối quan hệ hợp tác chiến lược trong suốt chiều dài lịch sử.
Tiếp theo, phân tích bối cảnh quốc tế và khái quát tình hình châu Á-Thái Bình
Dương trên các lĩnh vực an ninh-chính trị, kinh tế, đặc biệt là sự trỗi dậy của
Trung Quốc tại khu vực này. Đây chính là những nhân tố chính thúc đẩy mối
quan hệ Nhật Bản-Philippines ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Trong bối
cảnh các nước lớn trên thế giới và đặc biệt là các nước trong khu vực đã có sự
điều chỉnh chiến lược đối ngoại, Nhật Bản và Philippines cũng đưa ra những
mục tiêu, chiến lược đối ngoại của nước mình để phù hợp với hoàn cảnh hiện
tại. Trong đó, cả hai nước đều có nhận thức tăng cường hợp tác song phương
vì những lợi ích chung và đối phó với những diễn biến bất ổn trong khu vực.

Footer Page 9 of 126.

7


Header Page 10 of 126.

Chƣơng 2: Thực trạng quan hệ Nhật Bản-Philippines trên các lĩnh vực từ
sau Chiến tranh Lạnh đến năm 2016
Trong chương này, người viết tập trung vào những kết quả đạt được
trong quan hệ Nhật Bản-Philippines trên các lĩnh vực chủ yếu như: Chính trị ngoại giao, quốc phòng-an ninh, kinh tế và một số các lĩnh vực khác như văn

hóa, giáo dục, giảng dạy tiếng Nhật, khoa học, kỹ thuật.
Chƣơng 3: Nhận xét về quan hệ Nhật Bản-Philippines từ sau Chiến tranh
Lạnh đến 2016 và triển vọng của mối quan hệ này trong thời gian tới
Từ những thành tựu mà mối quan hệ Nhật Bản-Philippines đạt được
trên các lĩnh vực đã phân tích cùng với sự xem xét những khó khăn mà Nhật
Bản-Philippines đang phải đối mặt để nhận định về triển vọng phát triển của
mối quan hệ Nhật Bản-Philippines trong thời gian tới.

Footer Page 10 of 126.

8


Header Page 11 of 126.

CHƢƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NHẬT BẢN PHILIPPINES TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NĂM 2016
1.1. Khái quát về quan hệ Nhật Bản-Philippines trƣớc năm 1991 và từ
sau Chiến tranh Lạnh đến nay
1.1.1. Quan hệ Nhật Bản-Philippines trước năm 1991
Nhật Bản và Philippines ký “Hiệp ước Hòa bình” vào tháng 7/1956.
Philippines là một thị trường và địa bàn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong
quan hệ của Nhật Bản với các nước Đông Nam Á, quan hệ hai nước trước
năm 1991 cơ bản đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực kinh tế. Việc tăng cường
ODA và các quan hệ kinh tế của Nhật Bản với Đông Nam Á đương nhiên sẽ
đưa lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên. Đồng thời, qua đó, Nhật Bản nâng
cao được ảnh hưởng một cách toàn diện hơn ở khu vực. Bởi vì, theo quan
điểm của Nhật Bản, điều đó “không chỉ đơn giản có ý nghĩa hẹp là lợi ích
thương mại, mà nó bao hàm ý nghĩa sâu sắc hơn là lợi ích gián tiếp được các
nước tiếp nhận đánh giá cao khi nó phù hợp với các nhu cầu cấp thiết của họ”.

Hoặc như Thủ tướng Kaifu đã từng phát biểu vào tháng 3/1990 rằng, Nhật
Bản muốn “dùng các nguồn kỹ thuật công nghệ, kinh tế và vốn kinh nghiệm
của mình làm cơ sở để đóng một vai trò tích cực trong các cố gắng quốc tế
nhằm tạo nên một trật tự mới”. [23, tr2-3]
Philippines còn được coi là một trong những cửa ngõ trọng yếu của
Nhật Bản để có thể tiếp cận với thị trường Trung Quốc và mở rộng quan hệ
với các nước phương Tây. Với tư cách là nước chiếm đóng Philippines, Tây
Ban Nha đã thâu tóm toàn bộ mọi quan hệ đối ngoại của nước này trong đó có
Nhật Bản. Ngoài các hoạt động thương mại, từ Philippines nhiều giáo sĩ Tây
Ban Nha đã đến Nhật Bản tiến hành các hoạt động truyền giáo. Do vậy, khi
Mạc phủ Edo thực hiện chính sách toả quốc, quan hệ giữa Nhật Bản với
Philippines cũng bị tác động nghiêm trọng.
Trên thực tế, quan hệ giữa Nhật Bản với Philippines được xác lập từ
trước năm 1565, khi chiếc tàu Tây Ban Nha đầu tiên có tên là Conquistadores
do Miguel de Legaspi cập vào quần đảo. Từ năm 1567, hàng năm thuyền
buôn Trung Quốc và Nhật Bản đã đến trao đổi hàng hoá ở đảo Luzon và
Mindanao của Philippines. Về đối ngoại, để nhanh chóng khôi phục nền kinh
tế trong nước, mở rộng ảnh hưởng đối với các quốc gia trong khu vực... giới
cầm quyền Nhật Bản đã chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, cử nhiều đoàn
thuyền buôn đến giao thương với các nước khu vực. Mặc dù tương đối gần

Footer Page 11 of 126.

9


Header Page 12 of 126.

gũi với Philippines về vị trí địa lý nhưng so với Trung Quốc và Triều Tiên,
quan hệ giữa Nhật Bản với đảo quốc này diễn ra tương đối muộn. Tuy nhiên,

trong tương quan với các nước Đông Nam Á, Philippines lại là một trong
những vùng đất mà người Nhật phát hiện sớm nhất. Cùng với các Hoa
thương, người Nhật đã đem tơ lụa, len dạ, chuông đồng, gốm sứ, hương liệu,
sắt, thiếc và vải bông hoa đến bán cho cư dân sinh sống trên đảo Luzon hay
Mindanao để đổi lấy vàng và sáp ong. Từ các cảng thị vùng Kyushu, Nhật
Bản còn xuất bạc, một số nông, hải sản cho thương nhân Trung Hoa, Tây Ban
Nha đồng thời nhập về vàng, da hươu từ Philippines và tơ sống của Trung
Quốc. Những mối liên hệ đó đã tạo nên cơ sở cần thiết cho sự phát triển của
quan hệ hai nước trong giai đoạn này.
1.1.2. Quan hệ Nhật Bản-Philippines từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay
Quan hệ Nhật Bản-Philippines từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay từng
bước được thúc đẩy, nhất là trong giai đoạn 2010-2016, quan hệ hai nước
phát triển trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là hợp tác chính trị-ngoại giao, kinh
tế và quốc phòng-an ninh.
Năm 1991, Liên Xô sụp đổ, một cực tiêu biến đánh dấu sự chấm dứt
của cuộc Chiến tranh Lạnh. Quan hệ quốc tế có những thay đổi hết sức to lớn:
lực lượng chiến lược giữa các nước trên thế giới thay đổi, các mâu thuẫn đan
xen phức tạp, quan hệ giữa các nước không ngừng được điều chỉnh, định vị
và dung hợp. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, mâu thuẫn giữa hai cực siêu
cường của thế giới vô cùng mạnh mẽ, thế giới luôn trong tình trạng đấu tranh
quyết liệt và bị phân hóa rõ ràng. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, cục diện
thế giới bước vào giai đoạn mới, nhìn một cách tổng thể đó là xu thế của cục
diện đa cực, toàn cầu hóa kinh tế, thông tin hóa khoa học kỹ thuật. Thứ nhất,
trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, hai phe Xô - Mỹ đấu tranh với nhau quyết
liệt, đại đa số các quốc gia khác trên thế giới chỉ có thể được lựa chọn một
trong hai hoặc phương Đông hoặc Phương Tây. Sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, Nhật Bản bị Mỹ chi phối trên nhiều lĩnh vực. Thứ hai, ảnh hưởng của
chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Nhật Bản có địa duyên chính trị hết sức
đặc thù, trong suốt một thời gian dài, chính sách đối ngoại của Nhật Bản chủ
yếu là dựa trên quan hệ với đồng minh thân cận Mỹ. Mặc dù giữa những năm

60 của thế kỷ XX, nền công nghiệp Nhật Bản đã bước vào giai đoạn phát triển
cực kỳ mạnh mẽ, Nhật Bản đã có ý định hợp tác với Philippines, muốn
Philippines trở thành nước cung cấp các nguyên liệu quan trọng và nước sản
xuất các linh kiện của mình.

Footer Page 12 of 126.

10


Header Page 13 of 126.

Tiến trình toàn cầu hóa ngày càng được đẩy nhanh trên toàn thế giới,
hàng loạt các tổ chức quốc tế được hình thành như: khu vực mậu dịch tự do
Bắc Mỹ, tổ chức hợp tác kinh tế khu vực châu Á Thái Bình Dương,… Đồng
thời, thông tin hóa khoa học kỹ thuật còn tạo điều kiện vật chất và bảo đảm kỹ
thuật giúp tăng cường đối thoại, giao lưu, hợp tác và xây dựng quan hệ mới
giữa các quốc gia và cường quốc trên thế giới. Thêm vào đó, cục diện quan hệ
quốc tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng phát sinh những thay đổi sâu
sắc cùng với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh. Các nước Mỹ, Trung Quốc,
Nhật Bản, Nga, Ấn Độ và các nước ASEAN vừa hợp tác vừa cạnh tranh, chế
ước lẫn nhau, khu vực châu Á - Thái Bình Dương hình thành quan hệ chính trị
mới với những đặc điểm mới xuất hiện như: mất cân bằng, thiếu ổn định.
Chính tình hình thế giới với những thay đổi chung đã kéo theo sự thay
đổi trong chiến lược của hai nước Nhật Bản-Philippines để phù hợp với hoàn
cảnh. Về phía Nhật Bản, trong giai đoạn này, Nhật Bản ý thức được rằng phải
đứng vững ở châu Á thì mới có thể vươn ra được thế giới, chính vì thế Nhật
Bản ra sức cải thiện quan hệ với các nước châu Á, tăng cường đầu tư và viện
trợ chính phủ đối với các nước châu Á nhằm tăng cường ảnh hưởng của nước
này đối với khu vực châu Á. Bên cạnh đó, Nhật Bản còn nỗ lực thúc đẩy một

cơ chế an ninh châu Á-Thái Bình Dương để nâng cao tiếng nói của mình đối
với các vấn đề an ninh của khu vực. Còn về phía Philippines, trong giai đoạn
này, Philippines bắt đầu thực hiện mục tiêu chiến lược của một nước lớn ở
Đông Nam Á, ngoại giao đa phương lấy kinh tế làm chủ đạo và tăng cường
hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực với các tổ chức và quốc gia trên thế giới,
đặc biệt là các quốc gia lớn như: Mỹ, Nhật, châu Âu. Đồng thời, Philippines
cũng thực hiện chính sách tích cực cải thiện, phát huy mối quan hệ với các
nước láng giềng trên bình diện song phương và đa phương.
Trong thời kỳ này, hai nước đã tiến hành rất nhiều cuộc viếng thăm cấp
cao lẫn nhau. Đặc biệt là từ năm 2002 đến năm 2016, lãnh đạo cấp cao hai
nước đã tiến hành nhiều chuyến thăm viếng lẫn nhau, đồng thời nhất trí thúc
đẩy hợp tác quốc phòng-an ninh. Về kinh tế thương mại và đầu tư, hai nước
đều nỗ lực thúc đẩy hợp tác. Đặc biệt, trong giai đoạn Tổng thống Aquino
nắm quyền (2010-2016), mối quan hệ Nhật Bản-Philippines phát triển mạnh
mẽ cả về chính trị-ngoại giao, kinh tế và quốc phòng-an ninh. Nhật Bản luôn
là nước cung cấp ODA lớn nhất cho Philippines và tàu quân sự Nhật Bản
thường xuyên thăm viếng Philippines, cũng như Nhật Bản luôn đẩy mạnh hợp
tác quốc phòng-an ninh với Philippines, điển hình là hai nước đã ký hiệp định

Footer Page 13 of 126.

11


Header Page 14 of 126.

chuyển giao thiết bị phòng vệ (3/2016) và Nhật Bản đã viện trợ cho
Philippines nhiều tàu đã qua sử dụng, tàu mới và máy bay huấn luyện.
1.2. Bối cảnh quốc tế, khu vực của quan hệ Nhật Bản-Philippines từ sau
Chiến tranh Lạnh đến năm 2016

1.2.1. Tình hình thế giới
Sau khi trật tự hai cực tan rã, tình hình thế giới đã có nhiều diễn biến
thay đổi với những nét nổi bật là :
Một là, thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục
diện đa cực chưa hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật tự
cũ để tiến tới một Trật tự mới. Thời kỳ quá độ này phải kéo dài trong nhiều
năm, có thể từ 30 đến 50 năm, bởi sự chuyển đổi cục diện thế giới lần này
mang đặc điểm mới, quan trọng nhất là không trải qua chiến tranh như các
cục diện trước kia. Thế giới hiện đang trong tình hình "một siêu cường, nhiều
cường quốc", đó là các nước Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga và Trung Quốc.
Hai là, sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời. Là
cực duy nhất còn lại, Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò
chi phối bá chủ thế giới. Nhưng mặt khác, tuy là cực duy nhất còn lại, nhưng
tình hình thế giới lại không phải là thế giới một cực. Mỹ đã bị suy yếu tương
đối, mâu thuẫn lớn nhất của Mỹ là giữa tham vọng bá chủ và khả năng thực
hiện của nó. Rõ ràng là Mỹ không muốn sự phát triển của thế giới theo chiều
hướng đa cực, ra sức điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại, tăng cường
năng lực cạnh tranh, xây dựng Trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo, làm cho
sự thay đổi của thế giới đi theo quỹ đạo có lợi cho Mỹ.
Ba là, hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị
đẩy lùi rõ rệt, nhưng hòa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa, thậm chí ở nhiều nơi
xung đột quân sự, nội chiến diễn ra ác liệt. Đó là các mâu thuẫn về sắc tộc,
tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... vốn bị che đậy dưới thời chiến tranh lạnh nay
bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này đều
có căn nguyên lịch sử, nên việc giải quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng.
Hiện nay, tình hình chính trị-an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng,
diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia,
tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ,
khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở
nhiều khu vực. Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra

nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa
cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới
và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa

Footer Page 14 of 126.

12


Header Page 15 of 126.

cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ
quốc tế. Các nước đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ đang đứng
trước những cơ hội và khó khăn, thách thức lớn trên con đường phát triển.
Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các
nước trên thế giới và khu vực vì lợi ích của cộng đồng quốc tế và của từng
quốc gia, tiếp tục diễn ra phức tạp. Trong khi đó, những vấn đề toàn cầu như
an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương
thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Cộng
đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh
truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái
chiến tranh kiểu mới.
1.2.2. Tình hình khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục
là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược
ngày càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh
tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có những yếu tố tiềm ẩn bất ổn. Tranh
chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục
diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN trở thành cộng đồng, tiếp tục phát huy vai
trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh

tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên
trong và bên ngoài. Châu Á-Thái Bình Dương là khu vực có rất nhiều điểm
nóng tiềm tàng, đa số xuất phát từ những tranh chấp lãnh thổ kéo dài. Tất cả
các chính phủ liên quan đều mong muốn những xung đột sẽ được kiềm chế ở
mức thấp nhất có thể. Nhưng đáng nói là các tranh chấp đều rất phức tạp với
nhiều nhân tố địa-chính trị, địa-kinh tế đan xen. Trong bối cảnh lòng tin giữa
các quốc gia không được củng cố, chỉ cần một sự cố hay hiểu nhầm ngoài dự
kiến cũng có thể khiến cho xung đột tiềm tàng bùng phát. [28, tr2]. Khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương có dân số chiếm ½ dân số thể giới, là khu vực có
dự trữ dầu mỏ, khí đốt rất lớn và tập trung sự trỗi dậy kinh tế của nhiều quốc
gia, đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. Đây là hai nền kinh tế lớn nhất khu
vực, tất yếu có vị thế chính trị lớn trong việc giải quyết các vấn đề cấp thiết
của cộng đồng quốc tế. Trong “Chiến lược quốc gia cho thế kỷ XXI”, Mỹ đã
xác định khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là một địa bàn quan trọng đối với
an ninh quốc gia của Mỹ. Thực tế khu vực này đang tập trung sự chú ý của
nhiều nước và nhiều tổ chức quốc tế quan trọng. Vì thế đây là nơi tập trung
những mâu thuẫn về lợi ích có tính chiến lược của một số nước đối trọng với

Footer Page 15 of 126.

13


Header Page 16 of 126.

lợi ích chiến lược của Mỹ, cạnh tranh, đòi chiếm ngôi Mỹ để chi phối khu vực
này cả về kinh tế và chính trị. Trong đó, có một số điểm nổi bật như sau:
Thứ nhất, về kinh tế, tốc độ phát triển kinh tế của khu vực này tăng lên
nhanh chóng so với các khu vực khác trên thế giới. Hiện nay, xuất khẩu của
khu vực châu Á-Thái Bình Dương chiếm 30% tổng lượng xuất khẩu của thế

giới, kim ngạch thương mại mỗi năm giữa khu vực châu Á-Thái Bình Dương
và Mỹ vượt 1000 tỉ USD, dự trữ ngoại hối chiếm 2/3 tổng lượng của thế giới.
Châu Á - Thái Bình Dương cũng là khu vực phục hồi nhanh nhất và đạt tốc độ
tăng trưởng cao nhất sau những tác động sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài
chính - kinh tế toàn cầu. Sự tăng trưởng chung của khu vực này dự báo vượt
tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới nhờ nhu cầu nội địa và thương mại
nội khối tăng giúp bù đắp sự suy giảm xuất khẩu sang các nền kinh tế phát
triển. Châu Á-Thái Bình Dương chiếm 36% tỷ trọng kinh tế toàn cầu. Châu
Âu đứng thứ hai và Bắc Mỹ thứ ba1.
Thứ hai, về an ninh-chính trị, châu Á-Thái Bình Dương là khu vực hết
sức quan trọng về chính trị-an ninh trên thế giới, hiện nay ở khu vực này đang
nổi lên rất nhiều các thách thức an ninh đáng lo ngại. Một là, các quốc gia sở
hữu hạt nhân ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương không ngừng tăng lên, sự
theo đuổi của các tổ chức phi chính phủ đối với vũ khí hủy diệt hàng loạt và
việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mỹ ở khu vực này, đều
có khả năng dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương thêm gay gắt. Hai là, những vụ tranh chấp về biển, đảo giữa các nước
ở khu vực Đông Bắc Á vẫn tiềm ẩn nguy cơ căng thẳng trong các mối quan hệ
song phương hoặc đa phương về an ninh ở châu Á - Thái Bình Dương. Mỹ,
Nhật Bản, Hàn Quốc luôn đặt quân đội của họ ở Đông Bắc Á trong tình trạng
báo động cao, sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh. Những động thái đó đã làm
bật lên những thách thức lớn về an ninh đối với khu vực. Ba là, vấn đề hạt
nhân Triều Tiên, vấn đề liên Triều còn diễn biến phức tạp, khó lường.
Thứ ba, sự trỗi dậy của Trung Quốc đã khiến cho các nước trong khu
vực và trong thế giới cảm thấy e ngại và lo lắng trước sự cạnh tranh gay gắt
thậm chí là sự lấn át trên nhiều phương diện, nhất là việc gia tăng bành trưởng
ở Biển Đông và gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Trung Quốc hiện
nay đã chiếm ngôi Nhật Bản để đứng vào vị trí nền kinh tế thứ hai thế giới. Sự
phụ thuộc vào thương mại, cả về nguyên liệu thô để đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế và để vận chuyển hàng hóa ra nước ngoài, đã làm cho biển ngày càng

1 Phạm Thanh Bình, (2011) “Châu Á trước thềm thế kỷ XXI”, Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã
hội Quốc gia.

Footer Page 16 of 126.

14


Header Page 17 of 126.

trở nên quan trọng hơn đối với sự thịnh vượng của Trung Quốc. Hơn nữa
trong thời kỳ cải cách mở cửa, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, việc ngày
càng dựa vào thương mại quốc tế đã đẩy trung tâm kinh tế hấp dẫn của Trung
Quốc ra khu vực duyên hải ven biển. Quốc phòng biển cũng ngày càng trở
nên quan trọng hơn đối với nước này. Nhiệm vụ chính về biển vì sự phát triển
của Trung Quốc trong tương lai về cơ bản là: bảo vệ quyền lực về biển của
Trung Quốc đối với các vùng biển liên quan; phát triển nền kinh tế biển của
Trung Quốc; tăng cường việc sử dụng biển và quản lý các đảo; duy trì môi
trường biển; phát triển các ngành công nghiệp biển và khoa học về biển; nâng
cao sự đóng góp của Trung Quốc vào hải dương học toàn cầu. Trung Quốc có
nhiều cách để có thể thực hiện các nhiệm vụ của mình mà không cần thiết
phải gây hấn, ví dụ như tham gia vào các liên minh hợp tác quốc tế,… Nhưng
Trung Quốc đã không lựa chọn những phương pháp hòa bình. Trung Quốc
sẵn sàng theo đuổi những chính sách quốc gia quyết đoán để kiểm soát các
vùng nước liên quan và các vùng biển gần kể cả khi các chính sách đó có mâu
thuẫn với quốc gia láng giềng và các cường quốc biển khác. Đặc biệt là mấy
năm gần đây, Trung Quốc liên tục gây ra những tranh chấp về biển với các
quốc gia khác, từ sự kiện “Tàu Cheonan” ngày 26/3/2010 khiến tình hình ở
Hoàng Hải trở nên rối ren căng thẳng đến đợt tranh chấp đảo Điếu
Ngư/Senkaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản, sự kiện này bắt đầu châm ngòi

lại từ “Va chạm tàu ở Điếu Ngư” giữa hai nước trên vào ngày 07/9/2010, kéo
dài tới hiện nay. Sau đó là tình hình căng thẳng ở Biển Đông do những đợt
sóng tranh chấp chủ quyền của Trung Quốc với các quốc gia Đông Nam Á bắt
đầu từ năm 2011, “đường lưỡi bò” của Trung Quốc vẽ ra trên Biển Đông và
yêu sách 80% Biển Đông là vùng nước lịch sử của họ đã khiến Biển Đông
không ngừng dậy sóng và trở thành một trong những vấn đề an ninh quan
trọng nhất khu vực hiện nay. Sau khi Tòa Trọng tài quốc tế (PCA) ra phán
quyết về vụ kiện Trung Quốc của Philippines, Trung Quốc vẫn không công
nhận phát quyết này, mà còn tiếp tục gia tăng các hoạt động ở Biển Đông.
Xét trên góc độ địa kinh tế, Trung Quốc trở thành công xưởng của thế
giới sau khi đã vượt Pháp, Anh và Đức nhờ mức tăng trưởng kinh tế bình
quân khoảng 10%/năm trong hai thập kỷ qua. Quý III/2010, Trung Quốc
chiếm ngôi vị á quân kinh tế của Nhật Bản xét về Tổng sản phẩm quốc nội
(GDP). Xét trên góc độ an ninh-chính trị, âm mưu bá chủ của một nước lớn,
tham vọng và những sóng gió mà Trung Quốc đang tạo ra bởi những tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ trên bộ cũng như trên biển, mà đặc biệt là những
tranh chấp trên biển Đông đang diễn ra hết sức căng thẳng hiện nay đã gây.

Footer Page 17 of 126.

15


Header Page 18 of 126.

Những động thái đó của Trung Quốc là một thách thức an ninh to lớn cho khu
vực và thế giới, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trong đó có Ấn Độ và
Nhật Bản.
Về tình hình nội bộ, nội bộ Trung Quốc đang có nhiều biến động.
Trong bối cảnh Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2017 đã gần

kề, sức ép đối với Tập Cận Bình từ phía những đối thủ của ông đang ngày
một lớn hơn. Để đối phó với tình hình này, trong khoảng vài tháng qua, chiến
dịch đổi mới của Tập Cận Bình đã có những thay đổi. Tập Cận Bình đã chọn
lựa những cách tiếp cận chậm rãi hơn để đảm bảo quyền lực của mình. Do
vậy tình hình Trung Quốc hiện tại có thể gọi là “cải cách lạnh, chính trị
nóng”, và việc ưu tiên phát triển kinh tế theo đó cũng sẽ phải nhường bước
cho việc ổn định tình hình chính trị trong nước. Tuy nhiên, sự phát triển chậm
lại của Trung Quốc đã kéo theo những ảnh hưởng xấu đến chính nền kinh tế
Trung Quốc cũng như Mỹ và các nước khác trên thế giới. Thậm chí, sự lo
ngại đối với nền kinh tế yếu kém của Trung Quốc còn lớn hớn sự lo ngại đối
với sự lớn mạnh trong tương lai của họ. Nền kinh tế Trung Quốc hiện đã đủ
lớn để vấn đề của nó lan toả khắp toàn cầu với vận tốc ánh sáng. Mỹ cần thúc
đẩy quan hệ với Trung Quốc để nước này đạt được những mục tiêu cải cách
của mình. Hiệp định TPP cũng có thể là một mũi tên chỉ đường cho Trung
Quốc để họ tiếp tục mở cửa nền kinh tế của mình. Nguy cơ va chạm giữa Mỹ
và Trung Quốc dù sao cũng mới chỉ là giả thiết, tuy nhiên nguy cơ Trung
Quốc rơi vào bẫy thu nhập trung bình đã ở trước mặt, và điều đó chỉ mang tới
nguy cơ cho nền kinh tế thế giới. Sự trì trệ của Trung Quốc cũng ảnh hưởng
đến địa chính trị toàn cầu. Khác với các quốc gia khác gắn liền sức mạnh
quốc gia với nhiều yếu tố như quân sự, kinh tế, xã hội, sức mạnh của Trung
Quốc hoàn toàn dựa vào kinh tế. Để củng cố vị trí của mình trên thế giới,
Trung Quốc đã đề ra nhiều sáng kiến tài chính như Ngân hàng đầu tư cơ sở
hạ tầng châu Á (AIIB), “Một vành đai một con đường”... Tuy nhiên, khi nền
kinh tế trì trệ, vị thế của Trung Quốc trong khu vực theo đó cũng giảm sút..
Mỹ cũng có cơ hội để củng cố vị trí của mình tại châu Á-Thái Bình Dương và
có thể sẽ tiếp tục dẫn dắt cấu trúc an ninh khu vực trong nhiều năm tới.
Trong bối cảnh đó, TPP không chỉ là một hiệp định thương mại tự do
mà còn giúp Mỹ củng cố sự hiện diện ở khu vực, vai trò địa chính trị của
mình đối với các nước châu Á-Thái Bình Dương, khẳng định cam kết bảo
đảm thịnh vượng, hoà bình, ổn định ở khu vực. Hiệp định TPP cũng sẽ giúp

chính quyền tương lai của Mỹ tìm ra những cách thức tiếp cận mới với Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia. Tuy nhiên, những tuyên bố gần đây của Tổng thống

Footer Page 18 of 126.

16


Header Page 19 of 126.

mới đắc cử của Mỹ Donald Trump khiến người ta có thể liên tưởng tới việc
TPP liệu có thể tồn tại nếu không có sự tham gia của Mỹ không. Trong khi
đó, những hành động hung hăng, nhạy cảm gần đây cho thấy, Bắc Triều Tiên
đang mong manh hơn vẻ bể ngoài của mình. Sự phát triển của công nghệ
thông tin đã khiến ngày càng nhiều tin tức về thế giới bên ngoài lọt vào bên
trong quốc gia này, khiến cho khoảng cách giữa Kim Jong-un và nhân dân
ngày càng lớn và tính chính danh của chính quyền bị suy yếu. Trong năm
2016, để đàn áp sự chống đối, thể hiện uy quyền tuyệt đối của mình, Kim
Jong-un có thể sẽ thực hiện hàng loạt những hành động khiêu khích quy mô
nhỏ nhằm thể hiện sức mạnh quân sự nhưng không dẫn tới chiến tranh quy
mô. Tuy vậy, chỉ một tính toán sai lần cũng có thể dẫn đến khủng hoảng tại
bán đảo Triều Tiên trong năm tới.
Thứ tư, cơ chế hợp tác đa phương ở khu vực không ngừng tăng, làm
cho khả năng xuất hiện nhất thể hóa khu vực cũng có phần tăng lên, cho dù để
điều đó trở thành hiện thực còn là câu chuyện của tương lai.
1.3. Tình hình của Nhật Bản và Philippines từ sau Chiến tranh Lạnh đến
năm 2016
1.3.1. Tình hình Nhật Bản và chính sách đối ngoại của Nhật Bản
a. Tình hình Nhật Bản
Nhật Bản theo hệ thống chính trị đa đảng phái, trong đó đảng Dân chủ

Tự do là đảng chính trị lớn nhất và cầm quyền gần như liên tục trong giai
đoạn 1955-2009 (riêng giai đoạn 1993-1996, Thủ tướng là người của đảng
khác do đảng Dân chủ Tự do không nắm được đa số trong Hạ viện). Từ năm
2009-2012, đảng Dân chủ cầm quyền thay đảng Dân chủ Tự do. Từ 12/2012,
đảng Dân chủ Tự do trở lại nắm quyền và kiểm soát được lưỡng viện trong
Quốc hội.
Một nguyên nhân cơ bản của cuộc cải cách chính trị ở Nhật Bản được
thừa nhận là việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh. Cần phải thừa nhận rằng Chiến
tranh Lạnh đã tạo ra hệ thống chính trị Nhật Bản năm 1955 khi đó xung đột
chính trị hay liên kết đã được định rõ bởi sự hợp tác hay bất hợp tác giữa
Đảng Dân chủ Tự do và Đảng Xã hội Nhật Bản. Do đó, việc kết thúc Chiến
tranh Lạnh đã khiến cho hệ thống này bị tổn thương nghiêm trọng. Sự sụp đổ
của Liên bang Xô Viết đã kéo theo chấm dứt sự đối đầu của hai hệ thống
chính trị, làm giảm nhiệt của những xung đột tư tưởng giữa những người bảo
thủ và những người tiến bộ tại Nhật Bản. Sau khi mất đa số ghế ở Nghị
viện trong các cuộc bầu cử vào tháng 7 năm 1993, về lí thuyết Đảng Dân chủ
Tự do vẫn có thể cầm quyền bằng việc lôi kéo các Đảng mới thành một Liên

Footer Page 19 of 126.

17


Header Page 20 of 126.

minh do Đảng Dân chủ Tự do lãnh đạo. Nhưng Ozawa và Đảng Shinseito của
ông đã đi trước một bước. Ông đã lôi kéo cả Hosokawa của Đảng Nhật Bản
mới và Takemura của Đảng Sakigake không tham gia Liên minh với Đảng
Dân chủ Tự do bằng cách ủng hộ cả hai Đảng đối với các vị trí Thủ tướng và
Bộ trưởng Nội các. Đồng thời, ông đã thảo luận với Komeito, Đảng Dân chủ

Xã hội, và Liên minh Dân chủ Xã hội về thoả thuận cách mạng giữa các Đảng
trong các chính sách cơ bản - đặc biệt trong phạm vi các vấn đề quốc tế. Bằng
việc chấp nhận thoả thuận này, Đảng Dân chủ Xã hội của Nhật Bản đã công
nhận điểm yếu về chính trị của mình và bắt đầu từ bỏ chính sách trung lập của
Đảng này. Một phong trào đã dấy lên trong cuộc bầu cử Thượng viện năm
1989 và Hạ viện năm 1990 dưới sự lãnh đạo của Takako Doi’s, đảng này đã
chủ trương mở rộng cở sở của mình ra các công đoàn. Sự trớ trêu của cuộc
bầu cử tháng 7 năm 1993 là, sau khi chịu sự thất bại tồi tệ nhất trong lịch sử,
Đảng Dân chủ Xã hội đã trở thành một Đảng không tham gia Chính phủ lần
đầu tiên kể từ năm 1948. [27, tr2-3]
Trong những năm gần đây chính trường Nhật Bản đã trải qua nhiều
phen sóng gió, chỉ trong vòng chưa đầy 6 năm sau khi nhiệm kỳ của Thủ
tướng Koizumi kết thúc (2001 - 2006), nước Nhật đã phải đối mặt với hàng
loạt biến đổi chính trị với sự ra đi của 5 đời thủ tướng cùng nội các và liên tục
thay đổi lãnh đạo của các chính Đảng cầm quyền. Mỗi người mới lên lại đưa
ra cam kết cải tổ. Nhưng những đề xuất tuyên bố với hy vọng tạo ấn tượng
lớn lại “bị chìm” trong hệ thống chính trị của Nhật. Nhiệm kỳ cuối cùng của
đảng LDP do Thủ tướng Taro Aso nắm quyền đã hoàn toàn thất bại trong việc
giải quyết ba vấn đề mà người dân Nhật Bản đặc biệt quan tâm là: kế hoạch
cải cách hệ thống ngân hàng Tokyo; điều chỉnh địa ốc và cải tổ ngành bưu
chính. Uy tín của ông giảm sút nghiêm trọng và cũng buộc phải rút lui khỏi
chính trường trong vòng chưa đầy một năm tại nhiệm. Ngày 30 tháng 8 năm
2009 đã đi vào lịch sử Nhật Bản, người dân Nhật Bản và cả thế giới đã chứng
kiến một cuộc thay đổi ngoạn mục tại xứ sở Phù Tang. Với 308 ghế trong
tổng số 480 ghế của Hạ viện, đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) đã giành chiến
thắng áp đảo trong cuộc bầu cử Hạ viện, làm thay đổi cục diện chính trị vốn
tồn tại nửa thế kỉ tại Nhật Bản với sự lãnh đạo của đảng Dân chủ Tự do
(LDP). Nếu nói theo ngôn từ của những người lãnh đạo đảng cộng sản thì đây
đúng là một cuộc diễn biến hòa bình. Nhưng người dân Nhật Bản lại rất hào
hứng đón nhận diễn biến này vì họ muốn có một chính quyền tốt đẹp hơn.

Dường như họ đã quá mệt mỏi với cái được gọi là “sự ổn định” đang tồn tại ở
nước này, song thực chất đó lại là “sức ì” của cả nền kinh tế lẫn chính trị. Tuy

Footer Page 20 of 126.

18


Header Page 21 of 126.

nhiên, tháng 12/2012, liên minh LDP-đảng Công minh đã chiến thắng trong
bầu cử Hạ viện và giành quyền lãnh đạo đất nước từ đó đến nay.
Sau khi Thủ tướng Abe lên nắm quyền (12/2012) đến nay, TTg Abe và
liên minh cầm quyền đã củng cố uy tín đối với người dân, liên tục giành chiến
thắng trong các cuộc bầu cử Thượng viện, Hạ viện và giữ vững sự ổn định
chính trị, tăng cường cải cách kinh tế và quốc phòng- an ninh nhằm tiến tới
xây dựng Nhật Bản thành “cường quốc toàn diện”, không chỉ mạnh về kinh
tế, mà còn mạnh về chính trị, quân sự.
b. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản
Từ khi lên nắm quyền tháng 12/2012, đảng cầm quyền Dân chủ Tự do
(LDP) đã triển khai chính sách đối ngoại với 3 trụ cột là: (i) Củng cố đồng
minh Nhật-Mỹ; (ii) Coi trọng quan hệ hợp tác với các nước láng giềng; (iii)
Triển khai ngoại giao kinh tế để khôi phục kinh tế của Nhật Bản và theo
phương châm: (i) Bảo đảm an ninh quốc gia, tạo dựng một môi trường hòa
bình và ổn định của khu vực; (ii) Triển khai thuyết “ngoại giao giá trị” với
tầm nhìn toàn cầu, tăng cường liên kết với các nước có cùng giá trị cơ bản về
tự do, dân chủ, sự chi phối của pháp luật đề hình thành một “vòng cung” bao
vây, kiềm chế Trung Quốc; (iii) Tạo điều kiện phát triển đất nước, nhất là
đảm bảo an ninh năng lượng. [5, tr5-6], [13, tr6-7]
Kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính sách đối ngoại của Nhật

được bắt đầu với học thuyết Yoshida theo đó Nhật Bản dựa hoàn toàn vào
hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ để phòng thủ đất nước và tập trung phát triển
kinh tế. Trong giai đoạn thập niên 60, chính sách ngoại giao của Nhật Bản
được biết đến như là chính sách ngoại giao kinh tế nhằm phục vụ cho nhu cầu
đuổi kịp và vượt các nước phát triển. Cuối những năm 60, Nhật Bản đã thành
công trong việc thực hiện mục tiêu này khi trở thành cường quốc kinh tế đứng
thứ hai trên thế giới.
Đầu thập niên 70, tình hình thế giới có những thay đổi nhanh chóng và
mạnh mẽ vừa tạo điều kiện vừa thúc đẩy vai trò của Nhật Bản trở nên quan
trọng hơn trên trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, học thuyết Fukuda ra đời
năm 1977 đã đánh dấu một bước chuyển lớn trong chính sách đối ngoại của
Nhật, đặc biệt là chính sách đối ngoại đối với khu vực Đông Nam Á.
Tới thập niên 80, chính sách đối ngoại của Nhật Bản tiếp tục mang tính
chủ động hơn, nhất là dưới thời kỳ thủ tướng Nakasone nắm quyền. Từ năm
1985, với ý đồ trở thành đầu tàu cho sự phát triển kinh tế ở khu vực Châu Á,
Nhật Bản đã nâng giá đồng Yên để tăng cường ảnh hưởng kinh tế trong khu
vực này với mô hình đàn sếu bay.

Footer Page 21 of 126.

19


Header Page 22 of 126.

Trong thập niên 90, chính sách đối ngoại của Nhật Bản đặc trưng bởi sự
củng cố quan hệ với Mỹ qua việc ký kết Tuyên bố chung “An ninh Nhật - Mỹ
trong thế kỷ XXI” năm 1996 và đưa ra phương châm phòng thủ mới Nhật Mỹ vào năm 1997. Đồng thời, Nhật Bản cũng chú trọng quan hệ với châu Á
thông qua chính sách “Hướng về châu Á”.
Bước vào thế kỷ XXI, với những thay đổi của tình hình thế giới, đặc

biệt là diễn biến phức tạp của các cuộc chiến tranh chống khủng bố, tình hình
vũ khí hạt nhân ở Triểu Tiên, sự trỗi dậy mạnh mẽ và thái độ hung hăng của
Trung Quốc, chính sách đối ngoại của Nhật Bản cũng đã có những điều chỉnh
đầy linh hoạt, khôn khéo và thận trọng để phù hợp với bối cảnh hiện tại.
Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thể hiện trên các mặt sau:
- Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chính trị đối ngoại nhằm nâng cao
vai trò chính trị - quân sự của mình cho tương xứng với vị trí một trong
những cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới. Những hoạt động đối ngoại của
Nhật Bản vẫn tiến hành những năm gần đây vẫn được tiếp tục như: đặt mục
tiêu đối ngoại nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia thay cho bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ
như trước đây; vận động cải cách Liên Hợp Quốc theo chiều hướng mở rộng
Hội đồng Bảo an để Nhật tham gia cơ cấu đầy quyền lực này; điều chỉnh mối
quan hệ Nhật - Mỹ từ quan hệ phụ thuộc sang quan hệ ngang hàng trên cơ sở
kết hợp sức mạnh kinh tế - tài chính của Nhật với ảnh hưởng chính trị và sức
mạnh quân sự của Mỹ; tích cực tham gia giải quyết một số điểm nóng trên thế
giới,…là những chính sách được coi là tầm chiến lược đối ngoại của Nhật
Bản để thực hiện mục tiêu quan trọng nói trên.
- Đảm bảo thịnh vượng và an ninh. Đây là mục tiêu hàng đầu trong
chính sách đối ngoại của Nhật. Để tìm kiếm địa vị cường quốc trong thế kỷ
XXI, trước hết Nhật Bản phải chấn hưng nền kinh tế, đảm bảo cho sự phát
triển thịnh vượng của đất nước. Là quốc gia có lợi ích trên khắp toàn cầu,
Nhật Bản cần hoạch định những bước đi cẩn trọng, thích hợp để đảm bảo sự
phồn vinh và an ninh của mình.
- Phấn đấu trở thành “Quốc gia bình thường”. Nhiều chính trị gia của
Nhật hiện nay thể hiện tư tưởng dân tộc chủ nghĩa đưa ra thuyết “Quốc gia
bình thường” chủ trương theo đuổi một chính sách an ninh tích cực và tăng
cường vai trò an ninh chính trị của Nhật Bản cho tương xứng với sức mạnh
kinh tế, phấn đấu thành một quốc gia bình thường về mọi phương diện.
- Giải quyết các vấn đề lịch sử với các nước trong khu vực. Cho tới
nay, Nhật Bản vẫn chưa được nhân dân và chính phủ các nước trong khu vực

thông cảm hoàn toàn về những lỗi lầm trong quá khứ. Để xóa đi sự nghi ngại

Footer Page 22 of 126.

20


Header Page 23 of 126.

này của các nước láng giềng, Nhật Bản đã thực hiện chính sách “ngoại giao
xin lỗi”(trong bài diễn văn tại Hội nghị cao cấp Á – Phi ở Giacacta, ngày
22/4/2005, Thủ tướng Nhật Bản Junichiko Koizui đã xin lỗi về những hành
động tội ác do Nhật gây ra trong quá khứ với nhiều nước, đặc biệt là các nước
ở châu Á). Thái độ này của Nhật Bản được các nước trong khu vực hoan
nghênh với mức độ khác nhau. Tuy nhiên, việc cải thiện hình ảnh của Nhật
trong con mắt của các nước ở khu vực vẫn là mục tiêu lâu dài trong chính
sách đối ngoại của Nhật Bản trong những thập kỷ tới.
- Giành chiếc ghế ở Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Nhật Bản sẽ tiếp
tục có những đóng góp tài chính to lớn cho tổ chức này. Vì vậy Nhật Bản hiện
nay đang đòi hỏi phải có địa vị xứng đáng. Nước này thực hiện chính sách
thông qua ngoại giao kinh tế để vận động các nước ủng hộ Nhật giành chiếc ở
Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Trong tương lai Nhật Bản được dự báo là
có khả năng đạt được mục tiêu đó.
- Tiếp tục coi liên minh Nhật - Mỹ là hòn đá tảng. Trong hai thập kỷ
đầu tiên của thế kỷ XXI, khi Nhật Bản chưa sửa đổi Hiến pháp, cam kết
không trở thành cường quốc quân sự, vẫn duy trì nguyên tắc phi hạt nhân và
lực lượng phòng vệ vẫn ở mức tối thiểu cần thiết thì Liên minh an ninh Mỹ Nhật vẫn là công cụ chủ yếu để đảm bảo an ninh quốc gia của Nhật Bản.
- Cân bằng quan hệ với các nước châu Á và Mỹ. Châu Á là địa bàn tốt
nhất để Nhật Bản có thể nâng cao tính tự chủ, độc lập với Mỹ, triển khai ngoại
giao cân bằng, phát huy vai trò chủ đạo của nước lớn ở khu vực, tham gia cấu

trúc lại trật tự thế giới mới sau Chiến tranh Lạnh. Trong vài ba thập kỷ tới,
bên cạnh việc duy trì quan hệ Liên minh với Mỹ, Nhật Bản chú trọng phát
triển quan hệ với các nước châu Á, coi đây là một trong những trụ cột của
chính sách đối ngoại.
Trên cơ sở đó, Thủ tướng Abe tích cực triển khai các hoạt động đối
ngoại nhằm: (i) Củng cố và đẩy mạnh quan hệ đồng minh an ninh Nhật-Mỹ
để bảo vệ lợi ích quốc gia, coi đây là trục cột của ngoại giao Nhật Bản; (ii)
Đẩy mạnh quan hệ nhiều mặt với các nước khu vực châu Á-Thái Bình
Dương, coi hòa bình ổn định hợp tác và phát triển tại khu vực này là yếu tố
đảm bảo cho sự ổn định về mặt an ninh chính trị và thúc đẩy hồi phục kinh tế
của Nhật Bản; (iii) Không chấp nhận Trung Quốc thay đổi hiện trạng bằng
sức mạnh, nhưng bình tĩnh ứng phó và sẵn sàng đối thoại; tăng cường năng
lực bảo vệ an toàn vùng biển, vùng trời, đặc biệt ở khu vực Tây Nam (gần
Trung Quốc); thúc đẩy quan hệ với Nga; (iv) Coi trọng quan hệ với Hàn
Quốc, sử dụng phương châm “đối thoại và gây áp lực” nhằm yêu cầu Triều

Footer Page 23 of 126.

21


Header Page 24 of 126.

Tiên có hành động cụ thể hướng tới giải quyết toàn diện các vấn đề bắt cóc,
tên lửa và hạt nhân; (v) Khẳng định ASEAN là đối tác của hòa bình, ổn định
và thịnh vượng, ưu tiên tăng cường hợp tác kinh tế và an ninh-quốc phòng
nhằm đối phó và kiềm chế Trung Quốc gia tăng hoạt động trên biển; (vi)
Thúc đẩy hợp tác chính sách về an ninh và năng lượng với các nước Ấn Độ,
Úc, Trung Đông, EU...; (vii) Coi Châu Phi là “mặt trận mới” của nền ngoại
giao Nhật Bản.

Thủ tướng Abe chủ trương Nhật Bản cần phải áp dụng chính sách
ngoại giao và an ninh quyết đoán hơn. Ưu tiên hàng đầu của Thủ tướng Abe
là tăng cường mối quan hệ đồng minh với Mỹ, bởi vì đây chính là đồng minh
quân sự và là đối tác kinh tế hàng đầu của Nhật Bản. Nhật Bản cũng tăng
cường quan hệ an ninh với các đồng minh và đối tác khác của Mỹ. Ông Abe
đã cố gắng xây dựng lại mối quan hệ với Hàn Quốc, vốn bị xấu đi dưới thời
tiền nhiệm của đảng Dân chủ (DPJ) do tranh chấp chủ quyền về quần đảo
Takeshima/Dokdo. Tháng 01/2013, ông Abe đã cử chính trị gia Fukushiro
Nukura của LDP sang Hàn Quốc để gặp gỡ Tổng thống Park Geun-hye và
chuyển tới nhà lãnh đạo Hàn Quốc rằng Hàn Quốc là “nước quan trọng nhất
đối với Nhật Bản”. Tiếp đến là các nước Đông Nam Á, chuyến công du nước
ngoài đầu tiên của TTg Abe sau khi tái đắc của Thủ tướng là đến Việt Nam và
Indonesia, Philippines, cũng như các nước khác ở Đông Nam Á. Điều này thể
hiện khu vực này nói chung và Philippines nói riêng là một phần quan trọng
trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Về phương diện lợi ích kinh tế, hợp
tác với ASEAN nói chung và Philippines nói riêng không những là thị trường
tiềm năng giúp vực dậy nền kinh tế Nhật Bản, mà còn trên phương diện chính
trị- an ninh việc thắt chặt quan hệ với ASEAN và Philippines giúp Nhật Bản
giảm tải sức ép từ Trung Quốc và còn đặt Trung Quốc vào thế thủ. Hợp tác
quốc phòng cũng là một nội dung quan trọng trong quan hệ giữa Nhật Bản với
các nước Đông Nam Á nói chung và Philippines nói riêng. Nhật Bản đã xem
xét sử dụng viện trợ vốn ODA giúp tăng cường năng lực đảm bảo an ninh trên
biển cho Philippines. Nhật Bản và Philippines đã đạt được thỏa thuận về sử
dụng quỹ ODA để trang bị cho Philippines 10 tàu tuần tra.
Đối với Philippines, phát biểu tại cuộc hội đàm nhân chuyến thăm Nhật
Bản của Tổng thống Duterte (10/2016), Thủ tướng Abe bày tỏ mong muốn
tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác, hỗ trợ đối với Philippines trong lĩnh vực
an ninh và kinh tế. Ngoài việc cung cấp cho Philippnes 2 tàu tuần tra cỡ lớn
nhằm nâng cao năng lực phòng vệ trên biển, hai bên cũng nhất trí các chính
sách hỗ trợ cụ thể, như Nhật Bản sẽ cấp cho Philippines một khoản tín dụng

bằng đồng Yên để thúc đẩy hoạt động kinh tế tại các địa phương có tốc độ

Footer Page 24 of 126.

22


Header Page 25 of 126.

phát triển chậm. Từ những động thái trên có thể nhận thấy định hướng trong
chính sách đối ngoại của Thủ tướng Abe là chủ trương tăng cường mối quan
hệ đồng minh với Mỹ và các nước đồng minh với Mỹ, thúc đẩy hợp tác với
các nước ASEAN nói chung và Philippines nói riêng nhằm đối phó với sự trỗi
dậy và những thách thức an ninh từ phía Trung Quốc và Bắc Triều Tiên,
khẳng định vai trò và vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế nói chung và
trong khu vực nói riêng.
1.3.2. Tình hình Philippines và chính sách đối ngoại của Philippines
a. Tình hình Philippines
Philippines là nước có cộng đồng Công giáo La Mã chiếm đa số và là
một trong những nước có mức độ tây phương hoá cao, một sự hoà trộn độc
nhất giữa Đông và Tây. Tây Ban Nha và Mỹ là những nước có ảnh hưởng văn
hoá lớn nhất tới nước này, bởi vì quần đảo Philippines từng là thuộc địa của
Tây Ban Nha trong hơn 350 năm và là thuộc địa của Mỹ trong gần 100 năm.
Chính phủ Philippines được tổ chức kiểu cộng hoà nhất thể do Tổng thống
lãnh đạo, theo đó Tổng thống là người lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo chính phủ
và Tổng tư lệnh các lực lượng quân đội. Tổng thống được bầu theo phổ thông
đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm, trong thời gian đó Tổng thống sẽ chỉ định và
chủ trì bộ máy chính quyền.
Năm 1992, Fidel Ramos đắc cử Tổng thống, nền kinh tế quốc gia được
cải thiện dưới thời chính phủ của ông. Tuy nhiên, các tiến bộ về chính trị và

kinh tế, chẳng hạn như một thỏa thuận hòa bình với Mặt trận giải phóng dân
tộc Moro bị phủ định cùng với sự khởi đầu của khủng hoảng tài chính châu
Á vào năm 1997, đã ảnh hưởng tới chính quyền của Tổng thống Fidel Ramos.
Năm 2001, Tổng thống Joseph Estrada buộc tội tham nhũng và bị phế truất
trong Cách mạng EDSA 2001, người thay thế là bà Gloria Arroyo. Chín năm
cầm quyền của bà Arroyo gắn liền với các vụ bê bối tham nhũng và chính trị,
mặc dù nền kinh tế vẫn tăng trưởng ổn định và tránh được đại suy thoái. Năm
2010, Benigno Aquino III đắc cử Tổng thống. Trong nhiệm kỳ của ông, thỏa
thuận hòa bình với phe Moro được ký kết, song các tranh chấp lãnh thổ tại
Bắc Borneo và Biển Đông thì tiếp tục leo thang.
Đến tháng 6/2016, ông Duterte đắc cử Tổng thống và duy trì chính sách
đối nội với việc mạnh mẽ trấn áp tội phạm ma túy, chống tham nhũng. Về đối
ngoại, ông Duterte triển khai chính sách ngoại giao cân bằng các nước lớn,
tuyên bố cứng rắn trong quan hệ với Mỹ, ca ngợi và thúc đẩy mối quan hệ với
Trung Quốc khác với thời Tổng thống Aquino trước đây.

Footer Page 25 of 126.

23


×