Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ – NHỮNG KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU Ở KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.85 KB, 63 trang )

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ –
NHỮNG KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU Ở KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ThS. Phùng Thế Anh
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã chỉ ra một trong những hạn
chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo: “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo
còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống
giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức
giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với
nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động;
chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc.
Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu
thực chất”[1].
Có thể thấy rằng, phương pháp kiểm tra và đánh giá kết quả học tập là một
trong những vấn đề quan trọng ảnh hưởng lớn đến chất lượng giảng dạy và học
tập; kiểm tra và đánh giá là một hoạt động gắn bó hữu cơ, không thể tách rời với
quá trình giảng dạy và học tập. Thông qua kiểm tra, đánh giá người thầy có thể thu
thập được những thông tin cần thiết để điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng
dạy, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Có thể nói kiểm tra,
đánh giá là thước đo và là động lực để thúc đẩy quá trình đổi mới công tác giảng
dạy và học tập.
Để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, khắc phục những hạn
chế, yếu kém, Nghị quyết 29-NQ/TW đã đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp, trong
đó khẳng định: “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh
giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Việc thi, kiểm tra


và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến
được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử
dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học;
đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường


với đánh giá của gia đình và của xã hội”[2] là một trong những nhiệm vụ hết sức
quan trọng đảm bảo chất lượng giáo dục và đào tạo.
Thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW và chủ đề năm học 2014-2015 của trường
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM về “Đổi mới kiểm tra, đánh giá nhằm phát
triển năng lực người học”, khoa Lý luận chính trị đã xây dựng và triển khai các kế
hoạch cụ thể để góp phần đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá đối với các học
phần do Khoa quản lý, trong đó quan trọng nhất là đã thay đổi phương pháp kiểm
tra, đánh giá từ hình thức thi tự luận sang hình thức thi tiểu luận.
Cần nhấn mạnh rằng, việc chuyển đổi phương pháp kiểm tra, đánh giá từ
hình thức thi tự luận sang hình thức thi tiểu luận không phải là vấn đề gì quá mới
mẻ trong môi trường giáo dục và đào tạo ở Việt Nam. Từ lâu đã có rất nhiều
trường đại học, cao đẳng áp dụng hình thức này đối với việc kiểm tra, đánh giá
môn học, không chỉ đối với các môn khoa học xã hội nhân văn mà còn cả đối với
các môn khoa học tự nhiên, kỹ thuật. Và ngay ở trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
Tp.HCM, rất nhiều giảng viên trong Trường nói chung và ở khoa Lý luận chính trị
nói riêng đã áp dụng hình thức này trong kiểm giá, đánh giá kết quả quá trình học
tập của sinh viên.
Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức này trước đây ở khoa Lý luận chính trị
thường chỉ được một số ít giảng viên giảng dạy ở khoa Đào tạo Chất lượng cao
thực hiện, còn ở các lớp đại trà thì chưa phổ biến. Do vậy, khi Khoa thực hiện việc
chuyển đổi phương pháp kiểm tra, đánh giá từ hình thức tự luận sang làm bài tiểu
luận một cách toàn diện và triệt để đối với tất cả các học phần lý thuyết do Khoa
quản lý thì bước đầu cũng còn có một số ý kiến nghi ngại và chưa thật đồng tình.


Có ý kiến cho rằng chỉ nên thực hiện việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá
này ở một số nhóm và một số học phần nhất định để làm thí điểm, rồi sau đó rút
kinh nghiệm và tìm ra những cách thức thực hiện phù hợp trước khi thực hiện đại
trà; cũng có ý kiến cho rằng, không nên thực hiện hình thức kiểm tra, đánh giá
bằng hình thức tiểu luận cho tất cả các môn học, mà tùy vào đối tượng và nội dung

môn học để có hình thức kiểm tra, đánh giá phù hợp; thậm chí vẫn có ý kiến cho
rằng nên xóa bỏ hình thức thi tiểu luận để quay trở lại với hình thức thi tự luận
truyền thống như trước đây…
Sau gần 01 năm triển khai, có thể thấy rằng việc thay đổi phương pháp kiểm
tra, đánh giá từ hình thức thi tự luận, thi tập trung theo lịch của phòng Đào tạo sang
hình thức thi tiểu luận đã phát huy được hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng
giảng dạy và học tập, tăng tính chủ động, năng động, sáng tạo và ý thức của sinh
viên đối với môn học. Những kết quả bước đầu đó đã chứng tỏ rằng việc chuyển
đồi phương pháp kiểm tra, đánh giá bằng hình thức thi tiểu luận là phù hợp và
đúng đắn.
Và cũng cần khẳng định rằng, không có bất kỳ một phương pháp kiểm tra,
đánh giá nào là hoàn hảo, có thể đảm bảo được tất cả các tiêu chí của việc kiểm tra,
đánh giá chất lượng giảng dạy và học tập. Phương pháp nào cũng có những mặt
tích cực và những nhược điểm của nó, điều quan trọng là chúng ta sử dụng và phát
huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những nhược điểm
của nó để đảm bảo đánh giá một cách công bằng, khách quan và trung thực kết quả
của quá trình giảng dạy và học tập.
Theo quy định của Nhà trường, mỗi học phần sẽ được đánh giá bằng hai cột
điểm với tỷ trọng là điểm quá trình 50% và điểm cuối kỳ 50%. Trong quá trình
giảng dạy, giảng viên cần phải kết hợp nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá khác
nhau như kiểm tra viết, thuyết trình, thảo luận nhóm, làm bài tập nhỏ, điểm danh,
trả lời các câu hỏi ngắn dưới dạng hỏi – đáp, tổ chức trò chơi trên lớp…để đảm bảo


đánh giá đúng quá trình học tập và tích lũy kiến thức của sinh đối với môn học
thông qua điểm quá trình. Còn với điểm cuối kỳ được đánh giá bằng bài tiểu luận
phải đảm bảo được hai yếu tố là phần kiến thức cơ bản và phần kiến thức vận
dụng, phù hợp với các chuẩn đầu ra của học phần.
Để thực hiện được việc đánh giá điểm quá trình bằng nhiều hình thức và cột
điểm khác nhau, đòi hỏi giảng viên phụ trách giảng dạy hoc phần phải mất nhiều

công sức và thời gian cho việc kiểm tra, đánh giá. Để giảm tải áp lực công việc cho
giảng viên, Nhà trường đã xây dựng và triển khai Quy chế trợ lý giảng dạy đối với
tất cả các học phần. Đây là chủ trương đúng đắn và phù hợp với xu thế đổi mới
giáo dục, đặc biệt là vấn đề đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá hiện nay. Tuy
nhiên, với đặc thù của khoa Lý luận chính trị là giảng dạy khối kiến thức đại
cương, không quản lý sinh viên và cũng không đào tạo sinh viên chuyên ngành cao
đẳng, đại học và sau đại học nên việc tìm kiếm đội ngũ làm công tác trợ giảng là
hết sức khăn. Vì vậy, việc triển khai thực hiện quy chế này trong thực tế tại Khoa
là rất hạn chế, hiện nay mới chỉ có 01 giảng viên thực hiện.
Còn đối với việc đánh giá điểm cuối kỳ thông qua bài tiểu luận, bước đầu đã
phát huy những tác dụng tích cực và mang lại những hiệu quả quan trọng, rất đáng
khích lệ. Để thực hiện việc chuyển đổi hình thức kiểm tra, đánh giá, Khoa đã xây
dựng và ban hành quyết định về việc thay đổi hình thức kiểm tra, đánh giá; bản
quy định chung về hình thức kiểm tra, đánh giá bằng hình thức thi tiểu luận; tiến
hành xây dựng ngân hàng đề tài và hướng dẫn thực hiện đề tài của tất cả các học
phần do Khoa quản lý.
Với việc áp dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá bằng hình thức thi tiểu
luận đã góp phần giảm tải áp lực thi cử, khắc phục cách học thuộc lòng, thụ động
của người học; giảm tải áp lực tổ chức thi, coi thi và chấm thi cho giảng viên trong
Khoa.


Để thực hiện được bài tiểu luận, người học buộc phải nghiên cứu giáo trình,
tài liệu, phải biết sưu tầm và nghiên cứu tài liệu từ các nguồn khác nhau kết hợp
với bài giảng của thầy, thông qua đó sẽ góp phần nâng cao khả năng phân tích, giải
quyết vấn đề, kết hợp lý luận với thực tiễn trong quá trình học tập; nâng cao khả
năng làm việc nhóm; phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo của sinh viên
trong quá trình học tập; góp phần chuyển từ tư duy giáo dục truyền thụ tri thức một
cách nhồi nhét sang rèn luyện kỹ năng, thái độ và sự tự giác học tập của người học,
khắc phục cách học từ chương, học vẹt, tăng tính thực tế và ứng dụng của môn

học.
Tuy nhiên, hình thức thi tiểu luận cũng có mặt hạn chế của nó đó là giảng
viên đôi khi không thể kiểm soát hết được quá trình làm bài của sinh viên, việc
phân công trách nhiệm và việc thực hiện đề tài của các thành viên trong nhóm,…
do đó việc đánh giá kết quả học tập thông qua bài tiểu luận đôi khi cũng chưa thật
sự công bằng và khách quan; việc thực hiện các đề tài cũng chỉ gói gọn trong một
vài nội dung kiến thức, mà chưa thể đánh giá một cách tổng quát tất cả nội dung
kiến thức của môn học; việc thực hiện các đề tài cũng dễ khiến sinh viên lơ là
trong quá trình học tập, sinh viên chỉ quan tâm đến các nội dung liên quan đến đề
tài mà mình thực hiện, còn các nội dung khác thì bỏ qua…Bên cạnh đó, cũng cần
phải thừa nhận một thực tế rằng sinh viên hiện nay vẫn còn mang một sức ì rất lớn,
vẫn học tập theo cách cũ là thầy đọc – trò chép, thầy chiếu – trò ghi một cách thụ
động, thiếu tính tích cực và chủ động trong quá trình học tập. Đây là hệ quả của tư
duy giáo dục cũ, là lỗi của cả hệ thống giáo dục. Ở các bậc học trước đây, sinh viên
đã quen với cách giáo dục thụ động, nhồi nhét kiến thức như vậy nên để thay đổi
được ý thức và phương pháp học tập của sinh viên là một vấn đề khó khăn, phức
tạp và không thể thực hiện trong một sớm một chiều, không thể chỉ thay đổi ở môi
trường giáo dục đại học mà còn phải thay đổi phương pháp giảng dạy ở cả các bậc
học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Những hạn chế này ít nhiều


cũng ảnh hưởng đến việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên thông
qua hình thức tiểu luận.
Tóm lại, sau gần 1 năm triển khai việc đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá
từ thi tự luận sang thi tiểu luận có thể thấy rằng đây là chủ trương đúng và phù
hợp, tạo được sự đồng thuận trong giảng viên và sự ủng hộ của sinh viên. Tuy vẫn
còn một số ít những ý kiến trái chiều, những băn khoăn trong một bộ phận nhỏ
giảng viên; việc thực hiện đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá vẫn còn chỗ
này chỗ khác chưa được bài bản và quy cũ; những hạn chế của việc làm bài tiểu
luận như đã nêu ở trên,…đó sẽ là những công việc chúng ta sẽ phải tìm cách để

giải quyết, khắc phục trong thời gian tới, để góp phần cùng với Nhà trường và
Khoa đổi mới và không ngừng hoàn thiện phương pháp kiểm tra, đánh giá, đảm
bảo chất lượng giảng dạy và học tập, tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao đáp
ứng được nhu cầu của xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1],[2]:http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?
topic=191&subtopic=9&leader_topic=&id=BT7111340696.


SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH NHÓM GÓP PHẦN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TS Nguyễn Đình Cả
Thực hiện việc đánh giá kết quả học tập bằng hai thang điểm: quá trình và
cuối kỳ, quá trình dạy và học đã có những thay đổi tích cực cho sinh viên. Trong
việc đánh giá kết quả điểm quá trình, hình thức thuyết trình theo nhóm từ thực tế
thực hiện đã tỏ ra có nhiều tác động tích cực đến kết quả học tập của sinh viên ở
những điểm sau:
Một là; Việc chọn lựa các vấn đề thuyết trình thực chất là việc “ôn tập” có
trọng tậm, trọng điểm toàn bộ môn học.
Với việc đưa ra các nội dung thuyết trình từ khi bắt đầu học tập, sinh viên có
thời gian để chọn lựa đề tài thuyết trình và nhóm thực hiện. Rồi qua quá trình học
tập, sinh viên củng cố sự lựa chọn của mình họặc thay đổi sự lựa chọn của mình
đối với các đề tài thuyết trình. Để từ đó, hình thành cho sinh viên những định
hướng học tập đúng đắn, người học chủ động lựa chọn, tìm kiếm tư liệu và những
người cùng cộng tác để hoàn thành một chủ đề thuyết trình với vị trí là một bài tập
lớn, chiếm đến 1/3 tổng điểm quá trình. Việc sinh viên tiến hành thuyết trình trên
lớp là một dạng ôn tập, học lại kiến thức chủ yếu của môn học rất có hiệu quả. Bởi
vì, thực chất của các chủ đề thuyết trình là những nội dung cơ bản cần học, cần
nắm vững của môn học. Sinh viên ngoài kiến thức truyền thụ của thầy, cô giáo,
cùng với giáo trình thì họ sẽ tìm hiểu thêm các nguồn tư liệu để nhằm làm cho chủ

đề thuyết trình của mình hấp dẫn nhất. Đó chính là sự bổ sung kiến thức hết sức
chủ động của sinh viên trong quá trình học tập. Sự nhắc lại, trình bày lại, tranh luận
những vấn đề cơ bản của kiến thức đã học sẽ giúp cho không chỉ nhóm thuyết


trình mà cả lớp nắm vững chắc hơn, hiểu sâu hơn, rõ hơn nội dung kiến thức môn
học.
Hai là: Tiến hành thuyết trình, người tham gia thuyết trình và nhóm thuyết
trình có điều kiện để nâng cao các kỹ năng mềm cho bản thân. Tạo sự cạnh tranh
lành mạnh, cần thiết trong quá trình học tập.
Thực tế của việc thuyết trình trong một số năm qua ở một số lớp đã diễn ra
hết sức sinh động. Sinh viên đã có nhiều sáng tạo khi được có điều kiện thể hiện
bản thân mình. Không công khai nhưng đã có sự thi đua, sự cạnh tranh rất lành
mạnh trong sự việc thể hiện “cái tôi” của mình, của nhóm thuyết trình khi thuyết
trình trước cả lớp. Sinh viên đã sử dụng hầu hết các phương tiện điện tử, vi tính
hiện đại, tìm hiểu nhiều nguồn tư liệu và tiến hành thuyết trình với nhiều cách thức
khác nhau như độc thoại có hình ảnh, thuyết minh có hình ảnh, phân vai, phân giai
đoạn, đưa âm nhạc, trò chơi vào thuyết trình, có phần thưởng và có phần giao lưu,
trao đổi, tranh luận hết sức hấp dẫn. Buổi học thuyết trình đã tránh được sự nhàm
chán, một chiều và khơi dậy sự sáng tạo, sự nỗ lực của cá nhân người học và cả
nhóm sinh viên. Cũng từ thuyết trình, một số kỹ năng cần thiết của sinh viên được
thử thách, thể hiện, nâng cao. Đó là những kỹ năng nói, kỹ năng thu hút sự chú ý,
kỹ năng dẫn dắt vấn đề, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng điều hành một chủ đề
thuyết trình có liện quan đến cả lớp. Đặc biệt là giúp sinh viên tự tin lên khi gioa
tiếp, đây là kết quả mà nhiều bạn sinh viên đã trao đổi là rất thiết thực.
Ba là: cũng từ thực tế quá trình thực hiện việc thuyết trình, có một số kiến
nghị cụ thể để nâng cao chất lượng thuyết trình cho sinh viên.
Đó là nguồn tài liệu, tư liệu ở thư viện còn quá ít để tham khảo. Một số nơi
trong trường hệ thống mạng rất phập phù, không thể truy cập. Đặc biệt là có những
lớp xấp xỉ gần 100 sinh viên thì rất khó để học tập có hiệu quả, nhất là đối với

phương pháp thuyết trình. Để học có chất lượng và thuyết trình có hiệu quả thì lớp
học tối đa là 50 sinh viên. Đây là số lượng tương đối đông nhưng có thể chấp nhạn


được để giảng dạy và thuyết trình có hiệu quả. Nếu đông quá, rất khó để có được
thời gian cho thuyết trình và thực hiện các hoạt động học tập khác.
Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá để nâng cao chất lượn học tập của
sinh viên thì thuyết trình là hình thức có nhiều lợi thế, dễ thực hiện và không tốn
kém. Điều quan trọng nhất là sự quan tâm và theo dõi của giáo viên trực tiếp phụ
trách lớp. Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá thì giảng viên là vất vả nhất. Vì
vậy, nhà trường cần quan tâm hơn nữa đến đội ngũ giảng viên để đội ngũ giảng
viên tiếp tục đẩy mạnh đổi mới trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
cho nhà trường.


MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TẠI LỚP CHO
SINH VIÊN ĐỐI VỚI MÔN HỌC NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
Th.S Trần Ngọc Chung
Cho đến nay Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” được ban hành
vào cuối năm 2013 đã trải qua được gần 2 năm thực hiện. Những chủ trương đổi
mới về giáo dục của Đảng và Nhà nước đã và đang từng bước đi vào cuộc sống,
được cụ thể hóa trong mỗi chương trình đào tạo của các đơn vị giáo dục trên khắp
cả nước. Trong xu thế chung đó, trường ĐH SPKT Tp.HCM cũng đã có nhiều
bước đi đột phá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở bậc Đại học. Một trong
những hướng đi trọng tâm và được ưu tiên nhiều nhất, chính là đổi mới phương
pháp kiểm tra, đánh giá đối với sinh viên.
Trong thời gian vừa qua, Nhà trường và khoa Lý luận chính trị đã có nhiều

quyết định quan trọng thể hiện quyết tâm thực hiện hướng đi này. Hai trong số các
quyết định đó bao gồm: thứ nhất, quy định của Nhà trường về thay đổi tỉ lệ điểm
giữa điểm quá trình và điểm cuối kỳ từ 30-70 thành 50-50, và thứ hai, quy định của
Khoa lý luận chính trị về việc áp dụng hình thức kiểm tra, đánh giá học phần bằng
hình thức thi tiểu luận cho tất cả các học phần lý thuyết do Khoa quản lý. Có thể
nói, hai quyết định này đã ảnh hưởng trực tiếp nhất đến những thay đổi của các
giảng viên trong quá trình đánh giá sinh viên.
Đối với cá nhân, trong quá quá trình giảng dạy môn học Những nguyên lý
cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tôi đã thực hiện một số thay đổi như sau trong
2 học kỳ vừa qua của năm học 2014 – 2015.
Trước hết là mục tiêu đổi mới:


• Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá điểm quá trình nhằm phản ánh
khách quan kết quả học tập và thái độ học tập của sinh viên đối với
môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
• Xây dựng các bài tập nhằm phát huy tinh thần tự học và cuốn hút sinh
viên tham gia để qua đó giúp sinh viên củng cố kiến thức cơ bản của
môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
Để thực hiện 2 mục tiêu trên thì cần thực hiện một số công việc cụ thể như
sau và cách thức thực hiện chúng:
• Xây dựng hệ thống thang điểm đánh giá điểm quá trình.
o Chuyên cần (10% điểm quá trình)
o Tham gia các hoạt động tại lớp – theo nhóm (30% điểm quá
trình).
o Điểm kiểm tra cá nhân (20% điểm quá trình)
o Thuyết trình – theo nhóm (40% điểm quá trình)
• Xây dựng hệ thống các bài tập, bài kiểm tra, câu hỏi nhằm đa dạng hóa
các hình thức hoạt động tại lớp. Các hoạt động tại lớp sẽ được tiến
thành theo nhóm hoặc theo từng cá nhân.

o Về hoạt động nhóm:
 Tiến hành chia nhóm ngay sau khi có danh sách lớp. Các
nhóm sẽ được giữ ổn định trong suốt quá trình học và làm
tiểu luận sau này. Mỗi nhóm sẽ có 1 nhóm trưởng.
 Qua các buổi học, các nhóm sẽ được đánh giá qua một số
hoạt động như sau:
• Đánh giá bằng hệ thống các câu hỏi trắc nghiệm
(theo dạng: 1 lựa chọn, nhiều lựa chọn, đúng – sai,
ghép nối)
• Đánh giá bằng hệ thống các câu hỏi mở: bằng việc
trình bày các so sánh, đánh giá, nhận xét của nhóm
về 1 chủ đề cụ thể


• Đánh giá bằng hoạt động thuyết trình các đề tài của
môn học với sự hỗ trợ của các phần mềm trình chiếu
(phổ biến là Power Point)
o Về hoạt động các nhân:
 Đánh giá bằng các bài kiểm tra cá nhân (dạng tự luận kết
hợp với câu hỏi trắc nghiệm)
 Đánh giá bằng số lần tham gia phát biểu ý kiến tại lớp.
Đặc biệt, các ý kiến hay, các thông tin mới, thú vị sẽ được
đánh gia cao.
o Áp dụng công nghệ thông tin trong quá trình thực hiện:
 Đề nghị mỗi nhóm lập 1 địa chỉ email. Mọi công tác liên
lạc, thực hiện bài tập lớn của nhóm đều được gửi qua
email.
 Sử dụng các phần mềm thiết kế câu hỏi trắc nghiệm, chuẩn
bị bài kiểm tra.
 Đưa 1 số nội dung, tài liệu tham khảo và bài tập lên các

trang web và cung cấp địa chỉ trang web cho sinh viên.
Sau một thời gian thực hiện công tác đổi mới, đánh giá, thì kết quả đạt được
có thể khái quát như sau:
• Đánh giá đúng mức độ tham gia vào môn học của mỗi sinh viên trong
suốt quá trình học tập.
• Thu hút được sự chú ý của sinh viên, tạo điều kiện cho sinh viên tham
gia vào hoạt động thảo luận, làm việc nhóm tại lớp.
• Củng cố được kiến thức cơ bản đã học cho sinh viên.
• Tạo ra môi trường để sinh viên được trình bày quan điểm cá nhân đối
với các vấn đề liên quan đến môn học.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn xuất hiện không ít khó khăn như:


• Số lượng sinh viên mỗi lớp còn đông nên không thể quản lý được hoạt
động cụ thể của từng nhóm, giảng viên chỉ có thể dừng lại ở mức độ
bao quát chung.
• Khá nhiều sinh viên còn rất thờ ơ, kém nhiệt tình, thụ động trong quá
trình học tập.
• Kiến thức của sinh viên trong 1 số lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn
hóa,… còn nhiều hạn chế.
• Điều kiện cơ sở vật chất: máy chiếu, âm thanh, bàn ghế,… chưa thực sự
phù hợp cho hoạt động nhóm tại lớp.
• Mất rất nhiều thời gian chuẩn bị để lên lớp và cho công tác tổng hợp,
tổng kết, đánh giá điểm quá trình.
• Chưa tìm được trợ giảng
Từ những khó khăn trên thì cá nhân đang đưa ra một số hướng khắc phục
như sau:
• Tìm hướng chuyển giao 1 phần công tác đánh giá cho các nhóm.
• Hoàn thiện trang giảng dạy online.
• Tiếp tục tìm trợ giảng.

Trên đây là một số kinh nghiệm về những điều đã làm và chưa làm được
trong thời gian qua. Quá trình thay đổi phương pháp kiểm tra, đánh giá là một quá
trình lâu dài và phức tạp, nhưng đây là sự thay đổi cần thiết. Những kết quả bước
đầu trong quá trình thực hiện đã thể hiện những dấu hiệu tích cực. Và một điều có
thể nhận thấy rất dễ dàng, những chuyển biến này chỉ có thể xuất hiện trước hết là
từ sự chủ động và tích cực của mỗi giảng viên.


COI TRỌNG CÔNG TÁC HƯỚNG DẪN LÀM TIỂU LUẬN ĐỂ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIỆC KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
ThS. Lê Quang Chung


Ngày 10 tháng 10 năm 2014, Khoa Lý luận chính trị đã ban hành Quyết định
số 01/QĐ – LLCT Về việc thay đổi hình thức kiểm tra, đánh giá học phần. Từ đó
đến nay, thực hiện tinh thần của Quyết định trên, có 7 học phần trong chương trình
giảng dạy của Khoa Lý luận chính trị đã thay đổi hình thức kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của sinh viên từ thi kết thúc học phần sang làm tiểu luận kết thúc học
phần.Trong quá trình tổ chức triển khai hình thức kiểm tra, đánh giá mới, bên cạnh
những kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế, ví dụ như còn nhiều
sinh viên vẫn chưa nắm bắt được đầy đủ những yêu cầu cũng như những kiến thức
cần thiết để làm tốt bài tiểu luận kết thúc học phần. Để sinh viên làm tốt bài tiểu
luận của mình cần có nhiều yếu tố, trong đó, công tác hướng dẫn sinh viên làm tiểu
luận có ý nghĩa rất quan trọng. Sau đây tôi xin được phép chia sẻ một số kinh
nghiệm trong công tác hướng dẫn sinh viên làm tiểu luận nhằm nâng cao hiệu quả
trong việc kiểm tra, đánh giá kết thúc học phần bằng hình thức làm tiểu luận.
Thứ nhất, hướng dẫn sinh viên lựa chọn đề tài.
Có thể nói rằng việc lựa chọn đề tài có ý nghĩa quyết định đối với sự thành
công của một tiểu luận (cũng như các công trình nghiên cứu khoa học khác). Về cơ

bản, đề tài cần phải gắn với nội dung lý thuyết trong nội dung chương trình môn
học, đồng thời phải liên hệ với thực tiễn, phải có tính chất mới mẻ, cần hướng vào
những vấn đề chưa được giải quyết.
Việc lựa chọn đề tài cần phải phù hợp với yêu cầu học tập và nghiên cứu của
môn học, nhưng đồng thời cần phù hợp với trình độ và năng lực của người học,
nếu có thể là cả với những hứng thú và sở trường của người học nhờ đó mà phát
huy được tính độc lập trong quá trình nghiên cứu và đề tài đạt được kết quả cao.Đề
tài cần phù hợp với thời gian cho phép và điều kiện để thực hiện, cần có giá trị
thực tiễn nhất định, góp phần giải quyết một nhiệm vụ cụ thể do cuộc sống đặt
ra.Có nhiều loại đề tài khác nhau, thông thường với người học, có thể có các loại
đề tài nghiên cứu sau: Đề tài vận dụng lý luận chung vào việc phân tích một vấn đề


cụ thể; Đề tài điều tra phát hiện tình hình, phân tích nguyên nhân, đề xuất phương
hướng giải quyết; Đề tài nhằm cải tiến cái cũ và sáng tạo cái mới.
Đề tài nghiên cứu của người học có thể phát triển theo mức độ từ thấp đến
cao. Trong số các loại đề tài đề cập ở trên thì loại đề tài thứ nhất là dễ triển khai
hơn cả vì nó giúp người học vận dụng kiến thức đã học một cách tốt hơn và không
nhất thiết phải thực hành mà chỉ cần làm việc trên nguồn tài liệu tham khảo.
Trong nhiều trường hợp, để gây hứng thú đồng thời gợi ý cho các em, có thể
không đưa tên đề tài cụ thể mà đưa ra những câu hỏi tình huống, câu hỏi nêu vấn
đề và thường những câu hỏi này có tính khái quát cao,đồng thời chứa đựng những
mâu thuẫn trong quá trình nhận thức ở một chủ đề nào đó liên quan tới nội dung
bài học hoặc chương.
Dựa vào những đề tài được đưa ra, người học sẽ phân tích để lựa chọn một
đề tài phù hợp. Nếu câu hỏi đề cập một vấn đề quá rộng thì người học có thể lựa
chọn loại đề tài giải đáp một phần của câu hỏi nhưng cần biện luận được lí do cho
sự lựa chọn đó.
Hiện nay, một số học phần đã xây dựng ngân hàng đề tài của mình, song,
bên cạnh đó thiết nghĩ cần có một kênh cung cấp đề tài khác là từ phía sinh viên.

Giảng viên có thể khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên suy nghĩ và
lựa chọn đề tài cho mình, miễn sao đề tài đó đáp ứng được yêu cầu của môn học,
nhằm tạo sự hứng thú, đam mê cho sinh viên khi làm bài tiểu luận.
Thứ hai, hướng dẫn sinh viên xây dựng đề cương nghiên cứu cho tiểu luận.
Đề cương nghiên cứu (dàn ý) có vai trò vô cùng quan trọng, giúp cho người
học có được thế chủ động trong qúa trình nghiên cứu, định hướng cho cả quá trình
làm việc. Đó là một công việc hết sức khó khăn, phức tạp nhằm tạo một bản kế
hoạch tỉ mỉ cho toàn bộ quá trình nghiên cứu. Vì vậy, một đề cương được chuẩn bị
kĩ lưỡng, đúng đắn là sự đảm bảo chắc chắn cho kết quả của công trình.


Thông thường bản đề cương gồm một số phần cơ bản sau: - Xác định lí do
chọn đề tài; xác định khách thể và đối tượng nghiên cứu, đề xuất giả thiết khoa
học; xác định đối tượng và cơ sở nghiên cứu; - Lựa chọn phương pháp nghiên cứu;
vạch dàn ý hay nội dung của công trình nghiên cứu; vạch kế hoạch và thời gian
nghiên cứu.
Bản đề cương cần được giảng viên hướng dẫn, sửa chữa và thông qua trước
khi tiến hành nghiên cứu. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đề tài, người thực
hiện có thể thay đổi một số nội dung của đề cương nếu cần thiết.
Để người học có thể xây dựng một đề cương tốt, từ câu hỏi để xác định tên
đề tài, giảng viên cần đưa ra những câu hỏi nhỏ hơn nhằm gợi ý cho các em trả lời
câu hỏi tổng quát. Quá trình các em tự đi tìm lời giải cho các câu hỏi nhỏ chính là
quá trình xây dựng đề cương (dàn ý)cho tiểu luận của các em.
Sau khi lập được đề cương dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các thành viên
trong nhóm sẽ phân công nhau công việc theo từng nội dung. Bên cạnh đó thì cũng
có nhóm sẽ yêu cầu tất cả cùng làm sau đó mới tập hợp lại. Việc này sẽ do bản
thân nhóm tự quyết và giảng viên không can thiệp mà chỉ yêu cầu nộp kèm theo
tiểu luận là bản phân công công việc của nhóm.
Để sinh viên không quá lúng túng, giảng viên có thể đưa ra danh mục các tài
liệu tham khảo gợi ý. Tuy nhiên, cần lưu ý các em rằng không bắt buộc phải sử

dụng nguồn tài liệu này mà có thể khai thác các nguồn khác. Đồng thời, giảng viên
có thể cung cấp cho sinh viên một số từ khóa quan trọng để các em có thể tìm kiếm
thông tin trên mạng Internet.
Trong quá trình xây dựng đề cương nghiên cứu sẽ giúp cho sinh viên hình
thành kỹ năng làm việc có kế hoạch, có tính khoa học, một phẩm chất rất cần
không chỉ cho công tác nghiên cứu khoa học mà còn cho cả cuộc sống của các em.
Thứ ba, hướng dẫn sinh viên tiến hành nghiên cứu và lý xử tài liệu dựa trên
đề cương đã được duyệt.


Quá trình này bao gồm các bước: Tập hợp và trình bày tài liệu, giải thích tài
liệu đã trình bày, nhận xét, đánh giá các tài liệu đó. Đây cũng là khâu rèn luyện và
hoàn thiện kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu cao nhất trong dạy học bằng tổ chức cho
sinh viên viết tiểu luận.
Để sinh viên thực hiện tốt công việc này, giảng viên cần phải trang bị trước
cho các em các kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu từ làm việc trên thư viện, tìm tài liệu
trên Internet, thu thập và xử lý thông tin, v.v…
Thứ tư, hướng dẫn sinh viên viết công trình nghiên cứu.
Sau khi tập hợp và xử lý tài liệu, công việc tiếp theo của sinh viên làviết tiểu
luận. Công đoạn này đóng vai trò vô cùng quan trọng, thể hiện kết quả lao động
của sinh viên trong khâu trước. Giảng viên cần lưu ý sinh viên cần viết các thông
tin thu được bằng ý hiểu của riêng mình, thể hiện khả năng tư duy của cá nhân,
tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau chứ không được chép nguyên xi từ
một tài liệu nào và cần có trích dẫn tài liệu tham khảo theo quy định.
Thứ năm, hướng dẫn sinh viên tiến hành thuyết trình.
Đối với công đoạn này, tùy thuộc vào thời gian cho phép, giảng viên có thể
linh động lựa chọn một số phương án sau:
- Phương án 1: Giảng viên chấm bài, đánh giá và lựa chọn bài tốt nhất để đọc
trước lớp. Việc này sẽ tốn ít thời gian hơn, phù hợp với một số môn học có nội
dung chương trình dài nhưng thời gian cho việc lên lớp ít. Nhưng phương án này ít

gây được hứng thú cho sinh viên và không phát huy được vai trò đánh giá và tự
đánh giá của các em, đồng thời, nó cũng không phát huy được kĩ năng diễn đạt
trước đám đông, khả năng lập luận và bảo vệ ý kiến của riêng mình.
- Phương án 2: Giảng viên tổ chức cho các nhóm tiến hành báo cáo trước
lớp. Nếu không có nhiều thời gian thì giảng viên có thể lấy tinh thần xung phong
hoặc bốc thăm. Nếu có đủ thời gian thì giảng viên cho lần lượt các nhóm tiến hành


thuyết trình. Giảng viên cũng cần đưa ra tiêu chí, hướng dẫn chấm điểm và tổ chức
cho sinh viên tự đánh giá và đánh giá chéo.
Cách tổ chức này sẽ tạo được hứng thú cho sinh viên, tạo quyền tự chủ cho
các em, kích thích hứng thú học tập và tăng khả năng diễn đạt, tranh luận trước
đám đông cũng như khả năng nghe và ghi chép. Giảng viên không còn là người
duy nhất đánh giá kết quả mà vai trò chính là hướng dẫn vàgóp ý cho sinh viên.
Để tăng hiệu quả của phương pháp này đồng thời tránh mất quá nhiều thời
gian, giảng có thể yêu cầu mỗi nhóm nộp thêm một số bản photo để đưa cho các
nhóm khác đọc và đánh giá trước khi lên lớp. Bên cạnh đó, giảng viên cũng cần
đưa ra tiêu chí đánh giá cho sinh viên trước khi thực hiện tiểu luận.
Thứ sáu, về kiểm tra, đánh giá kết quả.
Kiểm tra, đánh giá là khâu quan trọng trong quá trình dạy học, vừa có vai trò
cung cấp thông tin liên hệ để người học tự điều chỉnh việc học, vừa cung cấp thông
tin liên hệ giúp người dạy điều chỉnh quá trình giảng dạy.
Giảng viên có thể đánh giá trực tiếp sản phẩm của người học là các bài tiểu
luận. Để làm được điều này, cần xây dựng các tiêu chí đánh giá nhằm đảm bảo độ
khoa học, độ chính xác cao.Dựa trên các tiêu chí này, bên cạnh việc giảng viên
đánh giá, người học cũng có thể tự đánh giá sản phẩm của mình, và đánh giá sản
phẩm của bạn. Như vậy, xây dựng được tiêu chí đánh giá phù hợp sẽ đảm bảo
được tính khách quan, công bằng trong quá trình đánh giá.
Bên cạnh đánh giá trực tiếp qua bài tiểu luận, giảng viên có thể đánh giá
được mức độ lĩnh hội tri thức của sinh viên trong quá trình thuyết trình thông qua

các câu hỏi nhỏ liên quan đến đề tài của nhóm. Những câu hỏi đó có thể là câu hỏi
của giảng viên đưa ra, cũng có thể là câu hỏi từ phía các thành viên khác trong lớp.
Trên đây là một vài ý kiến chia sẻ kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác kiểm tra, đánh giá bằng hình thức làm tiểu luận kết thúc học phần của
Khoa nói riêng và của Nhà trường nói chung./.


TIẾP CẬN TỪ QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG TRONG ĐÁNH GIÁ
TRÊN CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
PGS.TS Đoàn Đức Hiếu


Ngày 18 tháng 9 năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định
số 52/2008/QĐ-BGDĐT về chương trình các môn khoa học lý luận chính trị cho
sinh viên không chuyên nghành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
cáctrường đại học, cao đẳng. Từ học kỳ 2 năm học 2008- 2009, các môn học lý
luận chính trị theo chương trình đổi mới được chính thức giảng dạy trong các
trường đại học, cao đẳng. Với thời gian 6 năm học đã qua để áp dụng chương trình
giáo dục lý luận chính trị mới trong nhà trường, những vấn đề về ưu điểm và hạn
chế của nội dung chương trình đã được đánh giá trên nhiều diễn đàn khác nhau:
các cuộc họp của Bộ GD&ĐT với lãnh đạo các trường đại học, cao đẳng; các đợt
tập huấn và bồi dưỡng chuyên môn hàng năm; các hội thảo khoa học ở các trường
đại học cao đẳng; ý kiến đóng góp của các giảng viên trực tiếp giảng dạy…
Trước hết, vấn đề đặt ra là đổi mới nội dung chương trình giảng dạy hiện
nay đang thực hiện có cần thiết hay không? Câu trả lời là hoàn toàn cần thiết và tất
yếu.
Đổi mới giáo dục để phát triển năng lực người học là thống nhất biện chứng
của sự tích hợp các yếu tố từ nội dung đến phương pháp, từ tình cảm, lý trí đến
cách thức giảng dạy của chủ thể giáo dục. Trước năm 2008, chúng ta đã thực hiện
một chương trình giảng dạy lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng

gồm có 5 môn học: Triết học Mác-Lênin:90 tiết; Kinh tế chính trị học Mác-Lênin:
75 tiết; Chủ nghĩa xã hội khoa học:60 tiết; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: 60
tiết; Tư tưởng Hồ Chí Minh: 45 tiết. Như vậy, tổng số thời lượng 5 môn học lý
luận chính trị là 330 tiết, chiếm 22 đơn vị học trình. Trong điều kiện và yêu cầu
mới của sự phát triển giáo dục đòi hỏi phải nâng cao năng lực thực tiễn của người
học, bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp và khả năng vận dụng có hiệu quả lý thuyết
vào đời sống thực tiễn của sinh viên tốt nghiệp đại học, thì đối với các môn khoa
học lý luận tất yếu phải tinh giản nội dung chương trình đào tạo. Với chương trình


đào tạo theo tín chỉ trong các trường đại học hiện nay, từ 150 đến 170 tín chỉ, thì
thời lượng các môn lý luận chính trị rút ngắn còn 3 môn học với 10 tín chỉ của
chương trình đào tạo. Đó là một sự thay đổi phù hợp với yêu cầu tất yếu của sự đổi
mới nội dung và phương pháp giáo dục hiện nay. Nếu vẫn giữ nguyên nội dung
chương trình các môn học lý luận chính trị như trước đây thì đó là sự bảo thủ và
giáo điều trong nội dung và phương pháp giáo dục.
Một điều hiển nhiên có tính mục đích và tính nguyên tắc để một môn khoa
học được triển khai giảng dạy có hiệu quả, đáp ứng được mục đích yêu cầu của
môn học là tính khoa học của hệ thống khái niệm phạm trù khoa học môn học đó.
Một sự khẳng định bản chất và giá trị khoa học của môn học thông qua hệ thống
kết cấu chặt chẽ, đối tượng nghiên cứu và hệ thống khái niệm có ý nghĩa khoa học
cao, thống nhất được giữa lý luận và thực tiễn, đem lại sự hứng thú và giá trị ứng
dụng cho sinh viên trong nghề nghiệp, là mục đích yêu cầu của việc đổi mới nội
dung chương trình lý luận chính trị hiện nay. Về cơ bản, kết cấu của từng môn học
cũng như của 3 môn học trong hệ thống các môn lý luận chính trị là phù hợp; hệ
thống khái niệm , phạm trù khoa học phản ánh chính xác nội dung các môn học.
Tuy nhiên, do sự thay đổi có tính chất nhảy vọt của nội dung chương trình, nên có
nhiều ý kiến khác nhau. Định hướng từ những năm học tới của Ban Tuyên giáo
Trung ương là từng bước nâng cao chất lượng của Giáo trình các môn học, đổi tên
môn học “ Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin” thành môn học “

Chủ nghĩa Mác- Lênin”. Đồng thời thay đổi kết cấu 3 phần tương ứng trong nội
dung là “ Triết học Mác- Lênin”, “ Kinh tế chính trị học Mác- Lênin”, “ Chủ nghĩa
xã hội khoa học”. Đến nay, vấn đề này chưa được triển khai thực hiện. Tuy nhiên,
từ góc độ suy nghĩ cá nhân, vẫn còn có những cách tiếp cận khác. Chẳng hạn, nếu
không thể tăng thời lượng đang giảng dạy của môn học là 5 tín chỉ, thì tên gọi môn
học này có thể là “ Triết học Mác- Lênin”, và những vấn đề của Kinh tế chính trị
học Mác- Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ trở thành nội dung triết học thực


tiễn của môn học đó. Suy đến cùng thỉ nội dung cơ bản của môn học “Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin” là những vấn đề triết học duy vật
biện chứng, triết học duy vật lịch sử, triết học lý luận và triết học thực tiễn, được
tiếp cận từ giác độ thế giới quan và phương pháp luận triết học Mác- Lênin. Vấn đề
nội dung , bản chất môn học vẫn là chủ nghĩa Mác- Lênin, đảm bảo tính đảng, tính
khoa học theo quan điểm của Đảng Cộng sản. Cần phải nhận thức rằng, thời đại
mới với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử mới sẽ đặt ra những yêu cầu mới cho sự phát
triển của giáo dục đào tạo, của tư duy biện chứng, để nhận thức vấn đề các môn
khoa học lý luận chính trị giảng dạy trong nhà trường sẽ ngày càng thống nhất với
thực tiễn cuộc sống hiện nay.
Tiếp cận từ góc độ phương pháp giảng dạy, để từng bước hiện thực hóa mục
đích, yêu cầu giảng dạy các môn khoa học lý luận chính trị trong các trường đại
học, giảng viên cần phải làm gì? Theo chúng tôi, cần phải thực hiện một số nội
dung vừa có tính chất truyền thống trong phương pháp giảng dạy, vừa phù hợp với
sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, mang tính đặc trưng của môn khoa
học lý luận chính trị trong điều kiện hiện nay.
Về tình cảm đạo đức. giảng viên lý luận chính trị cần đề cao giá trị nhân sinh
tốt đẹp trong mỗi con người, bồi đắp tư tưởng nhận thức đúng, tình cảm đạo đức
trong sáng, không ngừng vun đắp tình yêu Tổ quốc, yêu con người, bồi dưỡng lòng
nhân ái, củng cố niềm tin vào Chân lý, vào cái Thiện và cái Đẹp, hướng tới sự phát
triển và tiến bộ của cá nhân và xã hội. Nếu không có niềm tin vào chân lý khoa

học, niềm tin vào con người và sự say mê với nghề nghiệp giảng dạy thì không thể
có được sự thành công trong giảng dạy, không thể có sự truyền lửa nhiệt tình cho
sinh viên để đạt được mục đích và hiệu quả trong việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo
dục rèn luyện con người.
Lẽ đương nhiên, yếu tố tình cảm đạo đức chỉ là điều kiện cần, chưa phải là
điều kiện đủ. Nhưng đó là yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhất cho sự thành công của


một giảng viên giảng dạy các môn khoa học lý luận chính trị. Một giảng viên về
khoa học tự nhiên có thể không cần nhiều lắm yếu tố tình cảm đạo đức trong nghề
nghiệp vẫn có thể hoàn thành được công việc của mình. Nhưng đó là điều không
thể đối với người giảng viên lý luận. Vì vậy, đối với giảng viên lý luận thì yếu tố
tình cảm đạo đức là một nội dung thuộc về phương pháp, gắn liền với nội dung
giảng dạy, và cao hơn là gắn với đạo đức nhân cách của người giảng viên.
Để giảng dạy tốt các môn khoa học lý luận chính trị, người giảng viên phải
có nền tảng tri thức các lĩnh vực khoa học và thực tiễn cuộc sống tương đối toàn
diện và phong phú. Phải thường xuyên trang bị cho mình sự hiểu biết toàn diện về
các lĩnh vực khoa học một cách tốt nhất trong điều kiện có thể. Cần phải có ý thức
nắm bắt thường xuyên những vấn đề thực tiễn sinh động của đời sống xã hội, của
văn hóa truyền thống, của những giá trị hiện thực diễn ra phong phú, đa dạng trong
tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. đó là điều kiện rất cần thiết cho một giảng
viên lý luận chính trị có đầy đủ tiền đề và điều kiện về kiến thức cơ bản để giảng
dạy tốt nội dung chuyên ngành của môn học. Tiếp cận với những vấn đề triết học
trong nội dung của phần Nguyên lý I, không thể giảng dạy tốt nếu chúng ta không
có tri thức khoa học tự nhiên về vật lý học, hóa học, sinh hoc, môi trường tự nhiên
và lịch sử xã hội loài người. Giảng dạỵ tri thức Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa
xã hội khoa học trong phần Nguyên lý II thì phải có hiểu biết về kinh tế chính trị,
kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, hiểu biết về văn hóa, xã hội và con người, về
những quy luật tất yếu của đời sống xã hội trong các lĩnh vực như giai cấp, dân tộc,
tôn


giáo, văn hóa truyền thống…Có một giai đoạn trước năm 1990, Nhà nước

thường lựa chọn những người đã tốt nghiệp đại học một chuyên ngành trong khoa
học tự nhiên hoặc khoa học xã hội để tiếp tục học tập về lý luận các môn khoa học
Mác- Lênin, sau đó mới được tham gia giảng dạy chương trình các môn lý luận
chính trị ở bậc đại học. Đồng thời phải thường xuyên tham gia các hoạt đông trong
xã hội để nắm bắt thực tiễn cuộc sống, gắn lý luận với thực tiễn, đảm bảo cho nội


dung bài giảng sinh động, phong phú, có hơi thở và mạch nguồn của đời sống xã
hội. Trong giai đoạn hiện nay, do các cơ sở đào tạo thiếu kinh phí, nên việc tập
huấn và đi thực tế hàng năm 10 ngày theo Quyết định 494/QĐ-TTg ngày
24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ đã không được thực hiện đầy đủ. Có rất nhiều
trường không có tập huấn và thực tế nhiều năm liền. Vì vậy rất cần thiết phải nhấn
mạnh công tác thực tế và tập huấn chuyên môn hàng năm của Bộ GD và ĐT một
cách tự giác, có kế hoạch, thường xuyên và hiệu quả, thống nhất quan điểm và
cách thức thực hiện chính sách này từ Chính phủ, Bộ GD và ĐT đến các trường đại
học, cao đẳng. Vì vậy, cần nhấn mạnh rằng để trang bị một hành trang tri thức cho
người giảng viên lý luận có thể tham gia giảng dạy tốt môn học, thì đó là một quá
trình liên tục, bền bĩ để học tập, rèn luyện, trau dồi, bồi dưỡng tri thức lý luận và tri
thức thực tiễn, nâng cao năng lực trí tuệ và tình cảm cách mạng trong sáng, thì mới
có thể thực hiện tốt nhiệm vụ.
Tiếp cận từ góc độ phương pháp giảng dạy, tất yếu là phương pháp phải gắn
liền với sự vận động và phát triển của nội dụng, thống nhất với nội dụng. Nội dung
chương trình, giáo trình các môn khoa học lý luận chính trị đã có nhiều thay đổi,
thì tất yếu phương pháp giảng dạy của giảng viên cũng phải thay đổi. Theo chúng
tôi, phải vận dụng triệt để sự tích hợp của các phương pháp trong quá trình giảng
dạy các môn lý luận chính trị. Vậy, tích hợp các phương pháp cần phải được quan
niệm như thế nào?

Các môn khoa học lý luận chính trị tồn tại với tư cách là sự tích hợp của các
lĩnh vực khoa học khác nhau, nên phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng
đó cũng là phương pháp tích hợp. Có thể xem đó là phương pháp vận dụng đồng
bộ các phương pháp khác nhau trong mối quan hệ thống nhất, để nhằm mục đích
truyền đạt nội dung có hiệu quả nhất cho sinh viên.
Thứ nhất là phương pháp thuyết trình nội dung bài học do giảng viên đóng
vai trò chủ yếu. Giảng viên cần lựa chọn những nội dung trọng tâm, cơ bản trong


×