Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đảng bộ tỉnh an giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.98 KB, 26 trang )

Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC........................................................................................................................ 1
ĐẶT VẤN ĐỀ.................................................................................................................2

Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ĐẢNG LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÓI CHUNG VÀ
LÃNH ĐẠO KINH TẾ MẬU DỊCH BIÊN GIỚI NÓI RIÊNG.............................4
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn....................................................................................4
2. Nội dung lãnh đạo của Đảng.................................................................................7
3. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng..............................................................................8
4. Phương pháp lãnh đạo của Đảng........................................................................10
Chương 2: ĐẢNG BỘ AN GIANG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ MẬU DỊCH BIÊN GIỚI TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAY...........................11
1. Thực trạng .........................................................................................................11
1.1. Những thành tựu..............................................................................................16
1.2. Khuyết điểm, nguyên nhân................................................................................17
2. Giải pháp phát triển kinh tế mậu dịch biên giới An Giang thời gian tới............18
KẾT LUẬN................................................................................................................
....................22
DANH MỤC TÀI LIỆU.........................................................................................24
PHỤ LỤC...............................................................................................................26

1


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

ĐẶT VẤN ĐỀ
Lê nin đã chỉ ra phép biện chứng “Chính trị là sự biểu hiện tập trung


của kinh tế... chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”.
Lê nin đã vạch rõ thêm: “Chính trị tức là kinh tế cô đọng lại”. Người cho rằng:
gốc rễ sâu xa của mọi chính sách đối nội, đối ngoại là lợi ích kinh tế, địa vị
kinh tế của những giai cấp làm chủ xã hội. Thật vậy, mọi hoạt động kinh tế ở
mọi quốc gia luôn giữ vai trò to lớn, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ
các hoạt động khác của đời sống xã hội. Sự cạnh tranh quyết liệt của các
quốc gia, để khẳng định tính ưu việt , sức mạnh của các chế độ chính trị-xã hội
được biểu hiện ở sự phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ của quốc
gia đó.
Thực tiễn ở Việt Nam trong, quá trình thực hiện công cuộc đổi mới,
Đảng ta đã nêu lên quan điểm lớn, cơ bản: phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt. Thực chất đây là sự tổng kết
kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng kể từ khi Đảng ta được thành lập, chứ không
phải là quan điểm của thời kỳ đổi mới.
Chính vì vậy, các chính đảng cầm quyền luôn quan tâm lãnh đạo phát
triển kinh tế của đất nước; sự thành công trong lãnh đạo phát triển kinh tế thể
hiện năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền vững mạnh của các chính
đảng.
An Giang là một tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, thuộc khu vực đồng bằng sông
Cửu Long, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu thuộc hệ thống sông Mêkông với tổng
diện tích tự nhiên là 3.537 km 2. Ngoài thế mạnh về nông nghiệp với hai mặt hàng
chủ lực là gạo và thủy sản, An Giang còn là tỉnh có tiềm năng lớn để phát triển kinh
tế mậu dịch biên giới: có đường biên giới dài gần 100 km, giáp với hai tỉnh Takeo và
Kandal của Vương quốc Campuchia và một hệ thống giao thông thủy bộ thuận
tiện… tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong vận chuyển hàng hóa liên vùng, mở rộng
thị trường tiêu thụ và rút ngắn thời gian, chi phí sản xuất, lưu thông, phân phối.
Bên cạnh đó, An Giang còn được Chính phủ tạo điều kiện hưởng một số
chính sách ưu đãi dành riêng cho tỉnh biên giới, đã tạo tiền đề quan trọng mở ngõ
cho An Giang khai thác và phát huy tốt hơn các tiềm năng và lợi thế về kinh tế mậu
dịch biên giới của địa phương.

Đảng bộ An Giang đã mạnh dạn đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng tích
2


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

cực: dịch vụ - thương mại, công nghiêp - xây dựng và nông nghiệp.[Xem phụ lục,
bảng 1]. Trong đó, phát triển kinh tế mậu dịch biên giới từ các khu kinh tế cửa
khẩu được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, tạo bước đột phá góp phần
thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Sau khi Chương trình phát triển kinh tế biên giới của tỉnh ra đời và được
triển khai thực hiện đến nay thì hoạt động buôn bán của An Giang ngày càng phát
triển nhanh và bền vững. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu biên
giới giai đoạn 2006 - 2010 đạt gần 3,9 tỷ USD ( tăng 3,65 lần so với giai đoạn
2001 - 2005), với mức tăng trưởng bình quân 21%/năm... đã góp phần thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đảng bộ, nâng cao mức sống của người dân vùng cửa khẩu, tình hình
chính trị biên giới luôn được đảm bảo ổn định.
Bên cạnh khu kinh tế cửa khẩu Tịnh Biên, Vĩnh Xương, Khánh Bình, các
cửa khẩu Vĩnh Hội Đông, Bắc Đai và các chợ biên giới với tổng diện tích tự nhiên
là 26.538 ha, An Giang đang tiếp tục lập kế hoạch, tạo quỹ đất sạch, từng bước tập
trung nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, mở mới thêm các cửa khẩu phụ
gồm Vĩnh Ngươn (Châu Đốc), Vĩnh Gia (Tri Tôn)… nhằm tạo cho các doanh nghiệp
An Giang nói riêng và doanh nghiệp Việt Nam nói chung có điều kiện thuận lợi hơn
trong việc tiếp cận thị trường tiêu thụ Campuchia và chuyên chở hàng hóa thâm
nhập vào thị trường các nước Asean.
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế mậu dịch biên giới An
Giang vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, chưa phát huy hết tiềm năng, lợi
thế vốn có, công tác triển khai xây dựng các công trình, dự án ba khu vực kinh tế
cửa khẩu còn chậm và chưa đồng bộ; ngân sách đầu tư cho các khu kinh tế cửa
khẩu thấp so với nhu cầu thực tế; hầu hết các tuyến giao thông tại các khu kinh tế

cửa khẩu, đặc biệt các đường giao thông từ nội địa dẫn ra các khu vực cửa khẩu vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư…
Kinh tế mậu dịch biên giới một loại hình kinh tế mở, còn khá mới trong cơ
cấu kinh tế nước ta, đã được Đảng và Nhà nước đưa vào chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội gần hai thập kỷ. Và, để góp phần đưa kinh tế mậu dịch biên giới An
Giang tiếp tục phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới, tác giả chọn đề tài
"Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới từ năm
2006 đến nay" làm tiểu luận môn Đảng lãnh đạo lĩnh vực đời sống xã hội.

3


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN - ĐẢNG LÃNH ĐẠO KINH TẾ
NÓI CHUNG VÀ LÃNH ĐẠO KINH TẾ MẬU DỊCH BIÊN GIỚI NÓI RIÊNG
Nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế đất nước là nhiệm vụ vô cùng
quan trọng không chỉ của Đảng, Nhà nước mà còn là nhiệm vụ của toàn dân. Nó
quyết định vị trí của đất nước trên trường quốc tế. Cũng chính vì vậy mà vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực phát triển kinh tế nói chung và lãnh đạo
phát triển kinh tế mậu dịch biên giới nói riêng cần phải có Đảng lãnh đạo. Để
làm được điều này đòi hỏi phải làm rõ những khái niệm như “lãnh đạo”, “kinh tế”,
“ Đảng lãnh đạo kinh tế”, “ mậu dịch biên giới”… coi đó như một tiền đề lý luận
cơ bản khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế nói chung và
đối với lĩnh vực kinh tế mậu dịch biên giới nói riêng. Các nhà lý luận đã nghiên
cứu và đi đến khẳng định:
* Kinh tế: là tổng thể các hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu
cầu vật chất. Hay, kinh tế là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một
chế độ xã hội, là nguồn gốc của mọi biến đổi xã hội và những đảo lộn chính
trị.

*Lãnh đạo: Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối, và tổ chức động viên
thực hiện.
*Phát triển kinh tế: Là việc tổ chức và thúc đẩy những hoạt động của con
người vì mục đích trước hết là kinh tế. hay nói cách khác phát triển kinh tế chính là
làm cho nền kinh tế tăng lên về quy mô và gia tăng chất lượng.
*Đảng lãnh đạo kinh tế: Đảng lãnh đạo kinh tế có nghĩa là Đảng đề ra chủ
trương, đường lối chính sách về kinh tế và tổ chức, động viên nhân dân thực hiện
nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn xã hội.
Mậu dịch biên giới, là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa diễn ra tại
khu vực biên giới của hai nước láng giềng (được xác định về mặt địa lý).
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Khi nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, C.Mác và Angghen đã có một
phát kiến vĩ đại “sản xuất vật chất là cơ sở cho sự phát triển xã hội loài
người”. Các ông cũng đã phát hiện ra rằng, bất cứ chế độ xã hội nào cũng
được xây dựng trên một nền tảng kinh tế nhất định tương ứng với nó. Vì vậy,
các Đảng cộng sản sau khi giành được chính quyền phải xây dựng thành công
về mặt kinh tế, đó là một chân lý. Hơn nữa, Sự lãnh đạo của Đảng đối với
kinh tế còn là một đòi hỏi của lịch sử.
4


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

Lê nin đã khẳng định “Đảng lãnh đạo kinh tế-xã hội là sự nghiệp đúng
đắn cả về nguyên tắc và thực tiễn” và “nếu Đảng từ bỏ sự lãnh đạo kinh tế là
từ bỏ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho sự lãnh đạo của Đảng trở
thành trừu tượng không có mục đích”. Đảng phải tăng cường lãnh đạo kinh tế,
bởi vì kinh tế là nền tảng của xã hội.
Qua 25 năm đổi mới, cho phép chúng ta khẳng định vai trò và năng
lực lãnh đạo kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam, cơ bản khắc phục tình

trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội; chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Như vậy có thể thấy rằng, sự lãnh đạo của Đảng về kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm để đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải hiểu rằng lãnh đạo kinh tế của Đảng là
lĩnh vực khó khăn, do đó “chính ở chỗ này mà chúng ta gặp nhiều thất bại và
mắc nhiều sai lầm” mà Lê nin đã khẳng định và điều đó lại càng khó khăn
hơn đối với những đất nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến, tiểu tư sản chiếm
số đông trong dân cư như đất nước ta.
Do vậy, Đảng lãnh đạo kinh tế là một việc làm đầy khó khăn và phức
tạp. Nhưng mục đích cuối cùng vẫn là Đảng lãnh đạo kinh tế đúng đắn cả về
mặt lý luận và thực tiễn, đó là nguyên tắc bất di bất dịch của Đảng cầm
quyền.
Thực tiễn quá trình lãnh đạo kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam từ
những năm 1954 đến nay đã chứng tỏ rằng, mặc dù trong quá trình lãnh đạo
kinh tế, Đảng còn bộc lộ nhiều yếu kém, khuyết điểm … song Đảng có đủ
điều kiện và tri thức lãnh đạo kinh tế. Sau khi hòa bình lập lại, nền kinh tế
miền Bắc vốn rất lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá, nên ở trong tình trạng tiêu
điều, Đảng ta đã nhanh chóng ổn định, chỉ đạo phát triển kinh tế.
Trong xu thế hiện nay, vấn đề hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế được xem
là vấn đề mang tính khách quan, một yêu cầu tất yếu đối với tất cả quốc gia trên
thế giới. Điều đó đồng nghĩa với việc, để không ngừng nâng cao thế và lực trên
trường quốc tế, tạo tiền đề cho nền kinh tế đất nước phát triển bền vững thì các
quốc gia phải có sự chủ động trong các hoạt động hợp tác, giao lưu kinh tế đối
ngoại với các nước trong và ngoài khu vực mà trước tiên là quan hệ hợp tác kinh
tế với những nước láng giềng có chung đường biên giới.
Là một quốc gia có vị trí khá thuận lợi trong việc giao lưu với thị trường
5



Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

nước ngoài, đặc biệt là những nước láng giềng có chung đường biên giới như:
Trung Quốc, Lào, Campuchia, Việt Nam đã sớm xác định một chiến lược phát triển
rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa với trọng tâm là tạo điều kiện phát triển
thương mại qua thông thương đường biên giới với các nước láng giềng. Theo đó,
kinh tế mậu dịch biên giới được Đảng và Nhà nước ta xem là một bộ phận hữu cơ
trong thương mại quốc tế của Việt Nam, hoạt động kinh tế mậu dịch biên giới đóng
một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế vùng biên giới cũng như việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh trong nội địa.
Kinh tế mậu dịch biên giới, là một hình thức kinh tế đối ngoại mang tính
chất đặc thù, được hình thành trước tiên từ nhu cầu tự nhiên về trao đổi hàng hóa
của cư dân khu vực dọc biên giới tới các chợ biên giới, sau đó dần dần phát triển
thêm các hình thức trao đổi khác như mậu dịch chính ngạch, mậu dịch tiểu ngạch,
tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, quá cảnh, kho ngoại quan,… trên cơ sở phát triển của
kinh tế hàng hóa.
Dù là loại hình kinh tế còn khá mới, tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, nhưng
kinh tế mậu dịch biên giới lại có khả năng mang lại hiệu quả rất lớn cả về kinh tế
và xã hội: Nếu như hợp tác trao đổi hàng hóa với các quốc gia trên thế giới là một
yêu cầu tất yếu khách quan trên con đường phát triển nền kinh tế đất nước thì hợp tác
kinh tế và trao đổi hàng hóa với các quốc gia có chung đường biên giới là bước đầu
tiên, bước tập dợt trong lộ trình hội nhập với các quốc gia khác trong khu vực và
toàn thế giới. Thông qua phát triển thương mại tại các cửa khẩu biên giới, kinh tế
mậu dịch biên giới giúp phát huy các lợi thế so sánh, sử dụng triệt để nguồn lực
quốc gia, không những tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước, kinh tế địa
phương mà còn nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, kết hợp hài hòa
giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng xã hội, góp phần giải quyết những vấn đề
bức xúc của xã hội như: nạn thất nghiệp, thiếu việc làm,…Thông qua việc trao đổi
mua bán hàng hóa tại các cửa khẩu biên giới, có thể gián tiếp hoặc trực tiếp mở rộng

buôn bán với các quốc gia khác, đặc biệt là quốc gia có chung đường biên giới
hoặc có quan hệ thương mại tốt với nước bạn, từ đó có thể mở rộng thị trường buôn
bán với các quốc gia trong khu vực và thế giới. Đồng thời, mậu dịch biên giới giúp
doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao hơn, nhạy bén hơn, buộc các doanh
nghiệp phải luôn luôn đổi mới để thích nghi với điều kiện thị trường ngày càng
yêu cầu cao hơn và đòi hỏi khắc khe hơn. Ngoài ra, thông qua hoạt động mậu dịch
biên giới, tình đoàn kết hữu nghị giữa các quốc gia láng giềng càng được thắt chặt
6


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

hơn, góp phần bảo vệ an ninh và toàn vẹn lãnh thổ.
2. Nội dung lãnh đạo của Đảng
Soạn thảo và thông qua đường lối chiến lược và chính sách kinh tế trong
từng giai đoạn. Đây là công việc sáng tạo, thể hiện sự tập trung trí tuệ của Đảng,
là nhân tố quyết định sự thành công hoạt động lãnh đạo kinh tế và uy tín của
Đảng. Tiêu chuẩn để đánh giá đường lối, chính sách kinh tế của Đảng là tính khoa
học và tính thực tiễn của nó, được kiểm tra bằng sự hưởng ứng của quần chúng và
hiệu quả kinh tế- xã hội. Để bảo đảm cho đường lối, chính sách kinh tế của Đảng,
bám sát đòi hỏi của quy luật khách quan, và cần chú ý cả hai khâu soạn thảo và
thông qua.
Quan điểm chỉ đạo có ý nghĩa phương pháp luận đối với tổng kết kinh
nghiêm soạn thảo đường lối, chính sách, không phải để khẳng định ưu điểm, tính
chất đúng đắn của đường lối, chính sách đã qua, không phải nhằm phê phán cơ
chế và cơ quan lãnh đạo, mà điều chủ yếu là Đảng cần tìm ra sự thật, cần tiếp cận
chân lý khách quan, để luôn luôn giữ vững ngọn cờ lãnh đạo. Do đó, phương pháp
soạn thảo phải: xem xét toàn diện cả yêu cầu của quy luật phổ biến với tính chất
đặc thù của dân tộc, của giai đoạn; xem xét yêu cầu chung của nền kinh tế quốc
dân với yêu cầu của địa phương, ngành và vùng lãnh thổ; xem xét lợi ích của các

tầng lớp, các giai cấp trong điều kiện cụ thể; xem xét các vấn đề chiến lược, chiến
thuật và sách lược. Cách xem xét toàn diện đó nhằm tránh những mâu thuẫn trong
đường lối, chính sách, trong tổ chức thực hiện sau này.
Đối với quá trình thông qua đường lối, chính sách: thì giai đoạn thông qua
các văn bản là giai đoạn tiếp tục hoàn thiện việc soạn thảo và ra quyết định. Do
đó, đây là quá trình phát huy dân chủ rộng rãi đi đôi với yêu cầu tập trung trí tuệ.
Muốn vậy, cần chuẩn bị về mặt thông tin, thảo luận và tranh luận qua nhiều nấc
thang cần thiết. Điều đáng chú ý là những người sẽ tham gia biểu quyết các văn
bản đó phải đích thân tham gia vào quá trình thảo luận, không thể chỉ nghe phản
ánh tình hình vì chính những người đó phải nâng cao trình độ lý luận và nhận thức
thực tiễn qua đợt thảo luận để đi đến nhất trí cao khi thông qua và thực hiện nghị
quyết.
Bảo đảm quán triệt đường lối, chính sách kinh tế, tạo ra sự nhất trí và nhất
quán trong hệ thống lãnh đạo. Sự nhất trí và nhất quán trong tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách là một điều kiện quyết định thắng lợi của đường lối, chính
sách. Sự nhất trí này tạo ra sức chiến đấu của tổ chức đảng và niềm tin trong quần
chúng. Do đó, sự nhất trí về mục tiêu và quan điểm chiến lược của những người
7


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

cộng sản không gạt bỏ tính sáng tạo trong vận dụng và phát hiện những khía cạnh
chưa hoàn thiện của đường lối, chính sách khi đi vào cuộc sống muôn màu, muôn
vẻ. Công tác tuyên truyền, giáo dục bảo đảm sự nhất trí: không những phải làm rõ
căn cứ khoa học và thực tiễn của đường lối, chính sách, mà còn phải kịp thời thông
tin những kinh nghiệm vận dụng, sáng tạo của cơ sở và địa phương, phê phán ảnh
hưởng của chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm, bệnh quan liêu, giấy tờ
cũng như thái độ tự do, tuỳ tiện trong quá trình tổ chức thực hiện.
Chỉ đạo và kiểm tra quá trình tổ chức thực hiện đường lối, chính sách

kinh tế của bộ máy nhà nước. Sự lãnh đạo kinh tế của Đảng và quản lý kinh tế của
Nhà nước là sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với sự hình thành và phát
triển cơ sở kinh tế. Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý kinh tế của Nhà nước
phải tạo ra sự tác động, thúc đẩy kinh tế phát triển đúng hướng. Do đó, phải có sự
phân định rõ chức năng cơ quan đảng với chức năng cơ quan nhà nước.
Tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo kinh tế. Mục đích tổng kết là giúp Đảng ta
trưởng thành trong việc nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan để đảng
hoạt động tự giác hơn, tránh lặp lại sai lầm đã qua, gây thiệt hại cho quần chúng.
Do đó, công tác tổng kết phải mang tính đảng và tính khoa học nghiêm túc, tránh
thái độ coi thường tổng kết, coi thường hoặc né tránh, che giấu sai lầm.
Đào tạo, sử dụng và kiểm tra đội ngũ cán bộ lãnh đạo kinh tế. Lãnh đạo
kinh tế là một trong những chức năng quan trọng nhất của Đảng cộng sản. Đảng
phải có kế hoạch đào tạo, bố trí đúng, thực hiện tốt kiểm tra và không ngừng bồi
dưỡng, đổi mới kiến thức và cơ cấu đội ngũ đó. Khi hoạt động kinh tế xấu đi, khi
các vấn đề xã hội cấp bách tăng lên, thì vấn đề đầu tiên của Đảng là soát xét lại
đường lối, chính sách kinh tế và đội ngũ cán bộ lãnh đạo kinh tế.
3. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng
Nguyên tắc thứ nhất: Sự thống nhất biện chứng giữa chính trị và kinh tế.
Đây là thước đo chủ yếu công tác lãnh đạo kinh tế của Đảng trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dó đó hoạt động lãnh đạo kinh tế cần tránh hai
khuynh hướng: Sa vào “chủ nghĩa kinh tế” tầm thường và thực dụng. Nhấn mạnh
một chiều giai cấp xã hội chính trị chung chung, không tính đến lợi ích kinh tế cá
nhân, tầng lớp xã hội. Để thực hiện được sự thống nhất về chính trị và kinh tế: phải
nắm vững phép biện chứng giữa chính trị và kinh tế. “Chính trị là sự biểu hiện tập
trung của kinh tế… Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh
tế”.
Nguyên tắc thứ hai: Sự thống nhất biện chứng giữa tập trung và dân chủ.
8



Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

Theo Lênin, tập trung dân chủ khác hẳn với tập trung quan liêu, khác hẳn với tự
phát vô chính phủ. Vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo kinh tế,
cũng có nghĩa đồng thời phải đấu tranh triệt để với xu hướng tập trung quan liêu và
xu hướng vô chính phủ.
Nguyên tắc thứ ba: Sự phù hợp chính sách kinh tế đối nội và chính sách
kinh tế đối ngoại.
Trong điều hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát
triển như vũ bão, tin học đạt nhiều thành tựu kỳ diệu, kinh tế tri thức phát triển, xu
hướng quốc tế hoá, khu vực hoá mạnh mẽ thì sự phù hợp giữa chính sách kinh tế
đối nội và chính sách kinh tế đối ngoại trở thành tất yếu. Sự phù hợp giữa chính
sách kinh tế đối nội và đối ngoại phải được thực hiện ngay từ khi soạn thảo đường
lối, chính sách kinh tế, cho đến toàn bộ các khâu của quá trình thực hiện.
Vậy, chỉ có phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, tích
cực xây dựng chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo được sự phù hợp giữa chính
sách kinh tế đối nội với chính sách kinh tế đối ngoại.
Nguyên tắc thứ tư: Đảm bảo sự phù hợp giữa chính sách kinh tế với chính
sách cán bộ.
Lê nin nói: Nếu “Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại” thì “không thể
tách những vấn đề tổ chức khỏi những vấn đề chính trị được”. Như vậy, chính
sách kinh tế và chính sách cán bộ có mối liên hệ biện chứng không tách rời
nhau: Nếu chính trị phản ánh những lợi ích kinh tế của một giai cấp nhất định
thì cán bộ lãnh đạo kinh tế là đại biểu cho giai cấp đó. Chính vì vậy, Đảng ta
khẳng định “Những sai lầm khuyết điểm trong Đảng lãnh đạo kinh tế-xã hội
bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công
tác cán bộ của Đảng”.
Trong điều kiện hiện nay, vấn đề đặt ra là việc đào tạo, lựa chọn, bố trí,
sử dụng cán bộ phù hợp, là yêu cầu số một của lãnh đạo kinh tế hiện nay.
Nguyên tắc thứ năm: đảng không ngừng tự đổi mới theo kịp tiến trình phát

triển kinh tế- xã hội.
Đảng phải không ngừng tự đổi mới là xuất phát từ vai trò tiên phong của
đảng trong lãnh đạo phát triển kinh tế- xã hội. Từ đặc điểm tình hình trong nước và
quốc tế - xu hướng quốc tế hoá, khu vực hoá. Yêu cầu: Đảng phải đổi mới và nâng
cao trình độ tư duy lý luận kinh tế và phương pháp lãnh đạo kinh tế; không ngừng
đổi mới, hợp lý hoá về mặt tổ chức, chuyển hướng công tác cán bộ, chính sách cán
bộ cho phù hợp với bước chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
9


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

nghĩa. Bản thân đảng phải luôn luôn phát huy tác dụng tích cực của nhân tố chính
trị đối với kinh tế. Đảm bảo cho tiến bộ kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và sự phát
triển cá nhân người lao động. Đồng thời, sự phát triển xã hội và cá nhân trở
thành động lực mạnh mẽ của tiến bộ kinh tế với nhịp độ lớn, chất lượng cao.
4. Phương pháp lãnh đạo của Đảng
Để lãnh đạo kinh tế, Đảng phải thường xuyên sử dụng các phương pháp
lãnh đạo chủ yếu sau:
Sử dụng tư vấn khoa học phục vụ lãnh đạo. Đảng phải có hệ thống các
cơ quan tư vấn khoa học và đội ngũ chuyên gia giúp các cơ quan lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước ban hành quyết sách kinh tế đúng đắn.
Xây dựng hệ thống thông tin kinh tế-xã hội phục vụ các cấp lãnh đạo.
Việc xây dựng hệ thống thông tin, tư liệu về kinh tế-xã hội cho các cấp lãnh đạo
phải bảo đảm có nguồn thông tin đầy đủ, tin cậy, kịp thời, khách quan và khoa
học.
Thực hiện lãnh đạo điểm để rút kinh nghiệm, hình thành mô hình, thể
chế kinh tế điển hình. Lãnh đạo phải toàn diện, nhưng có trọng điểm, thông qua
các trọng điểm và điển hình tốt để tổng kết, rút kinh nghiệm, hình thành lý
luận chỉ đạo thực tiễn trên diện rộng.

Tổng kết thực tiễn, xây dựng lý luận chỉ đạo hoạt động kinh tế. Quá
trình tổng kết thực tiễn phải tuân theo phương pháp luận mácxít, nhằm hình
thành các quan điểm mới, lý luận mới đáp ứng yêu cầu chỉ đạo kinh tế hiện
nay.

10


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

Chương II: ĐẢNG BỘ AN GIANG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH
TẾ MẬU DỊCH BIÊN GIỚI TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAY
1. Thực trạng
Những tiềm năng phát triển kinh tế mậu dịch biên giới ở An Giang
An Giang hiện là một trong những tỉnh biên giới có nhiều tiềm năng và
điều kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế thị trường đa dạng, trong đó loại
hình kinh tế mậu dịch biên giới đang là một lợi thế so sánh lớn của tỉnh với các tỉnh
biên giới khác có đường biên giới tiếp giáp với Campuchia. Là một trong mười tỉnh
có lợi thế về đường biên giới khi tiếp giáp cả đường bộ và đường thủy. An Giang có
đường biên giới tiếp giáp với Vương quốc Campuchia dài gần 100 km, qua 05
huyện thị biên giới là: thị xã Tân Châu, huyện An Phú, thị xã Châu Đốc, huyện
Tịnh Biên và huyện Tri Tôn. [Xem phần phụ lục, bảng 2]. Với ưu thế này, An
Giang đang có một nguồn lực lớn để đẩy mạnh hoạt động phát triển kinh tế mậu dịch
biên giới ( chiếm gần 50% giá trị nguồn lực toàn tỉnh). Cùng với ưu thế trên, An
Giang còn có mạng lưới giao thông đường bộ là Quốc lộ 91 nối với Quốc lộ 2 của
Campuchia tại cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên - Phnom Den giữa tỉnh An Giang và
tỉnh Takeo. Mạng lưới giao thông đường thủy cũng khá thuận lợi gồm hai con sông
lớn là sông Tiền và sông Hậu, là tuyến lưu thông đường thủy quan trọng tạo nên một
hệ thống giao thông nối các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long với
Campuchia qua cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương - sông Tiền ngược lên sông Bassac,

tỏa ra Lào, Thái Lan và vùng biển Đông. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc mở cửa,
hội nhập và phát triển của toàn vùng với các nước trong khu vực ASEAN. Lợi thế về
hệ thống cửa khẩu là điều kiện tốt để An Giang trở thành nơi trung chuyển hàng Việt
Nam sang Campuchia, đồng thời còn là cửa ngõ để hàng hóa trong nước tiếp cận
với thị trường các nước trong khu vực Asean. Đặc biệt, nếu so với hệ thống cửa
khẩu của các tỉnh có chung đường biên giới tiếp giáp Campuchia như: Mộc Bài
(Tây Ninh), Thường Phước (Đồng Tháp), Xà Xýa (Kiên Giang), Lê Thanh (Gia
Lai)… thì khoảng cách từ các cửa khẩu An Giang đến thủ đô Phnom Penh chỉ dài gần 76
km hay tuyến đường thủy từ cửa khẩu Vĩnh Xương đến thủ đô Phnom Penh dài 80
km hoặc cửa khẩu Khánh Bình - Chsey Thom chỉ cách thủ đô Phnom-Penh khoảng
70 km,… vị trí này không những thuận lợi cho phát triển du lịch mà còn rút ngắn
thời gian và chi phí trung chuyển hàng hóa cho các doanh nghiệp.
Ngoài những tiềm năng, lợi thế về vị trí điạ lý, địa hình, An Giang là một
11


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

trong ba tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long có đông dân tộc Khơ-mer sinh sống.
Toàn tỉnh có 86.592 người, chiếm tỷ lệ 75,54% tổng số người dân tộc thiểu số và
chiếm 4% dân số toàn tỉnh; trong đó có gần 80.000 người sống tập trung ở hai huyện
miền núi Tri Tôn và Tịnh Biên. Chính sự tương đồng về ngôn ngữ, phong tục tập
quán… đã giúp cho cư dân hai bên biên giới càng thắt chặt tình đoàn kết láng giềng.
Đồng thời,với phương châm "láng giềng hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện,
bền vững lâu dài", quan hệ hợp tác giữa An Giang và hai tỉnh Takeo, Kandal của
Vương quốc Campuchia luôn diễn ra hết sức tốt đẹp. Lãnh đạo hai bên cũng thường
xuyên có những chuyến thăm, học tập trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau với tinh thần
hữu nghị và tôn trọng pháp luật của mỗi nước. Những mối quan hệ này đã góp phần
giữ vững trật tự an toàn xã hội, an ninh biên giới, hình thành nên một môi trường
giao thông ổn định trên địa bàn biên giới An Giang.

Bên cạnh đó, với Quyết định số 942/QĐ-TTg, ngày 16/4/2009, An Giang trở
thành một trong bốn tỉnh thành vùng kinh tế trọng điểm thuộc khu vực đồng bằng
sông Cửu Long (sau Cần Thơ, Cà Mau và Kiên Giang ). Đây là điều kiện thuận lợi
rất lớn để An Giang phát triển một nền kinh tế thị trường toàn diện nói chung và
một nền kinh tế mậu dịch biên giới bền vững nói riêng.
Như vậy, với những tiềm năng, lợi thế trên, An Giang đang có đầy đủ những
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế mậu dịch biên giới.
Chủ trương của Đảng bộ An Giang
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ VIII (tháng 03/2006) chủ
trương tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế mậu dịch biên giới, xem kinh tế mậu
dịch biên giới là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, tạo bước đột phá để đảm
bảo thực hiện thắng lợi Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội An Giang. Đại hội
khẳng định: "Tập trung phát triển dịch vụ - thương mại xem đây là mũi nhọn có ý
nghĩa quyết định đến tốc độ phát triển. Trong đó, tập trung cho phát triển du lịch,
kinh tế biên giới và các ngành dịch vụ có giá trị cao, có nhu cầu và điều kiện phát
triển", và "Phát triển mạnh các khu thương mại, khu kinh tế biên giới, cửa khẩu,
bảo đảm hàng hóa thông suốt trong thị trường nội địa và giao lưu buôn bán với nước
ngoài, hướng mạnh vế xuất khẩu".
Qua đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy cũng đã ban hành Chỉ thị số 11-CT/TU,
ngày 15/09/2006 về việc đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng phát triển Khu kinh tế
cửa khẩu An Giang đến năm 2010, với một số nhiệm vụ và giải pháp cụ thể sau:
" Một là, đẩy mạnh đầu tư phát triển kinh tế cửa khẩu làm khâu đột phá để
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2006 - 2010. Xác định, nâng cao nhận
12


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

thức trong Đảng bộ về lợi thế biên giới, nhất là các cửa khẩu quốc tế, quốc gia là
cửa ngõ của vùng Tây Nam bộ và thành phố Hồ Chí Minh vào khu vực Asean

trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO.
Đầu tư xây dựng phát triển các khu vực kinh tế cửa khẩu nhằm tạo cơ hội và làm tiền
đề phát triển mang tính lâu dài, tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh; tác động tích cực đến mối quan hệ hợp tác hữu nghị,
hòa bình cùng phát triển giữa nhân dân An Giang với nhân dân các tỉnh có chung
đường biên giới nói riêng, giữa dân tộc Việt Nam và dân tộc Campuchia nói chung.
Hai là, tập trung triển khai thực hiện theo quy hoạch khu kinh tế cửa khẩu
Tịnh Biên, Vĩnh Xương và tổ chức lập, trình duyệt quy hoạch khu kinh tế cửa khẩu
Khánh Bình.
Ba là, hoàn chỉnh đề án và các thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ quyết định
ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của khu kinh tế cửa khẩu của tỉnh ngay
trong năm 2006 để từ đó có cơ chế chính sách cơ bản, đặc thù cho khu kinh tế cửa
khẩu của tỉnh. Tập trung nguồn vốn đầu tư và tổ chức tốt việc kêu gọi đầu tư để
khai thác tốt quỹ đất vừa tạo lập ở các khu kinh tế cửa khẩu. Tập trung vốn ngân
sách đầu tư cho các công trình có tính chất cơ sở, các công trình phục vụ tái định cư
và phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng. Thực hiện tốt nguồn vốn đầu tư có mục tiêu
do Trung ương để lại đầu tư cho khu kinh tế cửa khẩu.
Bốn là, đẩy nhanh tiến độ bồi hoàn, giải phóng mặt bằng và tiến độ triển
khai thi công xây dựng các công trình trọng điểm của khu kinh tế cửa khẩu.
Năm là, đầu tư xây dựng khu kinh tế cửa khẩu phát triển gắn chặt với an
ninh quốc phòng. Đảm bảo giao thương thông suốt và an ninh biên giới ổn định.
Ban cán sự Đảng uỷ, Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng chương trình, kế
hoạch triển khai thực hiện từng giai đoạn; quan tâm việc giao trách nhiệm cụ thể,
rõ ràng và sự phối hợp của các cơ quan liên quan; củng cố, kiện toàn bộ máy quản
lý, thường xuyên kiểm tra, hằng năm có sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện và báo
cáo kịp thời cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy".
Quán triệt chủ trương, chỉ thị trên của Đảng bộ, sở Công thương An Giang
đã tham mưu với UBND tỉnh An Giang phê duyệt " Chương trình phát triển kinh tế
biên giới tỉnh An Giang giai đoạn 2006 - 2010". Đây là một trong 13 Chương trình
trọng điểm của tỉnh An Giang.

Mục tiêu tổng quát của Chương trình là: "Khai thác tiềm năng cửa khẩu, tạo ra
một động lực mới cho sự phát triển kinh tế của tỉnh, cần tập trung xây dựng và phát
triển các khu vực cửa khẩu biên giới để thu hút vốn đầu tư phát triển sản xuất,
13


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

thương mại biên giới, dịch vụ, du lịch, thúc đẩy và tranh thủ tận dụng cơ hội từ hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực Asean. Phát triển cơ sở hạ tầng và khu thương mại
dịch vụ kết hợp với bố trí dân cư vừa phát triển kinh tế, vừa đảm bảo an ninh quốc
phòng". Cùng với mục tiêu tổng quát, Chương trình cũng đã định hướng nội dung
hoạt động. Cụ thể là: " Tiến hành thực hiện quy hoạch và đầu tư phát triển các khu
kinh tế cửa khẩu Tịnh Biên, Vĩnh Xương, Khánh Bình; kêu gọi đầu tư và khuyến
khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế cửa
khẩu; kiến thiết thị trấn Tân Châu trở thành thương cảng để giao lưu buôn bán
đường sông với các nước trong khu vực Asean".
Qúa trình Đảng bộ An Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Để thực hiện thắng lợi những chủ trương,
mục tiêu chung của Đảng bộ tỉnh đề ra về công tác phát triển kinh tế mậu dịch biên
giới trên địa bàn tỉnh từ năm 2006 đến nay, Ủy ban nhân dân tỉnh cùng với các sở,
ngành có liên quan đã lập và triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án trọng
điểm, trong đó tỉnh đặc biệt chú trọng công tác đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển khu
kinh tế biên giới. Cụ thể như sau:
Thực hiện Quyết định số 65/2007/QĐ-TTg ngày 11-05-2007 của Thủ tướng
chính phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động của khu kinh tế của khẩu tỉnh An
Giang, Đảng bộ An Giang đã tập trung đầu tư xây dựng khu kinh tế cửa khẩu An
Giang với tổng diện tích là 26.538 ha, bao gồm: khu vực của khẩu Vĩnh Xương, khu
vực cửa khẩu Khánh Bình và khu vực cửa khẩu Tịnh Biên, với tổng nguồn vốn hỗ

trợ đầu tư là 129 tỷ đồng, trong đó vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương là 16 tỷ
đồng/năm và từ nguồn quỹ đất sạch của tỉnh là 26 tỷ đồng/năm. Nhờ sự quan tâm,
chỉ đạo kịp thời và thường xuyên của Đảng bộ, UBND tỉnh cùng sự nỗ lực, cố gắng
của các ban ngành, khu vực cửa khẩu của tỉnh không ngừng phát triển về quy mô.
Thực hiện chỉ thị số 11-CT/TU ngày 15-09-2006 của Tỉnh ủy về việc đẩy
mạnh tiến độ đầu tư xây dựng phát triển Khu kinh tế của khẩu đến năm 2010; trong
điều kiện nguồn vốn đầu tư còn nhiều khó khăn thì cần ưu tiên tập trung đầu tư khu
vực cửa khẩu Tịnh Biên
Đồng thời, để tăng tính hiệu quả trong công tác quản lí và điều hành với
chức năng và nhiệm vụ được quy định cụ thể, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã
kiến nghị, đề xuất với các Bộ, ngành Trung ương và Chính phủ về việc hợp nhất
Ban quản lí Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang (được thành lập theo Quyết định
số 1474/QĐ-TTg ngày 07-11-2007 của Thủ tướng Chính phủ) với Ban quản lí các
khu công nghiệp tỉnh An Giang ( được thành lập theo Quyết định số 457/QĐ -TTg
14


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

ngày 18-04-2007 của Thủ tướng Chính phủ) thành Ban quản lí khu kinh tế tỉnh An
Giang (được thành lập theo quyết định số 1944/QĐ-TTg ngày 26-11-2009 của Thủ
tướng Chính phủ). Cùng với việc tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng khu kinh tế của khẩu,
Đảng bộ An Giang cũng quan tâm đến việc xúc tiến công tác triển khai nâng cấp cơ
sở hạ tầng, đường giao thông khu vực cửa khẩu.
Về cơ chế chính sách phát triển kinh tế mậu dịch biên giới: Nhằm tăng khả
năng thu hút đầu tư, ngoài chính sách ưu đãi theo luật định, An Giang đã tiếp tục
triển khai nhiều chính sách ưu đãi riêng, phù hợp với điều kiện mới của tỉnh khi các
doanh nghiệp đầu tư vào khu kinh tế cửa khẩu An Giang. Được hưởng ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp cho các cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư
thực hiện tại khu kinh tế cửa khẩu tỉnh, áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm, kể từ

khi bắt đầu đi vào hoạt động kinh doanh, sau thời hạn trên phải nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp với mức thuế suất là 28%; được miễn thuế 4 năm, kể từ khi có thu
nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 9 năm tiếp theo đối với cơ sở
kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư. Đồng thời, thực hiện theo Quyết định số
24/2009/QĐ- TTg ngày 17-02-2009 về Quy chế kinh doanh hàng miễn thuế, chính
sách miễn giảm thị thực biên giới, các doanh nghiệp khi tham gia đầu tư kinh
doanh tại khu thương mại Tịnh Biên còn được hưởng thêm chính sách đặc thù về
bán hàng miễn thuế ở mức không quá 500 ngàn đồng/người/ngày. Tỉnh cũng đã kiến
nghị Bộ ngành Trung ương về các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế biên giới
như: Quyết định số 22/2008/QĐ- BCT ngày 31-07-2008 của Bộ Công Thương về
việc ban hành Quy chế chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu;
Quyết định số 33/2009/QĐ- TTg ngày 02-02-2009 về ban hành cơ chế chính sách
tài chính đối với khu kinh tế cửa khẩu. Ngoài ra, Ban điều hành Chương trình phát
triển kinh tế biên giới đã đề xuất UBND tỉnh ban hành Quyết định số 03/2007/QĐUBND ngày 11-01-2007 về 26 chợ biên giới, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu.
Về công tác xúc tiến thương mại: Nhằm mục tiêu giành, giữ và mở rộng thị
trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, với phương châm: " Hướng
mạnh về xuất khẩu, cung cấp thông tin thị trường về xuất và nhập khẩu, tạo thuận
lợi tối đa cho các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường…". Đảng bộ An Giang đã
chỉ đạo Ban điều hành chương trình phát triển kinh tế biên giới trên cơ sở thực hiện
lồng ghép "Chương trình phát triển kinh tế biên giới giai đoạn 2006 - 2010" với
"Chương trình xúc tiến đầu tư- thương mại- du lịch tỉnh An Giang giai đoạn 20072010" (Quyết định số 2520/QĐ-UBND, ngày 17/9/2007)… nhanh chóng lập và triển
15


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

khai các kế hoạch hướng tới hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá hàng Việt
Nam đến người tiêu dùng Campuchia. Ban điều hành Chương trình phát triển kinh
tế biên giới tỉnh đã mạnh dạn đề xuất và phối hợp với các sở, ngành liên quan và với
Ủy ban nhân dân hai huyện An Phú và Tịnh Biên tổ chức Hội chợ đường biên định

kỳ hàng năm.
1.1. Những thành tựu
Trong 5 năm (2006-2010), tổng giá trị xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu
biên giới An Giang ước đạt gần 3,9 tỷ USD, tăng 3,65 lần so với giai đoạn 2001 2005, với mức tăng trường bình quân là 21%/năm. Riêng năm 2010, tổng giá trị
xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu biên giới ước đạt khoảng 1,2 tỷ USD (vượt 500
triệu USD so chỉ tiêu, tương đương 72%). Các doanh nghiệp An Giang xuất khẩu
qua thị trường Campuchia đạt gần 80 triệu USD. Hiện, khu kinh tế cửa khẩu An
Giang có 25 nhà đầu tư đăng ký hoạt động, vốn đăng kí gần 1.600 tỷ đồng thuộc các
lĩnh vực siêu thị, kho bãi hàng hóa, chế biến hàng mộc mỹ nghệ, nước giải khát,
nông sản thực phẩm, chợ và khu dân cư… trong đó, khu vực cửa khẩu Tịnh Biên đã thu
hút đầu tư khoảng 850 tỷ đồng. Đặc biệt, có 40 doanh nghiệp tập trung đăng ký bán
hàng miễn thuế tại khu thương mại Tịnh Biên với vốn đăng ký trên 350 tỷ đồng. Và
sau hai năm đi vào hoạt động, tổng doanh số bán hàng tại khu thương mại miễn thuế
Tịnh Biên ước đạt 1.700 tỷ đồng; riêng năm 2010 là 1.200 tỷ đồng (bình quân mỗi
tháng doanh thu đạt 100 tỷ đồng) và có khoảng 1,8 triệu lượt khách đến tham quan,
mua sắm, giải quyết hơn 450 lao động (chủ yếu là người dân địa phương)… góp
phần thúc đẩy phát triển nhanh các dịch vụ hỗ trợ như ăn uống, nhà trọ, vận chuyển,
bốc dỡ hàng hóa.
Bên cạnh đó, trong 26 chợ biên giới, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu thì
hiện có hai chợ là chợ Tịnh Biên và chợ Long Bình hoạt động mang tính mậu dịch
biên giới với tổng doanh số bán của hai chợ ước đạt khoảng 330 tỷ đồng/năm;
lượng khách ước đạt gần 900 ngàn người (bao gồm cư dân phía Campuchia). Hàng
Việt tại các chợ luôn chiếm ưu thế đến 50%, hàng Thái là 30% và Trung Quốc là
10%, còn lại là nước khác.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ An Giang và sự nỗ lực của các cơ quan, ban,
ngành, công tác xúc tiến thương mại vùng biên của tỉnh đã đạt được những thành tựu
đáng kể. Số lượng gian hàng của Campuchia tham gia Hội chợ năm sau luôn cao hơn
năm trước: năm 2007 là 25 gian hàng, năm 2008 là 30 gian hàng, năm 2009 là 40
gian hàng và đến năm 2010 là 62 gian hàng. Đặc biệt, trong năm 2010, thông qua
16



Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

công tác xúc tiến thương mại, An Giang đã thu hút trên 15 nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ
hội đầu tư trong khu kinh tế cửa khẩu.
Như vậy, nhìn chung từ năm 2006 đến 2010, hoạt động xuất nhập khẩu
mậu dịch biên giới qua các cửa khẩu của tỉnh liên tục tăng và chiếm 65 - 70%
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của 10 tỉnh biên giới tiếp giáp Campuchia.
Kết quả này chẳng những khẳng định được vị trí quan trọng của các cửa
khẩu trên địa bàn tỉnh trong việc giao thương giữa các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long với Vương quốc Campuchia và là cửa ngõ để hàng hóa trong nước tiếp cận với
thị trường các nước trong khu vực Asean mà còn góp phần thúc đẩy hiệu quả kinh
tế - xã hội của năm huyện, thị xã biên giới.Cùng với hoạt động mậu dịch biên giới
phát triển, nhiều hoạt động dịch vụ đã ra đời, góp phần tăng thu nhập, tạo công ăn
việc làm cho người dân vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc.
Ngoài ra, với sự bổ sung và hoàn chỉnh một số cơ chế chính sách phát triển
kinh tế vùng biên kịp thời, hoạt động buôn lậu tại các khu vực cửa khẩu cũng đang
từng bước được đẩy lùi. Số vụ vi phạm xử lý hành chính giảm rõ rệt (số vụ vi phạm
năm sau ít hơn năm trước từ 10 - 15%).
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động mậu dịch biên giới trên địa bàn
tỉnh vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, còn nhiều khuyết điểm.
1.2. Khuyết điểm, nguyên nhân
Việc triển khai xây dựng các công trình, dự án ba khu vực kinh tế cửa khẩu
còn chậm; ngân sách đầu tư cho các khu kinh tế cửa khẩu quá thấp so với nhu cầu
thực tế; hầu hết các tuyến giao thông tại các khu kinh tế cửa khẩu, đặc biệt là các
tuyến đường giao thông từ nội địa dẫn ra các khu vực cửa khẩu còn rất yếu kém cả
quốc lộ và tỉnh lộ, không đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư; các cơ sở hạ
tầng khác như điện, nước, xử lý nước thải, rác thải… phục vụ hoạt động các khu
kinh tế cửa khẩu chưa có, hiện nay vẫn còn phải sử dụng hạ tầng cơ sở sẵn có của

địa phương biên giới; việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển cho khu kinh
tế cửa khẩu còn hạn chế, nhất là nguồn vốn trong dân cư, vốn của các nhà đầu tư
trong và ngoài nước do chưa hình thành được cơ chế chính sách đặc thù; hoạt động
xúc tiến thương mại chưa đáp ứng được yêu cầu, phần lớn các doanh nghiệp xuất,
nhập khẩu chưa chủ động tiếp nhận và khai thác thông tin; một số chính sách hỗ
trợ phát triển khu vực cửa khẩu chưa ổn định, ngắn hạn và thiếu nhất quán, chẳng
hạn như chính sách mua hàng miễn thuế tại khu thương mại Tịnh Biên,… đã làm cho
các doanh nghiệp chưa an tâm khi bỏ vốn đầu tư; kinh tế, đời sống của cư dân địa
17


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

phương biên giới có nhiều thay đổi, tuy nhiên sự tham gia của cộng đồng người
dân tộc vẫn chưa có sự chuyển biến rõ nét.
* Như vậy, mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế, nhưng hoạt động
phát triển kinh tế mậu dịch biên giới luôn được Đảng bộ An Giang và các ban
ngành, chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm và đầu tư thông qua hàng loạt
chủ trương, chính sách, chương trình và dự án. Hoạt động mậu dịch biên giới đã
được thực hiện có kế hoạch, có bước đi, có biện pháp và cách làm phù hợp, đã gắn
kết giữa tăng trưởng kinh tế với an ninh trật tự biên giới, với chất lượng đời sống cư
dân vùng biên. Hoạt động mậu dịch biên giới An Giang đang ngày càng phát huy
hiệu quả, tiềm năng và thế mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết chung
về phát triển kinh tế- xã hội trên toàn tỉnh.
2. Giải pháp phát triển kinh tế mậu dịch biên giới An Giang trong thời
gian tới
Giai đoạn 2006 - 2010, thực hiện Chương trình phát triển kinh tế biên giới
nói chung và kinh tế mậu dịch biên giới nói riêng, Đảng bộ An Giang đã đề ra nhiều
giải pháp, đồng thời triển khai thực hiện lồng ghép với nhiều chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu chung đề ra. Toàn Đảng

bộ đã tập trung triển khai thực hiện các công trình, dự án, chính sách ưu đãi trọng
điểm, …tạo điều kiện cho kinh tế mậu dịch biên giới trên địa bàn ngày càng phát triển hiệu
quả và bền vững.
Về phía Trung ương
Về cơ chế chính sách: Để hoạt động mậu dịch biên giới ngày càng phát triển
đúng tầm và bền vững, Đảng và Nhà nước cần ban hành chiến lược phát triển kinh
tế mậu dịch biên giới cụ thể, áp dụng cho tất cả các tỉnh có đường biên giới tiếp giáp
với ba nước láng giềng: Trung Quốc, Lào, Campuchia; cần có nghị quyết chuyên đề
về phát triển kinh tế mậu dịch biên giới để định hướng cho hoạt động mậu dịch biên
giới phát triển hiệu quả hơn và bền vững hơn. Chính phủ cần xem xét và tiếp tục cho
phép kéo dài thời gian về cơ chế bán hàng miễn thuế tại khu thương mại miễn thuế
Tịnh Biên, đồng thời cho phép thực hiện cơ chế này đối với khu vực kinh tế cửa
khẩu Vĩnh Xương và Khánh Bình nhằm tạo động lực và thu hút các nhà đầu tư phát
triển kinh tế biên giới đối với hai khu vực cửa khẩu này.
Mỗi tỉnh, vùng biên giới đều có những đặc trưng, tiềm năng riêng. Vì vậy,
Chính phủ cần có những chính sách hỗ trợ, chính sách thu hút đầu tư phù hợp với
đặc thù từng tỉnh, từng vùng.
Về quy hoạch phát triển vùng biên giới: Bộ ngành Trung ương cần khẩn
18


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

trương trong việc hoàn thành các quy hoạch phát triển vùng biên giới nhất là quy
hoạch và đầu tư các cặp chợ biên giới. Hiện một số công trình, dự án đầu tư cơ sở hạ
tầng trọng điểm trên địa bàn tỉnh An Giang như quốc lộ 91 đoạn Châu Đốc- Tịnh Biên,
cầu Long Bình- Chrey Thom bắc qua sông Bình Di nối tỉnh lộ 956 với quốc lộ 2
thuộc tỉnh Kandal đến thủ đô Phnom Penh,…Trung ương cần sớm có sự chỉ đạo đẩy
nhanh, rút ngắn tiến độ đầu tư xây dựng. Đồng thời, để tạo môi trường trung
chuyển, giao thương dễ dàng giữa hai nước, Chính phủ cần có sự hỗ trợ nâng cấp tỉnh

lộ 956 từ thị trấn An Phú đến cửa khẩu Khánh Bình bởi đoạn đường này hẹp nhưng
lưu lượng phương tiện đi lại rất nhiều, gây khó khăn cho việc vận chuyển hàng hóa…
Về vốn đầu tư: Chính phủ cần tăng cường vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung
ương cho các khu vực kinh tế cửa khẩu An Giang để có thể đẩy nhanh tiến trình
xây dựng hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng tại các khu vực kinh tế cửa khẩu. Hiện
nay, một số hạng mục, công trình, dự án trọng điểm thuộc các khu vực kinh tế cửa
khẩu An Giang vẫn chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ, đặc biệt là cơ sở hạ tầng
khu vực kinh tế cửa khẩu Khánh Bình và Vĩnh Xương.
Về phía Đảng bộ và Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang
Đảng bộ An Giang cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nhằm tạo
sự thống nhất nhận thức về quan điểm, mục đích phát triển kinh tế biên mậu trong
toàn Đảng bộ và sự đồng thuận của xã hội. Mặc dù đã chính thức đưa vào mục tiêu,
kế hoạch phát triển gần mười năm nay nhưng An Giang vẫn chưa xây dựng được
nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế mậu dịch biên giới… Điều này sẽ gây rất
nhiều khó khăn trong việc xây dựng mục tiêu, các kế hoạch và chương trình trọng
điểm dành riêng cho phát triển kinh tế mậu dịch biên giới trên địa bàn tỉnh. Do đó,
việc xây dựng Nghị quyết chuyên đề về kinh tế mậu dịch biên giới cũng là điều đang
rất cần thiết với An Giang hiện nay trong từng giai đoạn.
Cần tăng cường công tác quảng bá, kêu gọi thu hút đầu tư bằng cách: thành
lập riêng một trang Web giới thiệu về tiềm năng và những chủ trương, định hướng,
những công trình dự án trọng điểm và những chính sách hỗ trợ phát triển riêng của
tỉnh có liên quan đến hoạt động kinh tế mậu dịch biên giới; thường xuyên cập nhật
những báo cáo tổng kết hoạt động kinh tế mậu dịch biên giới trên địa bàn năm
huyện, thị biên giới; tiếp tục tận dụng các khoản hỗ trợ kinh phí của Trung ương về
thực hiện "Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn biên giới" thông qua các kỳ
hội chợ… nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp có điều kiện quảng bá thương
hiệu và tìm hiểu nhu cầu thị trường từ nước bạn; tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhất là
19



Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

các hồ sơ, thủ tục có liên quan, đảm bảo cho nhà đầu tư triển khai nhanh dự án đầu
tư trên địa bàn. Và tại các khu vực cửa khẩu, tỉnh nên chủ động cho xây dựng thêm
hệ thống các "show room" (phòng trưng bày), tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trưng bày các sản phẩm mang thương hiệu chất lượng cao của mình. Đây vừa được
xem là một chiến thuật mới, kích cầu trực tiếp, thường xuyên thay cho những kỳ
hội chợ định kỳ nhằm quảng bá, tiếp thị liên tục các sản phẩm mới đến người tiêu
dùng, đặc biệt là đối tượng khách du lịch, cư dân các vùng biên giới lân cận, vừa là
một chính sách ưu đãi mang tính đặc thù của tỉnh nhằm thu hút các doanh nghiệp
đến An Giang đầu tư, phát triển.
Cần có sự quy hoạch thêm về xây dựng và phát triển các khu công nghiệp
chế biến tại các khu vực kinh tế cửa khẩu, thông qua lợi thế nguồn hàng tại địa
phương, đặc biệt, với nguồn rau quả, thủy sản tươi rẻ, đa dạng tại địa phương.
Các cấp, các ngành và chính quyền địa phương tại năm huyện thị biên giới
nhất là huyện Tri Tôn và Thị xã Tân Châu tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện,
hoàn thành các hạng mục công trình phục vụ sản xuất, kinh doanh vùng cửa khẩu
trên cơ sở thực hiện tốt việc đầu tư, nâng cấp các tuyến đường đảm bảo lưu thông
vận chuyển an toàn, thuận tiện,… đồng thời, cần tận dụng các chính sách hỗ trợ đầu
tư của Chính phủ xây dựng thêm hoặc nâng cấp cơ sở hạ tầng tại các cửa khẩu để
khi có điều kiện thuận lợi thì đề nghị Chính phủ nâng cấp thành các cửa khẩu quốc
gia, quốc tế tạo tiền đề phát triển kinh tế biên mậu lâu dài.
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư vào các công trình, dự án nhằm phát triển cơ sở hạ
tầng ở các Khu vực cửa khẩu vẫn còn rất thiếu. Vì vậy, Đảng bộ và UBND tỉnh cần
có những kế hoạch kêu gọi thu hút vốn hỗ trợ từ nhiều nguồn, không chỉ từ ngân
sách Nhà nước mà có thể tranh thủ các nguồn vốn viện trợ ODA, FDI hay vốn từ các
quỹ đất sạch,…
Về phía chính quyền địa phương
Các cấp chính quyền của năm huyện, thị vùng biên cần có những giải pháp
phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương trong việc phát triển loại hình kinh tế

mở này. Với hai huyện miền núi biên giới là Tri Tôn và Tịnh Biên, thì ngoài việc
tập trung thực hiện các công trình, dự án xây dựng và cải tạo hệ thống cơ sở vật
chất - kỹ thuật thương mại trên toàn vùng nhằm tạo đòn bẩy cho hoạt động mậu
dịch biên giới phát triển, chính quyền địa phương cần đẩy mạnh phát triển hệ thống
chợ vùng biên, trung tâm thương mại chuyên thực hiện các hoạt động trao đổi
hàng hóa đặc trưng của vùng như chợ nông sản, chợ bò, chợ đường thốt nốt,… tạo
20


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

một mô hình thương mại mới, mang đậm nét đặc thù của huyện.
Về phía các doanh nghiệp
Nâng cao năng lực kinh doanh, phù hợp với điều kiện kinh doanh,… hiện là
vấn đề quan trọng, quyết định sự thành công không chỉ cho doanh nghiệp mà cho cả
xã hội. Cá nhân đề xuất một số giải pháp như: Để tạo được thế đứng vững chắc trên
thị trường Campuchia, các doanh nghiệp cần có những chính sách đầu tư đủ mạnh,
có tính đột phá để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, cải tiến mẫu mã,
chủng loại sản phẩm đặc biệt là nâng cao chất lượng hàng hóa và hạ giá thành sản phẩm.
Hiện, các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh xuất nhập khẩu qua biên giới
trên bộ với các nước láng giềng chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động
kinh doanh có tính "thương vụ", ít có tầm nhìn dài hạn và chưa có chiến lược kinh
doanh cụ thể. Để duy trì và phát triển bền vững hoạt động kinh doanh, các doanh
nghiệp cần phải hoạch định một chiến lược kinh doanh lâu dài. Để hoạch định
chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp cần phải căn cứ vào chiến lược xuất nhập
khẩu chung của Việt Nam và các cơ chế điều hành hoạt động xuất nhập khẩu trong
từng thời kỳ; phân tích môi trường kinh doanh quốc tế và khu vực, thực tiễn thị
trường của Việt Nam và nước bạn; tình hình cạnh tranh và đặc điểm của doanh
nghiệp để hoạch định chiến lược cho sát thực và cụ thể; tiếp đó cần xác định
mục tiêu, nội dung, biện pháp và cách thức tổ chức thực hiện sao cho hiệu quả

cao nhất. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên
cứu thị trường và xúc tiến thương mại, nhằm xâm nhập, mở rộng thị trường và tổ
chức các hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất, nhập khẩu.
Ngoài ra, một nguyên tắc mà dù ở bất cứ thời kỳ nào, trong hoàn cảnh nào,
các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ cũng đều phải thực hiện nghiêm túc, chính là "chữ
tâm" và "chữ tín". Dù trong sản xuất hay phân phối, các doanh nghiệp Việt Nam phải
đảm bảo được yếu tố chất lượng cho sản phẩm. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam
tạo được những mặt hàng chất lượng cao sẽ đồng nghĩa với việc tạo cho mình một
thương hiệu vững chắc trên thị trường và trong sự chọn lựa của người tiêu dùng.
Chính yếu tố chất lượng sẽ giúp các doanh nghiệp tạo được uy tín, mở rộng được
hoạt động kinh doanh trên mọi loại thị trường và ở mọi nơi, mọi thời điểm…

21


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

KẾT LUẬN
Trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo những chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế mậu dịch biên giới của Trung ương, trong suốt 10 năm qua, đặc
biệt là trong năm năm trở lại đây nền kinh tế mậu dịch biên giới An Giang đã
không ngừng phát triển và gặt hái thành công về nhiều mặt, góp phần quan trọng
vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của An Giang nói
riêng và của cả nước nói chung.
Đảng bộ An Giang đã đề ra những chủ trương, giải pháp phù hợp để thúc
đẩy hoạt động mậu dịch biên giới phát triển. Một số hiệp định, thỏa thuận giữa An
Giang và hai tỉnh Kandal, Takeo (Campuchia) đã được Chính phủ hai bên ký kết,
nhiều khu vực cửa khẩu và chợ biên giới đã được mở ra, kim ngạch xuất nhập khẩu
giữa An Giang nói riêng và Việt Nam nói chung với Campuchia liên tục tăng qua
các năm, các mặt hàng trao đổi ngày một phong phú… Tình hình xuất, nhập khẩu

qua biên giới đã và đang diễn ra sôi động.
Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới, An Giang đã
xuất khẩu một khối lượng lớn hàng hóa bao gồm các mặt hàng chủ lực của tỉnh như
nông sản, vật liệu xây dựng, một số hàng tiêu dùng, mỹ nghệ… Ngược lại, cũng nhập
khẩu được một số vật tư thiết bị, nguyên nhiên liệu phục vụ các ngành sản xuất và một
số hàng tiêu dùng phục vụ dân cư.
Đây là kết quả rất lớn góp phần đẩy mạnh kim ngạch xuất nhập khẩu của
An Giang nói riêng và Việt Nam nói chung với Campuchia, thúc đẩy phát triển sản
xuất tạo ra sự sôi động của thị trường hàng hóa từ nội địa đến biên giới, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, tăng thu ngân sách… Sự phát triển kinh tế mậu dịch
biên giới đã tạo điều kiện hình thành các khu, cụm tuyến dân cư tập trung dọc biên
giới, cơ sở hạ tầng ngày càng được mở rộng v.v… góp phần cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần của dân cư các địa phương biên giới, giữ vững an ninh quốc phòng, tăng
cường tình đoàn kết hữu nghị láng giềng.
Thành tựu này là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ An Giang.
Đảng bộ đã đề ra những chủ trương, chính sách tích cực vừa phù hợp với lợi thế và
điều kiện cụ thể của An Giang, vừa phù hợp với quan điểm thực hiện đường lối đổi
mới, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm hướng tới mục tiêu phát triển "dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh" của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cùng với sự lãnh đạo đúng đắn, Đảng bộ An Giang rất coi trọng việc đoàn kết nội
bộ, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Đồng thời, trong quá trình lãnh đạo xây
22


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

dựng và phát triển An Giang, Đảng bộ tỉnh luôn nắm vững chủ trương, chính sách
hỗ trợ phát triển của Trung ương, biết vận dụng phù hợp vào tình hình thực tiễn của
tỉnh; đặc biệt là biết phát huy những tiềm năng, lợi thế của từng huyện, thị biên giới,
của từng khu vực cửa khẩu để đề ra những chủ trương, chính sách, bước đi, biện

pháp và cách làm phù hợp. Tiêu biểu là hình thành khu thương mại phi thuế quan,
xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển khu kinh tế cửa khẩu, tạo
vốn hỗ trợ từ chính nguồn quỹ đất sạch tại các khu vực cửa khẩu,… đưa kinh tế mậu
dịch biên giới An Giang phát triển bền vững.
Hiện nay, đất nước đang trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện
chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa,… trước
bối cảnh đó, Việt Nam nói chung, An Giang nói riêng vừa đứng trước nhiều thời cơ,
thuận lợi lớn, đồng thời cũng phải đối mặt với những nguy cơ thử thách lớn. Để có
thể tiếp tục nâng cao hiệu quả phát triển của kinh tế mậu dịch biên giới cũng như
để kinh tế mậu dịch biên giới ngày càng phát huy được tiềm năng, lợi thế sẵn có,
trong thời gian tới, đòi hỏi Đảng bộ An Giang phải phát huy hơn nữa vai trò lãnh
đạo, phải không ngừng năng động, sáng tạo, củng cố tổ chức Đảng trong sạch,
vững mạnh để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới; phải tăng cường công tác
quản lý, đề ra những bước đi và giải pháp phù hợp với đặc thù của địa phương để
kinh tế mậu dịch biên giới An Giang ngày càng phát triển hiệu quả hơn, bền vững
hơn.

23


Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo chương trình phát triển biên giới giai đoạn 2006-2010 của Ban
điều hành chương trình phát triển kinh tế biên giới An Giang..
2. Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2010 của Ban quản lý khu
kinh tế An Giang.
3. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, nhiệm
kỳ 2006-2010.
4. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010-2015.

5. Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Nxb Chính
trị Quốc gia, 2009.
6. Trương Duy Hòa - Kinh tế các nước Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc
gia, 2002.
7. Vũ Thị Ngọc Phùng- Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb Lao động-xã hội,
2006.
8. Chương trình phát triển kinh tế biên giới An Giang giai đoạn 2006-2010.
9. Chuyên đề về đặc điểm tình hình khu vực biên giới và thực trạng hệ
thống cửa khẩu thuộc tỉnh An Giang của Sở Kế hoạch và Đầu tư An Giang, 2010.
10. Quyết định số 254/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc
quản lý hoạt động thương mại biên giới và các nước có chung biên giới.
11. Quyết định số 65/2007/QĐ-TTg ngày 11-5-2007, của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành quy chế hoạt động của khu kinh tế cửa khẩu An Giang.
12. Quyết định số 1474/2007/QĐ-TTg ngày 04-10-2007, của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập Ban Quản lý khu kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang.
13. Quyết định số 24/2009/QĐ-TTg ngày 17-02-2009, của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quy chế kinh doanh bán hàng miễn thuế.
14. Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02-02-2009, của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với khu kinh tế cửa
khẩu.
15. Quyết định số 100/2009/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành quy chế hoạt động của khu phi thuế quan trong khu kinh tế, khu kinh tế cửa
khẩu.
16. Chỉ thị số 11- CT/TU, ngày 15-09-2006 của Tỉnh ủy An Giang về
đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng phát triển khu kinh tế cửa khẩu An Giang đến
năm 2010.
17. Quyết định số 23/2008/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh An
24



Đảng bộ tỉnh Ang Giang lãnh đạo phát triển kinh tế mậu dịch biên giới

Giang về việc ban hành quy chế mua hàng miễn thuế tại khu thương mại công
nghiệp Tịnh Biên.
18. Quyết định số 44/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang về
việc ban hành quy trình việc mua bán hàng miễn thuế của khách tham quan du
lịch khu thương mại Tịnh Biên.
19. Giáo trính Đảng lãnh đạo lãnh đạo các lĩnh vực chủ yếu của đời sống
xã hội của Học viện Báo chí và Tuyên Truyền.
20. Tài liệu phục vụ môn học Xây dựng Đảng, của Học Viện Xây dựng
Đảng, Nxb Chính trị-Hành chính, 2010.
htt//www. Angiang.gov.vn
htt//www. Baoangiang.com.vn
htt//www.Google.com.vn

25


×