Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tư DUY mới CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH ĐƯỜNG lối xây DỰNG nền QUỐC PHÒNG TOÀN dân TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.37 KB, 15 trang )

1

TƯ DUY MỚI CỦA ĐẢNG TRONG XÁC ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI XÂY
DỰNG NỀN QUỐC PHỊNG TỒN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY.
===============
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã từng bước đổi mới tư
duy trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) xã hội chủ
nghĩa (XHCN) để theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Theo tư duy mới, nhiệm vụ quốc phòng ngày nay không chỉ nhằm chống
chiến tranh xâm lược, bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia
mà còn gắn chặt với yêu cầu bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân,
bảo vệ an ninh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Khi nói đến quốc phịng, chúng ta cần hiểu đó là cơng việc giữ nước
của bất cứ một quốc gia dân tộc nào trên thế giới, không phân biệt chế độ
chính trị khác nhau. Nó bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội, đối ngoại
của một đất nước, phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng, nhiệm vụ phòng thủ
của đất nước đó. Sức mạnh của quốc phịng là sức mạnh toàn diện, cân đối
trên tất cả các lĩnh vực, trong đó sức mạnh quân sự là sức mạnh đặc trưng.
Mục đích của quốc phịng là giữ vững hồ bình, ổn định để xây dựng đất
nước, để đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù, đồng thời
đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược ở bất kỳ qui mô nào. Lực lượng tham
gia nhiệm vụ quốc phòng là tất cả mọi tầng lớp, mọi lực lượng, trong đó lực
lượng vũ trang ln đóng vai trị nịng cốt. Khi nói đến quốc phịng, người ta
bao giờ cũng gắn với an ninh để bảo vệ tổ quốc (BVTQ), bảo vệ chế độ. Để
xây dựng nền quốc phòng, mỗi quốc gia đều phải dựa trên điều kiện kinh tếxã hội, chế độ chính trị của nước mình, đồng thời phụ thuộc vào truyền thống,
lịch sử đấu tranh của mỗi nước.


2


Quốc phịng tồn dân (QPTD) là quan điểm cơ bản của Đảng ta trong
lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phịng nước cộng hồ xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, đó là nền QPTD, mang tính chất nhân dân sâu sắc. Nền quốc
phịng đó thể hiện tính tồn dân, tồn diện, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, quản lý của Nhà nước, nhằm đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm
lược, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nền QPTD là
một bộ phận hợp thành, là cơ sở để giữ vững ổn định và phát triển đất nước.
Do đó, nó ln phải có cơ cấu, tổ chức chặt chẽ, xây dựng nền QPTD là trách
nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, của cả hệ thống chính trị.
Đảng ta trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn quan
tâm xây dựng nền QPTD vững mạnh, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của cả
dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong xây
dựng và BVTQ XHCN. Khi đưa ra quan điểm xây dựng nền QPTD, Đảng ta
luôn dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về QPTD, bảo vệ tổ quốc.
Khi bàn về nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ tổ quốc XHCN, Lênin đã
nêu lên hàng loạt vấn đề cơ bản, có tính ngun tắc đối với cơng cuộc bảo vệ
tổ quốc XHCN như: Tính tất yếu khách quan phải BVTQ; những biện pháp
củng cố khả năng phòng thủ đất nước; về xây dựng nền QPTD; thành lập
quân đội kiểu mới; mối quan hệ xây dựng và BVTQ XHCN...Trong đó, Lênin
khẳng định, đối với cách mạnh Nga sau khi thành cơng, phải xây dựng nền
quốc phịng, đây là yêu cầu khách quan của chế độ XHCN, nhằm chiến đấu,
chiến thắng kẻ thù, bảo vệ tổ quốc. Khi bàn về vấn đề xây dựng và củng cố
quốc phịng, Lênin khẳng định: “Chính vì chúng ta là những người chủ
trương bảo vệ tổ quốc, cho nên chúng ta phải ln ln có một thái độ
nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị


3


chiến đấu của nước nhà”.1 Trong xây dựng nền quốc phòng XHCN, Lênin
đặc biệt coi trọng việc phát huy mạnh mẽ ưu thế chính trị tinh thần của chế độ
mới, chế độ XHCN, coi đó là cơ sở trực tiếp quyết định sức mạnh BVTQ
XHCN. Đồng thời, Lênin còn đặt nhiệm vụ BVTQ XHCN đi đôi với nhiệm
vụ xây dựng CNXH. Đây là nhiệm vụ khó khăn nhất, vì nó đòi hỏi phải cải
biến xã hội một cách mới mẻ những cơ sở sâu xa nhất. Nhưng đó cũng là
nhiệm vụ cao cả nhất, vì chỉ có khi sau khi hoàn thành nhiệm vụ ấy mới làm
cho nước nhà thực sự trở thành một nước XHCN. Để tăng cường, củng cố
quốc phòng, BVTQ, Lênin khẳng định:“Một khi chúng ta đã bắt tay vào cơng
cuộc hồ bình kiến thiết của chúng ta, thì chúng ta sẽ đem hết sức mình ra để
tiếp tục tiến hành cơng cuộc đó khơng ngừng. Đồng thời..., hãy chăm lo đến
khả năng quốc phòng của đất nước ta và của Hồng quân ta như chăm lo con
ngươi trong mắt mình”.2
Ngày nay nhiệm vụ xây dựng quốc phòng, BVTQ XHCN của mỗi
nước đặt ra phải vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý phổ biến,
những vấn đề có tính ngun tắc trong học thuyết Mác- Lênin về BVTQ
XHCN cho phù hợp điều kiện, hoàn cảnh lịch sử mỗi nước, phù hợp trình độ
phát triển kinh tế- xã hội, truyền thống đấu tranh của dân tộc, vị trí địa lý...của
mỗi nước. Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng nền
QPTD, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln có quan điểm đúng đắn, sáng tạo trong
nhiệm vụ xây dựng nền QPTD, trong nhiệm vụ xây dựng và BVTQ XHCN.
Điều đó được thể hiện khơng chỉ trong q trình đấu tranh giải phóng dân tộc,
mà kể cả trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ XHCN. Trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, ngay sau nước nhà giành được độc lập, trong “Tun ngơn
Độc lập”, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc
1
2

.V.I Lênin, Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va,1981, tr.480-481.

. V.I Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va,1981,tr.368.


4

lập ấy”.3 Khi nói về vai trị nền quốc phịng, Hồ Chí Minh đã khái qt: “Bất
kỳ hồ bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy
trước, chuẩn bị trước”.4 Và Người còn chỉ rõ: “Trong điều kiện, hồn cảnh
nào thì chúng ta cũng phải ra sức củng cố quốc phòng”. Ngày 19 tháng 9
năm 1954, nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đồn Qn Tiên phong đang
chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô, tại Đền Hùng, Người căn dặn: “Ngày xưa các
vua Hùng đã có cơng dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
lấy nước.” Điều đó khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến
nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nền độc lập của dân
tộc, củng cố giữ vững hồ bình. Nhưng quan điểm của Người cũng hết sức
rộng lớn, không chỉ bó hẹp trong nhiệm vụ chống chiến tranh xâm lược, mà
cả trong giữ vững hồ bình, bảo vệ đất nước, xây dựng CNXH. Người khẳng
định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là điều kiện để bảo
đảm cho chúng ta bảo vệ tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù trong
mọi tình huống. Cho nên, khi tổ quốc được độc lập phải tập trung xây
dựng nền quốc phịng tồn dân.” Chính vì ln có quan điểm đúng đắn về
xây dựng nền QPTD, mà Hồ Chí Minh đã phát huy được sức mạnh cả nước
hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như
trong đấu tranh giữ gìn hồ bình, thống nhất Tổ quốc.
Mặt khác, Đảng luôn nắm vững thực tiễn khách quan, tôn trọng qui
luật khách quan, trên cơ sở đó đưa ra đường lối cách mạng đúng đắn, phù
hợp, đặc biệt đối với việc xây dựng nền QPTD. Điều đó được thể hiện, Đảng
đã tiếp thu truyền thống lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước của ơng cha ta.
Q trình đấu tranh dựng nước, giữ nước, ơng cha ta ln đồn kết, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp chống ngoại xâm giành

thắng lợi. Với tư tưởng “nước lấy dân làm gốc”, hay “cả nước đồng lịng, tồn
3
4

. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, tr.557.
. S.đ.d, tập 7, tr.317.


5

dân dốc sức”, tư tưởng “ngụ binh ư nơng”...Chính vì thế, khi thời bình chúng
ta tranh thủ phát triển đất nước, khơng qn củng cố quốc phịng, khi có chiến
tranh xảy ra ta đã có đủ sức mạnh để chiến thắng chúng. Việc xây dựng nền
quốc phịng tồn dân vừa đáp ứng yêu cầu củng cố quốc phòng, vừa tham gia
xây dựng đất nước, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù. Trong mối quan hệ
khăng khít giữa nhà- làng- nước, là nét đẹp truyền thống, đã tạo thành trận địa
liên hoàn vững chắc, thành “thiên la địa võng” trước kẻ thù xâm lược. Do đó,
dù thường xuyên phải đương đầu với các thế lực phong kiến phương Bắc
mạnh hơn ta gấp nhiều lần, các triều đại phong kiến Việt Nam vẫn đánh
thắng, bảo đảm sự phát triển trường tồn cho dân tộc.
Trong điều kiện hiện nay, tình hình thế giới, khu vực, trong nước có
nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Sau khi Liên Xô và các nước XHCN ở
Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc điên cuồng chống phá cách mạng thế
giới, dáo diết xây dựng thế giới một cực do Mỹ điều khiển, sẵn sàng can thiệp
vào các nước có độc lập, chủ quyền, đem lại lợi ích cho họ. Cuộc cách mạng
khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão, cuốn hút tất cả các nước
tham gia, tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên xu thế
vừa hợp tác, vừa đấu tranh cho tất cả các quốc gia.
Trong khu vực đang có sự phát triển, hợp tác của các nước, nhưng
không tránh khỏi những xung đột, tranh chấp. Sự có mặt của Mỹ ở khu vực

đầy tiềm năng Đông Nam Châu Á, nhằm chiếm lĩnh thị trường, gây ảnh
hưởng ngày càng tăng đối với khu vực. Đánh giá về tình hình thế giới, khu
vực, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương (khoá IX)
của Đảng khẳng định: “Tình hình thế giới và khu vực nói trên đã tác động
trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa tạo ra nhiều thuận
lợi mới rất quan trọng, đồng thời cũng gây ra những khó khăn, thách thức
nghiêm trọng đối với nước ta”.


6

Đối với cách mạng nước ta, trước sự chống phá quyết liệt của kẻ thù,
với các âm mưu, thủ đoạn hết sức thâm độc, sảo quyệt như “diễn biến hồ
bình”, bạo loạn lật đổ, can thiệp từ bên ngoài kết hợp gây mất ổn định từ bên
trong, lợi dụng vấn đề dân tộc, tơn giáo... nhằm “nhanh chóng chiếm lĩnh thị
trường, chống phá ta về kinh tế, kết hợp chống phá về chính trị, văn hố, tư
tưởng, tạo dựng ra các lực lượng chống đối, từ đó thủ tiêu chế độ XHCN, hạ
thấp đi đến thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước tình
hình đó, Đảng ta luôn xác định đúng kẻ thù, dự kiến các tình huống có thể sảy
ra như: Diễn biến hồ bình, làm chuyển hố từ bên trong; diễn biến hồ bình
kết hợp với bạo loạn lật đổ; bạo loạn lật đổ từ bên trong, kết hợp với can thiệp
vũ trang từ bên ngồi; bao vây phong toả, tập kích hoả lực từ bên ngồi; phát
động chiến tranh với qui mơ, cường độ trung bình nếu ta sai lầm về chiến
lược; chiến tranh qui mơ, sử dụng vũ khí cơng nghệ cao.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có quan điểm đúng
đắn về xây dựng nền QPTD, có chiến lược BVTQ, gắn với chiến lược an ninh
nhân dân. Từ đó, nền QPTD, thế trận QPTD gắn với an ninh nhân dân ngày
càng được củng cố, đi vào chiều sâu. Đã có sự điều chỉnh chiến lược đối với
lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ, có hiệu quả kinh tế với quốc phịng.
Cơng tác đối ngoại ngày càng được rộng mở, tạo điều kiện củng cố quốc

phòng. Đảng thường xuyên chăm lo xây dựng nền quốc phòng, đặc biệt xây
dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt đáp ứng u cầu thời bình cũng như
khi có chiến tranh sảy ra. Sự lãnh đạo của Đảng về quốc phòng, an ninh được
tăng cường hơn, Nhà nước quản lý quốc phòng ngày càng đi vào nề nếp. Vấn
đề này Nghị quyết Trung ương Tám (khoá IX) của Đảng đã chỉ rõ:“Tiếp tục
chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thực hiện có hiệu quả bước điều chỉnh chiến lược về bố trí thế trận, tổ chức
biên chế lực lượng vũ trang trong thời bình; gắn chặt nhiệm vụ quốc phịng


7

với nhiệm vụ an ninh, chống “diễn biến hồ bình”- bạo loạn lật đổ, tạo nên
thế trận quốc phịng tồn dân, kết hợp với thế trận an ninh nhân dân...”
Tuy nhiên, chúng ta khơng tránh khỏi những khuyết điểm đó là: trước
sự phát triển của tình hình, việc nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù
còn hạn chế; nền quốc phòng tuy được xây dựng nhưng chưa đồng bộ, vững
chắc, tiềm lực quốc phòng chưa được khai thác, xây dựng triệt để, nhất là xây
dựng cơ sở chính trị, xây dựng thế trận lòng dân; chất lượng tổng hợp của các
lực lượng vũ trang có mặt chưa đáp ứng; chiến lược quốc phòng, an ninh chưa
được quán triệt sâu sắc, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế chưa gắn với
nhau trong qui hoạch, phát triển; quản lý của Nhà nước về quốc phịng chưa
hồn chỉnh, cịn nhiều hạn chế. Về vấn đề này Nghị quyết Trung ương Tám
(khố IX) cũng đã chỉ rõ: “Quốc phịng, an ninh chưa được tăng cường đúng
mức, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu chưa cao...Việc xây dựng
tiềm lực quốc phòng chưa gắn kết chặt chẽ với qui hoạch, kế hoạch bố trí thế
trận quốc phịng và các tiềm lực khác, thế trận khác. Chưa chú trọng đúng
mức các vùng trọng điểm và căn cứ địa cách mạng”.
Từ những cơ sở lý luận, thực tiễn nêu trên, trong các văn kiện, nghị
quyết của Đảng như: Văn kiện Đại hội IX; Nghị quyết Trung ương Tám

(khoá IX); Văn kiện Đại hội X đã đưa ra mục tiêu, quan điểm, nội dung nhằm
xây dựng nền QPTD vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ BVTQ trong giai
đoạn cách mạng mới. Trước hết, Đảng đã đưa ra tư duy mới về quốc phòng,
nhằm khắc phục những hạn chế trước kia trong tư duy về nhiệm vụ quốc
phòng. Trước đây, trước yêu cầu đánh thắng chiến tranh xâm lược, BVTQ,
Đảng tập trung chủ yếu xây dựng các giải pháp quân sự, nhằm đánh thắng
chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong công cuộc đổi mới, trước yêu
cầu nhiệm vụ mới, tư duy đó cần được thay đổi cho phù hợp, trong đó cần kết
hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại. Do


8

đó, quốc phịng cần được hiểu là một nội dung rộng lớn, trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, có như vậy mới hồn thành nhiệm vụ BVTQ trong
giai đoạn cách mạng mới. Tư duy mới về quốc phòng còn xác định rõ đối
tượng, đối tác của Việt Nam. Trong đó, ai tơn trọng độc lập, chủ quyền tồn
vẹn lãnh thổ, tích cực hợp tác giúp đỡ ta thì đó là đối tác. Ngược lại, ai đi
ngược lợi ích dân tộc, chống phá cách mạng nước ta, đó là đối tượng. Tuy
nhiên giữa đối tượng và đối tác ln có quan hệ chặt chẽ với nhau, có mặt là
đối tượng nhưng vẫn coi là đối tác; có mặt là đối tác nhưng vẫn coi là đối
tượng; giữa đối tượng và đối tác có sự chuyển hố cho nhau. Chính vì thế,
trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng luôn xác định rõ đâu là đối tượng,
đâu là đối tác, để có thái độ quan hệ đúng mức, với mong muốn :“Việt Nam
là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế...” 5. Nhưng với
ngun tắc: “Tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ
lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hồ bình;
tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng cùng có lợi”.6
Trong tư duy mới về QPTD và BVTQ, Đảng luôn xác định xây dựng,

phát triển kinh tế xã hội, coi trọng biện pháp phi vũ trang, tránh dùng vũ lực,
giải quyết các vấn đề bằng thương lượng hoà bình. Tuy nhiên phải ln chú ý
xây dựng, phát triển lực lượng, đủ sức dăn đe đối với kẻ thù. Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay, giữ gìn hồ bình, ổn định đất nước luôn gắn chặt với nhau,
là nhiệm vụ của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta. Vì vậy, xây dựng nền quốc
phòng phải đảm bảo giữ vững hồ bình, giữ vững sự ổn định, chống kẻ thù
xâm lược từ bên ngồi. Xây dựng, củng cố quốc phịng phải đáp ứng u cầu
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, củng cố mơi trường hồ bình, tạo
5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà
Nội,2006, tr.112-113.
5
6


9

điều kiện cho đất nước phát triển. Đồng thời phải khai thác mọi tiềm năng
khoa học công nghệ để củng cố, phát triển quốc phòng.
Tư duy mới về chiến lược BVTQ là nội dung tổng hợp, trong đó chiến
lược về quốc phịng là một bộ phận cấu thành, đóng vai trò chủ đạo. Khi xây
dựng chiến lược BVTQ phải hết sức tập trung vào chiến lược quốc phòng.
Chúng ta phải hiểu đúng và đầy đủ về quốc phịng, đây khơng phải chỉ riêng
là hoạt động quân sự, mà là tổng hợp các hoạt động cả về kinh tế, chính trị,
đối ngoại, quốc phòng, an ninh...phải đáp ứng nhiệm vụ đấu tranh vũ trang,
phi vũ trang; nhiệm vụ đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước.
Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và BVTQ trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, nhiệm vụ nền QPTD hết sức nặng nề, bao hàm nội dung
rộng lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó nhiệm vụ chủ
yếu tập trung là bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, bao gồm cả phần lãnh thổ,
biên giới quốc gia, vùng trời, vùng biển...bảo vệ chế độ XHCN, Đảng , nhân

dân, bảo vệ an ninh trên các lĩnh vực. Đồng thời sẵn sàng chiến đấu chống lại
các thế lực thù địch. Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội X, Đảng ta đã xác
định:“Xây dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững mạnh
toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an
ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội;
duy trì trật tự kỷ cương, an tồn xã hội; giữ vững ổn định chính trị đất nước,
ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù
địch, không để bị động, bất ngờ”.7
Nhiệm vụ của nền QPTD trong giai đoạn hiện nay hết sức nặng nề, do
đó địi hỏi lực lượng tham gia không chỉ riêng lực lượng vũ trang, mà phải có
sự tham gia của tất cả các ngành, các cấp từ Trung ương xuống đến địa
7

. S.đ.d, tr.108-109.


10

phương, của toàn xã hội, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, có như
vậy mới tạo thành sức mạnh tổng hợp để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới. Trước hết cần quán triệt, nâng cao nhận thức cho
tất cả các đối tượng về yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới. Đồng
thời có chủ trương, chính sách kết hợp phát triển kinh tế xã hội với bảo đảm
quốc phòng. Bên cạnh đó phải bố trí thế trận quốc phịng, an ninh cho phù
hợp với tình hình mới; đầu tư cho lĩnh vực quốc phòng, bảo đảm đời sống,
nâng cao chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật, tăng cường khả năng sẵn sàng
chiến đấu cho quân đội, để quân đội thực sự làm nòng cốt cho sự nghiệp
QPTD, BVTQ. Bố trí thế trận chiến tranh nhân dân, QPTD một cách hợp lý,
kết hợp giữa lực lượng chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương. Xây dựng

thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, phát huy có hiệu quả, nhất là ở các
vùng sâu, xa, vùng dân tộc ít người.
Xây dựng nền QPTD phải đồng bộ cả xây dựng lực lượng và xây
dựng thế trận. Xây dựng lực lượng bao gồm xây dựng về tiềm lực và xây
dựng lực lượng cụ thể. Xây dựng tiềm lực bao gồm cả tiềm lực chính trị tinh
thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học cơng nghệ, tiềm lực qn sự, từ đó
tạo nên tiềm lực quốc phòng đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ BVTQ
trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng cụ thể phải tập trung xây dựng lực
lượng vũ trang tồn dân, vì quốc phịng của ta là QPTD, muốn vậy phải dựa
vào hệ thống luật pháp để huy động lực lượng. Phải giáo dục, tạo sự chuyển
biến sâu sắc về nhận thức cho nhân dân, tích cực tham gia nhiệm vụ củng cố
quốc phòng. Các cấp các ngành từ Trung ương đến địa phương cần thống nhất
nhận thức, quan tâm đúng mức đến nhiệm vụ xây dựng nền QPTD, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đây là lực lượng nịng cốt của nền
QPTD, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở, bảo đảm cho lực lượng vũ trang
luôn trung thành vô hạn với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ XHCN.


11

Đồng thời phải nâng cao sức mạnh toàn diện của lực lượng vũ trang, cả về
vũ khí trang bị, nghệ thuật quân sự, cách đánh...bảo đảm cho quân đội luôn
xứng đáng làm nòng cốt cho sự nghiệp BVTQ.
Xây dựng thế trận cần tập trung xây dựng tổ chức, bố trí lực lượng
trên các vùng chiến lược, xây dựng hậu phương chiến lược, xây dựng các khu
vực phòng thủ quốc gia, tỉnh (thành phố) một cách vững chắc, đáp ứng yêu
cầu BVTQ trong tình hình mới. Đồng thời, cần bố trí lực lượng vũ trang, sở
chỉ huy các cấp cho phù hợp, quân số hợp lý, sẵn sàng đối phó với tình huống
chiến tranh, vừa phù hợp với điều kiện nền kinh tế đất nước.
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ BVTQ trong điều kiện thời

bình, vừa đảm bảo sẵn sàng chiến đấu khi có chiến tranh sảy ra, Đảng ta đã có
sự đổi mới tư duy trong xác định đường lối xây dựng nền QPTD trong giai
đoạn cách mạng mới. Để nền QPTD ngày càng vững mạnh, đủ sức hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ BVTQ, sẵn sàng chiến đấu thắng lợi khi có chiến
tranh sảy ra, chúng ta cần thực hiện những phương hướng, giải pháp chủ yếu
sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của
Nhà nước đối với nền QPTD, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn cách mạng
mới.
Trên cơ sở đó, bảo đảm nền QPTD ln có định hướng, phát triển
đúng đắn. Đặc biệt đối với Quân đội cần thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 51
của Bộ Chính trị, nâng cao vai trị chính uỷ, chính trị viên, xây dựng Quân đội
nhân dân theo hướng cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Thứ hai, tiếp tục củng cố, hoàn thiện nền QPTD trên từng địa bàn tỉnh,
thành phố, đặc biệt chú trọng địa bàn chiến lược.


12

Nền QPTD cần được thường xuyên xây dựng, củng cố vững chắc cả về lực
lượng và thế trận. Có sự đầu tư đúng mức, cơ chế, chính sách phù hợp cho các địa
bàn trọng điểm như biên giới, hải đảo, khu vực nhạy cảm, phức tạp. Bảo đảm giữ
vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc khu vực phịng thủ quốc gia, địa phương.
Chú trọng xây dựng các cơ sở chính trị, thế trận lịng dân, đây chính là cơ sở, điều
kiện để xây dựng thế trận quốc phòng trên các nội dung khác.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng cho nhân dân, tăng
cường giáo dục cho cán bộ chủ chốt từ Trung ương đến cơ sở.
Công tác giáo dục, tạo sự chuyển biến vững chắc về nhận thức cho các
đối tượng trong nhân dân là hết sức cần thiết, muốn vậy phải bảo đảm có nội

dung phù hợp với từng đối tượng. Từ đó làm cho mọi người “thống nhất
nhận thức đối tượng, đối tác; nắm vững đường lối quan điểm, yêu cầu nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh
thần cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh...”. 8 Về đối
tượng, đối tác của chúng ta, Hội nghị Trung ương Tám (khoá IX) của
Đảng đã chỉ rõ: “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết
lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với
Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và
hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh”.
Thứ tư, đầu tư thích đáng cho cơng nghiệp quốc phòng, xây dựng các
kế hoạch cụ thể, thực hiện có hiệu quả việc sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật,
phù hợp điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu chiến tranh hiện đại.
Xây dựng cơng nghiệp quốc phịng trong hệ thống công nghiệp quốc
gia dưới sự chỉ đạo, quản lý, điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư chọn
lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ quốc phịng, vừa phục vụ dân sinh. Góp
8

.S.đ.d, tr.109.


13

phần vào việc nâng cao chất lượng vũ khí trang bị cho Quân đội, đáp ứng yêu
cầu chiến tranh hiện đại.
Thứ năm, tiếp tục bổ xung và hoàn thiện cơ chế hoạt động để thực
hiện tốt việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, phát triển theo vùng.
Đầu tư phát triển kinh tế phục vụ phát triển đất nước là cần thiết,
nhưng phải đảm bảo sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng các khu
kinh tế- quốc phòng, các khu quốc phòng- kinh tế với mục tiêu tăng cường

quốc phòng- an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến
lược và những khu vực nhạy cảm của đất nước.
Thứ sáu, thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối chủ trương của Đảng về
QPTD, BVTQ, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng về QPTD, BVTQ cần được thể
chế hoá, cụ thể hoá thành các văn bản pháp luật, các qui định, nghị định, để từ
đó thống nhất thực hiện cho tất cả các cấp, các ngành, tạo hành lang pháp lý
để mọi người đều phải chấp hành, thực hiện tốt nghĩa vụ, quyền lợi trong việc
tham gia xây dựng nền QPTD, BVTQ XHCN.
Tóm lại, củng cố, xây dựng nền quốc phịng tồn dân là một u cầu
khách quan, nhiệm vụ bức thiết cho cách mạng Việt Nam trong mọi giai đoạn.
Đặc biệt, trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, trước tác động của tình
hình thế giới, đó là sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là
đế quốc Mỹ nhằm xoá bỏ các nước XHCN còn lại trên thế giới, với âm mưu
xây dựng thế giới một cực dưới sự chỉ đạo của Mỹ. Mặt khác trước tác động
của cách mạng khoa học cơng nghệ, xu thế hợp tác trên tồn cầu, lơi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa
có hợp tác, vừa có đấu tranh. Từ đó, đặt ra cho cách mạng nước ta phải chăm
lo xây dựng nền QPTD, đáp ứng nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.


14

Đối với cách mạng nước ta, trong những năm qua chúng ta đang trong
quá trình đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước, đặt ra nhiều cơ hội, vận hội, nhưng cũng khơng ít những khó khăn,
thách thức. Mặt khác, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ điên cuồng
chống phá, bằng âm mưu, thủ đoạn hết sức thâm độc, sảo quyệt như “diễn
biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ, nhằm chống phá cách mạng nước ta. Bên
cạnh đó, những năm qua trong nhiệm vụ xây dựng nền QPTD, chúng ta chưa

quan tâm, đầu tư đúng mức, kể cả việc nhận thức, cũng như q trình chỉ đạo,
tổ chức thực hiện. Từ đó, cơng tác xây dựng nền QPTD vẫn cịn nhiều hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới. Chính
vì thế đặt ra cho Đảng phải đổi mới tư duy trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
BVTQ. Từng bước xây dựng nền QPTD, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, ngày càng hiện đại. Nền QPTD phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý, điều hành của Nhà nước, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.
Mỗi chúng ta, đặc biệt đối với lực lượng vũ trang phải luôn xác định,
việc xây dựng nền QPTD là trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người. Từ đó tích
cực tham gia đóng góp nhằm xây dựng nền QPTD vững mạnh, đủ sức hoàn
thành nhiệm vụ BVTQ trong giai đoạn cách mạng mới. Tham gia xây dựng
Quân đội ngày càng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; phát
triển nghệ thuật quân sự, cách đánh cho phù hợp chiến tranh công nghệ cao
của kẻ địch. Xây dựng thế trận lòng dân, chiến tranh nhân dân vững mạnh, tạo
nên sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang; xây dựng các khu vực
phòng thủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ BVTQ XHCN.
Kiên quyết đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, phản động, cho
rằng việc xây dựng nền QPTD cũng như nhiệm vụ BVTQ trong giai đoạn
cách mạng hiện nay là của Quân đội, họ giao khoán cho Quân đội; hoặc họ cho


15

rằng, hiện nay đất nước đang hồ bình, khơng cần đầu tư nhiều cho quốc phòng,
cho nhiệm vụ xây dựng nền QPTD, mà nên tập trung phát triển kinh tế đất nước,
khơng cần gắn kinh tế với quốc phịng, an ninh. Đó là những quan điểm hết sức
sai trái, nhận thức mơ hồ, từ đó làm mất đi vai trị, trách nhiệm, sức mạnh của
toàn dân, của cả hệ thống chính trị trong việc xây dựng nền QPTD, trong nhiệm
vụ BVTQ XHCN. Những quan điểm, nhận thức đó rễ bị kẻ địch lợi dụng, gây

diễn biến hồ bình từ bên trong để chống phá cách mạng nước ta. Do đó, ta phải
tăng cường cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu thắng lợi trong mọi tình
huống, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.



×