Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

SKKN Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn lớp 6,7 ở trường THCS Buôn Trấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.45 MB, 35 trang )

SÁNG
KIẾN
NGHIỆM
PHÒNG
GIÁO KINH
DỤC VÀ ĐÀO
TẠO KRÔNG ANA
Krông Ana, tháng 03/2017

TRƯỜNG THCS BUÔN TRẤP
BIỆN PHÁP ĐỂ PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ
ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRONG HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN
LỚP 6,7 Ở TRƯỜNG THCS BUÔN TRẤP
BỘ MÔN: NGỮ VĂN

Họ và tên: Nguyễn Thị Hoài Sương
Chức danh: Giáo viên
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm
Môn đào tạo: Ngữ Văn

1


I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Ngữ văn là một môn học rất quan trọng trong hệ thống các môn học ở cấp
THCS. Mục tiêu của môn Ngữ văn là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, chú
trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Cụ thể, môn học Ngữ văn nhấn mạnh ba
mục tiêu chính sau: Thứ nhất rang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có
tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam


– phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, hình thành và phát triển ở học
sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương
pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều
đã học vào cuộc sống. Thứ ba, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học,
văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự
cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh
trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát
huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại”. Việc dạy học môn Ngữ Ngữ văn
còn là giúp cho học sinh có được những những kỹ năng giao tiếp, sự tự tin trình bày
trước đông người; giúp các em có bản lĩnh vững vàng, dám bày tỏ ý kiến, suy nghĩ
của mình. Do vậy, việc nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn là vô cùng quan
trọng.
Tuy vậy, trong việc học môn Ngữ văn hiện nay nói chung, nhiều em rất rụt rè
trong giao tiếp, không dám bày tỏ ý kiến, suy nghĩ … của mình trước lớp, thiếu chủ
động, tích cực trong việc tiếp thu kiến thức bài học. Chất lượng học tập ở những lớp
đại trà chưa được như mong muốn. Vậy làm thế nào để phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh trong học tập là câu hỏi mà các thầy cô giáo trong đó có bản thân
chúng tôi luôn trăn trở và tìm hướng trả lời.
Xuất phát từ nhu cầu và mong muốn của bản thân chúng tôi trong quá trình dạy
học là nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong chương trình dạy học môn
Ngữ văn ở trường phổ thông, do đó chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài "Biện pháp
để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn lớp
6,7 ở trường THCS Buôn Trấp".
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a. Mục tiêu của đề tài
Chia sẻ cùng các thầy cô giáo một số kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh thông qua việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong
2



giảng dạy phân môn Đọc – Hiểu văn bản thuộc môn Ngữ văn cấp THCS, góp phần
nâng cao chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, hứng thú cho các em trong học tập.
b. Nhiệm vụ của đề tài
Trình bày cụ thể những việc cần làm và làm như thế nào để tạo điều kiện cho
học sinh phát triển tư duy sáng tạo, phát huy tính chủ động, tích cực trong học tập.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
Từ thực tế việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh trường THCS Buôn
Trấp. Đặc biệt là việc dạy và học môn Ngữ văn ở học sinh lớp 6,7 Tôi tiến hành
nghiên cứu những biện pháp dạy học tích, việc áp dụng biện pháp dạy học này trong
việc phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy phần Đọc – Hiểu văn bản của
môn Ngữ văn lớp 6,7.
I.5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: các tài liệu viết về các phương pháp dạy
học tích cực, giáo án Ngữ văn của giáo viên.
- Phương pháp điều tra thực tế: thông qua thực tế giảng dạy và các tiết dự giờ
của đồng nghiệp.
- Phương pháp thu thập thông tin: thu thập thông tin từ đồng nghiệp, từ học
sinh.
- Phương pháp xử lý thông tin thông qua đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng
hợp.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục nói
chung và vấn đề đổi mới PPDH trong trường trung học nói riêng. Vấn đề này đã được
đề cập nhiều lần trong các văn kiện Đại hội Đảng, trong Luật Giáo dục. Đặc biệt,
trong thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020 đã

chỉ rõ “ Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ
một chiều. Phát huy PPDH tích cực, sáng tạo, hợp tác, giảm thời gian giảng lý
thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, giáo viên; gắn bó chặt chẽ
giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và
đời sống”.
3


Thực tế cho thấy: hoạt động đổi mới PPDH chỉ có thể thành công khi giáo viên
có động lực hành động và chuyển hóa được từ ý chí trở thành tình cảm và tinh thần
trách nhiệm đối với học sinh, đối với nghề dạy học.
Các chuyên đề về đổi mới PPDH được đưa ra tập huấn luôn là cơ sở cho giáo
viên nghiên cứu, vận dụng một cách chủ động, tích cực, sáng tạo phù hợp với đặc
trưng bộ môn, phù hợp với yêu cầu của từng bài học, giúp học sinh phát triển và rèn
luyện các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý thông tin, giải
quyết các tình huống, kỹ năng thực hành …
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
2.1. Thuận lợi, khó khăn
a) Thuận lợi:
- Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ban giám hiệu nhà trường rất tích cực trong việc
chỉ đạo đổi mới PPDH.
- Trường THCS Buôn Trấp có 13 giáo viên được đào tạo chuyên ngành Ngữ
văn (trong đó có 11 giáo viên đứng lớp và 02 cán bộ quản lý), được biên chế thành
một tổ chuyên môn nên dễ có điều kiện trao đổi, học hỏi nhau về kiến thức cũng như
kinh nghiệm giảng dạy bộ môn.
- Sinh hoạt của tổ chuyên môn đã dần đi vào chiều sâu và đạt hiệu cao (tổ đã
giành nhiều thời gian cho việc bàn bạc, thảo luận cách dạy các bài (nội dung) dài, khó
…), năng lực chuyên môn của giáo viên ngày càng được khẳng định.
- Công nghệ thông tin phát triển cùng với sự bùng nổ của Internet nên việc tìm
hiểu, khai thác thông tin về lĩnh vực bộ môn, phân môn, bài dạy trên mạng ngày càng

dễ dàng và thuận lợi.
- Giáo viên thường xuyên được tập huấn hoặc tiếp thu chuyên đề về đổi mới
PPDH nói chung và đổi mới PPDH đối với môn Ngữ văn nói riêng. Đa số giáo viên
đã chủ động vận dụng khá hiệu quả các PPDH tích cực vào quá trình lên lớp.
b) Khó khăn:
- Thói quen sử dụng PPDH truyền thống ở một số giáo viên còn nặng nề.
- Một số bài học, tiết học, nội dung kiến thức còn nặng so với thời gian quy
định tại PPCT.
- Cơ sở vật chất chưa thực sự đáp ứng yêu cầu dạy và học.
- Một số học sinh chưa thật hứng thú với môn học, còn có thói quen ỉ lại, dựa
dẫm vào bạn; thiếu mạnh dạn, chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập.
4


2.2. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Thực tế giảng dạy cho chúng ta thấy: trong một lớp học đại trà, số học sinh học
khá, giỏi môn Ngữ văn, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập còn chiếm tỷ lệ
rất khiêm tốn. Bên cạnh đó, còn nhiều học sinh thiếu cố gắng trong học tập, thụ động
trong việc tiếp thu kiến thức, hạn chế về khả năng diễn đạt, thậm chí có những học
sinh thuộc vào diện “hết thuốc chữa”, giáo viên đành cho “ngủ yên” để khỏi ảnh
hưởng lớp. Phương pháp tổ chức hoạt động học tập của học sinh theo hướng học
sinh – đối tượng của hoạt động “dạy” trở thành chủ thể của hoạt động “học là
một PPDH tích cực – “phương thuốc” khá hữu hiệu nhằm kích thích tư duy độc lập
của học sinh, dạy học sinh cách tự suy nghĩ, lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học,
làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động, kích thích hứng thú học tập, lòng tự tin
của các em, rèn cho các em năng lực diễn đạt, mạnh dạn bày tỏ sự hiểu biết của mình,
biết chú ý lắng nghe và hiểu ý diễn đạt của người khác. Tạo môi trường học tập thân
thiện để học sinh có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau. Học sinh kém có điều kiện học tập
các bạn trong nhóm, cùng các bạn trong nhóm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thông qua đàm thoại, dạy học tích cực, giáo viên sẽ nhanh chóng thu thập được

thông tin phản hồi từ phía người học, duy trì và kiểm soát được hành vi của học sinh.
Học sinh sẽ có được niềm vui khi mình được trực tiếp tham gia khám phá, tìm hiểu
và nắm bắt kiến thức mới thông qua sự hướng dẫn của thầy cô giáo.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp
Giúp các thầy cô giáo cùng dạy môn Ngữ văn hiểu rõ hơn về mục đích của
việc dạy học tích cực; có thêm kinh nghiệm trong việc thiết kế hệ thống câu hỏi và
đặt câu hỏi cũng như tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, hứng thú
cho các em trong học tập.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Từ ý thức về tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh trong học tập và từ thực trạng của việc dạy học môn Ngữ văn lớp 6,7 ở trường
THCS THCS Buôn Trấp, những năm qua chúng tôi đã cố gắng tìm tòi, vận dụng
Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn
Ngữ văn và bước đầu đã thấy hiệu quả. Chúng tôi xin trình bày cách nội dung và
cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp như sau:
5


1. Biện pháp tổ chức hoạt động học tập của học sinh theo hướng học sinh –
đối tượng của hoạt động “dạy” trở thành chủ thể của hoạt động “học”.
- Trước hết, cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy và học. Giáo viên phải chú
trọng đến phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong đó học sinh dưới
sự tổ chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh tác phẩm, tự rút ra
những kết luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa.
Theo chúng tôi, trong giờ dạy văn bản, giáo viên cần tổ chức, dẫn dắt cho học
sinh theo bốn cấp độ sau đây:
Thứ nhất, giúp học sinh tri giác, cảm thụ văn bản, hiểu ngôn ngữ, tình tiết, cốt
truyện, thể loại... để có thể cảm nhận được hình tượng nghệ thuật trong sự toàn vẹn

của các chi tiết, các liên hệ.
Thứ hai, giúp học sinh tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của nghệ sĩ, thâm nhập vào
hệ thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc của tư tưởng, tình cảm tác giả.
Thứ ba, giúp học sinh đưa hình tượng nghệ thuật vào văn cảnh đời sống và
kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm.
Thứ tư, giúp học sinh nâng cấp lý giải tác phẩm lên cấp quan niệm và tính hệ
thống, hiểu được vị trí của tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống và
truyền thống nghệ thuật.
Có như vậy, học sinh mới thấy hứng thú và cảm thấy mình cũng là người
“đồng sáng tạo” với tác giả, như quan điểm của mỹ học tiếp nhận.
Ví dụ: Khi dạy văn bản Cô Tô của Nguyễn Tuân, giáo viên phải giúp học sinh
tri giác, cảm thụ được: Hầu hết cảnh vật sau khi bão đi qua là xơ xác, là điêu tàn.
Nhưng với Cô Tô, sau cơn bão cảnh sắc lại càng trở nên đẹp hơn, đáng yêu hơn. Điều
đó giúp em cảm nhận thêm vẻ đẹp nữa của Cô Tô. Đó là vẻ đẹp hồi sinh nhanh
chóng sau trận bão. Đó chính là vẻ đẹp của sức sống bền vững, mãnh liệt. Đặc biệt là
kể từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu của sự sống con người- như tác giả đã
nói - Điều đó chứng tỏ không những thiên nhiên nơi đây có sức sống bền vững,
mãnh liệt mà con người nơi đây cũng rất kiên cường, bất khuất trước sự tàn phá của
dông bão, không khuất phục trước sức mạnh của thiên nhiên.
- Với những yêu cầu cao trong công việc đổi mới phương pháp, người giáo viên
phải nâng cao trình độ và bản lĩnh. Truyền thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng đã khó,
hướng dẫn cách cảm thụ, lối tư duy cho học sinh còn khó bội phần. Sự cập nhật tri
thức phải luôn đi đôi với nâng cao trình độ sư phạm. Một khi đã quán triệt tinh thần
6


coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, tất yếu giáo viên sẽ phải đối diện với sự đa dạng,
phức tạp trong tư duy, trong cách phát ngôn của các em.
2. Biện pháp tổ chức hoạt động tự học của học sinh: rèn luyện cho học sinh
có được phương pháp, kĩ năng: đọc, tóm tắt, phân tích tác phẩm, viết bài…

- Dựa vào các mục biên soạn trong SGK để hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
Với người dạy và người học hiện nay ở nước ta, SGK là công cụ có tính chất
pháp lí. Nội dung kiểm tra, thi cử bắt đầu và xuất phát từ chương trình và Sách giáo
khoa. Nói cách khác dạy và học không thể thoát li chương trình và Sách giáo khoa.
Phần Đọc văn trong SGK ở chương trình THCS hiện nay thường được biên soạn theo
một cấu trúc cố định với những mục rõ ràng, với trình tự gồm các mục: Tên bài – Kết
quả cần đạt – Tên văn bản – Chú thích – Đọc – Hiểu văn bản – Ghi nhớ- Luyên tập.
Để chuẩn bị bài, nhất thiết học sinh phải có trong tay quyển SGK và tự làm việc với
sách theo hướng dẫn của thầy cô giáo. Trang bị SGK đầy đủ, học sinh thường xuyên
đọc sách, bám sát tất cả các mục ở trong SGK, mỗi mục có một vai trò cụ thể. Đặc
biệt, HS phải chú trọng đến mục Đọc – hiểu văn bản sau mỗi văn bản. Đây là mục
quan trọng có tác dụng định hướng tìm hiểu văn bản cho cả người học và người dạy.
Ở mục hướng dẫn học bài này có nhiều câu hỏi được sắp xếp theo hệ thống. Dựa vào
hệ thống câu hỏi này để giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài một cách phù hợp,
thiết thực và có hiệu quả. Bắt đầu từ SGK là một định hướng khoa học trong việc
hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài cho giờ Đọc văn. Chẳng hạn
- Gắn với từng bài học cụ thể phù hợp với đặc trưng thể loại để hướng dẫn học
sinh chuẩn bị bài.
Mỗi bài học, mỗi văn bản được phân bố với một số lượng thời gian nhất định
trong bảng phân phối chương trình. Vì thế, giáo viên nhất thiết phải gắn với từng bài
học, từng văn bản với số tiết quy định cụ thể để hướng dẫn học sinh cách thức nội
dung, mức độ soạn bài phù hợp. Chẳng hạn với những bài học trong một tiết thì có
cách hướng dẫn chuẩn bị bài gọn, nhẹ hơn so với bài hai tiết. Giáo viên cũng cần phải
xem xét đặc điểm, tính chất của từng văn bản cụ thể để yêu cầu học sinh chuẩn bị:
Thơ khác với văn xuôi. Mặt khác, hiện nay định hướng giảng dạy phần Văn theo
phương pháp mới đặc biệt chú trọng yêu cầu tích hợp và đặc trưng thể loại. Xuất phát
từ yêu cầu tích hợp cũng như ý thức về việc bám sát đặc trưng thể loại là định hướng
đúng đắn cung cấp tri thức đọc hiểu cho học sinh, mà trước hết là ở khâu giúp các em
chuẩn bị tốt bài ở nhà Xuất phát từ yêu cầu tích hợp cũng như ý thức về việc bám sát
đặc trưng thể loại là định hướng đúng đắn cung cấp tri thức đọc hiểu cho học sinh,

mà trước hết là ở khâu giúp các em chuẩn bị tốt bài ở nhà. Chẳng hạn khi dạy văn
bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (Ngữ văn 7) giáo viên phải hướng dẫn cho
các em nắm vững đặc trưng của văn nghị luận để học sinh dễ tiếp xúc với văn bản.
7


Bên cạnh đó khi dạy giáo viên nhất thiết phải tích hợp với môn lịch sử để làm rõ về
tinh thần yêu nước của dân tộc ta qua các thời kì dựng nước và giữ nước. Từ đó khơi
gợi lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho thế
hệ trẻ.
- Giáo viên nắm chắc ý đồ của người soạn SGK ở phần hướng dẫn học bài
sau mỗi văn bản.
Ở mỗi văn bản, mỗi bài học cụ thể có những mục đích khác nhau. Trong Sách
giáo khoa Ngữ văn sau tên mỗi văn bản là mục kết quả cần đạt. Đây là phạm vi kiến
thức trọng tâm bài học mà học sinh cần nắm được. Để đạt được kết quả đó người
soạn sách đã có những định hướng đọc- hiểu cho cả người dạy và người học ở mục
hướng dẫn học bài. Để tổ chức cho học sinh đọc hiểu văn bản sát hợp, một yêu cầu
vô cùng quan trọng là giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà đúng
trọng tâm như yêu cầu ở mục kết quả cần đạt. Ví dụ, khi học bài thơ Lượm của Tố
Hữa, để học sinh hiểu và cảm nhận sâu hình ảnh của Lượm, giáo viên yêu cầu học
sinh khi soạn bài cần đọc kĩ đoạn thơ miêu tả hình dáng, trang phục, cử chỉ, lời nói
của Lượm để từ đó cảm nhận được Lượm là một chú bé liên lạc nhí nhảnh, hồn
nhiên, yêu đời, nhanh nhẹn và ham thích công việc kháng chiến.
Hiểu được mục đích của người soạn Sách giáo khoa ở phần hướng dẫn học bài
sau mỗi văn bản sẽ giúp giáo viên xác định phương pháp dạy học phù hợp từng bài
học cụ thể. Chẳng hạn, với mục đích đồng sáng tạo ở bạn đọc, trong phần hướng dẫn
học bài của văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê, sách giáo khoa Ngữ văn 7
có nêu câu hỏi: Tại sao khi dắt em ra khỏi trường Thành lại kinh ngạc thấy mọi người vẫn
đi lại bình thường và nắng vẫn ươm trùm lên cảnh vật? Từ đó em cảm nhận được điều gì
mà tác giả muốn nhắn nhủ?( Thành cảm nhận được sự bất hạnh của hai anh em mình. Đó

là bi kịch riêng của gia đình Thành và Thủy còn dòng chảy thời gian, màu sắc cảnh vật, nhịp
điệu cuộc sống vẫn diễn ra một cách tự nhiên. Thành cảm thấy cô đơn trước sự vô tình của
người và cảnh. Qua đó tác giả muốn nói nỗi đau khổ của những đứa con thơ khi bố mẹ bỏ
nhau là lên đến tột cùng của sự đau khổ, một nỗi đau không biết ngỏ cùng ai. Nhắc nhở ta
không nên dửng dưng vô tình trước nỗi đau của đồng loại).

Từ câu hỏi hướng dẫn này, giáo viên có thể lồng phương pháp vấn đáp, đàm
thoại bên cạnh các phương pháp khác. Tất nhiên để đàm thoại được ở trên lớp thì
giáo viên phải hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà...
- Hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi trong Sách giáo
khoa.
Để giúp học sinh có sự chuẩn bị hiệu quả trước khi bước vào giờ học văn bản,
giáo viên cần có những định hướng cho học sinh trong các hoạt động tiếp xúc với
8


Sách giáo khoa, tập cho các em biết gia công tìm tòi, sáng tạo trong quá trình lĩnh hội
tri thức. Hướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà trước hết và quan trọng nhất vẫn là yêu
cầu các em trả lời các câu hỏi ở phần Hướng dẫn học bài. Việc đọc Sách giáo khoa
như đã nói trên trước hết là để trả lời được các câu hỏi này. Tuy vậy, muốn công việc
này của các em đạt hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải có những cách thức, biện pháp
phù hợp. Giáo viên vừa yêu cầu vừa khuyến khích, động viên các em tự trả lời các
câu hỏi trong phần hướng dẫn theo cách hiểu của mình, tránh viêc ghi lại, chép lại
theo sách giải một cách đối phó, thụ động. Trong quá trình soạn bài chỗ nào các em
chưa hiểu hay còn thắc mắc, giáo viên yêu cầu các em chú ý ghi lại hoặc gạch chân,
đánh dấu để có thể trao đổi trong quá trình đọc hiểu văn bản trên lớp. Một điều nữa
không kém phần quan trọng là khi hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi trong Sách
giáo khoa, giáo viên cần hướng các em vào những ý trọng tâm, câu hỏi trọng tâm,
điều này rất có ích cho việc đọc hiểu văn bản ở trên lớp. Muốn làm được điều này
giáo viên phải có đầu tư suy nghĩ trước một bước. Và như vậy, việc hướng dẫn học

sinh chuẩn bị bài ở nhà sẽ mang lại hiệu quả hơn. Chẳng hạn khi soạn bài Tiếng gà
trưa(Xuân Quỳnh) giáo viên yêu cầu các em chú ý và trả lời kỹ những vấn đề sau:
Câu 1: Tại sao trong vô vàn âm thanh của làng quê, tâm trí người chiến sĩ bị ám ảnh
bởi tiếng gà trưa ? Với người lính ra trận, tiếng gà trưa gợi những cảm giác mới lạ
nào? Tại sao? Nghệ thuật?
Câu 2: Nghe tiếng gà trưa, người lính nhớ lại những kỉ niệm nào của tình bà cháu?
Tại sao những kỉ niệm về người bà lại không phai mờ trong tâm hồn của người
cháu?
Câu 3 : Điệp từ “vì” trong khổ thơ cuối được lặp lại ba lần điều ấy có ý nghĩa gì?
Với câu hỏi 1 giáo viên đã giúp học sinh tìm hiểu nội dung đoạn thơ 1 của bài
thơ: Tiếng gà trưa thức dậy tình cảm làng quê; câu hỏi 2 giúp học sinh tìm hiểu nội
dung 5 khổ thơ tiếp theo: Tiếng gà trưa khơi dậy những kỉ niệm ấu thơ; câu hỏi 3
giúp học sinh cảm nhận được nội dung khổ thơ cuối: Điệp từ “vì” khẳng định hành
động chiến đấu vì mục đích cao cả, bảo vệ non sông đất nước, bảo vệ cuộc sống bình
yên cho nhân dân, gia đình, người thân, và niềm hạnh phúc của tuổi thơ.
Nếu học sinh về nhà chuẩn bị tốt theo các câu hỏi mà giáo viên đã cho khi
lên lớp các em sẽ tiếp thu bài rất nhanh.
Như vậy, việc hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi là việc
làm vô cùng quan trọng, bởi đây là một bước chuẩn bị trước làm cơ sở cho việc đọc
tác phẩm trên lớp. Nếu giáo viên làm tốt bước này thì khâu lên lớp sẽ nhẹ nhàng hơn,
giờ học sôi nổi hơn và tất nhiên hiệu quả giờ học sẽ cao hơn.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý khái quát sơ đồ tư duy cho bài học.
Từ những hiểu biết của bản thân, học sinh tự lập thành sơ đồ, thành những dàn
ý theo suy nghĩ của mình. Điều ấy có nghĩa rằng sau khi đọc phân tích, học sinh cần
phải tổng hợp, tái tạo lại cấu trúc của bài học. Ghi chép tóm tắt những gì và như thế
nào là phụ thuộc vào hiểu biết và kinh nghiệm của từng người. Điều quan trọng là
9


người học phải tự mình nêu lại được các thông tin quan trọng đã tiếp nhận bằng từ

ngữ riêng theo cách của mình.
- Tổ chức phân công từng vấn đề cụ thể cho từng nhóm học sinh.
Sau khi kết thúc một giờ học công việc thường thấy từ trước tới nay là giáo
viên dặn dò học sinh về nhà học bài và chuẩn bị bài mới cho giờ học tiếp theo. Đây
thường là việc làm lấy lệ máy móc, qua loa, làm cho xong. Vì thế tính hiệu quả thấp.
Kinh nghiệm cho thấy đối với học sinh THCS giao việc càng cụ thể thì tính hiệu quả
càng cao. Vì vậy, tổ chức phân công vấn đề cho học sinh chuẩn bị trước là bước đệm
rất quan trọng cho bài học mới đạt kết quả. Để việc làm này có chất lượng giáo viên
phải thực hiện những bước sau:
+ Chuẩn bị trước các vấn đề.
+ Chia nhóm.
+ Phân công vấn đề cụ thể cho từng nhóm.
Chẳng hạn khi dạy văn bản “Thầy bói xem voi” (Ngữ văn 6) ngoài việc học
sinh chuẩn bài theo phần hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, giáo viên có thể
chuẩn bị trước các vấn đề sau để giao cho học sinh và yêu cầu mỗi nhóm phải chuẩn
bị kĩ phần việc của nhóm mình. Giáo viên chia lớp làm bốn nhóm mỗi nhóm phải có
nhóm trưởng, nhóm phó để đôn đốc các thành viên và chịu trách nhiệm chung cho cả
nhóm. Phần việc giao cho mỗi nhóm như sau: Hoàn cảnh của 5 ông thầy bói. (Nhóm
1) Cách xem voi của 5 ông thầy bói. (Nhóm 2) Năm ông thầy bói phán về voi (Nhóm
3)Kết quả của việc xem voi(Nhóm 4). Khi đã phân công học sinh về nhà chuẩn bị như
trên thì khi lên lớp, giáo viên giảng bài học sinh sẽ dễ tiếp thu và sau tiết học các em
sẽ dễ dàng thành lập được sơ đồ tư duy như sau:
Sơ đồ tư duy về truyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi”:

10


Hay khi học xong văn bản “Quan Âm Thị Kính”, GV yêu cầu HS khái quát nội
dung kiến thức bằng sơ đồ tư duy. HS có thể tự do sáng tạo theo khả năng của mình:


Có thể khẳng định rằng, nếu công việc này được giáo viên làm một cách đều
đặn và tâm huyết thì giờ học văn bản sẽ đạt được kết quả như mong đợi. Ưu điểm của
cách làm này là tiết kiệm được thời gian khi lên lớp, phát huy được cách học hợp tác,
vấn đề trọng tâm của bài học sẽ được mổ xẻ một cách sâu sắc hơn..
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở một số tiết học tác phẩm văn chương cụ
thể:
11


Bài 1: Truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng.
+ Giới thiệu một số truyện cổ tích mà em đã học.
+ Suy nghĩ, tranh luận về sự tham lam của nhân vật mụ vợ cũng như cách kết
thúc truyện.
Bài 2: Ca dao “Những câu hát than thân(Ngữ văn 7).
+ Các tổ sưu tầm và đóng thành tập về những bài ca dao mở đầu bằng 2 từ
“Thân em”.
+ Những học sinh có năng khiếu văn nghệ chuẩn bị một bài hát dân gian có
chủ đề than thân để diễn xướng trong giờ học trên lớp.
3. Biện pháp tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
* Đối với giáo viên:
- Phải nắm vững nội dung bài giảng và trọng tâm bài dạy để đặt câu hỏi hướng
vào nội dung bài học. Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ
thể, từng lớp học, từng điều kiện có thể có. Tránh đặt câu hỏi máy móc, hỏi cho có,
tránh lạm dụng trong việc đặt câu hỏi để rơi vào tình trạng dạy học hỏi đáp máy mọc
đơn điệu.
- Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với phương pháp giảng dạy mà mình đã lựa
chọn: Nêu vấn đề, đàm thoại, giảng bình…và lượng câu hỏi phải hết sức hợp lí. Nội
dung câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu về cung cấp kiến thức; rèn luyện kĩ năng;
giáo dục tư tưởng, nhân cách ở học sinh.
- Điều quan trọng nhất đối với giáo viên là khâu soạn giáo án. Để giáo án có

chất lượng phải có hệ thống câu hỏi chuẩn, hợp lí. Các câu hỏi trọng tâm của bài
giảng phải cho học sinh nắm trước trong câu hỏi chuẩn bị bài ở nhà.
* Đối với học sinh:
- Khâu soạn bài: Học sinh đọc văn bản, chuẩn bị bài theo câu hỏi mà giáo viên
đã cho, đã hướng dẫn. Tuỳ loại câu hỏi giáo viên phân công học sinh chuẩn bị theo
tổ, nhóm, hoặc theo cá nhân.
- Tham gia xây dựng bài: Động viên khích lệ học sinh bằng điểm số khi các em
tham gia xây dựng bài. Tạo không khí đối thoại thoải mái trong tiết học giữa thầy và
trò, giữa học sinh với học sinh, tranh luận giữa các nhóm học sinh với nhau để phát
huy tư duy sáng tạo của học sinh, tránh việc áp đặt kiến thức mang tính chủ quan của
người dạy, cần trân trọng khen ngợi, động viên những khám phá phát hiện độc đáo
mới lạ của các em trong quá trình tìm hiểu tác phẩm văn học.
12


Hứng thú học tập là ngọn nguồn giúp cho học sinh cảm thụ sâu sắc giá trị của
đời sống văn hoá nhân loại. Phát huy trí lực, chú trọng tới hứng thú học tập của học
sinh là hướng đi tích cực của phương pháp dạy học văn hiện nay. Tuy nhiên, để biến
những lý luận trên thành hiện thực đòi hỏi người thầy ngoài tri thức khoa học cần
phải có lòng yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục và đào tạo và phải có thêm
niềm tin vào học sinh, những chủ nhân tương lai của đất nước.
Từ mục tiêu trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp trong việc lựa
chọn hệ thống câu hỏi nhằm tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp
tác, phát huy tư duy, sáng tạo của học sinh như sau:
a. Yêu cầu của các loại câu hỏi:
- Câu hỏi phải gợi mở để tìm tòi vấn đề, phải đạt được mục đích kích thích
sự cảm thụ của học sinh với tác phẩm, phải gây được những phản ứng bên trong
của học sinh.
Không nên đưa những dạng câu hỏi mà chỉ yêu cầu học sinh trả lời có hoặc
không. Ví dụ: Khi giảng văn bản Bức tranh của em gái tôi(Ngữ văn 7) chúng ta

không nên đặt những câu hỏi như: Đọc xong văn bản, em thấy nhân vật người anh có
phải là một người xấu không? Mà chúng ta phải đặt những câu hỏi nhằm giúp các em
tìm kiếm, phát hiện: Qua hình ảnh người anh đứng trước bức tranh đạt giải của em
gái và những suy nghĩ của người anh, em cảm nhận được gì về nhân vật người anh?
- Câu hỏi phải tác động đến cảm xúc và rung động thẩm mỹ, đặc biệt là tác
động đến trực giác của học sinh.
Ở dạng câu hỏi này giáo viên phải biết chọn lựa những chi tiết nghệ thuật đặc
sắc, có tác dụng thẫm mỹ cao.
Ví dụ 1: Cách sử dụng điệp từ “vì” ở 4 câu thơ trong khổ thơ cuối ở bài
“Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh giúp em cảm nhận được điều gì? (Điệp từ “vì”
khẳng định hành động chiến đấu vì mục đích cao cả, bảo vệ non sông đất nước, bảo
vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân, gia đình, người thân, và niềm hạnh phúc của
tuổi thơ).
Vì sao người chiến sĩ có thể nghĩ rằng cuộc chiến đấu của mình còn là “vì
tiếng gà cục tác, Ổ trứng hồng tuổi thơ”? (Ổ trứng hồng và tiếng gà là những điều
thân thương, quí giá chân thật. Là biêu tượng hạnh phúc ở mỗi miên quê. Vì thế cuốc
chiến đấu hôm nay còn có thêm ý nghĩa bảo vệ những điều chân thật quí giá đó).
Ví dụ 2: Trong bài thơ, có nhiều câu thơ có cách cấu tạo đặc biệt. Đó là
những câu thơ nào?
“ Ra thế
“ Thôi rồi, Lượm ơi!”
Lượm ơi !”
“ Lượm ơi, còn không?

13


? Tại sao những câu thơ trên lại có cấu tạo đặc biệt như thế? Tác giả sử dụng
như thế để làm gì? (Diễn tả niềm đau xót, tiếc thương của tác giả đối với sự hi sinh
của Lượm).

- Câu hỏi phải hướng vào thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, khái quát.
Chẳng hạn khi củng cố bài hay kiểm tra bài cũ học sinh cần tránh những câu
hỏi như sau: Em hãy đọc thuộc lòng bài thơ và cho biết nội dung, nghệ thuật của bài.
Dạng câu hỏi này không có tác dụng phát huy sự sáng tạo, tính tích cực của học sinh
vì chỉ cần chăm chỉ học thuộc phần ghi nhớ cuối sách giáo khoa chứ không cần tư
duy nhiều là học sinh trả lời được. Hơn nữa, câu hỏi này sẽ gây cho học sinh thói
quen có hại đó là thói quen học thuộc một cách máy móc.
Có thể thay dạng câu hỏi này bằng một câu hỏi có sức gợi hơn. Ví dụ: Để kiểm
tra kiến thức cũ bài thơ “Lượm” của Tố Hữu trong chương trình Ngữ văn lớp 6 thì
giáo viên có thể hỏi như sau:
1. Qua bài thơ “Lượm”, em thích nhất đoạn thơ nào? Vì sao? Hãy đọc đoạn
thơ đó với ngữ điệu sao cho phù hợp với những điều mà em vừa giải thích?( Học sinh
có thể trả lời em thích khổ thơ nào trong bài thơ cũng được. Miễn là các em giải thích
được lí do mình thích và đọc thuộc lòng đúng đoạn thơ đó)
2. Em có nhận xét gì về cách sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả trong bài
thơ? Cách viết đó có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung bài? Từ đó, em hãy
khái quát tư tưởng chủ đề của bài thơ. (Qua bài thơ “Lượm”, bằng từ ngữ, hình
ảnh giàu sức gợi cảm, Tố Hữu đã thể hiện Lượm là một chú bé liên lạc nhí nhảnh,
hồn nhiên, yêu đời, nhanh nhẹn và ham thích công việc kháng chiến. Tác giả đã
dành cho Lượm tình cảm vừa thân thiết, gần gũi vừa trân trọng, cảm phục, coi
Lượm như người bạn chiến đấu).
Với những câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải có sự hiểu biết, cảm thụ sâu sắc
về tác phẩm đồng thời phải có cách trả lời sao cho đáp ứng được yêu cầu của câu
hỏi. Loại câu hỏi này vừa giúp giáo viên đánh giá được kiến thức, sự cảm thụ vừa
rèn luyện kĩ năng diễn đạt trong môn Ngữ văn đồng thời cũng phát huy được tư
duy sáng tạo, tính tích cực, chủ động của học sinh. Sở dĩ như vậy vì học sinh phải
dựa vào quá trình phân tích tác phẩm để nhận biết những chi tiết nghệ thuật mà tác
giả sử dụng (đây là yêu cầu nhận biết). Sau khi nhận biết, học sinh phải lí giải
được tác dụng của những chi tiết nghệ thuật ấy tức là phải lí giải được câu hỏi viết
để làm gì? (đây là yêu cầu tư duy, cảm thụ). Cuối cùng học sinh phải chủ động

tổng hợp khái quát những vấn đề do chính học sinh đã phân tích ở trên.
- Phải có câu hỏi then chốt, trọng tâm với mục đích yêu cầu của bài, tránh
đưa ra những câu hỏi chung chung mơ hồ, vụn vặt không có sự tư duy, sáng tạo.
14


Ví dụ: Khi dạy bài “Bức tranh của em gái tôi” (Ngữ văn 6- Tạ Duy Anh)
chúng ta có thể đặt câu hỏi: Qua sự thay đổi trong suy nghĩ của nhân vật người anh
khi đứng trước bức tranh đạt giải của cô em gái Kiều Phương, em cảm nhận được
điều gì? Với câu hỏi này giáo viên giúp học sinh cảm nhận được ở người anh là sự
ăn năn, hối hận chân thành về thái độ của mình và rất khâm phục tài năng và tấm
lòng nhân hậu của em gái. Hay: Qua việc tìm hiểu về nhân vật Kiều Phương? Em hãy
cho biết những đặc điểm nổi bật nào về nhân vật này? Học sinh sẽ chốt được: Kiều
Phương là một em bé hồn nhiên, trong sáng thông minh, hiếu động, có tấm lòng nhân
hậu, độ lượng và có tài năng về hội họa.
- Hệ thống câu hỏi phải được sắp đặt hợp lý, được xác định phù hợp với đối
tượng và phân loại đối tượng.
Kiểm tra bài cũ ở các đối tượng học sinh giáo viên tổ chức như sau:
Tổ chức trò chơi ai nhanh hơn:
Giáo viên phổ biến luật chơi: Cô sẽ cho các em xem một số hình ảnh và sau đó
chúng ta sẽ trả lời các câu hỏi phía dưới. Ai có câu trả lời đúng, nhanh nhất sẽ được
cộng thêm điểm.
Để tổ chức kiểm tra bài cũ theo phương pháp này giáo viên sưu tầm những
hình ảnh phục vụ tốt cho kiến thức cần kiểm tra, sau đó trình chiếu cho học sinh xem
rồi đặt câu hỏi. Ví dụ: Để kiểm tra bài “Cảnh khuya, Rằm tháng giêng” trong chương
trình Ngữ văn lớp 7, giáo viên cho các em xem hình ảnh sau:

15



Đặt các câu hỏi:
Những hình ảnh sau đây gợi cho em nhớ đến những bài thơ nào đã học trong
chương trình Ngữ văn 7?
Tác giả là ai? Hoàn cảnh sáng tác của những bài thơ đó?
Đọc thuộc những bài thơ đó?
Cảm nhận chung của em về về nội dung chính của những bài thơ đó?
Với cách tổ chức và sử dụng các câu hỏi trên, giáo viên sẽ rất dễ dàng kiểm tra
được các đối tượng học sinh. Hai câu đầu dành cho học sinh yếu, trung bình; hai câu
sau dành cho đối tượng học sinh khá, giỏi.
Tóm lại, yêu cầu của câu hỏi trong giờ giảng văn phải vừa tạo ra sự kích thích,
vừa tác động đến nhận thức, tư duy của học sinh. Việc đưa ra câu hỏi phải căn cứ vào
nội dung bài học, vào đối tượng học sinh, vào điều kiện khách quan… để có cách đặt
câu hỏi, cách lựa chọn hình thức câu hỏi và sử dụng lượng câu hỏi thích hợp giúp các
em lĩnh hội tác phẩm văn chương một cách hiệu quả nhất.
4. Các dạng câu hỏi sử dụng trong giờ học văn bản.
Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức của học sinh, kết hợp phương pháp
dạy học, có thể phân ra các loại câu hỏi sau:
(1) Câu hỏi tái hiện : Giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ
lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Loại câu hỏi này
giúp học sinh tái hiện thế giới nghệ thuật của tác phẩm như: Các hình ảnh, hình
tượng, chi tiết nghệ thuật, nhân vật, bức tranh đời sống qua sự phản ảnh…Các câu
hỏi này có khả năng khơi dậy sự liên tưởng, tưởng tượng trong quá trình tiếp nhận ở
học sinh. Đó là một biện pháp được sử dụng khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã
học với kiến thức sắp học, hoặc củng cố kiến thức vừa mới học.
Ví dụ: Ví dụ 1: Khi dạy văn bản Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh (văn 7 tập 1),
giáo viên có thể hỏi: Người chiến sỹ bắt gặp âm thanh của tiếng gà trưa trong hoàn
cảnh nào?
Ví dụ 2: Dạy Phần cuối văn bản Buổi học cuối cùng của An-phông-xơ Đô-đê
(văn 6 tập 1), GV có thể hỏi: Hãy tìm trong đoạn văn những chi tiết miêu tả hình ảnh
thầy Ha-men khiến ta xúc động.

(2) Câu hỏi yêu cầu giải thích, minh hoạ: Loại câu hỏi này nhằm mục đích
làm sáng tỏ một khái niệm, đề tài nào đó. Giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi
kèm theo những ví dụ minh hoạ để giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này
16


được áp dụng có hiệu quả trong một số trường hợp như khi Giáo viên biểu diễn
phương tiện trực quan (băng ghi hình, máy chiếu)
Ví dụ: Em hãy nhìn tranh và đọc lại bài thơ “Bạn đến chơi nhà’ của Nguyễn
Khuyến( Ngữ văn 7-tập 1)

Khi dạy văn bản Cô Tô của Nguyễn Tuân, ở phần tìm hiểu khái quát về quần đảo
Cô Tô. Để tạo tâm thế cho học sinh vào bài, giáo viên có thể đặt câu hỏi:
- Nêu những hiểu biết của em về quần đảo Cô Tô?
+ Để giúp các em hình dung cụ thể hơn về quần đảo Cô Tô, giáo viên cho các em
quan sát những bức tranh hoặc xem clip về Cô Tô.

17


- Các em có cảm nhận gì về Cô Tô sau khi đã quan sát thêm tranh minh họa
(xem clip) ?
+ Hs cảm nhận được: Phong cảnh đẹp, tài nguyên biển phong phú, giàu có, là
điểm du lịch hấp dẫn.
GV: Chính vì vậy mà nhà văn Nguyễn Tuân đã nhiều lần đến thăm đảo Cô Tô và có
lẽ lần này là lần ấn tượng nhất nên ông đã tạo ra một áng văn hay đến như vậy.
(3) Câu hỏi tìm tòi (vấn đáp phát hiện)
Đây là loại câu hỏi trọng tâm nhất trong một giờ học văn. Sự cảm thụ tác phẩm
của học sinh phải qua con đường của nhận thức. Để học sinh nắm bắt chính xác tác
phẩm, người giáo viên phải đặt những câu hỏi khơi dậy tư duy ở các em. Cần tổ chức

việc trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa thầy với cả lớp, giữa trò với trò, thông
qua đó các em nắm được tri thức mới do chính mình tìm tòi phát hiện. Hệ thống câu
hỏi được sắp đặt hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra và giải quyết một vấn đề xác định,
buộc học sinh phải liên tục cố gắng, tìm tòi lời giải đáp. Trong vấn đáp tìm tòi, hệ
thống câu hỏi của người thầy giữ vai trò chỉ đạo, quyết định chất lượng lĩnh hội của
lớp học.Trật tự logic của các câu hỏi hướng dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản
chất của sự vật, quy luật của hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham
muốn hiểu biết ở các em. Ở đây giáo viên là người tổ chức sự tìm tòi còn học sinh là
người tự lực phát hiện kiến thức mới, vì vậy kết thúc cuộc đàm thoại học sinh có
được niềm vui của sự khám phá, vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được cách
thức đi tới kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Cuối đoạn
đàm thoại, Giáo viên cần biết vận dụng các ý kiến của học sinh để kết luận vấn đề đặt
ra, dĩ nhiên là có bổ sung, chỉnh lí khi cần thiết. Làm được như vậy, học sinh càng
hứng thú, tự tin vì thấy trong kết luận của thầy có phần đóng góp ý kiến của mình.
Để học sinh tìm tòi được kiến thức trong giờ học văn bản, có thể đưa ra nhiều
dạng câu hỏi khác nhau:
* Câu hỏi nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề có liên quan chặt chẽ đến vấn đề và
tình huống có vấn đề. Loại câu hỏi này phải làm rõ được vấn đề tiềm ẩn trong tác
18


phẩm, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh và phải động viên, khuyến khích
học sinh giải quyết vấn đề đã nêu.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Cô Tô” của Nguyễn Tuân (Ngữ Văn 6 tập 2), Giáo viên
có thể hỏi:
- Nếu có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân không hề miêu tả cảnh Cô Tô trước cơn
bão nhưng người đọc vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của Cô Tô khi chưa có bão đi qua.
Em thấy có đúng không? Vì sao?
Câu hỏi này đặt ra khi phân tích Cảnh thiên nhiên trên đảo Cô Tô sau trận bão.
Để giúp HS giải quyết được vấn đề trên, GV có thể gợi mở giúp cho HS cảm nhận

được: Bên cạnh các tính từ miêu tả cảnh Cô Tô sau cơn báo, tác giả sử dụng đi kèm
những từ: thêm, hơn. Điều đó chứng tỏ vốn dĩ Cô Tô rất đẹp, sau cơn bão Cô Tô càng
đẹp hơn, càng đáng yêu hơn, càng có sức sống mãnh liệt hơn.
Từ đó GV tích hợp giáo dục HS trong quan sát và cách dùng từ khi tạo lập văn
bản miêu tả.
Ví dụ 2: Khi dạy văn bản “Cổng trường mở ra” của Lý Lan, GV có thể đặt câu
hỏi: Em hiểu gì về câu nói của người mẹ “ Bước qua cánh cổng trường là một thế
giới kì diệu sẽ mở ra”? Theo em thế giới kì diệu đó là gì?
HS có thể có nhiều phát hiện:
+ Được khám phá một thế giới mới lạ: những điều kì diệu, bí ẩn trong thế giới tự
nhiên và con người…
+ Được đến với cả một chân trời tri thức: văn hóa, khoa học bao la rộng lớn…
+ Được bồi dưỡng về tâm hồn nhân cách
+ Được sống trong vòng tay yêu thương của thầy cô, bè bạn…
+ Ước mơ, khát vọng được chắp cánh để bay cao, bay xa;…
Hay câu hỏi: Đoạn cuối văn bản xuất hiện câu thành ngữ “Sai một li đi một
dặm” Em hiểu câu thành ngữ này có ý nghĩa gì khi gắn với sự nghiệp giáo dục?
Câu hỏi này đặt ra yêu cầu HS suy luận. Giáo viên giúp HS giải quyết vấn đề
bằng những câu hỏi gợi mở để tìm ra ý nghĩa của câu nói đó là Không được phép sai
lầm trong giáo dục.
* Câu hỏi cần được phân tích, nhận xét, đánh giá: Sau khi nêu ra các câu hỏi
chúng ta phải đặt những câu hỏi để tìm ra những lý do: Tại sao tác giả lại xây dựng,
sử dụng những hình ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ thuật đó? Ý nghĩa của vấn đề?
Loại câu hỏi này giúp học sinh biết phân tích, đánh giá và khái quát những vấn đề
quy tụ vào những đặc trưng về hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng của tác
phẩm.
Ví dụ 1: Khi giảng bài “ Cuộc chia tay của những con búp bê” của Khánh
Hoài(Ngữ văn 7- tập 1) giáo viên có thể hỏi: Hai bức tranh trong SGK minh họa
19



cho nội dung nào trong truyện? (Chia búp bê - Hai anh em chia tay nhau). Nhan đề
truyện gợi lên điều gì?
HS cảm nhận được: Những con búp bê vốn là đồ chơi của tuổi thơ gợi nên sự ngộ
nghĩnh, vô tư, ngây thơ, vô tội -> thế mà đành chia tay -> tên truyện gợi tình huống
buộc người đọc theo dõi, góp phần thể hiện ý định của tác giả. Thực chất văn bản đề
cập đến cuộc chia tay
của hai anh em Thành và Thủy. Hình ảnh của hai con búp bê là hình ảnh biểu tượng
của hai anh em, chúng không hề có lỗi, chúng ngây thơ trong sáng. Viết về cuộc
chia tay không đáng có. Văn bản đã làm toát lên thông điệp về quyền trẻ em:
- Không thể đẩy trẻ em vào tình cảnh bất hạnh
- Người lớn và xã hội phải chăm lo và bảo vệ hạnh phúc trẻ em.
Ví dụ 2: Khi giảng bài Lượm của Tố Hữu ( Ngữ văn 6, tập 2) GV hỏi:
Trong bài thơ là thể thơ 4 chữ gồm 15 khổ thơ, nhưng có khổ thơ được cấu tạo đặc
biệt:
Ra thế
Lượm ơi!
và lại có khổ thơ chỉ có 1 câu:
Lượm ơi còn không?
Em hãy phân tích tác dụng của cách diễn đạt trên trong việc biểu đạt cảm xúc của
tác giả?
Đối với câu hỏi này giáo hướng dẫn học sinh tìm hiểu từng ý nghĩa của câu
thơ. Sau đó GV yêu cầu HS trình bày cảm nhận của mình dựa vào những ý nghĩa
trên:
Ấn tượng của cuộc gặp gỡ vẫn còn nguyên vẹn nét đẹp đẽ, vui tươi, ấm áp
trong lòng tác giả, bỗng nhiên có tin Lượm hy sinh. Câu thơ gãy đôi như một tiếng
nấc nghẹn ngào:
Ra thế
Lượm ơi!
Đó là nỗi sửng sốt, xúc động đến nghẹn ngào. Và nhà thơ hình dung ra ngay

cảnh tượng chú bé hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.
Lượm “ thiên thần bé nhỏ ấy đã bay đi”, để lại bao tiếc thương cho chúng ta,
như Tố Hữu đã nghẹn ngào, đau xót gọi em lần thứ ba bằng một câu thơ day dứt:
Lượm ơi, còn không?
Câu thơ đứng riêng thành một khổ thơ, như một câu hỏi xoáy vào lòng người đọc,
đã nói rõ tình cảm của nhà thơ đối với chú bé anh hùng của dân tộc. Tác gỉa như
không tin rằng Lượm đã hy sinh, Lượm vẫn còn trong lòng tác giả, mãi còn cùng với
đất nước, quê hương.
Ví dụ 3: Khi dạy văn bản “Sống chết mặc bay” Của Phạm Duy Tốn, GV hỏi:
Trong bài tên sông được nói cụ thể (sông Nhị Hà) nhưng tên phủ được ghi bằng ký
hiệu (phủ X, làng X). Điều đó thể hiện dụng ý gì của tác giả ?
20


GV giúp HS cảm nhận được: Tác giả muốn người đọc hiểu câu chuyện này không
chỉ xảy ra ở một nơi mà có thể là phổ biến ở nhiều nơi trên nước ta.
* Câu hỏi yêu cầu có sự so sánh đối chiếu: Sự so sánh đối chiếu là một hình
thức của thao tác phân tích trong tư duy. Qua việc so sánh đối chiếu trong giờ học
văn bản, học sinh có thể nhận ra những nét độc đáo, những ý nghĩa sâu sắc của tác
phẩm. Các loại câu hỏi đưa ra có thể là để so sánh các hình ảnh chi tiết trong tác
phẩm hoặc với các tác phẩm khác.
Ví dụ 1: Khi dạy bài thơ “Bạn đến chới nhà”, GV có thể hỏi: Theo em có gì khác
nhau trong cụm từ “ta với ta” ở bài thơ “Bạn đến chơi nhà” so với bài “Qua Đèo
Ngang” Bà Huyện Thanh Quan ?
Học sinh so sánh được:
- Giống nhau: cấu tạo ngữ pháp, từ ngữ
- Khác nhau về ý nghĩa:
+ Qua Đèo Ngang :nói về cái tôi riêng lẻ, cô đơn
+ Bạn đến chơi nhà: nói về 2 người gắn bó thân mật ấm áp tình đời và sâu lặng tình
bạn

Ví dụ 2: Ngôn ngữ ở bài thơ Bạn đến chơi nhà có gì khác so với ngôn ngữ ở đoạn
thơ Sau phút chia ly mà chúng ta đã học?
* Câu hỏi ứng dụng và liên hệ: Loại câu hỏi này giúp học sinh chuyển nhận từ
nhận thức về tác phẩm để nhìn vào hiện thực cuộc đời. Để trả lời câu hỏi này, học
sinh phải tự liên hệ với thực tế và bản thân để tìm ra hướng giải quyết thích hợp theo
sự cảm thụ của mình. Các loại câu hỏi này có thể là: Cho biết tác dụng từ việc đọc tác
phẩm đến tình cảm thái độ nhận thức của em? Theo em, tác phẩm này có tác dụng
như thế nào đối với đời sống? Tác phẩm có đóng góp gì đối với nền văn học?...
Ví dụ 1: Giảng bài “Bức tranh của em gái tôi” của Tạ Duy Anh (Ngữ văn 6tập 1), Giáo viên có thể hỏi: Cảm nhận của em đối với nhân vật người anh như thế
nào? (hoặc ấn tượng của em về nhân vật người anh).
HS có thể trình bày cảm nhận của mình, GV hỏi thêm: Em hãy cho biết hình
ảnh chú bé trong tranh của Kiều Phương với hình ảnh người anh ngoài thực tế có
khác nhau nhiều không ?
- HS sẽ thấy được: Có khác nhưng không nhiều ( Hình ảnh trong tranh đẹp,
hoàn hảo về ngoại hình lẫn bản chất. Nếu người anh biết ăn năn hối hận thì bản chất
của người anh cũng rất tốt đẹp).
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Bài học đường đời đầu tiên”( Tô Hoài), sau khi hướng
dẫn HS phân tích bài học đầu tiên của dế Mèn, GV có thể dùng một số câu hỏi sau để
giáo dục các em và giúp các em rút ra bài học cho bản thân:
- Theo em, ta có thể tha thứ cho lỗi lầm của Dế Mèn được không? Vì sao?
HS sẽ trả lời: Có thể tha thứ được. Vì tình cảm của Dế Mèn rất chân thành,
biết ăn năn sám hối về tội lỗi của mình. Đã biết nghĩ đến việc thay đổi cách sống,
cách suy nghĩ và cách cư xử để từ đó GV giáo dục HS
21


- Em thấy có đặc điểm nào của con người được gán cho các con vật trong
đoạn truyện này? Em thích những đặc điểm nào? Không thích đặc điểm nào?
- Theo em, sau cái chết của Dế Choắt, Dế Mèn đã rút ra được điều gì ? Đó là
bài học gì?

- Bài học đó có phải là bài học cho tất cả chúng ta không? Vì sao?
5. Các biện pháp kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Để phần việc này thực sự đạt hiệu quả và sức hấp dẫn, người giáo viên cần lưu
ý:
- Cần nắm vững chuẩn kiến thức- kĩ năng và yêu cầu cần đạt của mỗi bài học.
Đây là “kim chỉ nam” giúp cho phần củng cố của bài học không bị chệch hướng và
xác định được nội dung trọng tâm.
- Cần phối hợp nhiều phương pháp, trong đó chú ý đến phương tiện dạy học
hiện đại (dùng công nghệ thông tin, màn ảnh, máy chiếu, âm thanh...) để củng cố bài
học tạo nên sự hứng thú của học sinh.
- Cung cấp thêm những tư liệu liên quan đến tác giả, tác phẩm hoặc những lời
bình về tác phẩm, chẳng hạn:
+ Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Đêm nay Bác không ngủ(Minh Huệ), Cây
tre Việt Nam( Thép Mới), Buổi học cuối cùng( An- phông- xơ Đô- đê),...Cảnh khuyaRằm tháng giêng( Hồ Chí Minh),...
+ Giới thiệu thêm tác phẩm có liên quan đến cùng nội dung chủ đề của cùng
tác giả: sau khi học xong bài Cây tre Việt Nam( Thép Mới), đọc thêm cho học sinh
nghe bài thơ “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy, Vài câu thơ về cây tre trong bài
“Viếng lăng Bác” của Viễn Phương,...
+ Đọc những bài thơ, câu thơ được khơi gợi cảm xúc từ những hình tượng
nhân vật văn học: ví dụ những câu thơ viết về Thánh Gióng, Hồ Chí Minh, Phan Bội
Châu,...
+ Dùng sơ đồ, biểu bảng... để tổng kết những nội dung cơ bản hoặc cấu trúc
bài học:
- Sử dụng hệ thống câu hỏi để kiểm tra, đánh giá năng lực nhận thức, rung
động cảm xúc và khả năng sáng tạo của học sinh bằng một số kiểu câu hỏi theo cấp
độ tăng dần như sau:
+ Những câu hỏi mang tính chất tái hiện lại, liệt kê lại kiến thức:

22



Ví dụ: Sau khi học xong 4 văn bản ca dao trong chương trình Ngữ văn lớp 7,
hãy nêu nội dung và nghệ thuật tiêu biểu trong mỗi văn bản đó?
+ Những câu hỏi để tìm hiểu cảm xúc chủ quan của học sinh về một vấn đề:
Ví dụ: Cảm nhận của em về hình ảnh chú Dế Mèn dưới ngòi bút của Tô Hoài
qua đoạn trích “Bài học đường đời đầu tiên” . Em có suy nghĩ gì về hình tượng viên
quan phụ mẫu trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn?
Ở những câu hỏi thuộc kiểu dạng này, giáo viên dần đưa các em vào việc khám
phá nội dung đồng thời bày tỏ suy nghĩ, thái độ của cá nhân mình về một vấn đề của
bài học trước tập thể lớp. Điều này giúp các em dần chủ động hơn trong việc lĩnh hội
và khám phá tác phẩm.
- Cho học sinh tìm hiểu và tranh luận về tên tác phẩm, tên đoạn trích:
Tên tác phẩm, tên đoạn trích (có thể do người biên soạn đặt) đều bao hàm chứa
đựng nội dung của tác phẩm, được biểu đạt ở dạng khái quát nhất. Do đó, tìm hiểu
tiêu đề tác phẩm cũng là một phương thức khá lý thú, hấp dẫn lại có hiệu quả trực
tiếp trong việc khắc sâu kiến thức.
Ví dụ: Tại sao tác giả lại đặt tên tác phẩm là “Cầu Long Biên chứng nhân lịch
sử”? Nếu được đặt tên lại em sẽ đặt là gì?
Tại sao An-phông-xơ Đô-đê đặt tên tác phẩm là “Buổi học cuối cùng” nhằm
mục đích gì? Sau khi học xong bài thơ, em cảm nhận như thế nào về nhan đề “Đêm
nay Bác không ngủ”?
Rõ ràng khi trả lời được câu hỏi này học sinh phải nắm chắc nội dung bài học.
Đồng thời với việc đưa ra câu hỏi mang tính tình huống, học sinh sẽ hết sức phấn
khởi khi được tham gia vào việc tạo dựng tác phẩm (dù chỉ dừng lại tên gọi của nó).
Với những câu hỏi này giáo viên nên hết sức chú trọng đến ý kiến cá nhân học sinh
để có thể bổ sung hoặc điều chỉnh hợp lí.
Những câu hỏi thuộc kiểu loại trên đòi hỏi học sinh phải có sự tư duy thấu đáo.
Yêu cầu các em phải hiểu nội dung bài học và nhận định của nhà nghiên cứu, từ đó
phải huy động kiến thức để lí giải, chứng minh. Những câu hỏi này giúp các em phát
triển tư duy và cách lập luận.

- Cung cấp cho học sinh những cách tiếp cận khác nhau về tác phẩm, sau đó
cho học sinh lựa chọn cách hiểu phù hợp với năng lực của mình và lí giải.
Điều cần lưu ý là với kiểu câu hỏi này, giáo viên khuyến khích các em mạnh
dạn trình bày những cách hiểu khác nhau nhưng điều quan trọng là xem xét đến sự lí
23


giải của các em. Từ đó giúp các em biết được nhiều “kênh” khác nhau, đồng thời rèn
luyện cho các em “bản lĩnh” nghiên cứu, sáng tạo...
- Ngoài ra có thể kết hợp với các hình thức sau:
+ Sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Hình thức kiểm tra này
rất phù hợp bởi trong một khoảng thời gian ít ỏi nhưng có thể kiểm tra được nhiều
đơn vị kiến thức
+ Sử dụng các hình thức kiểm tra theo kiểu “vừa học vừa chơi” như câu đố,
chơi ô chữ.
Giáo án minh hoạ việc áp dụng Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Buôn Trấp.
TUẦN 2 . Tiết 5, 6
VĂN BẢN

CUỘC CHIA TAY CỦA NHỮNG CON BÚP BÊ
( Khánh Hoài )
A / Mục tiêu cần đạt : Giúp HS :
1. Kiến thức:
- Tình cảm anh em ruột thịt thắm thiết, sâu nặng và nỗi đau khổ của những đứa trẻ
không may rơi vào hoàn cảnh bố mẹ li dị.
- Đặc sắc nghệ thuật của văn bản, lồng ghép vấn đề môi trường.
2. Kĩ năng.
- Đọc – hiểu văn bản truyện, đọc diễn cảm lời đối thoại phù hợp vớ tâm trạng nhân
vật.

- Kể và tóm tắt truyện.
3. Thái độ
- Thấy được những tình cảm chân thành, sâu nặng của hai anh em trong câu chuyện.
Cảm nhận được nỗi đau đớn xót xa của những bạn nhỏ chẳng may rơi vào hoàn cảnh
gia đình bất hạnh. Biết thông cảm và chia sẻ với những người bạn ấy. Thấy được cái
hay của truyện là ở cách kể rất chân thật và cảm động.
4. Kĩ năng sống:
- Tự nhận thức và xác định được giá trị của lòng nhân ái, tình thương và trách nhiệm
cá nhân với hạnh phúc gia đình.
- Giao tiếp, phản hồi / lắng nghe tích cực, trình bày suy nghĩ / ý tưởng, cảm nhận của
bản thân về các ứng xử thể hiện tình cảm của các nhân vật, giá trị nội dung và nghệ
thuật của văn bản.
B/ Các phương pháp/kĩ thuật dạy học
- Học theo nhóm: trao đổi, phân tích nhóm về điểm mạnh, điểm yếu của con
người Việt Nam, của bản thân, xác định những yêu cầu của bối cảnh mới.
24


- Phát biểu, trao đổi chung: GV nêu vấn đề cần thảo luận về điểm mạnh, điểm
yếu của con người Việt Nam nói chung, của lớp thanh niên hiện nay, từ đó thống nhất
những hành trang cần chuẩn bị để bước vào thế kỉ mới.
- Phương tiện dạy học: Giấy khổ to, bút nhiều màu ghi kết quả thảo luận nhóm
(có thể sử dụng máy chiếu thì càng tốt).
C- Chuẩn bị
- GV: Giáo án, tư liệu tham khoả, đồ dùng dạy học
- HS: Đọc kĩ văn bản, thực hiện các yêu cầu của GV đã dặn dò ở tiết trước.
D- Các hoạt động học tập và nội dung học tập
1. Ổn định tổ chức
2. Bài cu
3. Bài mới

Giới thiệu bài
B/ Chuẩn bị :
GV đọc kĩ SGK nghiên cứu SGV, bài soạn, bảng thảo luận.
C/ Tiến trình dạy học:
* Bài cũ: Nêu ý nghĩa văn bản “ Mẹ tôi “.
* Bài mới: Giới thiệu bài: Em cảm nhận ntn về đời sống tinh thần của En-ri-cô?
(Hạnh phúc) Bạn ấy thật may măn khi sinh ra trong một gd có bố mẹ yêu thương
trân trọng nhau. Song trong cuộc sống không phải gđ nào cũng yên ấm h/p như thế.
Có những gđ mà các bậc cha mẹ li hôn nhau gây ra những nỗi đau cho con cái của
mình. Những đứa trẻ trong những gđ ấy thật bất hạnh! Chúng có tâm trạng gì? Nỗi
đau gì? Bài học hôm nay một phần cho ta thấy điều đó.
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ
? Hãy nêu những hiểu biết của em về hoàn cảnh ra đời tác
phẩm ?
- Truyện ngắn “CCTCNCBB” của tác giả Khánh Hoài,
được giải nhì trong hội thi Thơ -Văn viết về quyền trẻ em
năm 1992
GV hướng dẫn đọc: Giọng đọc thay đổi linh hoạt phù hợp
tâm tư , tình cảm của nhân vật: đau đớn, xót xa, hồn nhiên,
nhường nhịn.
- GV đọc mẫu. HS đọc
- HS nhận xét, GV nhận xét
- Hãy kể tóm tắt nội dung văn bản?
(Truyện kể về cuộc chia tay của anh em Thành - Thuỷ do
gia đình tan vỡ, bố mẹ li hôn. Trước khi chia tay hai anh em
25

GHI BẢNG
I/ Xuất xứ:


II/ Đọc- hiểu văn bản:
1. Đọc-Tìm hiểu chung:


×