Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

LUẬN văn tốt NGHIỆP ĐẢNG bộ TỈNH ĐỒNG NAI LÃNH đạo xây DỰNG đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT cấp TỈNH từ năm 1997 đến năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.02 KB, 48 trang )

ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG NAI LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT CẤP
TỈNH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2008
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung là cầu nối liền giữa Đảng và các cơ
quan lãnh đạo của Đảng với quần chúng. Cán bộ vừa là người tuyên truyền,
giáo dục các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước cho dân chúng hiểu và thi hành; vừa là người nắm tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đề ra chủ trương đường
lối đúng. Cán bộ là người tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng tiến
hành các nhiệm vụ. Trong một chừng mực nhất định, cán bộ có vai trò quyết
định thành công hay thất bại của phong trào, đặc biệt cán bộ lãnh đạo chủ
chốt người đứng đầu các cơ quan đơn vị Đảng và Nhà nước giữ vị trí, vai trò
rất quan trọng là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng. Cán bộ không chỉ là người tham gia đề ra đường lối và tổ
chức thắng lợi đường lối, mà còn góp phần phát triển và hoàn chỉnh đường lối
ngày một đúng đắn hơn, phù hợp với tình hình, đặc điểm và nhiệm vụ cách
mạng qua các giai đoạn lịch sử.
Cán bộ chủ chốt của Đảng nói chung, và cán bộ chủ chốt địa phương
cấp tỉnh nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước hiện nay. Khẳng định vai trò đội ngũ cán bộ của Đảng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ: “ Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
“ Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Trong các
cơ quan, đơn vị Đảng và Nhà nước có vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm
vụ hay không phụ thuộc quyết định vào chất lượng của đội ngũ cán bộ. Nhận
thức rõ vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ đối với cách mạng, từ khi ra đời và


2


trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng; Đảng và Nhà nước ta thường xuyên
quan tâm, chăm lo đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhất là đội
ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở, nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Do vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng đã đóng góp quan trọng vào
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng về cán bộ và công tác cán
bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tỉnh uỷ,
Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai thường xuyên quán triệt và tập trung lãnh đạo
bảo đảm tốt công tác cán bộ của tỉnh. Do đó đã giành được những thành tựu
rát quan trọng trong việc phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là
cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Đội ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh đã thể hiện được
bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; năng động sáng tạo, chấp hành và thực hiện tốt đường lối
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tạo được chuyển
biến quan trọng về kinh tế- xã hội, giữ vững được ổn định chính trị, thúc đẩy
sự nghiệp đổi mới ở địa phương phát triển. Song bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ
của tỉnh còn một bộ phận sa sút về phẩm chất chính trị, nhận thức mơ hồ về
chủ nghĩa Mác- Lênin, một số thái hoá, biến chất về đạo đức, lối sống, quan
liêu, ức hiếp dân… Đội ngũ cán bộ của Tỉnh nhiều nhưng chưa mạnh, còn
chắp vá hẫng hụt, năng lực còn hạn chế, yếu kém trước yêu cầu đòi hỏi của
tình hình kinh tế- xã hội ở địa phương.
Tuy vậy, trước yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi phải xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh với chất lượng ngày càng cao nhằm đáp
ứng yêu cầu lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của Tỉnh
trong tình hình hiện nay. Từ việc nhận thức đúng đắn về vai trò đội ngũ cán bộ
chủ chốt của tỉnh tới quá trình tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương,
chính sách về công tác cán bộ của Đảng, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng
địa phương đã và đang đặt ra cho Đảng bộ tỉnh những yêu cầu mới. Đồng thời



3
việc nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thành tựu, hạn chế chỉ rõ nguyên nhân và rút
ra những kinh nghiệm bước đầu về quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt của tỉnh (1997 - 2008), làm cơ sở để Đảng bộ tỉnh tiếp tục lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Tỉnh trong những năm tiếp
theo, đạt được nhiều thành tựu vững chắc hơn, đây là vấn đề cần thiết và mang
tính cấp bách hiện nay.
Do đó, để góp phần vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề trên, tác
giả chọn vấn đề: “ Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp tỉnh từ năm 1997 đến năm 2008” làm luận văn tốt nghiệp cao học của
mình thuộc ngành lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2 Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng nói chung, xây dựng Đảng và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng nói riêng vấn đề cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt bao giờ cũng giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan
trọng và là nội dung trọng yếu trong công tác xây dựng Đảng. Đồng thời đây
là vấn đề quan tâm nhiều nhất của các nhà khoa học với các công trình nghiên
cứu khoa học ở những góc độ, khía cạnh khác nhau. Có thể phân chia các
công trình nghiên cứu này thành các nhóm sau:
- Nhóm các công trình khoa học về các bài viết, bài nói của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và của một số nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước
Việt Nam.
Các vấn đề này được tuyển chọn và xuất bản trong các cuốn sách như:
“ Hồ Chí Minh (1947), “ Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Hồ Chí Minh (1949), “Bài nói chuyện
trong buổi bế mạc hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ sáu”, Hồ Chí Minh toàn
tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Hồ Chí Minh (1958), “



4
Đạo đức cách mạng”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000; Đỗ Mười (1994) Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lê Đức Thọ (1985), Xây dựng Đảng trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội; Lê Khả Phiêu
(1999), Bài nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc triển khai thực hiện nghị quyết
Trung ương 6 ( lần 2) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Hà Nội; Nguyễn Phú
Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên ) (2001), Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cùng với các văn kiện Đảng, các bài viết này đã góp phần trình bày,
phân tích quan điểm, đường lối, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục, rèn
luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, gắn với yêu cầu sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà trọng tâm trong công cuộc đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thông qua các tác phẩm
này, có thể nhận thấy tư tưởng xuyên suốt chỉ đạo quá trình xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ cách mạng của Đảng, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
qua các thời kỳ cách mạng khác nhau.
- Nhóm các công trình khoa học xuất bản thành sách
Tổng cục chính trị (1994), Tổng kết công tác cán bộ trong 10 năm đổi
mới (1986 - 1996), Hà Nội; Tổng cục chính trị (2000), Xây dựng đội ngũ cán
bộ quân đội đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn cách mạng mới, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội; Tổng cục chính trị (2000), Công tác đảng, công tác chính
trị, Tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Ban tổ chức- cán bộ Chính Phủ
(1994), Chế độ nhân sự các nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lưu Ngọc
Trịnh (1996), Chiến lược con người trong “ thần kỳ” kinh tế Nhật Bản, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Trọng Bảo (chủ biên) (1998), xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh trong thời kỳ



5
CNH, HĐH đất nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Phạm Hữu Dật ( chủ biên )
(1994), Phương sách dùng người của ông cha ta trong lịch sử, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Tô Tử Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lê Du Phong,
Hoàng Văn Hoa ( chủ biên) ( 1998), Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trần
Xuân Sầm ( chủ biên ) ( 1998) Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia , Hà
Nội; Đức Vượng (1995), Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
Những công trình này có một đặc điểm chung là bàn về quá trình xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ cách mạng của Đảng qua các thời kỳ cách
mạng; xác định rõ vị trí, vai trò tầm quan trọng và yều khách quan của việc
xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong cách mạng. Đặc biệt, xác định rõ cơ
cấu số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn, nội dung, yêu cầu và giải pháp cụ thể
xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ của Đảng nhất là cán bộ lãnh đạo chủ
chốt trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay.
- Nhóm các bài báo khoa học đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên
ngành
Các bài báo này đã đề cập ở các phạm vị, góc độ khác nhau về vấn đề
xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung cán bộ lãnh đạo chủ chốt nói riêng như:
Huỳnh Xuân cơ (1995), “ Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới”, Tạp chí xây dựng Đảng (số 3);
Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban tổ chức Trung ương (1999), Một số quyết
định, quy định, quy chế, hướng dẫn về công tác cán bộ, Tạp chí Xây dựng
Đảng, Hà Nội; Cao Duy Hạ (1999), “ Nghĩ về giải pháp nâng cao phẩm chất,
năng lực đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Tạp chí thông tin lý



6
luận, (số 253); Tiến Hải (2000), “ Yếu tố quan trọng hàng đầu trong công tác
cán bộ”, Tạp chí thông tin lý luận, (số 267); Trần Ngọc Hiên (1993), “
Phương pháp luận và phương pháp cụ thể nghiên cứu cơ cấu, tiêu chuẩn cán
bộ”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, ( số1); Nguyễn Duy Hùng (1999), “ Công
tác cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tạp chí xây dựng Đảng, (số 3);
Trần Hưng ( 1995), “ Khắc phục tư tưởng cục bộ địa phương trong lựa chọn
sử dụng đề bạt cán bộ” , Tạp chí xây dựng Đảng, (số 7); Nguyễn Thành Khải
(1998), “ Một số cá tính, thói quen của cán bộ quản lý hiện nay”, Tạp chí
Quản lý nhà nước, (số 33); Nguyễn Hải Khoát (1990), “ Về năng lực trí tuệ
của người lãnh đạo”, Tạp chí Cộng sản, (số 8); Nguyễn Hải Khoát (1994), “
Đánh giá cán bộ dựa theo đặc điểm nhân cách cán bộ”, Tạp chí Xây dựng
Đảng, (số 8); Trần Ngọc Khuê (1993), “ Nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm hàng đầu của người cán bộ trong hệ
thống chính trị hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu lý luận, ( số 1); Lê Văn Lý
(1990), “ Bàn về đổi mới đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý”, Tạp chí Cộng
sản, (số 11); Lê Văn Lý (1997), “ Giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán
bộ”, Tạp chí Cộng sản, (số 7); Đặng Văn Mấm (1996), “ Một số vấn đề công
tác cán bộ trong thời kỳ mới ở Đảng bộ thành phố Hải Phòng” Tạp chí Xây
dựng Đảng, (số12); Đỗ Mười ( 1999), “Bài học từ sự kiện Thái bình”, Tạp
chí Cộng sản, ( số 4); Nguyễn Thế Phấn (1999), “ Năng lực tổ chức thực tiễn
và uy tín của người cán bộ lãnh đạo”, Tạp chí Thông tin lý luận, ( số 253); To
Huy Rứa ( 1999), “ Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ
trong thời kỳ mới”, Tạp chí Cộng sản (số 3); Chu Văn Rỵ (1997) “ Xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, trước nhất là người đứng đầu”, Tạp chí
Cộng sản (số 6 ); Lê Doãn Tá (1995), “ Mấy vấn đề cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ
chủ chốt trong hệ thống chính trị”, Tạp chí Xây dựng Đảng, ( số 9 ); Nguyễn
Quốc Tuấn (1999), “ Năng lực người lãnh đạo”, Tạp chí Cộng sản, ( số 1); Đỗ



7
Văn ( 1995), “ Đánh giá đúng cán bộ trong cơ chế thị trường”, Tạp chí Xây
dựng Đảng, ( số 7 ); Lê Hữu Xanh (1993), “ Từ vai trò xã hội mới của các
đoàn thể nghĩ về tiêu chuẩn cán bộ các đoàn thể nhân dân” , Tạp chí Nghiên
cứu lý luận ( số 4); Lê Hữu Xanh (1994), “ Đưa tâm lý học chính trị vào
chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo chính trị”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận
( số 4) ; Nguyễn Văn Dụ ( 1997), “ Một số vấn đề nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chính trị phân đội trong Quân đội ta hiện nay”, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân; Nguyễn Minh Khôi (2009), “ Nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục - đào tạo các học viện, trường sĩ quan quân đội, Tạp
chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự ( số 4); Phạm Đình Bộ ( 2009), “ Rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo Di chúc của Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự ( số 5); Đồng Xuân
Trường ( 2009) , “Góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ
sở, xã, phường, thị trấn ở Tây nguyên hiên nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận
chính trị quân sự ( số 5); Tiến Hải (1997), “ Thông qua hoạt động thực tiễn để
đánh giá , bố trí, sử dụng cán bộ”, Báo Nhân dân, (số ngày 05/10); Tiến Hải
(2000), “ Yếu tố quan trọng hàng đầu trong công tác cán bộ” , Tạp chí Thông
tin lý luận, (số 267).
Các công trình trên đề cập đến các khía cạnh khác nhau về phẩm chất,
năng lực đội ngũ cán bộ của Đảng hiện nay, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt của Đảng. Mỗi công trình của các tác giả đề cập, lý giải nhiều vấn đề
về vị trí, vai trò, yêu cầu, cơ cấu, nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ ở những
phạm vi, góc độ và đối tượng khác nhau. Đặc biệt, đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay.
- Nhóm các đề tài, luận văn, luận án, kỷ hiếu khoa học nghiên cứu theo
các lĩnh vực chuyên ngành khác nhau:



8
“Cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính
trị đổi mới ở nước ta - Những vấn đề lý luận và phương pháp luận ”, Chương
trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước KX.05, đề tài KX.05-11 (1993); “
Một số vấn đề về quy hoạch cán bộ ”(Kỷ hiếu hội thảo khoa học) , Chương
trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước KHXH.05 (1998); “Thực trạng và
giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị ”, đề tài
khoa học KX 01- BĐ 03, Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Tổ chức Trung
ương( 1998); “Hoàn thiện mục tiêu, đổi mới nội dung và phương pháp đào
tạo cán bộ lãnh đạo quản lý cao trung cấp của Đảng và Nhà nước (qua thực
tế Học viện Nguyễn Aí Quốc”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, PGS, TS Vũ Nhật Khải làm chủ nhiệm
(1992); “ Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế ở nước ta trong quá trình
đổi mới kinh tế”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, PGS Đào Xuân Sâm làm chủ nhiệm (1994); “Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, đề tài KHXH.05.03 thuộc
chương trình khoa học cấp nhà nước KHXH.05, do PGS, TS Nguyễn Phú
Trọng làm chủ nhiệm (2000); Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử của tác giả
Nguyễn Mậu Dựng: “ Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng
bộ các cấp ở Tây nguyên hiện nay”(1996); Luận án phó tiến sĩ khoa học quân
sự của tác giả Trần Danh Bích: “ Xây dựng cơ cấu hợp lý đội ngũ cán bộ
Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới” ( 1996); Luận
án tiến sĩ của tác giả Ngô Huy Tiếp : “Xây dựng đội ngũ cán bộ ở đơn vị cơ
sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay” (1999); Luận án
tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Hiệp: “ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chính trị phân đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ” (2000); Luận án tiến sĩ lịch sử của tác giả



9
Nguyễn Hồng Châu: “Nâng cao chất lượng đội ngũ chủ nhiệm hậu cần trung
đoàn binh chủng hợp thành Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” (2003);
Luận án tiến sĩ lịch sử của tác giả Nguyễn Tiến Quốc: “Nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ trì Ban chỉ huy Quân sự các huyện miền núi phía Bắc
trong giai đoạn hiện nay” (2003); Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng của tác
giả Đoàn Đình Phú: “ Xây dựng đội ngũ của Trường sĩ quan Pháo binh hiện
nay” (2001); Luận văn Thạc sĩ Xây dựng Đảng của tác giả Đào Công Khanh:
“ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý học viên ở Học viện Hải quân
hiện nay” (2003); Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng của tác giả Phạm Ngọc
Thuỵ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan ở Học viện quốc phòng
trong giai đoạn hiện nay” ( 2004).
Các công trình nghiên cứu trên đi sâu vào nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau theo từng chuyên ngành riêng nhưng đều có mục tiêu chung là nhằm xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ của Đảng trong các cơ quan, đơn vị, tổ
chức trong toàn Đảng . Những kết quả của các công trình trên đã có nhiều
đóng góp cả về mặt lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ các cấp của Đảng, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong sự nghiệp đổi
mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước hiện nay.
- Nhóm các tài liệu nước ngoài viết về xây dựng đội ngũ cán bộ
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Điều lệ tạm thời về việc lựa chọn bổ nhiệm cán
bộ lãnh đạo Đảng và chính quyền; Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quy hoạch
đào tạo cán bộ từ (1996 - 2000).
- Có thể khẳng định các công trình khoa học của các cơ quan nghiên cứu,
các nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp dưới những góc
độ, khía cạnh khác nhau tuỳ theo chuyên ngành cụ thể. Các tác phẩm và các công
trình trình nghiên cứu nêu trên đã đi sâu sắc làm rõ về quan điểm, đường lối của



10
Đảng về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác cán bộ chủ chốt các cấp, đã góp
thêm luận cứ khoa học về lý luận và những vấn đề trên. Đặc biệt, bước đầu đã
đề xuất nhiều giải pháp quan trọng về xây dựng công tác cán bộ trong tình hình
mới, trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt. Tuy nhiên trong thời gian
qua, chưa có công trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn diện,
có hệ thống về vai trò lãnh đạo của một Đảng bộ cơ sở địa phương về lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Từ những lý do nêu trên tác giả lựa
chọn vấn đề: “ Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp tỉnh từ năm 1997 đến năm 2008 ” để luận giải và làm rõ và bổ sung
những vấn đề về lý luận, thực tiễn công tác cán bộ của Đảng bộ địa phương tỉnh
Đồng Nai hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: làm sáng tỏ tính đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén của Đảng bộ
tỉnh Đồng Nai trong việc quán triệt vận dụng đường lối, quan điểm của Đảng
vào xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Tỉnh từ năm 1997 đến
năm 2008, từ đó rút ra những kinh nghiệm quý góp phần vào việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ chủ của tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ yêu cầu khách quan nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp Tỉnh của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai.
- Trình bày chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai về
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp Tỉnh từ năm (1997 - 2008).
- Khái quát thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm bước đầu trong quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt của Tỉnh trong những năm (1997 - 2008).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:



11
Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai về xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp Tỉnh.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung: Nghiên cứu chủ trưong và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các vấn đề trên từ (1997 -2008).
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam; Đảng bộ tỉnh Đồng Nai về xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt nói riêng.
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên phương pháp luận sử
học mác-xít, trong đó chủ yếu dựa vào phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgic và sự kết hợp hai phương pháp đó. Ngoài ra tác giả còn sử dụng một số
phương pháp khác như: phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh và
phương pháp chuyên gia...
5. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo, chỉ
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt từ (1997 -2008). Trên cơ sở đó hệ
thống hoá chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng thành những tư liệu, tài liệu
nghiên cứu về lịch sử lãnh đạo của Đảng bộ địa phương tỉnh Đồng Nai.
- Luận văn rút ra một số kinh nghiệm bước đầu góp phần cho quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt củaTỉnh
hiện nay.



12
- Luận văn tổng kết quá trình hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng vào
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở tại từng địa phương; thấy rõ được sự
linh hoạt, sáng tạo của từng địa phương trong tổ chức thực hiện, định hướng
cho sự phát triển lịch sử của toàn Đảng.
- Đồng thời luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc
nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các học viện, nhà
trường trong Quân đội hiện nay.
9. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương( 4 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo, phụ lục.

Chương 1
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG NAI VỀ XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP TỈNH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2008
1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
tỉnh của tỉnh Đồng Nai từ năm 1997 đến năm 2008
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của Đồng Nai
- Đặc điểm về địa lý địa lý: diện tích toàn Tỉnh là 5.866,40 kilômét
vuông . Vị trí địa lý của tỉnh Đồng Nai nằm trải dài trên các Quốc lộ quan
trọng là Quốc lộ 1A, Quốc lộ 51 và Quốc lộ 20; trên tuyến đường sắt Bắc
Nam và dòng sông Đồng Nai với cảng sông rất thuận lợi cho việc giao thông.
Toàn tỉnh có thành phố Biên Hoà, thị xã Long Khánh và 9 huyện : Vĩnh Cửu,
Nhơn Trạch , Long Thành, Trảng Bom, Thống Nhất, Định Quán, Tân Phú,
Xuân Lộc và Cẩm Mỹ, trong đó có 2 huyện Trảng Bom và Tân Mỹ mới được
tách ra từ huyện Thống Nhất. Trong đó có 4 huyện thuộc địa bàn khó khăn,
kinh tế chậm phát triển là Vĩnh Cửu, Tân Phú, Định Quán, Cẩm Mỹ. Hiện nay



13
toàn tỉnh có171 xã, phường, thị trấn trong đó có 31 phường, 7 thị trấn và 133
xã.
- Đặc điểm về dân cư: dân số toàn Tỉnh hiện nay là trên 2 triệu người,
có hơn 40 dân tộc với dân đến từ tất cả Tỉnh , Thành trên cả nước. Trong đó
dân số sống ở khu vực nông thôn chiếm tỷ lệ hơn 70%. Tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên đang giảm dần nhờ hiệu quả của công tác Dân số và kế hoạch hoá gia
đình. Dân số tỉnh Đồng Nai tăng cơ học trong những năm qua là do các đợt di
dân từ các tỉnh miền Bắc, miền Trung và miền Tây nam bộ. Tỷ lệ tăng cơ học
ước tính mỗi năm từ 3 đến 4%.
- Đặc điểm về kinh tế : nhờ vị trí địa lý, khí hậu thuận lợi cho việc phát
triển sản xuất và những thuận lợi nhất định về giao thông và nhân công lao
động, trên địa bàn tỉnh đã hình thành nhiều khu sản xuất, khu công nghiệp
quan trọng tạo nên một trọng điểm phát triển kinh tế trong khu vực. Toàn tỉnh
có 19 khu công nghiệp với tổng diện tích hàng ngàn ha và cụm công nghiệp
tập trung đã đi vào hoạt động đang thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài
nước đến làm ăn. Tăng trưởng kinh tế hàng năm của tỉnh cao hơn nhiều so với
các tỉnh khác trên toàn quốc. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn có 16 xã đặc biệt
khó khăn, 56 xã miền núi và 32 xã cách mạng vùng sâu khó khăn. Đồng Nai
có khoảng 14. 000 hộ nghèo thường tập trung ở đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu vùng xa.
1.1.2.Tình hình đội ngũ cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt của Tỉnh trước năm 1997
* Một số vấn đề chung về đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
- Quan niệm về cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
+ Quan niệm về cán bộ của Đảng nói chung: cán bộ cách mạng chính
là cầu nối liền giữa Đảng với nhân dân. Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng.



14
+ Quan niệm về cán bộ lãnh đạo chủ chốt : gồm những người giữ vai
trò trụ cột, nòng cốt trong một lĩnh vực công tác; những người giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý ( do bổ nhiệm hoặc do bầu cử) trong một tổ chức, bộ máy
có chức năng đề ra phương hướng hoạt động, tổ chức và phối hợp hành động
của các thành viên trong tổ chức bộ máy đó, thiết lập và xử lý tốt các mối
quan hệ phối hợp trong và ngoài tổ chức để thực hiện mục tiêu công việc đã
đề ra.
+ Quan niệm về cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh: là những cán bộ
giữ vị trí trọng yếu nhất trong bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị xã hội cấp tỉnh, trực tiếp hoạch định chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của
tỉnh, trực tiếp lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của hệ
thống chính trị cấp tỉnh, tổ chức, động viên quần chúng tham gia tích cực thực
hiện sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tại địa phương.
+ Để xác định những chức danh nào là cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, cần
phải đặt cán bộ trong mối quan hệ với tổ chức, với chức năng nhiệm vụ và
phương thức hoạt động của tổ chức đó trong hệ thống chính trị để xem xét.
+ Các chức danh cán bộ chủ chốt cấp tỉnh được xác định trên cơ sở mô
hình hệ thống chính trị cấp tỉnh hiện nay. Hệ thống chính trị ở cấp tỉnh là một
cấp trong hệ thống chính trị 4 cấp trên toàn quốc, được tổ chức tương tự như
cấp Trung ương và cấp huyện, gồm các bộ phận cấu thành: Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Uỷ ban MTTQ và các đoàn thể CTXH. Các tổ chức này có mối quan hệ chặt chẽ tạo thành một chỉnh thể thống
nhất từ Trung ương đến cơ sở.
+ Theo Hiến pháp quy định, Đảng là tổ chức thành viên của hệ thống
chính trị, đồng thời giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, các uỷ
viên cấp uỷ Đảng được phân công giữ các chức vụ chủ chốt trong hệ thống
chính trị, trong đó uỷ viên Ban thường vụ tỉnh, thành uỷ giữ các chức vụ quan
trọng nhất. Ban thường vụ các tỉnh, thành uỷ hiện nay với số lượng từ 11 đến
13 đồng chí.



15
+ Các chức danh cán bộ chủ chốt cấp tỉnh bao gồm: các uỷ viên ban
thường vụ tỉnh( trừ chức danh chủ chốt cấp huyện); chủ tịch Uỷ ban mặt trận
tổ quốc; chủ tịch, bí thư các đoàn thể CT- XH ( có hoặc không nằm trong ban
thường vụ tỉnh) ; giám đốc các sở, ngành thuộc Uỷ ban tỉnh, thành phố (có
hoặc không nằm trong ban thường vụ tỉnh, thành uỷ); phó chủ tịch HĐND,
UBND tỉnh, thành phố, tuy không phải là chức danh độc lập, nhưng với tư
cách là người cộng sự của chủ tịch, được phân công điều hành một lĩnh vực
KT- XH cụ thể, nên cần được coi là cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Số
lượng cán bộ chủ chốt cấp tỉnh hiện nay khoảng 35 đến 40 người.
- Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
+ T ừ lý luận và thực tiễn khẳng định đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ
cán bộ chủ chốt giữ vai trò quan trọng hàng đầu, là một trong những nhân tố
quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng.
+ Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là người trực tiếp lĩnh hội mọi Nghị
quyết, chủ trương chính sách, pháp luật của cấp Trung ương để triển khai và
quán triệt tổ chức chỉ đạo thực hiện đến cấp huyện và cấp cơ sở; có vai trò
quyết định trong xây dựng chủ trương, định hướng chương trình kế hoạch
phát triển toàn diện hoặc trong pham vị từng ngành, từng lĩnh vực ở cấp tỉnh;
chịu trách nhiệm kiểm tra kiểm soát mọi lĩnh vực hoạt động diễn ra trên địa
bàn theo đúng pháp luật của Nhà nước, đúng định hướng phát triển của Đảng.
+ Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là người lãnh đạo, đồng thời cũng là
người quản lý mọi hoạt động, đảm bảo cho bộ máy vânh hành đồng bộ, đúng
chức năng, nhiệm vụ, làm cho mọi Nghị quyết, chủ trương chính sách của cấp
Trung ương được thực hiện một cách cụ thể thông suốt và có hiệu quả đến tận
cấp cơ sở.
+ Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh giữ vai trò trong việc thường xuyên
phối hợp các quá trình quản lý, điều chỉnh kịp thời những mâu thuẫn phát sinh

trong ngành, giữa các ngành, đồng thời thiết lập và duy trì các mối quan hệ
thường xuyên giữa Trung ương và địa phương.


16
+ Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là tấm gương để những người dưới
quyền, tập thể cơ quan đơn vị và nhân dân toàn tỉnh noi theo. Cán bộ chủ chốt
cấp tỉnh chịu trách nhiệm trực tiếp công tác tổ chức, đặc biệt là công tác cán
bộ, nhằm xây dựng bộ máy hoàn chỉnh và vận hành có hiệu quả.
+ Mỗi tỉnh, thành phố là một đơn vị KT- XH tổng hợp nằm trong tổng
thể quốc gia thống nhất, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương. Đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp tỉnh khác với cấp Trung ương và cấp cơ sở, là những
người vừa chịu trách nhiệm trước cấp Trung ương vừa chịu trách nhiệm trước
nhân dân về toàn bộ nhiệm vụ KT- XH của tỉnh.
- Thực trạng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt của Đảng
nói riêng
* Mặt mạnh:
+ Đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung cán bộ chủ chốt nói riêng được
rèn luyện, thử thách trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ;
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cấp
chiến lược có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; năng động sáng tạo, hăng hái thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.
+Trình độ kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội ngày
càng được nâng cao.
+ Số đông cán bộ giữ được đạo đức, phẩm chất cách mạng, lối sống
lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân.
* Mặt yếu kém:
+ Một số cán bộ dao động, giảm sút niềm tin, nhận thức mơ hồ về chủ
nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội, hoài nghi đường lối của Đảng; có

người do bất mãn cá nhân đi đến phản bội Đảng và lợi ích của nhân dân.
+ Một bộ phận cán bộ thoái hoá biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng
chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công;
quan liêu; ức hiếp dân, gia trưởng độc đoán; có tham vọng cá nhân, cụ bộ kèn


17
cựa địa vị, cơ hội, kém ý thức về tổ chức kỷ luật, phát ngôn và làm việc tuỳ
tiện, gây mất doàn kết nội bộ nghiêm trọng.
+ Đáng chú ý là những biểu hiện tiêu cực này đang có chiều hướng
phát triển, làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm suy yếu
uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
+ Nhiều cán bộ lãnh đạo không nghiêm túc tự phê bình và tiếp thu phê
bình, tính chiến đấu kém. Có tình trạng nể nang, né tránh, không nói thẳng,
nói thật với nhau, bằng mặt mà không bằng lòng.
+ Đội ngũ cán bộ tuy đông nhưng không đồng bộ, vẫn còn tình trạng”
vừa thừa vừa thiếu”. Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý chưa
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới, nhất là quản lý kinh tế thị trường, quản
lý xã hội, pháp luật… Nhiều cán bộ lười học, lười nghiên cứu, một số học
lướt chỉ cốt để lấy được bằng cấp…
- Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh trước năm 1997
+ Tỉnh uỷ đã ra được Nghị quyết chuyên đề về công tác quy hoạch cán
bộ, về đào tạo cán bộ; xác định nhu cầu đào tạo, định hướng việc bố trí, đề
bạt, điều chuyển cán bộ theo quy hoạch, phân cấp quản lý cán bộ; củng cố
kiện toàn các cấp uỷ, các cơ quan Đảng từ tỉnh đến cơ sở giữa nhiệm kỳ; lựa
chọn giới thiệu cán bộ Đảng tham gia vào HĐND, UBND và đoàn thể các cấp
trong các kỳ bầu cử Đại hội.
+ Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ rất được quan tâm và có nhiều
chuyển biến tích cực. Mở rộng đối tượng đào tạo, số lượng đào tạo và nội

dung đào tạo. Trong 5 năm từ 1991- 1995 đã có 7.085 cán bộ các cấp được
đào tạo lý luận chính trị và nghiệp vụ.
+ Cuối năm 1997, toàn tỉnh có 21.161 cán bộ, công chức, viên chức
công tác trong cơ quan Đảng, đoàn thể và các đơn vị sự nghiệp. Đội ngũ cán
bộ được hình thành từ nhiều nguồn: cán bộ tham gia kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ tại chỗ; cán bộ cấp tỉnh phía Bắc chi viện và tăng cường


18
trước và sau 1975; cán bộ trưởng thành sau 30/4/1975. Nguồn cán bộ này
được đào tạo bằng nhiều hình thức khác nhau: có cán bộ đào tạo chính quy
tập trung hoặc tại chức dài hạn, có cán bộ được đào tạo ngắn hạn hoặc chỉ qua
những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày.
+ Đội ngũ cán bộ được rèn luyện trong thử thách trong kháng chiến có
lập trường chính trị vững vàng. Số cán bộ trưởng thành sau 30/04/ 1975 phần
lớn trẻ có trình độ , năng động, sáng tạo. Qua nhiều năm đào tạo, đội ngũ cán
bộ của tỉnh được nâng lên một bước về trình độ; giữ gìn được phẩm chất đạo
đức cách mạng; không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn chính trị
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, góp phần quan trọng cho việc
hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh. Đa số cán bộ còn trẻ: dưới
40 tuổi 16.489 cán bộ, đạt 77,96%. Về trình độ chuyên môn sau đại học 81
cán bộ, chiếm 0,3%; cao đẳng, đại học 6.652 cán bộ, chiếm 31, 43%; trung
cấp 7.319 cán bộ, chiếm 34, 58 %. Về trình độ chính trị trung cấp 691 cán bộ,
chiếm 3, 26%; cao cấp 169 cán bộ, chiếm 0,79%.
+ Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh đã từng bước trưởng thành,
phát triển về số lượng và ngày càng nâng cao chất lượng. Trình độ kiến thức
và năng lực quản lý kinh tế, xã hội bước đầu được nâng lên, góp phần tạo ra
những chuyển biến quan trọng về kinh tế- xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở địa phương. Cán bộ lãnh
đạo chủ chốt có 178 đồng chí ( gồm trưởng, phó các sở, ban , ngành, đoàn thể

tỉnh và lãnh đạo huyện, thị, thành phố”; trong đó nữ có có 26 đồng chí, chiếm
14,60%, trên 50 tuổi chiếm 45, 5 %. Số lượng lãnh đạo ở cấp tỉnh có trình độ
đại học chuyên môn 63,3%, có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp đến cao
cấp chiếm 79%; cán bộ lãnh đạo cấp huyện có trình độ đại học 41, 3% và
trình độ lý luận chính trị từ trung cấp đến đại học chiếm 78,3%.
+ Đánh giá chung về đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh: Về
mặt ưu điểm, được rèn luyện thử thách và kế thừa truyền thống cách mạng
trong cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ và được trưởng thành trong thực tiễn


19
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; năng động sáng tạo, chấp hành và
thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước.
+ Trong điều kiện đời sống còn nhiều khó khăn và trước mắt những
tiêu cực xã hội, tuyệt đại bộ phận cán bộ vẫn giữ được lối sống lành mạnh,
gắn bó với nhân dân, quan tâm chăm lo đến sự nghiệp chung, nhất trí với
quan điểm, nguyên tắc đổi mới của Đảng, giữ được sự đoàn kết nhất trí, thống
nhất quan điểm lãnh đạo, thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị kinh tế- xã
hội cảu ngành, địa phương, được nhân dân tín nhiệm.
+ Trình độ kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội bước
đầu được nâng lên, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước, tạo được những chuyển biến quan trọng về KT- XH, Gĩư
được ổn định chính trị, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở địa phương phát triển.
+ Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh, đội ngũ cán bộ của tỉnh còn
bộc lộ những mặt yếu như sau: một bộ phận cán bộ sa sút về phẩm chất chính
trị, nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác- Lênin; mất niềm tin vào chủ nghĩa xã
hội và sự lãnh đạo của Đảng. Một số người đã thoái hoá biến chất về đạo đức,
lối sống, lợi dụng chức vụ quyền hạn để tham nhũng, làm giàu bất chính, lãng
phí của công, quan liêu ức hiếp dân, xa rời dân, làm cho dân thiếu tín nhiệm.

+ Tình trạng mất đoàn kết nội bộ cán bộ chủ chốt ở một số ngành, địa
phương vẫn còn xảy ra, thậm chí có nơi kéo dài. Một số cán bộ có tư tưởng
cục bộ, kèn cựa địa vị, gia trưởng trong điều hành, ý thức tổ chức, kỷ luật,
phát ngôn và làm việc tuỳ tiện, trong sinh hoạt nội bộ không nghiêm túc tự
phê bình và phê bình, nể nang, tránh né…tính lãnh đạo, tính chiến đấu, tính
giáo dục trong xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức chưa cao.
+ Đáng chú ý là những mặt tiêu cực trên xảy ra không phổ biến, nhưng
từng cấp, từng ngành, trong từng lĩnh vực, ở từng đơn vị chưa có biện pháp
ngăn chặn, khắc phục có hiệu quả. Tình hình trên đã làm suy giảm uy tín lãnh
đạo, sức mạnh tổ chức của Đảng bộ, lỏng lẻo trong chấp hành và thực hiện kỷ


20
cương phép nước, lòng tin của quần chúng lao động đối với chế độ phần nào
bị giảm sút.
+ Đội ngũ cán bộ tỉnh nhiều nhưng chưa thật mạnh, còn chắp vá hẫng
hụt, kiến thức năng lực lãnh đạo, quản lý trong từng lĩnh vực còn hạn chế, yếu
kém trước yêu cầu đòi hỏi của tình hình phát triển KT-XH ở địa phương trong
giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là kiến
thức quản lý kinh tế, am hiểu luật pháp, thông lệ quốc tế, năng lực điều hành
quản lý xã hội. Ngoài những điểm mạnh, yếu chung nói trên đội ngũ cán bộ
trong từng lĩnh vực hoạt động còn có những mặt mạnh, yêu như: cán bộ lãnh
đạo Đảng, đoàn thể và quản lý nhà nước; cán bộ lực lượng vũ trang và các
ngành bảo vệ pháp luật; cán bộ khoa học kỹ thuật; cán bộ quản lý sản xuât,
kinh doanh và dịch vụ…..
1.1.3. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đặt ra yêu
cầu mới đối với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Đồng Nai
- Khẳng định vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mục đích của công nghiệp hoá, hiện

đại hoá là tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất- kỹ thuật, về con người
và khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm huy
động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cả trong nước và ngoài nước,
không ngừng tăng năng xuất lao động xã hội, làm cho kinh tế tăng trưởng
nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực
hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, sinh thái. Để
đạt được mục đích đó là phải phát huy hiệu quả nguồn lực con người nhất là
đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt để thúc đẩy quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Xét về mặt phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá được hiểu
là quá trình biến đổi từ một nền kinh tế trong đó nông nghiệp và khai thác tài
nguyên chiếm tỷ trọng lớn sang một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và


21
dịch vụ cao thể hiện trong cơ cấu sản xuất, kinh doanh dịch vụ, xuất khẩu và
lực lượng lao động. Trong nền kinh tế mở, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
quá trình xây dựng hệ thống công nghiệp, nền sản xuất hàng hoá có sức cạnh
tranh trên thị trường thế giới. Còn xét về góc độ phát triển công nghệ, bản
chất công nghiệp hoá là quá trình thay thế công nghệ thủ công và lạc hậu bằng
công nghệ dựa trên máy móc và ngày càng hiện đại; nhằm nâng cao năng xuất
lao động xã hội, biến đổi một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công
nghiệp. So sánh những yêu cầu trên, chỉ xét riêng khía cạnh chất lượng của
nguồn nhân lực nhất là chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt đầu ngành chúng
ta còn có hạn chế nhất định chưa đảm bảo yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá như: về trình độ và kỹ năng lao động bao gồm, trình độ văn hoá
chung, trình độ nghề nghiệp, kỹ năng và khả năng tiếp cận công nghệ, kỹ
thuật hiện đại, tính tổ chức, kỷ luật tự giác cao trên cơ sở khả năng tự chủ
công việc. Vấn đề quan trọng hơn là phải chú trọng khai thác mọi tiềm năng
của nguồn lực trong nước trọng tâm là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt.

Nguồn lực trong nước không chỉ có vai trò quyết định ở ý nghĩa lâu dài mà
còn là điều kiện không thể thiếu để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
từ bên ngoài vào. Trong điều kiện của tỉnh nguồn đầu tư từ bên ngoài và từ
ngân sách Nhà nước rất hạn chế, thì huy động nguồn lực tại chỗ nhất là đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh là giải pháp quan trọng, hết sức phù
hợp nhằm đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn trên địa bàn
tỉnh
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế hiện đại ngày
càng dựa vào lợi thế phát triển chủ yếu của trí tuệ. Năng lực sáng tạo của
người lao động, dựa trên nền học vấn, nhân cách và phẩm chất là vấn đề quan
trọng hàng đầu. Về phương diện xây dựng phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ
nhất là cán bộ chủ chốt đầu ngành trong lãnh đạo quản lý xã hội là yêu cầu
bức thiết đặt ra. Mặt khác, để phát huy huy hơn nữa nguồn nhân lực trong
dân, đội ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh phải được xây dựng, đào tạo cơ bản đáp


22
ứng tiêu chí của con người mới xã hội chủ nghĩa, đó là con người có tư tưởng
trí tuệ đạo đức, thể chất. Đó là con người phát triển toàn diện vừa có đức vừa
có tài, những con người vừa “ hồng” vừa “ chuyên”. Đó là những con người
Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất,
năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng
nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và
xã hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh là kết quả của sự tác động
tổng hợp của nhiều nhân tố, kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hoá.
- Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trước hết là
nhiệm vụ xây dựng kinh tế của tỉnh, đang đòi hỏi những cán bộ có phẩm chất
có năng lực phù hợp. Đó là những cán bộ có phẩm chất chính trị đã được thử
thách, luôn luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, thông suốt
và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ham

học hỏi, năng động, sáng tạo, có kiến thức quản lý kinh tế, xã hội, có tính tổ
chức và kỷ luật cao. Đó là những cán bộ có đạo đức cách mạng, và phong
cách lãnh đạo tốt, trước hết là có ý thức tập thể, dân chủ đi đôi với tính quyết
đoán, có ý thức trách nhiệm, có tác phong sâu sát thực tế, gần gũi quần chúng,
quan tâm đến con người, gương mẫu trong lối sống, đoàn kết và động viện
được nhiệt tình lao động của cán bộ và nhân dân.
1.2. Đảng bộ tỉnh Đồng Nai vận dụng quan điểm, đường lối của
Đảng vào xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh từ năm 1997 đến năm
2008
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đội ngũ
cán bộ của Đảng
- Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2001
+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/ 1986) đã tạo ra
bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Từ đây tư
duy của Đảng về công tác cán bộ được thể hiện rõ trong chủ trương là: “Đổi


23
mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm
chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng”[ 20 .tr.132]
Đại hội VI khẳng định: “Đổi mới đội ngũ cán bộ có nghĩa là đánh giá,
lựa chọn, bố trí lại, đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng để có đội ngũ cán bộ có đủ
những tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực lãnh đạo, quản lý ngang tầm nhiệm
vụ. Muốn đổi mới đội ngũ cán bộ, trước hết phải đổi mới công tác cán bộ và
đội ngũ những người làm công tác tổ chức, cán bộ. Việc đổi mới cán bộ cần
được thực hiện khẩn trương, kiến quyết nhưng phải tránh thay đổi vội vàng.
Tránh nối đổi mới một cách hình thức, chỉ căn cứ vào độ tuổi, bằng cấp, hoặc
hiểu đổi mới chỉ đơn thuần là thay đổi người, chỉ cọi trọng cán bộ mới, coi nhẹ
cán bộ lâu năm có năng lực và phẩm chất. Để đổi mới đội ngũ cán bộ một cách
đúng đắn cần đổi mới quan điểm đánh giá cán bộ. Phải lấy hiệu quả thực hiện

nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực, lấy nhu cầu nhiệm vụ
làm căn cứ để bố trí cán bộ” [20, tr.132 ].
Đại hội VI khẳng định: “ Đổi mới đội ngũ cán bộ bao hàm ý nghĩa trẻ
hoá, trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, tăng thêm cán bộ trẻ trong các cơ quan lãnh
đạo và quản lý, kết hợp đúng cán bộ nhiều tuổi với cán bộ trẻ để tăng cường
sức chiến đấu, tính năng động của đội ngũ cán bộ bảo đảm sự kế thừa liên tục ở
các cơ quan lãnh đạo. Có khắc phục được quan niệm đẳng cấp, tôn ti theo kiểu
phong kiến còn khá nặng nề, chúng ta mới có thể phát hiện và cất nhắc được
những cán bộ trẻ ưu tú”[20, tr.133]. Việc lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ, phải
xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng; từ chính sách cán bộ thống nhất của
Đảng; từ nhu cầu công tác và tính chất, nhiệm vụ của từng tổ chức; từ phẩm
chất và năng lực của từng người. Chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế tục là nhiệm vụ
thường xuyên của các tổ chức Đảng và phải được tiến hành theo quy hoạch.
Thực hiện dân chủ hoá công tác cán bộ bằng những quy chế rõ ràng. Coi công
tác cán bộ là công việc chung chứ không chỉ là công việc riêng của cơ quan


24
làm công tác tổ chức và những cán bộ làm công tác tổ chức. Thực hiện cơ chế
quản lý cán bộ một cách khoa học, chặt chẽ, bảo đảm việc lựa chọn, bố trí, sắp
xếp, sử dụng cán bộ đúng đắn, chính xác loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên, may
rủi những động cơ không lành mạnh trong công tác cán bộ.
Đại hội VI xác định nhiệm vụ: “Chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế tục là nhiệm
vụ thường xuyên của các tổ chức Đảng và phải được tiến hành theo quy hoạch.
Mọi cán bộ lãnh đạo đều có nhiệm vụ tham gia với tập thể lựa chon, bồi dưỡng,
đào tạo cán bộ kế cận. Chống tệ quan liêu cửa quyền trong công tác lựa chọn,
bố trí cán bộ. Dân chủ hoá công tác cán bộ bằng những quy chế rõ ràng. Công
tác cán bộ là công việc chung của các cơ quan đảng và nhà nước, không phải
chỉ là việc riêng của cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ, mặc dù công tác của
cơ quan này là quan trọng. Xác định chế độ trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng

đối với việc quản lý cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành, coi đây là chức năng
quan trọng không thể thiếu của các cơ quan lãnh đạo Đảng” [ 20, tr.134]
Nhằm đưa nghị quyết vào cuộc sống, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá VI (6/1988) ra Nghị quyết một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng trong đó xác định rõ: xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất
và năng lực thực hiện sự nghiệp đổi mới, trước hết là những hạt nhân lãnh đạo,
những cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành, nhất là ở Trung ương và cơ sở;
những cán bộ lãnh đạo và cán bộ tham mưu giỏi về từng lĩnh vực. Từng bước
trẻ hoá đội ngũ cán bộ, bảo đảm tính liên tục, xúc tiến xây dựng quy hoạch cán
bộ, lựa chọn cán bộ dự bị, cán bộ kế cận.
+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/ 1991), dựa trên
những phương hướng cơ bản của việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ
mới chủ trương: “ Tiếp tục đổi mới cán bộ và công tác cán bộ, xây dựng cho
được đội ngũ cán bộ vững mạnh và đồng bộ, bao gồm cán bộ lãnh đạo chính
trị, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ kinh doanh, chuyên gia trên các lĩnh vực


25
đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới thực hiện được sự chuyển tiếp
vững vàng các thế hệ cán bộ” [ 21, tr.98]
Đại hội Đại VII xác định tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ lãnh đạo trong
giai đoạn hiện nay là: có phẩm chất cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng,
có kiến thức và năng lực thực hiện đổi mới, biết tổ chức và điều hành công
việc, trung thực, thẳng thắn, có lối sống lành mạnh, có khả năng đoàn kết, có
phong cách dân chủ tập thể, có ý thức tổ chức kỷ luật, nói đi đôi với làm, được
quần chúng tín nhiệm. Khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng loại,
từng chức danh cán bộ ở các cấp, các ngành và căn cứ vào đó để đào tạo bố trí,
sử dụng cán bộ, chấm dứt tình trạng bố trí cán bộ theo kiểu thân quen, cảm tính
chủ quan. Trong công tác cán bộ cần coi trọng ba mặt: bồi dưỡng, bố trí đúng
để phát huy lực lượng cán bộ hiện có; kịp thời thay những cán bộ kém năng

lực, xử lý những cán bộ tham nhũng, thoái hoá, những cán bộ có quan điểm
chính trị lệch lạc vi phạm kỷ luật của Đảng; tích cực quy hoạch, đào tạo cán bộ
dự bị ở các cấp.
Đại hội Đại VII xác định yêu cầu, nhiệm vụ trong công tác cán bộ cần
coi trọng ba mặt: bồi dưỡng, bố trí đúng để phát huy lực lượng cán bộ hiện có;
kịp thời thay những cán bộ kém năng lực, xử lý những cán bộ tham nhũng,
thoái hoá, những cán bộ có quan điểm chính trị lệch lạc vi phạm kỷ luật của
Đảng; tích cực quy hoạch, đào tạo cán bộ dự bị ở các cấp. Đổi mới quan điểm
về cán bộ và công tác cán bộ. Thực hiện chính sách đoàn kết động viên, phát
huy mọi năng lực cán bộ, cả ở trong Đảng và ngoài Đảng; không hẹp hòi, định
kiến về lý lịch và thành phần xuất thân. Xây dựng cơ chế phát hiện, đề bạt và
bãi miễn cán bộ, bảo đảm tính dân chủ và tập thể trong công tác cán bộ, áp
dụng các hình thức thích hợp với từng lĩnh vực, từng cấp trong việc phát hiện,
tìm hiểu đánh giá, giới thiệu cán bộ. Khắc phục những hiện tượng gò ép, áp
đặt, dân chủ hình thức. Đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ, trước hết là
chính sách tiền lương, đảm bảo ổn định đời sống của cán bộ, khuyến khích


×