Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN tư DUY lý LUẬN và QUAN điểm của ĐẢNG về xây DỰNG KHỐI đại đoàn kết TOÀN dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.59 KB, 22 trang )

SỰ PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI
ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

MỞ ĐẦU
Đoàn kết là một truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam trong
suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Ngay từ khi Đảng ta mới ra đời,
truyền thống đoàn kết dân tộc để làm cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nước được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới. Đảng ta
luôn xác định đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng được xây dựng trên cơ sở lợi ích tối cao của đất nước và quyền lợi cơ bản
của nhân dân lao động làm nền tảng; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập
thể, lợi ích gia đình với lợi ích xã hội; lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc. Đó là
chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, cũng như trong công cuộc xây dựng
đất nước hiện nay. Hơn 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc
biệt là thành tựu của gần 30 năm đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã tận
dụng thời cơ, vượt qua thách thức, kiên trì phấn đấu bằng trí tuệ, tài năng và nghị lực
phi thường của mình đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo nên
thế và lực mới cho đất nước. Bên cạnh đó, đất nước ta vẫn còn phải đương đầu với
không ít khó khăn thách thức làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Vun đắp cho khối đại đoàn kết toàn dân ngày một phát triển, Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XI (2011) đã khẳng định : “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là điểm
tương đồng; xóa bỏ mặc cảm định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận
những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân
tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt
trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”1. Đây chính là những nội dung cơ bản
giúp định hướng cho toàn đảng, toàn dân ta kết thành một khối tạo ra sức mạnh tổng


hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
1

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, HN,2011,tr48


NỘI DUNG
1. Sự phát triển tư duy lý luận và quan điểm của Đảng về xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1 Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc
Đoàn kết toàn dân tộc là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác rộng lớn của các giai
cấp, tầng lớp xã hội, của đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, của các cộng đồng
người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài trên cơ sở thống nhất về lợi ích cơ
bản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; đồng thời, tôn trọng sự khác biệt không cơ bản.
Đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu và là giá trị văn hoá đậm đà bản sắc
của dân tộc Việt Nam. Đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng trong mọi
thời kỳ của cách mạng đã kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, trên cơ sở phát huy truyền thống,
tiếp tục nhất quán đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh vĩ đại,
động lực to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân đã được huy động và phát huy cao
độ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại đoàn kết là truyền thống quý báu được hun đúc trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc; là một trong những bài học lớn xuyên suốt
tiến trình lịch sử cách mạng nước ta. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nhận thức rõ vị
trí, vai trò của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân đối với sự phát triển của cách mạng.
Cùng với sự vận động của thực tiễn, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai
đoạn, tư duy lý luận của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
không ngừng được bổ sung và phát triển, góp phần to lớn vào những thắng lợi của

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội VI của Đảng (1986) đã nêu lên 4 bài học kinh nghiệm lớn, trong đó,
bài học thứ nhất là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư


tưởng “lấy dân làm gốc”1, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Hội nghị Trung ương 8 đã ra Nghị quyết
8B về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
và nhân dân, nhấn mạnh quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì
dân.
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ,
kinh tế tri thức có vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển lực lượng
sản xuất, Đảng ta nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của các giai tầng trong xã hội,
nhất là của tầng lớp trí thức. Tại Đại hội VII, lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta khẳng định lấy khối liên
minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Cương lĩnh đã nêu 5 bài học lớn, trong đó có bài học: Sự nghiệp cách mạng là
của nhân dân và vì nhân dân; chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử;
không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đại hội VIII tiếp tục khẳng định tinh thần Đại hội VII và nêu cao phương
châm: tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công
nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân
tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài; có cơ chế và cách
làm cụ thể để thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội cũng rút ra một trong những nguyên nhân trọng
yếu dẫn đến thành công của Đảng trong hoạch định và thực hiện đường lối đổi
mới: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối
đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc


1

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1987, tr.213


đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay" 2.Từ tư duy mới về vai trò của nhân
dân, về vấn đề dân tộc trong thời kỳ mới, Đảng ta xác định đại đoàn kết toàn dân
tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu của cách mạng
Việt Nam. Tư tưởng này là sự kế thừa, phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết toàn dân tộc: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài...
Không phải là một thủ đoạn chính trị... Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự
Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”2.
Kế thừa và phát huy nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong
sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đại hội
Đảng lần thứ IX đã lấy chủ đề: “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa”3.Đại hội đã có bước phát triển và cụ thể hơn nữa quan điểm về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân: thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo,
giai cấp, tầng lớp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong
Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành
viên trong đại gia đình Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài; lấy mục
tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh làm điểm tương đồng. Đại hội khẳng định: “Động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân
với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của
toàn xã hội”4. Như vậy, so với các động lực khác, đại đoàn kết toàn dân tộc là động
lực tổng hợp và là động lực to lớn nhất. Nhằm cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết Đại
hội IX, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX đã nêu bật 4 quan điểm, trong

1

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXBChính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.73

2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.438

3

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXBChính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.23

4

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXBChính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.239


đó nhấn mạnh bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực,
chính đáng và hợp pháp của các giai cấp và tầng lớp nhân dân vànhận định đại
đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết chỉ rõ: xoá bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi
mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Hơn nữa, cụm từ “đại đoàn kết
toàn dân” đã được bổ sung, hoàn chỉnh thành “đại đoàn kết toàn dân tộc” với ý
nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết không chỉ ở trong nước mà còn với cả cộng
đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) một mặt khẳng định lại những quan
điểm cơ bản của Đại hội IX, đồng thời đã phát triển hoàn chỉnh hệ thống các chủ
trương, chính sách nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và nhấn
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động

lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất
của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân
dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý
kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa,
khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định và đồng
thuận xã hội. Cụ thể hóa tinh thần Đại hội X của Đảng, Hội nghị Trung ương 6
khóa X (tháng 1-2008) ra Nghị quyết về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và Hội nghị Trung
ương 7 khóa X (tháng 7-2008) đã ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thanh niên, Nghị quyết về xây dựng đội ngũ trí thức và
Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đó chính là hệ thống các quan


điểm của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò và sự cần thiết phải tăng cường, phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới.
Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đại hội XI của Đảng tiếp tục
khẳng định: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ hai, sau thành tố về
tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đây chính là hai
thành tố quan trọng có ý nghĩa quyết định để thực hiện thành công những nhiệm vụ
chủ yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc được hiểu là sức
mạnh tổng hợp của cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại; sức mạnh của các thành phần kinh tế, các lực lượng chính trị, xã hội, các
dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt Nam
định cư ở nước ngoài có cùng mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,

độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành
phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của
dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung...để tập
hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội
Từ quan điểm trên về đường lối, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc và để
thực hiện được trong thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam, trong mỗi kỳ Đại hội thời
kỳ đổi mới đều đưa ra những chủ trương cơ bản đối với từng giai cấp và từng tầng
lớp xã hội nhằm xây dựng và đoàn kết các giai cấp và các tầng lớp xã hội ấy, đó là:
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ
nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc, đồng bào các tôn giáo,
đồng bào định cư ở nước ngoài. Đồng thời, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chú
trọng đến vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân


dân trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện
cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng, an ninh
vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội.
1.2 Quan điểm của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đề ra chủ trương "tiếp tục nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại", từng bước xây dựng thành công xã hội
XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên đất nước ta. Chủ
trương ấy, được thực hiện trong điều kiện có những thuận lợi, những cũng gặp
không ít khó khăn, thách thức rất quyết liệt của tình hình kinh tế trong nước và
những diễn biến rất phức tạp trên thế giới và khu vực nhất là những phức tạp về
giữ vững và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo ở biển Đông. Trước tình hình
trên, Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là

đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”. Trên tinh
thần ấy, tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân
tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam;
là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” . Đại hội XI tiếp
tục nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Từ quá trình
nhận thức về vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng đã xác định quan điểm:


Trước hết, đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách
mạng vì mục tiêu chung của dân tộc chứ không nhằm phục vụ cho lợi ích của
riêng một giai cấp, tầng lớp nào. Vì vậy, xây dựng và phát huy vai trò của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị.
Đảng ta cho rằng, trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện đại đoàn kết các dân tộc,
các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở
nước ngoài; xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần
giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau hướng tới tương lai; cần tôn
trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, đề cao tinh
thần dân tộc. Như vậy, đối tượng đoàn kết rất rộng rãi, bao gồm tất cả những người
Việt Nam tán thành mục tiêu chung, với nguyện vọng, ý chí của dân tộc, củng cố
và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa
giai cấp công dân, nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Có thể nói, luận điểm về liên minh giai cấp công nhân, nông dân với các

tầng lớp lao động khác là một trong những nội dung rất cơ bản của học thuyết
Mác - Lênin, được Mác - Ăngghen đưa ra từ khoảng giữa thế kỷ XIX trên cơ sở
tổng kết và khái quát thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Luận điểm trên đã được Lênin phát triển trong điều kiện lịch
sử mới của cách mạng nước Nga và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới. Nội
dung cốt yếu nhất của luận điểm nói trên khẳng định: giai cấp công nhân chỉ có
thể hoàn thành sứ mạng lịch sử toàn thế giới của mình khi liên minh với các giai
cấp và tầng lớp lao động khác mà trước hết là với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức và lãnh đạo họ tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng.
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt và sớm vận dụng sáng
tạo luận điểm về liên minh giai cấp nói trên vào đường lối cách mạng Việt Nam,


nhờ vậy đã lãnh đạo, đoàn kết các tầng lớp nhân dân đấu tranh làm nên cuộc Cách
mạng Tháng Tám thắng lợi, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thực
hiện mục tiêu và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Tháng 2-1951, trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ: “Công, nông, trí phải đoàn kết thành một khối”. Trong Cương
lĩnh Đại hội II của Đảng cũng ghi: “Chính quyền dân chủ của nhân dân dựa vào
Mặt trận Dân tộc Thống nhất, lấy liên minh công nhân, nông dân và lao động trí
thức làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Năm 1991 Đại hội lần thứ
VII của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, một lần nữa khẳng định luận điểm “liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, do giai cấp công nhân lãnh đạo”
và coi đó là nền tảng của việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Về thực chất của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức (đội ngũ trí thức) là nguyên tắc về sự kết hợp các lợi ích mà suy cho cùng
là lợi ích kinh tế. Một sự kết hợp đúng sẽ tạo ra sức mạnh, làm động lực cho sự
phát triển xã hội, đất nước. Từ nguyên tắc chung nêu trên, liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức còn bao hàm những nội dung cụ

thể về liên minh chính trị, liên minh về kinh tế và liên minh về xã hội.
Liên minh về chính trị giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức thể hiện ở việc thống nhất về con đường, mục tiêu, lợi ích đi lên chủ nghĩa
xã hội; là thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Và quá trình thực hiện liên minh về chính trị nói trên phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo, theo lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Chăm lo xây dựng, củng cố khối liên minh vững mạnh chính là tạo ra
chỗ dựa của Nhà nước, là cơ sở vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân, phát
huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân.


Khối đại đoàn kết toàn dân tộc có nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
dân, nông dân và đội ngũ trí thức. Đó là những đồng minh tự nhiên, là lực lượng cơ
bản trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và
trong thời kỳ xây dựng, phát triển, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Giữa giai cấp công
dân, nông dân và đội ngũ trí thức có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau và thống
nhất với lợi ích của toàn dân tộc. Do vậy, sự vững chắc của liên minh này là cơ sở
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và của cả hệ thống chính trị. Trên cơ sở liên
minh này, Đảng ta đề ra nhiệm vụ quan tâm giáo dục, đào tạo bồi dưỡng, phát triển
giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; xây dựng, phát huy vai trò của
giai cấp nông dân; xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao; tạo điều
kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có đạo đức và trách nhiệm
xã hội cao,v.v..
Thứ ba, thực hiện đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở những điểm tương
đồng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta cho
rằng cần phát huy những yếu tố tương đồng, cố gắng tìm ra mẫu số chung của tất
cả các giai cấp, tầng lớp; quy tụ sức mạnh của tất cả các bộ phận cấu thành dân tộc
ta. Trong thời kỳ hiện nay, đại đoàn kết toàn dân tộc “Lấy mục tiêu xây dựng một
nước Việt nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định
kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái
với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa,
khoan dung…để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng
thuận xã hội”.
Có thể nói, xét đến cùng, cơ sở sâu xa của sự tương đồng xuất phát từ lợi ích
chung của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Nói cách khác, cơ sở của
sự đoàn kết phải phản ánh được lợi ích của các tầng lớp nhân dân. Đại hội XI của


Đảng đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài
hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội” 6. Sự kết hợp hài hoà các lợi
ích là động lực cơ bản, là nhân tố quyết định sự phát triển xã hội. Nhưng sự kết
hợp hài hoà các lợi ích không phải là điều hoà, bình quân lợi ích, mà phải đảm bảo
công bằng trong xã hội. Do vậy, về thực chất, khả năng mở rộng và phát huy vai
trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tuỳ thuộc một cách quyết định vào việc giải
quyết một loạt các mối quan hệ lợi ích: lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể; lợi ích gia
đình và lợi ích xã hội; lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc; lợi ích quốc gia và lợi ích
quốc tế... Thông qua đường lối, chính sách, Đảng và Nhà nước ta thực hiện sự điều
chỉnh cơ cấu lợi ích trên nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích, trong đó lấy lợi ích
xã hội, lợi ích tập thể đặt lên trên lợi ích cá nhân, trên cơ sở tôn trọng và đề cao lợi
ích cá nhân. Đảm bảo quyền lợi chính đáng, gắn lợi ích với trách nhiệm, nghĩa vụ
công dân. Phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của các cá nhân trong xã hội để tự làm
giàu cho bản thân trên cơ sở các điều kiện xã hội tạo ra, qua đó cống hiến cho xã
hội. Tạo điều kiện cho các cá nhân thực hiện lợi ích của mình và bảo vệ lợi ích đó.
Mỗi cá nhân đều có cơ hội và nghĩa vụ như nhau trong xã hội. Khuyến khích làm
giàu chính đáng, cùng với làm giàu phải xoá đói giảm nghèo, hạn chế phân hoá
giàu nghèo, phân cực xã hội. Phải đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển.
Thứ tư, Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Đoàn kết toàn Đảng được Cương lĩnh đặt trong mối quan hệ mật thiết với
đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Trong mối quan hệ này,
đoàn kết toàn Đảng được đặt ở vị trí hàng đầu, vị trí xuất phát và là một bộ phận
đặc biệt quan trọng, là hạt nhân của đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế. Điều này gợi mở nhận thức và có thể hiểu về luận điểm: Đoàn kết thống
nhất toàn Đảng là cơ sở của đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế,


là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
những năm chuẩn bị thành lập Đảng ta. Người viết: "Cách mệnh trước hết phải có
gì?
Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải làm theo chủ nghĩa ấy(2). Tức là Đảng muốn đoàn kết được toàn dân, và
đoàn kết quốc tế thì trước hết toàn Đảng phải đoàn kết. Điều này cũng được Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Di chúc của Người: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ,
một lòng một dạ phục vụ giai cấp phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ
ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng
hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
Cơ sở trực tiếp của đoàn kết toàn Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối đúng đắn của Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Đảng; tình thương yêu đồng chí, tôn trọng lẫn nhau giữa những đảng viên cộng
sản. Cơ sở sâu xa và cơ bản nhất của đoàn kết toàn Đảng là sự thống nhất về lợi
ích. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Ngoài lợi ích của Tổ quốc,
của giai cấp, của dân tộc Đảng ta không có lợi ích nào khác. Nhờ đó, toàn thể đảng
viên là một khối thống nhất về ý chí và hành động, toàn dân, các dân tộc trên đất
nước ta là một khối dưới sự lãnh đạo của Đảng; từ đó, sẽ tranh thủ được sự đồng

tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới; cách mạng nước ta đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Thực tế hiện nay cho thấy, cùng với việc quan tâm đến cơ
sở trực tiếp của đoàn kết toàn Đảng, cần đặc biệt quan tâm đến cơ sở sâu xa và cơ
bản nhất của đoàn kết toàn Đảng. Nếu để hình thành các nhóm lợi ích trong các tổ
chức đảng, hoặc trong hoạt động, tổ chức đảng bị chi phối bởi một nhóm lợi ích
nào đó, thì khó tránh khỏi mất đoàn kết; ảnh hưởng không nhớ đến đoàn kết toàn


dân và đoàn kết dân tộc; thậm chí Đảng khó tránh khỏi tan rã; khối đoàn kết toàn
dân, đoàn kết các dân tộc cũng không thể tồn tại và cách mạng không tránh khỏi
thiệt hại.
Thứ năm, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng của nước ta.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu,
tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển
biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tăng
cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những
âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Có thể nói, từ xưa
đến nay, vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc vốn là những vấn đề lớn, phức tạp và rất
nhạy cảm đối với hầu hết các quốc gia. Do việc giải quyết các vấn đề dân tộc theo
nhiều quan điểm khác nhau, nên nhiều cuộc xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua
vũ trang, can thiệp, lật đổ, khủng bố đã xảy ra, ảnh hưởng lớn đến an ninh chính
trị, ổn định chính trị - xã hội ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tình hình trên cũng tác động ít nhiều đến Việt Nam. Nhiều vấn đề về dân
tộc, quan hệ dân tộc đang đặt ra đòi hỏi phải được nghiên cứu, giải quyết một cách
đúng đắn, phù hợp, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vấn đề dân tộc vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, bao gồm 54 dân tộc anh em. Trong đó, dân tộc
Kinh chiếm 86% dân số được gọi là dân tộc đa số; 53 dân tộc còn lại chiếm 14%
dân số được gọi là các dân tộc thiểu số. Các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống
đoàn kết trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, với mục tiêu xây dựng một cộng
đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.


Các dân tộc sống xen kẽ là chủ yếu, không có dân tộc nào có lãnh thổ riêng,
nhưng có sự chênh lệch khá lớn về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Các dân tộc
thiểu số Việt Nam chỉ chiếm 14% dân số, nhưng lại cư trú trên một diện tích rộng
lớn của đất nước (khoảng 3/4 diện tích), chủ yếu tập trung ở những vùng sâu, vùng
xa, vùng biên giới, hải đảo. Đây là những nơi có vị trí chiến lược quan trọng, đặc
biệt là về an ninh quốc phòng. Các dân tộc Việt Nam đều có bản sắc văn hóa riêng,
tạo nên sự thống nhất trong đa dạng văn hóa Việt Nam.
Một điều phải khẳng định, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến
lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Nhiều văn kiện của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đã nhấn mạnh tầm quan trọng, vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc và
đoàn kết dân tộc. Bởi vì, đây là cơ sở để động viên nguồn lực con người, tài trí của
tất cả các dân tộc; đảm bảo ổn định chính trị - xã hội cho sự phát triển; thực hiện
tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; vượt qua được những thách thức,
tận dụng được thời cơ; quyết định đến thành bại sự nghiệp cách mạng trước đây,
hiện nay cũng như tương lai.
Mặt khác, trong bối cảnh chính trị-xã hội thế giới diễn biến rất phức tạp như
hiện nay, các thế lực thù địch đang lợi dụng các đặc điểm trong quan hệ dân tộctộc người, nhất là lợi dụng tính nhạy cảm của tâm lý dân tộc, tâm lý tôn giáo,
những khó khăn trong đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm kích động
chia rẽ đoàn kết các dân tộc, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”. Vì vậy, việc
nhận thức đầy đủ về các đặc điểm trong quan hệ dân tộc-tộc người có ý nghĩa rất
lớn trong hoạch định và thực hiện đúng chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay.
Nhận thức vấn đề dân tộc và giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc có một ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, nên Đảng ta đã xây dựng

chính sách dân tộc, coi đó là một bộ phận hữu cơ trong chính sách của Đảng.
2. Giải pháp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay


2.1 Phát huy sức mạnh toàn dân, của cả hệ thống Chính trị trong xây
dựng khối đại đoàn kết.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt
nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, trong đó các chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, để thực hiện tốt điều
này cần thực hiện một số nội dung sau:
Tăng cường lãnh đạo, giáo dục và vận động làm cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc. Tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được thể hiện trong mọi chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Các chủ trương, chính sách, pháp luật đó phải
tạo điều kiện và môi trường thuận lợi nhằm khai thác mọi tiềm năng, khuyến khích
mọi người, mọi tổ chức phát huy cao độ mọi nguồn lực và tài năng sáng tạo, đóng
góp thiết thực cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và
bảo vệ đất nước, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân.
Đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới
sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, thật sự là
công bộc của nhân dân, có năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới; tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí,
thực hành tiết kiệm, quyết tâm tạo cho được chuyển biến mạnh mẽ, thiết thực trong
cuộc đấu tranh hết sức khó khăn này.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội; tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và

người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là một bộ phận của hệ thống chính trị và là


cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp
của nhân dân, có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng
rãi các tầng lớp nhân dân, góp phần tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, đưa
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa,
xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại vào cuộc sống.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và
chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể.
Thấm nhuần tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lấy đại nghĩa
dân tộc làm trọng, đoàn kết, tập hợp trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phấn đấu
thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam yêu quý.
3.2 Đổi mới chính sách giai cấp, tôn giáo để tăng cường khối đại đoàn kết
dân tộc
Phải triển khai đồng bộ nhiều nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ tiếp tục phát
huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đổi mới và nâng cao chất
lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trong lĩnh vực
này, quan điểm và chủ trương của Đảng ta là : Nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mở
rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất trong bối cảnh mới; Lấy mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến
khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền
thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào Mặt trận Dân
tộc thống nhất, tăng cường đồng thuận xã hội.
Bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng,
hợp pháp của các tầng lớp nhân dân, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể



và lợi ích toàn xã hội; thực hiện dân chủ gắn liền với giữ gìn kỷ cương, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi dưỡng nâng cao tinh thần yêu nước, ý
thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất
nước.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt
nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình
thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có
ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
2.3 Kế thừa và phát huy nguốn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
trong sự nghiệp đổi mới.
Đại đoàn kết toàn dân tộc không những những là một truyền thống của dân
tộc, mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển xã hội. Điều này thể hiện
đậm nét trong lịch sử dân tộc, trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước. Phát huy truyền thống và sức mạnh đoàn kết trong công cuộc đổi mới đất
nước, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực chủ yếu và là nhân tố
có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Nói đến động lực phát triển xã hội là nói đến khả năng có thể tạo nên
sức mạnh to lớn của toàn xã hội, làm chuyển động và thay đổi một cách toàn diện
xã hội đó theo hướng phát triển tiến bộ, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của
con người. Sự phát triển của xã hội là vì con người và cũng do chính con người tạo
nên, bắt nguồn từ sức mạnh trí tuệ của con người, của xã hội loài người. Nhưng để
biến những khả năng trí tuệ đó thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì phải
có một lực lượng xã hội to lớn, đó là sức mạnh của cả một dân tộc, một đất nước
và rộng hơn là cả cộng đồng quốc tế. Đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân. Trong mỗi quốc gia, dân tộc, bao giờ cũng có các giai cấp, các tầng lớp xã
hội, các tộc người, các tôn giáo... khác nhau, có tiếng nói, truyền thống văn hoá,



những nhu cầu và lợi ích riêng khác nhau, song luôn có một lợi ích chung của toàn
dân tộc, có nền văn hoá chung của quốc gia, dân tộc đó. Quốc gia dân tộc nào
muốn phát triển cũng phải tạo ra sức mạnh đoàn kết của quốc gia, dân tộc mình.
Tuỳ theo những đặc điểm cụ thể mà mỗi quốc gia, dân tộc có cách tập hợp khối đại
đoàn kết toàn dân theo cách riêng của mình với những nét rất khác nhau, rất đa
dạng và phong phú. Việt Nam là một đất nước có truyền thống lịch sử hình thành
và phát triển từ lâu đời. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam
đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, thử thách để chinh phục thiên nhiên khắc
nghiệt, chống lại thiên tai, bão, lũ, hạn hán, dịch bệnh và luôn phải đương đầu với
các thế lực thù địch xâm lược hùng mạnh hơn từ bên ngoài. Để chiến thắng được
thiên tai và kẻ thù xâm lược, giữ cho dân tộc Việt Nam không bị suy yếu, không bị
đồng hoá và ngày nay đang vững bước đi lên xây dựng một đất nước theo hướng
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, từng bước hội nhập
với cộng đồng quốc tế, các thế hệ người Việt Nam đã luôn biết giữ gìn và phát huy
sức mạnh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc Động lực chủ yếu để phát triển
đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
3.4 Phát huy cao độ sức mạnh nội lực đồng thời tranh thủ ngoại lực trong
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ
nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường dân tộc,
trong chính sách đại đoàn kết, phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi người,
mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh doanh, học tập và
lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời, phải
khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc biệt tâm lý chạy theo
đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình



nghĩa tương thân tương ái của dân tộc, giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng cách,
ranh giới giữa kinh và thượng, giữa nông thôn và thành thị, cũng cố khối đại đoàn
kết 54 dân tộc anh em, chăm lo đời sống đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là
vùng sâu, vùng xa, tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo, các tập quán tốt đẹp của dân tộc,
kiên quyết loại bỏ những âm mưu lợi dụng tôn giáo, tà giáo để gây rối.
Phải xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải chống các tệ
nạn xã hội, nhất là tệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân, phải biết lắng nghe những ý nguyện chính đáng của nhân dân, phải kịp thời
giải quyết những oan ức của nhân dân, làm cho lòng dân được yên. Phải tiếp tục
đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng việc xây dựng
mặt trận, đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách
đối với công nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người
việt nam ở nước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, tập hợp đến mức
rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước.
Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa kinh tế
ngày càng phát triển, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng
các nước, đồng thời phải nắm vững phương châm ngoại giao mềm dẻo, có nguyên
tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại hiện nay của đảng và nhà nước
ta là: là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế;
vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
Trong tình hình thế giới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương
đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách, đẩy lùi nguy cơ,
để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ vững bản sắc dân tộc, giữ vững
đinh hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, đảng và nhà nước ta phải chủ trương phát
huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc - sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của


người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà

tranh thủ và vận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài.

KẾT LUẬN
Trong tất cả mọi người việt nam sống ở trong nước hay ở nước ngoài đều luôn luôn tiềm
ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến
đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người việt nam, thực thi chiến lược đại đoàn
kết dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng
nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở
lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì


độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch
sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp
thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự
khác biệt về chất so với thời kỳ đấu tranh bảo vệ tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm
chí cũng đã khác rất nhiều so với 20 năm trước. Đại hội XI Đảng ta đã xác định đại đoàn
kết toàn dân tộc là một động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước. Do vậy, công tác cán
bộ phải quán triệt hơn nữa quan điểm và bài học kinh nghiệm của đảng và Bác Hồ về
việc kết hợp quan điểm giai cấp và phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ
thực tiễn lịch sử chứng minh rằng giữa giai cấp công nhân và đại đoàn kết dân tộc có
quan hệ biện chứng, không hề đối lập nhau: nếu là công nhân (và chỉ có công nhân thực
sự) thì mới thực hiện được đại đoàn kết toàn dân tộc. Đứng trên lập trường khác không
thể đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự được. Ngược lại, thực hiện đại đoàn kết dân tộc
chính là thực hiện quan điểm của giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích của giai cấp
công nhân. Theo quan điểm này, làm thế nào tận dụng được hết tất cả tài năng không
phân biệt giai cấp, nguồn gốc xuất thân, là người việt nam trong nước hay người việt nam
ở nước ngoài, chính là thể hiện quan điểm giai cấp công nhân của Đảng ta. Lựa chọn cán
bộ phải căn cứ chủ yếu vào nhận thức và hành động thực tiễn của mỗi người chứng tỏ
rằng đang phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu cho dân giàu,

nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự Thật, Hà
Nội, 1987.


2, ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXBChính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996.
3, ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXBChính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001.
4, ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXBChính trị quốc
gia, Hà Nội, 2006
5, ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXBChính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011
6, Lê Sĩ Giáo, Dân tộc học đại cương, NXB GD, H.1997
7, Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
8, Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
9, Tổng cục Chính trị, Một số vấn đề về dân tộc và quan điểm chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta, NXB QĐND, H.1995



×