Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH sử ĐẢNG NGOẠI GIAO VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG mỹ cứu nước, bản LĨNH và TRÍ TUỆ của ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.82 KB, 25 trang )

Ngoại giao việt nam trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước - bản
lĩnh và trí tuệ của Đảng.
MỞ ĐẦU
Ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh ra đời cùng với việt thành
lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945. Trải qua các giai
đoạn khác nhau, ngoại giao đã góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó không thể không nhắc
tới chính sách ngoại giao thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Suốt
hơn hai thập kỷ đấu tranh, ngoại giao Việt Nam - theo đường lốì của Đảng
và tư tưởng Hồ Chí Minh - luôn luôn là một mặt trận hỗ trợ và phối hợp
với đấu tranh quân sự, chính trị bằng những hoạt động và biện pháp phong
phú, hiệu quả góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Việc tìm hiểu nghiên cứu những chặng đường, những sự kiện lịch sử
nổi bật, những mốc lớn của hoạt động ngoại giao để làm nổi bật lên truyền
thống ngoại giao Việt Nam tinh tế và hiển hách, ý chí độc lập, tự chủ, tinh
thần dân chủ, nguyện vọng hòa bình, hữu nghị, từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm cần thiết có thể vận dụng cho hiện tại và tương lai là một việc
có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn. Xuất phát từ lý do trên tác giả chọn
đề tài “Ngoại giao Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước- bản lĩnh và trí tuệ của Đảng” làm bài tiểu luận nhằm làm rõ chính
sách ngoại giao đúng đắn, mềm dẻo, linh hoạt của Đảng. Mặt trận ngoại
giao kết hợp với mặt trận chính trị, mặt trận quân sự đã buộc đế quốc Mỹ
phải ký kết Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, đưa dân
tộc Việt Nam sang một trang sử mới.


NỘI DUNG
1. Những yếu tố tác động đến chính sách ngoại giao của Việt Nam
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
1.1. Tình hình thế giới


* Những thuận lợi
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam diễn ra vào thời
kỳ cao điểm của chiến tranh lạnh. Thế giới hình thành hai phe chống đối
nhau gay gắt bằng chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang. Mỹ xâm lược
Việt Nam vì lợi ích chiến lược toàn cầu. Liên Xô luôn theo đuổi mục tiêu
cân bằng chiến lược với Mỹ. Trung Quốc nhằm mục tiêu vươn lên thành
cường quốc thứ ba. Liên Xô, Trung Quốc vừa giúp Việt Nam, vừa sử dụng
vấn đề Việt Nam để chống lại hai nước lớn kia. Chiến tranh Việt Nam về
mặt quốc tế, luôn nằm trên trục chuyển động của ba cặp quan hệ Mỹ - Xô,
Mỹ - Trung, Xô - Trung. Thất bại ở Việt Nam, Mỹ hòa hoãn với Liên Xô,
Trung Quốc và cùng hai nước này dàn xếp vấn đề Việt Nam, hình thành
"Tam giác chiến lược Mỹ - Xô - Trung", tác động mạnh mẽ tới diễn biến
chiến tranh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu”, phong trào giải phóng dân tộc lên cao, đưa tới việc hình thành lực
lượng thứ ba. Năm 1961, phong trào Không liên kết chính thức ra đời.
Năm 1963 tổ chức Thống nhất châu Phi và năm 1966, tổ chức Đoàn

kết ba châu cũng được thành lập.
Cũng trong thời kỳ này, phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới lên mạnh. Thông tin bùng nổ, lương tri loài
người thức tỉnh. Các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội, tôn

2


giáo của các nước đều ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của các dân tộc.
* Những khó khăn
Bên cạnh, những thuận lợi, bối cảnh quốc tế cũng có những phức tạp,
khó khăn cho Việt Nam:

Thứ nhất, Mỹ rất mạnh về tiềm lực, có liên minh quân sự khắp nơi,
khống chế Liên hợp quốc, Mỹ kéo Liên hợp Quốc vào Triều Tiên, dùng
Liên hợp quốc can thiệp nhiều nơi. Tâm lý phục Mỹ, sợ Mỹ còn khá phổ
biến trên thế giới.
Thứ hai, Phong trào cách mạng thế giới cũng trải qua những thăng
trầm. Phong trào xã hội chủ nghĩa khủng hoảng về đường lối, không thống
nhất về quan điểm, sách lược đấu tranh. Phong trào Không liên kết thời kỳ
đầu không nhất trí về mục tiêu và phương hướng hành động.
Thứ ba, Nổi cộm nhất là mâu thuẫn Xô - Trung, hai đồng minh chiến
lược của Việt Nam. Mâu thuẫn và đối chọi nhau ngay cả trên vấn đề Việt
Nam và giúp Việt Nam. Mâu thuẫn lợi ích đưa đến xung đột vũ trang trên
biên giới giữa hai nước.
1.2. Đặc điểm của cuộc chiến tranh
Đặc điểm lớn nhất của cuộc chiến tranh là tương quan lực lượng giữa
hai bên tham chiến. Mỹ lạ nước giàu mạnh, trong khi Việt Nam là nước
yếu, nghèo. Chỉ tính riêng về sự giàu có, về tiềm lực quân sự, kinh tế, Mỹ
hơn Việt Nam gấp bội. Tuy nhiên Việt Nam có chỗ mạnh áp đảo hơn so
với Mỹ về chính trị, cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến
tranh chính nghĩa, chiến đấu vì độc lập dân tộc. Ngược lại, với Mỹ, đó là
cuộc chiến tranh phi nghĩa- đó cũng là chỗ yếu cơ bản của đế quốc Mỹ.
Do đặc điểm của thời đại, Mỹ dùng ngoại giao để khắc phục chỗ yếu
về chính trị. Mỹ đặt ngoại giao thành một bộ phận của chiến lược chiến
tranh. Trong một cuộc họp tại Nhà Trắng ngày đầu chiến tranh, Johnson
nói: “Cuộc chiến tranh này giống như một trận đấu ăn giải. Tay phải ta


nắm lực quân sự, song tay trái cần có các đề nghị hòa bình”. Chính vì vậy
mà thời kỳ Mỹ leo thang (1965-1966), Mỹ mở nhiều “chiến dịch hòa
bình” và không ngớt đòi Việt Nam “thương lượng không điều kiện” với
Mỹ. Và suốt cuộc chiến tranh, Mỹ đều dùng ngoại giao và đàm phán trên

thế mạnh để che chắn cho quân Mỹ ở chiến trường.
1.3. Vai trò và nhiệm vụ của ngoại giao
Tính chất thời đại và đặc điểm cuộc chiến như đã nói trên quyết định
vai trò và nhiệm vụ của ngoại giao. Từ rất sớm, ngoại giao Việt Nam đã
giương ngọn cờ hòa bình, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơnevơ. Mặt
trận Dân tộc giải phóng ra đời, có ngoại giao hòa bình, trung lập. Đi vào
chiến tranh lớn, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định đường lối đấu
tranh trên ba mặt trận. Các Nghị quyết Trung ương 11, 12 (năm 1965) đề
ra phương hướng ngoại giao phục vụ đấu tranh quân sự, chính trị. Nghị
quyết Trung ương 12 nêu rõ “Trong quá trình chiến đấu chống Mỹ, cứu
nước, ta phải giữ vững quyết tâm chiến lược, đồng thời áp dụng sách lược
đấu tranh chính trị và ngoại giao khôn khéo để phối hợp với đấu tranh
quân sự, chủ động tiến công địch, nêu cao ngọn cờ độc lập và hòa bình
nhằm tranh thủ rộng rãi dư luận thế giới và cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ”1.
Nghị quyết Trung ương 13 (1-1967) đưa ra khẩu hiệu đấu tranh mới, kéo
Mỹ xuống thang. Từ năm 1968 đến 1973, ta vận dụng phương thức “vừa
đánh vừa đàm”.
Nhìn tổng quát, suốt cuộc chiến tranh, ngoại giao đóng vai trò một
mặt trận đấu tranh tầm cỡ chiến lược với ba chức năng lớn:
Một là, mặt trận ngoại giao phối hợp và hỗ trợ chiến trường, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đảm bảo cho ta càng đánh càng
mạnh, làm cho địch suy yếu và thất bại.
Hai là, tăng cường hậu phương quốc tế của ta, gắn Việt Nam với thế
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 26, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 650.

4



giới, tạo cho ta sức mạnh tổng hợp, làm suy yếu hậu phương quốc tế của
Mỹ, làm cho Mỹ vấp nhiều khó khăn trên thế giới và ngay trong nước Mỹ.
Ba là, giải quyết vấn đề thắng thua, ta thắng, địch thua, kết thúc chiến
tranh. Ta thắng đến đâu, buộc Mỹ thua đến đâu, giành thắng lợi từng bước
thế nào, đẩy Mỹ ra khỏi miền Nam như thế nào?
Từ ba chức năng chiến lược trên, qua từng thời kỳ, tùy theo yêu cầu
của đấu tranh quân sự, chính trị và tình hình quốc tế mà Đảng đề ra những
chủ trương, biện pháp ngoại giao thích hợp.
2. Những thắng lợi trên mặt trận ngoại giao trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước
2.1. Giương cao ngọn cờ dân tộc và thiện chí hòa bình, tranh thủ sự
đồng tình và ủng hộ của thế giới, cô lập Mỹ trên trường quốc tế
Cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc đối đầu giữa hai lực lượng không
cân sức. Trên mặt trận ngoại giao, đó là cuộc đối chọi giữa nền ngoại giao
non trẻ của Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh chống lại chính sách
ngoại giao trên thế mạnh của nền ngoại giao nhà nghề hùng hậu của Hoa
Kỳ.
Tháng 2-1965, Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân
chống miền Bắc. Tháng 3, Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, bắt đầu cuộc
chiến tranh cục bộ. Để che đậy bản chất phi nghĩa và tính chất tàn bạo của
các hành động chiến tranh, Mỹ ráo riết tung ra nhiều thủ đoạn ngoại giao:
ra Sách Trắng đổ lỗi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thông báo cho Liên
hợp quốc rằng Mỹ “sẵn sàng rút hết các đơn vị quân sự của họ trong trường
hợp Bắc Việt Nam chấm dứt xâm lược Nam Việt Nam”. Ngày 7-4-1965,
Tổng thống Johnson đọc diễn văn tố cáo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn
công một quốc gia độc lập (Nam Việt Nam) và Mỹ có trách nhiệm bảo vệ
tự do cho đồng minh của mình. Johnson tung ra hai đòi hỏi mà phía Mỹ
kiên trì theo đuổi suốt mấy năm: “hai bên đi vào đàm phán không điều



kiện” và “hai bên cùng rút quân”. Mỹ ráo riết mở liên tiếp nhiều chiến dịch
hòa bình xoáy vào hai đòi hỏi này.
Chống lại các thủ đoạn và luận điệu ngoại giao nham hiểm của Mỹ,
ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phối hợp với ngoại giao của
Mặt trận Dân tộc giải phóng tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao và vận
động quốc tế nhằm hai hướng chính: đề cao chính nghĩa dân tộc, nêu cao
quyết tâm của nhân dân Việt Nam quyết đánh và quyết thắng cuộc chiến
tranh xâm lược của Mỹ; tập trung mũi nhọn lên án cuộc chiến tranh xâm
lược của Mỹ, lên án các hành động leo thang chiến tranh và các tội ác của
Mỹ trên cả hai miền, mạnh mẽ bác bỏ các luận điệu dốỉ trá của Mỹ “đàm
phản không điều kiện” và “hai bên cùng rút quân”.
Ngày 22-3-1965, Mặt trận Dân tộc giải phóng ra Tuyên bố 5 điểm
biểu thị mạnh mẽ lập trường, mục tiêu chiến đấu và quyết tâm của nhân
dân miền Nam chống xâm lược cho đến thắng lợi cuối cùng. Tuyên bố nêu

rõ: 1. Đế quốc Mỹ là kẻ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, là kẻ gây chiến
tranh và xâm lược cực kỳ thô bạo; 2. Nhân dân miền Nam kiên quyết
đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thực hiện một miền
Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập, tiến tới thống
nhất đất nước; 3. Nhân dân và quân giải phóng miền Nam quyết hoàn
thành đầy đủ nhất nghĩa vụ thiêng liêng của mình là đánh đuổi đế quốc
Mỹ, để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc; 4. Nhân dân miền Nam
biết ơn sâu sắc sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình
và công lý trên thế giới và tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ,
kể cả vũ khí và mọi dụng cụ chiến tranh của bạn bè khắp năm châu; 5.
Toàn dân đoàn kết, toàn dân vũ trang, tiếp tục anh dũng xông lên, quyết
chiến quyết thắng giặc Mỹ và bọn Việt gian bán nước.
Ngày 8-4-1965, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra Tuyên bố

6



4 điểm nêu rõ lập trường và những nguyên tắc lớn của một giải pháp thỏa
đáng để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Cụ thể: 1.
Xác nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Hoa Kỳ phải
rút quân đội, nhân viên quân sự, các loại vũ khí Mỹ ra khỏi miền Nam Việt
Nam, triệt phá các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam, chấm dứt can
thiệp ở miền Nam, các hành động quân sự chống miền Bắc Việt Nam; 2.
Hai miền đều không có liên minh quân sự với nước ngoài, không có căn cứ
quân sự, nhân viên quân sự nước ngoài trên đất của mình; 3. Công việc
miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết theo cương lĩnh của Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam, không có sự can thiệp của nước ngoài;
4. Việc hòa bình thống nhất đất nước Việt Nam do nhân dân Việt Nam ở
hai miền tự giải quyết không có sự can thiệp của nước ngoài.
Hai bản tuyên bố có ý nghĩa lịch sử này là cơ sở vững chắc cho đấu
tranh ngoại giao của ta. Nó trở thành ngọn cờ và lời hiệu triệu để tập hợp
sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Ngày 24-1-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một lá thư gửi đến người
đứng đầu Nhà nước và Chính phủ của gần 70 nước. Đây là một hoạt động
ngoại giao ở tầm cao, góp phần đề cao chính nghĩa dân tộc và ý chí sắt đá
của nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đợt hoạt động
ngoại giao và vận động quốc tế quyết liệt này, chúng ta phối hợp ngoại
giao hai miền, phối hợp ngoại giao Đảng, Nhà nước với ngoại giao nhân
dân, phối hợp ngoại giao với vận động báo chí, phối hợp nỗ lực của ta với
sự giúp đỡ của các nước anh em, của bạn bè quốc tế... Tất cả những nỗ lực
đó sớm đưa lại thắng lợi to lớn, tạo chuyển biến rõ rệt trong dư luận quốc
tế, giáng một đòn chí mạng vào các thủ đoạn ngoại giao lắt léo của Mỹ,
đẩy Mỹ vào thế cô lập. Tiêu biểu là các nước Thế giới thứ ba. Buổi đầu
một số nước còn tỏ ra dè dặt; có nước đề nghị Việt Nam nên nhận đàm



phán không điều kiện với Mỹ... thì nay đa số các nước đều lên án cuộc
chiến tranh của Mỹ; có nước còn đi xa hơn, đòi Mỹ công nhận Mặt trận
Dân tộc giải phóng, đòi Mỹ rút quân. Biểu hiện nổi bật nhất là trong số 60
nước liên minh với Mỹ hoặc nhận viện trợ của Mỹ thì đến cuối năm 1966,
chỉ còn hơn 10 nước đứng về phía Mỹ. Đó là trận thắng lớn đầu tiên của
ngoại giao ta.
2.2. Thay đổi khẩu hiệu đấu tranh “vừa đánh vừa đàm”, buộc Mỹ
xuống thang từng bước
Từ cuối năm 1966, đầu năm 1967, tình hình có những nét mới. Trên
chiến trường miền Nam, ta đã chế ngự được quân Mỹ, bước đầu đánh bại
cuộc phản công mùa khô 1965-1966 và đang đánh bại cuộc phản công
mùa khô thứ hai (Đông - Xuân 1966-1967) của Mỹ. Quân dân miền Bắc
đã làm thất bại một bước cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của
Mỹ. Đến cuối năm 1966, miền Bắc đã bắn rơi 1.620 máy bay Mỹ. Tình
hình quốc tế thuận cho ta hơn.
Trên đà thắng lợi của hai miền, Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp
hành Trung ương xác định: “Trước mắt, chúng ta cần tập trung vào khẩu
hiệu đòi Mỹ phải chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và
mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa”2.
Để tăng sức mạnh tấn công, ngày 28-1-1967, Trung ương chủ trương
đưa ra khẩu hiệu sách lược: “Chỉ sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều
kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống lại nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Mỹ có thể

nói chuyện được”3.
Đây là một đòn tấn công ngoại giao lớn có tác động rất mạnh, Suốt
2
3


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 28, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.218.
Nguyễn Ngọc Trường, Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 218.

8


hai năm, Mỹ đòi đàm phán không điều kiện nhưng ta bác bỏ. Nay Hà Nội
tỏ ý sẵn sàng nói chuyện với Washington nhưng với điều kiện Mỹ phải
chấm dứt ném bom miền Bắc. Tuyên bố này vừa tỏ rõ thiện chí, vừa phù
hợp với đạo lý nên nó trở thành quả bom ngoại giao. Dư luận thế giới
hưởng ứng và ủng hộ mạnh mẽ... Thậm chí Tổng thư ký Liên hợp quốc và
Giáo hoàng cũng lên tiếng đòi Mỹ đáp ứng.
Mỹ trở nên bị động về ngoại giao và đối phó lúng túng. Johnson gửi
thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh biện bạch yếu ớt. Mỹ phải dùng nhiều con
đường khác nhau để chống đỡ: vận động qua Thủ tướng Liên Xô
Côxưghin, nhờ người Pháp làm trung gian thăm dò...
Trước sức ép của dư luận, đặc biệt là phong trào nhân dân Mỹ, ngày
29-9-1967, trong diễn văn đọc tại San Antonio, Tổng thống Johnson phải
công khai tuyên bố: “Hoa Kỳ sẵn sàng ngừng ngay việc bắn phá miền Bắc
Việt Nam của máy bay và tàu chiến Mỹ khi việc này dẫn tới cuộc thảo
luận có kết quả và không bị lợi dụng”4. Rõ ràng tuyên bố này là một bước
lùi của Mỹ, có phần mềm dẻo hơn các tuyên bố trước đây. Nó còn chứng
tỏ Mỹ đã phải thừa nhận “quyền” của nhân dân miền Bắc chi viện cho
miền Nam. Tuy nhiên, Mỹ vẫn giữ lập trường “ngừng ném bom có điều
kiện” và “có đi có lại”.
Phía Mỹ rất cay đắng vì Mỹ đã “mềm dẻo” như vậy mà Hà Nội vẫn
bác bỏ. Tại cuộc hội thảo Việt - Mỹ về "Các cơ hội bị bỏ lỡ” tại Florida
tháng 12-1999, ông Mac Namara tác giả của công thức San Antonio – đã
phàn nàn: Tại sao Mỹ đã mềm dẻo đến như vậy mà Việt Nam vẫn bác bỏ?

Nếu Việt Nam nhận ngồi lúc đó thì dễ có cơ hội góp phần kết thúc chiến
tranh sớm. Câu hỏi này đã được đoàn ngoại giao Việt Nam trả lời: Khi đó
chúng tôi đang giữ quyền chủ động. Nếu chúng tôi nhận ngồi theo công
thức San Antonio thì chẳng khác gì chúng tôi trao “quyền phán quyết” cho
4

Nguyễn Ngọc Trường, Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 220.


phía Mỹ, nghĩa là bất cứ lúc nào Mỹ cũng có thể lên án chúng tôi không
nói chuyện nghiêm chỉnh, luôn tìm cách lợi dụng để tăng cường tiếp tế cho
miền Nam.
Ngay sau tuyên bố ngày 27-1-1967, thế trận ngoại giao đã thay đổi.
Mỹ phải chống đỡ với sức ép từ nhiều phía. Ngoại giao ta đã hỗ trợ mạnh
mẽ cho chiến trường để chuẩn bị Tết Mậu Thân. Phía Mỹ cũng đã thấy khó
thắng và có thể thua, và từ mùa Thu 1967, Mỹ đã phải tính tới con đường
ra khỏi chiến tranh chứ không phải sau đòn Tết Mậu Thân Mỹ mới tính tới
đàm phán.
Trong lúc Mỹ đang chần chừ thì đòn Tết Mậu Thân nổ ra (31-11968). Kết thúc đợt một cuộc Tổng tiến công Tết này, quân dân ta giành
thắng lợi to lớn trên hai mặt trận: Về quân sự, ta làm chuyển biến thế trận,
đảo lộn chiến lược của Mỹ. Về chính trị, đòn Tết Mậu Thân đã gây một
chấn động chính trị và tâm lý mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng nước Mỹ. Nội
bộ chính giới, chính quyền Mỹ rối ren, dao động. Ý chí xâm lược của đế
quốc Mỹ bị một đòn choáng váng. Báo chí và dư luận đồng loạt đòi đi

vào đàm phán.
Sau gần hai tháng bàn bạc, tranh luận, Tổng thống Mỹ Johnson đi tới
một quyết định khó khăn: bác bỏ kế hoạch tăng quân, chấp nhận chuyển
hướng chiến lược, tìm giải pháp đàm phán.
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson tuyên bố đơn phương chấm dứt

ném bom miền Bắc từ Vĩ tuyến 20 trở ra; Mỹ sẵn sàng cử đại diện thảo luận
biện pháp chấm dứt chiến tranh. Cùng dịp này, Johnson tuyên bố không ra
tranh cử nhiệm kỳ mới. Tuyên bố của Johnson đánh dấu sự thừa nhận thất
bại trong chiến tranh, đánh dấu một bước thay đổi có ý nghĩa, xuống thang
chiến tranh, thăm dò giải pháp hòa bình.
Với tuyên bố của Johnson, chúng ta có ba cách lựa chọn: Bác bỏ,

10


nhận ngồi đàm phán hay nhận tiếp xúc. Sau khi cân nhắc nhiều mặt,
Bộ Chính trị quyết định chọn cách thứ ba là nhận tiếp xúc. Ngày 3-41968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố: “Rõ ràng Chính
phủ Hoa Kỳ chưa đáp ứng nghiêm chỉnh đòi hỏi của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, của dư luận Mỹ và thế giới. Tuy nhiên về phần mình,
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn sàng cử đại diện
của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ
chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hoạt động chiến tranh khác
chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói
chuyện”.
Việc Bộ Chính trị quyết định nhận bắt đầu cục diện “vừa đánh vừa
đàm” lúc này là thích hợp nhất. Ta nhận ngồi trên thế mạnh, thế đang
thắng. Để chậm sẽ bất lợi nhiều mặt, và cũng khó lợi dụng được nội tình
của Mỹ trong cuộc bầu cử sắp tới. Trong tuyên bố chính phủ, ta khẳng định
mạnh mẽ, rõ ràng rằng ta tiếp xúc với mục đích xác định việc Mỹ chấm dứt
hoàn toàn việc ném bom miền Bắc, lúc đó mới bắt đầu cuộc nói chuyện: đó
là một cái khóa rất hiệu quả.
Cuộc đàm phán song phương Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hoa

Kỳ bắt đầu ngày 13-5-1968. Suốt bốn, năm tháng, ta vận dụng đàm
phán để hỗ trợ chiến trường - lên án và tố cáo tội ác chiến tranh của Mỹ,

tranh thủ dư luận quốc tế và dư luận Mỹ. Ta kiên trì đòi Mỹ chấm

dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc mới nói chuyện về các vấn đề khác. Ta
mạnh mẽ bác bỏ các điều kiện do Mỹ đưa ra như khôi phục khu phi quân
sự, không bắn vào các thành phố lớn, chấm dứt xâm nhập và tiếp tế từ
miền Bắc vào miền Nam...
Từ tháng 9, các đợt tấn công của ta có phần giảm hiệu quả. Ở Mỹ,
cuộc tổng tuyển cử đi vào giai đoạn quyết liệt. Mỹ muốn có một thắng lợi


ngoại giao để tạo lợi thế cho Đảng Dân chủ... Mỹ tỏ ý sẵn sàng có bước
mới nếu phía Việt Nam chấp nhận để chính quyền Sài Gòn có mặt trong
giai đoạn sau. Thế chiến trường chưa đủ buộc Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném
bom miền Bắc. Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, ngoại giao vận dụng sách

lược đạt tới thỏa thuận Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, sau
đó sẽ họp Hội nghị bốn bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận
Dân tộc giải phóng, Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn. Ngày 31-10-1968,

Tổng thống Johnson tuyên bố dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc. Cả
thế giới cùng chia vui với nhân dân ta trước thắng lợi này.
Buộc Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom bắn phá miền Bắc là một
thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, là thắng lợi của sự phối hợp giữa đấu tranh
quân sự và đấu tranh ngoại giao. Ta đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của
Mỹ, tạo điều kiện củng cố hậu phương, tạo niềm tin mạnh mẽ cho nhân
dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Như vậy là từ đầu năm 1967, với thế tấn công mạnh, ngoại giao đã
phối hợp và phát huy thắng lợi quân sự, vận dụng đánh đàm... đã góp phần
hoàn thành việc kéo Mỹ xuống thang trên chiến trường miền Bắc, mở đầu
một giai đoạn đấu tranh mới.

2.3. Góp phần phá “Việt Nam hóa chiến tranh”- kéo Mỹ xuống
thang trên chiến trường chính nhằm tranh thủ mạnh mẽ sự ủng hộ quốc
tế
Với việc mở Hội nghị bốn bên, ta bước vào giai đoạn đấu tranh với
một tình hình khá phức tạp. Nixon thay Johnson với một chính sách hiếu
chiến, hung hăng. Mỹ bắt đầu chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, xây
dựng quân Sài Gòn mạnh để thay dần quân Mỹ, làm suy yếu và cô lập cách
mạng miền Nam, mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, hòa hoãn với
Liên Xô, Trung Quốc hòng cùng hai nước đồng minh của ta dàn xếp vấn đề

12


Việt Nam.
Về phía ta, sau các đợt tổng tấn công năm 1968, lực lượng của ta bị
suy yếu, địch phản kích ác liệt, vùng giải phóng bị thu hẹp, không còn địa
bàn đứng chân, các sư đoàn chủ lực miền phải dạt ra ngoài, lực lượng trên
chiến trường thay đổi, địch ưu thế hơn ta, từ thế bị động nay địch giành lại

thế chủ động...
Thấy rõ cuộc chiến chống Mỹ sẽ còn lâu dài, gian khó, từ đầu năm
1969, Bộ Chính trị đề ra cho ngoại giao và Đoàn đàm phán Pari một số
nhiệm vụ chủ yếu:
“1.Đẩy địch xuống thang một bước trên chiến trường chính, ép Hoa
Kỳ đơn phương rút một bộ phận quân Mỹ;
2. Khoét sâu mâu thuẫn, khó khăn nội bộ Mỹ, nội bộ ngụy, mâu thuẫn

Mỹ - ngụy;
3. Đề cao vị trí quốc tế của Mặt trận Dân tộc giải phóng...;
4. Tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ...,

tranh thủ sự giúp đỡ mạnh mẽ của phong trào nhân dân thế giới, bao gồm
cả nhân dân Mỹ, đấu tranh đòi Mỹ rút nhanh, rút hết và không điều kiện
quân ra khỏi miền Nam”5.
* Phá "Việt Nam hóa chiến tranh" - kéo Mỹ xuống thang trên chiến
trường chính
Ngoại giao coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Ta vận dụng

diễn đàn Hội nghị bốn bên lên án Mỹ kéo dài chiến tranh, rút quân
nhỏ giọt, lên án “Việt Nam hóa chiến tranh” là không chịu chấm dứt chiến
tranh. Chính phủ Việt Nam Dân Cộng hòa và Mặt trận giải phóng miền
nam Việt Nam đưa nhiều đề nghị hòa bình nhằm tác động vào nội bộ Mỹ,
tranh thủ dư luận, không cho Mỹ dùng việc rút dần quân Mỹ để chuyển
5

Nguyễn Ngọc Trường, Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 236.


sức ép về phía ta.
Mỹ rút dần quân nhưng có chỗ yếu là không thể định được thời hạn rút
hết quân. Đánh vào chỗ yếu đó, ngày 14-9-1970, đại diện Chính phủ Cách
mạng lâm thời đưa ra đề nghị hòa bình, đòi Mỹ định thời hạn rút hết quân
trước ngày 30-6-1970. Sau chiến thắng lớn Đường 9 - Nam Lào (tháng 31971), ngày 1-7-1971, ta đưa ra đề nghị hòa bình mạnh mẽ hơn: đòi Mỹ
định thời hạn rút hết quân Mỹ trước ngày 31-12-1971. Đề nghị nêu
rõ:”Thời hạn rút hết quân Mỹ cũng là thời hạn thả hết tù binh”. Số phi công
Mỹ bị bắt đều là con em các gia đình có thế lực ở Mỹ. Dư luận Mỹ rất quan
tâm đến việc thả tù binh. Bởi vậy, đề nghị ngày 1-7-1971 có sức tấn công
mạnh. Dư luận rộng rãi ở Mỹ và trên thế giới đều đòi phía Mỹ đáp ứng để
sớm có hòa bình.
Kết hợp với diễn đàn công khai, cuối năm 1970 và giữa năm 1971, ta
có những cuộc gặp riêng với phía Mỹ (Lê Đức Thọ, Xuân Thủy với

Kissinger) nhằm thăm dò thái độ xuống thang của Mỹ.
Trong ba năm đấu tranh quyết liệt, dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngoại
giao đã góp phần hỗ trợ chiến trường củng cố, bồi bổ lực lượng, ép Mỹ
đơn phương rút dần quân. Đến giữa năm 1971, Mỹ đơn phương rút
300.000 quân đến cuối năm 1971, Mỹ rút hết 400.000 quân. Một số nước
đồng minh của Mỹ cũng rút quân tham chiến khỏi miền Nam như
Ôxtrâylia, Niu Dilân, Philippin. Việc Mỹ đơn phương rút một số lớn quân
đội tạo một lợi thế lớn cho ta về so sánh lực lượng và thế trận. Yêu cầu
“kéo Mỹ xuống thang trên chiến trường chính” đã được thực hiện thành
công một bước quan trọng.
* Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế của các lực lượng
Từ đầu chiến tranh, Đảng ta đã đặt vấn đề tranh thủ sự ủng hộ quốc tế
thành một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Chiến tranh kéo dài, vấn đề tranh

14


thủ quốc tế càng trở nên bức thiết.
- Tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa
Trong lúc này, Liên Xô - Trung Quốc tiếp tục đối kháng gay

gắt. Hai nước mâu thuẫn nhau trong vấn đề Việt Nam và giúp đỡ Việt
Nam. Về phía Mỹ đang đẩy mạnh hòa hoãn với hai nước. Đảng ta kiên trì
tranh thủ cả hai nước, nắm chắc và vận dụng mẫu số chung của các nước
trong vấn đề Việt Nam là chống đế quốc Mỹ xâm lược, làm nghĩa vụ quốc
tế đối với một nước xã hội chủ nghĩa, góp phần vào an ninh chung của cả
cộng đồng và bảo vệ hòa bình. Chúng ta giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi
ích đại cục làm trọng, thực hiện chính sách nhất quán đoàn kết, tranh thủ tất
cả các nước, chống và làm thất bại âm mưu của Mỹ chia rẽ Việt Nam với
các nước xã hội chủ nghĩa.

- Đưa đoàn kết ba nước Đông Dương lên tầm cao mới.
Khối đoàn kết Đông Dương được hình thành từ đầu chiến tranh. Năm
1970, Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả ba nước Đông Dương. Tháng 6-1970,
Bộ Chính trị kịp thời chủ trương đưa đoàn kết Đông Dương lên tầm cao
mới. Việt Nam phối hợp với Trung Quốc giúp Hoàng thân Sihanouk lập
Mặt trận Dân tộc thống nhất và Chính phủ Vương quốc Đoàn kết dân tộc.
Quân tình nguyện Việt Nam công khai phối hợp với lực lượng kháng chiến
Campuchia và lực lượng kháng chiến Lào. Chiến trường Việt Nam - Lào -

Campuchia kết thành một dải. Vùng giải phóng ba nước nối liền, mở rộng

hình thành thế liên hoàn vững mạnh. Tuyên bố chung của Hội nghị Cấp
cao nhân dân Đông Dương tháng 4-1970 trở thành hiến chương chung

đoàn kết chiến đấu của ba nước cho đến thắng lợi.
- Phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ

Phong trào này hình thành từ sớm. Chính quyền Nixon kéo dài và
tăng cường chiến tranh càng thúc đẩy nhân dân thế giới đẩy mạnh đấu


tranh. Thắng lợi trên chiến trường cùng với hoạt động ngoại giao của

hai miền Nam - Bắc, phối hợp với đấu tranh trong đàm phán Pari đã
góp phần thúc đẩy phong trào mở rộng ra khắp các châu lục mà sôi động
nhất là ở các nước Tây Bắc Âu. Phong trào nhân dân thế giới trở thành một
lực lượng chính trị hùng hậu tác động mạnh mẽ đến nền chính trị các nước,
tạo nên một sức ép căng thẳng đối với chính quyền Mỹ. Chưa bao giờ trên
thế giới có một phong trào ủng hộ sự nghiệp một dân tộc lại có quy mô to
lớn, hình thức phong phú và tác động rất hiệu quả như phong trào nhân dân

thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ
- Thúc đẩy phong trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh
Phong trào nhân dân Mỹ phản đổi cuộc chiến tranh xâm lược Việt

Nam đã dấy lên mạnh mẽ từ thời Johnson, nhất là dịp Tết Mậu Thân.
Nixon kéo dài chiến tranh gây thêm tội ác. Các đề nghị hòa bình của phía
Việt Nam tại bàn đàm phán, các cuộc tiếp xúc rộng rãi giữa đại diện Việt
Nam với đại diện các tầng lớp nhân dân Mỹ, cộng thêm tác động của phong
trào nhân dân các nước vào nội bộ Mỹ... tất cả các nhân tố đó góp phần thổi
bùng phong trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh trên cả bề rộng và bề sâu:
các cuộc tự thiêu, những cuộc nổi dậy của sinh viên các trường đại học, các
đợt đấu tranh lớn, các cuộc tổng động viên lôi cuốn hàng triệu người, làm
tê liệt hàng trăm thành phố, trường học Mỹ. Phong trào sôi nổi quyết liệt
đến mức tất cả báo chí phe tả cũng như phe hữu đều đồng loạt thừa nhận.
"Đây là một phong trào chống chiến tranh không những chưa từng có ở
Mỹ mà cũng chưa từng có trong lịch sử nhân loại"6. Phong trào chống
chiến tranh của nhân dân Mỹ tác động mạnh mẽ đến ý chí và chính sách
của chính quyển Mỹ trên nhiều mặt. Số nghị sĩ chống chiến tranh ngày
càng đông. Các vấn đề ngân sách, lính quân dịch, tinh thần quân đội, quan
Bộ Ngoại giao, Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Pari về Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2004, tr 347.
6

16


hệ quân dân, an toàn xã hội cho đến vị thế quốc tế của nước Mỹ đều bị tác
động. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng phong trào nhân dân Mỹ. Người
coi mặt trận số 1 chống đế quốc Mỹ là Việt Nam, mặt trận số 2 ở ngay
nước Mỹ. Hai mặt trận giáp công thì Mỹ nhất định thất bại.

Nhìn tổng quát, hậu phương quốc tế của Việt Nam ngày càng vững
mạnh. Các nước xã hội chủ nghĩa hết lòng ủng hộ giúp đỡ; các nước bạn bè
và mặt trận nhân dân thế giới kể cả nhân dân Mỹ luôn luôn cổ vũ hậu thuẫn
cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Đó là một thắng lợi lớn của mặt trận ngoại
giao theo đường lối của Đảng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại.
2.4. Đàm phán ký kết Hiệp định Pari
Đảng chủ trương kiên trì phương châm "vừa đánh vừa đàm" để phục
vụ đấu tranh quân sự, chính trị và tranh thủ quốc tế. Suốt hơn bốn năm, ta
duy trì diễn đàn công khai để tấn công địch đồng thời vẫn nhận một số lần
"gặp riêng" vào cuốỉ năm 1970, giữa năm 1971 để thăm dò và giữ cầu nối.
Đến giữa năm 1972, sau cuộc Tổng tấn công Xuân - Hè, ta đã phá
"Việt Nam hóa chiến tranh" một bước quan trọng, thế và lực ta tốt lên;
Nixon lại cần có tiến bộ trong đàm phán để phục vụ bầu cử... Nắm được
những nhân tố có ý nghĩa thời cơ đó, Bộ Chính trị quyết định đưa đàm
phán đi vào giai đoạn kết thúc. Ta kiên trì nguyên tắc Mỹ rút hết, ta giữ
nguyên lực lượng chính trị vũ trang ở miền Nam. Đồng thời ta có yêu cầu
phải giải quyết cả hai mặt quân sự và chính trị. Mỹ chỉ muốn giải quyết các
vấn đề quân sự để ra khỏi chiến tranh. Lập trường hai bên xa nhau. Trước

tình hình đó, đầu tháng 10-1972, Bộ Chính trị quyết định điều chỉnh yêu
cầu đàm phán, tập trung giải quyết các vấn đề quân sự gồm ngừng bắn, thả
hết tù binh, Mỹ rút hết quân. Tạm gác các vấn đề chính trị nội bộ miền

Nam, sau này sẽ do hai bên miền Nam giải quyết. Trên tinh thần đó, ngày
8-10-1972, đoàn đàm phán của ta đưa ra đề nghị hòa bình có tính chất ngả


bài dưới hình thức một dự thảo Hiệp định. Đây là một quyết sách sắc bén,
có ý nghĩa quyết định bảo đảm yêu cầu “đánh cho Mỹ cút”, còn vấn đề


chính quyền Sài Gòn sẽ giải quyết ở bước sau. Nhờ vậy, đến ngày 2010-1972, Hiệp định đã được thỏa thuận.
Do Nguyễn Văn Thiệu ngáng đường, Mỹ phải đề nghị đàm phán bổ
sung. Đến giữa tháng 12-1972, đàm phán bế tắc, Mỹ dùng B52 đánh phá
Hà Nội, Hải Phòng nhằm gây sức ép. Ta đánh bại cuộc tập kích lớn này
của Mỹ. Ngày 8 -1-1973, đàm phán được nối lại. Ngày 22 tháng 1, Hiệp
định được hoàn tất. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari về Việt Nam được
chính thức ký kết.
Hiệp định Pari là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên ba mặt
trận chính trị, quân sự, ngoại giao. Với Hiệp định, Mỹ phải châm dứt chiến
tranh, rút khỏi Việt Nam và Đông Dương, chấm dứt dính líu quân sự. Mỹ
phải lùi về chiến lược, rút lui về quân sự khỏi Đông Dương, tránh một Việt
Nam thứ hai. Chính quyền Sài Gòn mất chỗ dựa, nhanh chóng bị suy yếu
và lún sâu vào khủng hoảng. Phía ta giữ nguyên lực lượng chính trị và vũ
trang, tạo thành một thế trận mới, một so sánh lực lượng mới rất có lợi cho
ta. Đại thắng mùa Xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam không tách
khỏi thắng lợi của Hiệp định Pari. Suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ Trung

ương Đảng đã mấy lần trù liệu "giành thắng lợi quyết định" vào các năm
1964, 1968, 1972..., cho đến Hiệp định Pari, tổng hòa thắng lợi quân sự,
chính trị, buộc Mỹ chấm dứt chiến tranh và rút hết quân. Có thể coi Hiệp
định Pari gắn với thắng lợi trên chiến trường là "thắng lợi quyết định mà

chúng ta giành được bằng sức mạnh tổng hợp".
3. Nguyên nhân thắng lợi và những bài học kinh nghiệm trong
đấu tranh ngoại giao thời kỳ chống Mỹ cứu nước
3.1. Nguyên nhân thắng lợi

18



Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngoại giao đã có những đóng góp
xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc. Có được thành công đó là do
những nguyên nhân cơ bản sau
Thứ nhất, Đảng đã xác định đúng vai trò của mặt trận ngoại giao

trong chiến tranh
Có thể nói ngoại giao là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược với
những chức năng phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị rất rõ ràng.
Nghị quyết Trung ương 13 (1-1967) khẳng định “... đấu tranh ngoại giao
không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong
tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch,
đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”7.
Thứ hai, trong quá trình chỉ đạo đấu tranh, dù ở tầm chiến lược
hay ở mức chiến thuật, Trung ương và Bộ Chính trị đều nắm chắc yêu cầu
của chiến trường kết hợp với tình hình quốc tế để chỉ đạo những chủ

trương, bước đi lớn cho đến các vấn đề cụ thể như một đề nghị hòa bình,
một điều khoản của Hiệp định. Nhờ vậy, ngoại giao và đàm phán ứng xử
được kịp thời, đúng hướng.
Thứ ba, trong kháng chiến chống Mỹ, ngành ngoại giao có bước
trưởng thành vượt bậc. Cán bộ ngoại giao được tăng cường, trình độ hiểu
biết thế giới, tầm nhìn chiến lược cho đến các kiến thức nghiệp vụ đều
được nâng cao. Bộ máy ngoại giao được mở rộng gồm bộ phận tham mưu
nghiệp vụ trong nước, bộ phận tham gia hai đoàn đàm phán và các cơ quan
đại diện ở nước ngoài. Các lực lượng này phối hợp với ngoại giao Đảng,
ngoại giao nhân dân, dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng phát
huy được sức mạnh và hiệu quả của mặt trận ngoại giao.
3.2. Những bài học kinh nghiệm
* Kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, chính trị, đàm

7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 28, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 174.


phán với chiến trường
Do đặc điểm của cuộc chiến tranh và thời đại, để chống Mỹ và thắng
Mỹ, Việt Nam phải chiến đấu trên ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại
giao. Nghị quyết Trung ương lần thứ 12 (12/1965) nêu rõ: “Trong quá
trình chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, ta phải giữ vững quyết tâm chiến
lược, đồng thời áp dụng sách lược đấu tranh chính trị và ngoại giao khôn
khéo để phối hợp với đấu tranh quân sự, chủ động tiến công địch, nêu cao
ngọn cờ độc lập và hòa bình nhằm tranh thủ rộng rãi dư luận thế giới và
cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ”8. “Ngoại giao là một mặt trận quan trọng có
ý nghĩa chiến lược”9. Trung ương thấy rõ đặc điểm của chiến tranh, đặt vấn
đề Việt Nam trong hoàn cảnh thế giới, ứng phó với cuộc chiến tranh theo
phương thức tối ưu ngang tầm phát triển của thời đại. Ngoại giao và đàm
phán làm nhiệm vụ thường xuyên tấn công địch, góp phần tranh thủ dư
luận, cô lập kẻ thù, hỗ trợ chiến trường. Mỗi bước phát triển của từng hoạt
động lớn trên chiến trường đều luôn có đàm phán phối hợp.
Để phát huy tốt vai trò của ngoại giao hỗ trợ chiến trường, từ đầu cuộc
chiến tranh, chúng ta đã tính đến phương thức “vừa đánh vừa đàm” ở tầm
cao và đạt nhiều hiệu quả.
Sự phối hợp giữa đàm phán với chiến tranh quân sự đưa đến thành
công rõ rệt nhất là góp phần giành thắng lợi từng bước buộc địch phải
xuống thang từng bước, làm thay đổi dần so sánh lực lượng và thế trận trên
chiến trường. Đầu năm 1967, ngoại giao đòi Mỹ chấm dứt ném bom miền
Bắc. Tổng tấn công tết Mậu Thân buộc Mỹ thực hiện đòi hỏi đó bằng bước
hạn chế ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra.
Mùa thu năm 1968, đàm phán phát huy thắng lợi quân sự và lợi dụng

khó khăn nội bộ Mỹ năm bầu cử, buộc Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn ném
8
9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 26, Nxb Chính trị Quốc gia,Hà Nội, 2003, tr 650.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 30, Nxb Chính trị Quốc gia,Hà Nội, 2003, tr 104.

20


bom miền Bắc. Từ năm 1969, bước vào Hội nghị bốn bên, chúng ta thực
hiện chỉ thị của Trung ương là: “Đẩy địch xuống thang một bước trên chiến
trường chính, ép Hoa Kỳ đơn phương rút một bộ phận quân Mỹ”10. Sức
mạnh tổng hợp của ta cùng phong trào phản chiến dâng cao ở Mỹ đã buộc
chính quyền Mỹ phải rút trên 400.000 quân Mỹ trong 3 năm tạo thuận lợi
quan trọng cho chiến trường. Mỹ rút quân hòng chuyển sức ép sang phía ta,
nhưng đàm phán đã góp phần tiếp tục tạo sức ép đòi Mỹ rút nhanh, rút hết.
Đàm phán hỗ trợ chiến tranh quân sự đánh bại chính sách “Việt Nam
hóa chiến tranh” của Nixon, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari rút hết quân
Mỹ. Đây là bước xuống thang lớn nhất của Mỹ, là thắng lợi cao nhất của ta
trong đàm phán phối hợp với chiến trường.
Thực tế lịch sử chứng minh: trong khi thực lực và thắng lợi trên chiến
trường đóng vai trò quyết định thì ngược lại, đấu tranh trên bàn đàm phán
cũng góp phần thắng lợi trên chiến trường và kịp thời phát huy thắng lợi
chiến trường để giành thắng lợi lớn hơn.
Chúng ta phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao- đàm phán với đấu tranh
quân sự là có sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương, lấy tình thế
và yêu cầu của chiến trường làm cơ sở, kết hợp xem xét tình hình và dư
luận quốc tế cùng tình hình nội bộ Mỹ để quyết định bước đi và biện pháp
ngoại giao tối ưu.

* Đàm phán để tranh thủ dư luận, tập hợp lực lượng quốc tế và tác
động vào nội bộ đối phương
Một thành công lớn của cuộc đàm phán là chúng ta quán triệt phương
châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, gắn cuộc đấu tranh
với Mỹ tại bàn đàm phán với phong trào rộng lớn của nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam.
Cuộc đấu tranh tại bàn đàm phán trước hết là cuộc đấu tranh để tranh
10

Nguyễn Ngọc Trường, Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 236.


thủ dư luận. Cuộc đàm phán kéo dài gần 5 năm nhưng thương lượng thực
chất chỉ trong khoảng 6 tháng. Phần lớn thời gian là đấu lý, đấu tranh phân
rõ phải trái, đúng sai. Chúng ta phải phát huy chính nghĩa dân tộc và thế
mạnh về pháp lý, xoáy vào chỗ yếu cơ bản của đối phương là yếu về chính
trị, đề cao lập trường chiến đấu của ta, đánh mạnh vào chính sách xâm lược
và tội ác chiến tranh của Mỹ để tranh thủ dư luận, gây khó khăn cho Mỹ
trên trường quốc tế và cả trong nước Mỹ.
Ta duy trì hai diễn đàn, tận dụng diễn đàn công khai với những bài
phát biểu chính thức, những bài chính luận mạnh mẽ nhằm chủ yếu vào dư
luận. Suốt cuộc đàm phán, chúng ta hết sức coi trọng công tác vận động
báo chí. Trong mấy năm đàm phán, hai đoàn Việt Nam tiến hành gần 500
cuộc họp báo, có những cuộc quan trọng do chính các trưởng đoàn Xuân
Thủy, Nguyễn Thị Bình trực tiếp chủ trì. Dư luận thế giới rất quan tâm đến
chiến tranh Việt Nam và cũng rất quan tâm tới tình hình đàm phán. Các
cuộc họp báo là cơ hội quý để tranh thủ giới báo chí, tranh thủ dư luận. Thế
mạnh đạo lý của nước ta được phát huy có hiệu quả thông qua hoạt động
báo chí. Địa bàn Pari là trung tâm báo chí và đầu mối thông tin quốc tế tạo
thuận lợi cho ta gắn đàm phán với đấu tranh của dư luận.

Để nêu cao thiện chí hòa bình, tranh thủ dư luận, từng thời kỳ, theo sự
chỉ đạo của Đảng, đoàn đàm phán đưa ra các đề nghị hòa bình. Mỗi đề nghị
hòa bình đều khẳng định các đòi hỏi chính đáng của nhân dân Việt Nam.
Đồng thời, chúng ta trình bày các giải pháp thỏa đáng để giải quyết vấn đề
như lập chính phủ liên hiệp, tổ chức tổng tuyển cử tự do…Có những đề
nghị ta nhằm trực tiếp vào nội bộ nước Mỹ, như giữa năm 1971, khi phong
trào đấu tranh của nhân dân nước Mỹ lên cao, đòi chính quyền rút quân và
đưa tù binh, phi công Mỹ bị bắt về nước, ta đưa ra đề nghị: chính quyền
Mỹ phải định thời hạn rút hết quân từ trước ngày 31/12/1971 và khẳng định
“thời hạn rút hết quân cũng là thời hạn thả hết tù binh”. Đề nghị này tác

22


động mạnh mẽ đến nội bộ nước Mỹ và làm tăng sức ép đòi Oasinhtơn đáp
ứng đề nghị của phía Việt Nam. Việc kết hợp đàm phán với đấu tranh dư
luận tiến bộ trên toàn thế giới đã góp phần tranh thủ sự đồng tình rộng rãi
của dư luận, của lương tri loài người. Phối hợp với thắng lợi trên chiến
trường, đấu tranh tại bàn đàm phán đã góp phần mở rộng và tăng cường
mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam.
* Kiên trì mục tiêu đấu tranh
Trong suốt cuộc kháng chiến, chúng ta kiên trì quan điểm độc lập tự
chủ của Đảng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam diễn ra trong
hoàn cảnh chiến tranh lạnh thế giới, nó liên quan đến nhiều nước, trước hết
là ba nước lớn Mỹ - Xô - Trung đều dính líu trực tiếp. Nước Mỹ đang thời
hưng thịnh quyết "không để mất" Nam Việt Nam. Liên Xô, Trung Quốc
hết lòng giúp Việt Nam nhưng cũng tìm cách tác động vì lợi ích chiến lược
của mình. Liên Xô, Trung Quốc mâu thuẫn nhau ngay trong vấn đề Việt
Nam và giúp Việt Nam. Đó là những khó khăn lớn cho ta.
Quan điểm của ta là chân thành đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc,

quý trọng sự giúp đỡ của bạn, coi trọng vị trí của bạn trong vấn đề Việt
Nam. Ta thông báo cho bạn tình hình và chủ trương đánh đàm của ta. Ngày
8-10-1972 khi ta trao cho Mỹ đề nghị hòa bình quyết định Dự thảo Hiệp
định thì đồng thời ta cũng trao văn bản đó cho lãnh đạo đảng hai nước đồng
minh. Chúng ta ứng xử với hai nước khôn khéo, cân bằng, không đứng về
bên này chống bên kia, không bên nặng, bên nhẹ.
Khó khăn nhất là khi Việt Nam đi vào nói chuyện với Mỹ; Liên Xô thúc
đẩy để sớm có thỏa hiệp, tích cực làm trung gian. Trái lại, Trung Quốc phản
đối, cho rằng “miền Bắc bỏ rơi miền Nam”, “mắc mưu xét lại”.... Ta kiên
trì trao đổi thuyết phục, cuối cùng, bằng thực tế, cả hai nước đều đồng tình

với bước đi và bài bản đánh đàm của lãnh đạo Việt Nam. Việt Nam vượt
qua mọi sức ép, đoàn kết được với cả Liên Xô, Trung Quốc, làm thất bại


âm mưu của Mỹ chia rẽ Việt Nam với các đồng minh. Ta tự chủ được vững
vàng là do rút được kinh nghiệm thời chống Pháp và thời kỳ đầu sau Hiệp
định Giơnevơ. Quan trọng hơn cả là do thực lực ta khác trước, bản lĩnh, tư
duy cũng vững vàng hơn trước.

KẾT LUẬN
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, đấu
tranh trên mặt trận ngoại giao đã góp phần quan trọng, cùng với những
thắng lợi trên mặt trận đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị làm nên
thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến
Trong suốt cuộc kháng chiến, Đảng ta luôn nắm chắc tình hình, dự
báo đúng âm mưu, thủ đoạn của địch và đánh giá đúng so sánh lực lượng
để đề ra đường lối đấu tranh ngoại giao đúng đắn; nhằm tố cáo tội ác dã
man của bọn đế quốc Mỹ và tay sai, vạch trần thủ đoạn hòa bình bịp bợm
của chúng, đồng thời làm sáng tỏ lập trường chính nghĩa và thế tất thắng

của ta, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quý báu của nhân dân các

24


nước xã hội chủ nghĩa và các lực lượng yêu chuộng hòa bình và công lý
trên thế giới, lập một mặt trận thống nhất của nhân dân thế giới chống đế
quốc Mỹ xâm lược.
Trong thời đại ngày nay, tình hình quốc tế chưa đựng những diễn biến
phức tạp, khó lường. Các nước vừa hợp tác, vừa đấu tranh, do vậy việc vận
dụng những bài học ngoại giao một cách khôn khéo, mềm dẻo, sáng tạo là
rất cần thiết. Có như vậy mới phát huy hết vai trò của hoạt động ngoại giao,
góp phần vào việc phát triển toàn diện đất nước.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Ngoại giao, Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Pari về Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 26, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 28, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 30, Nxb Chính trị


×