ÁP DỤNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ LÀM QUEN VỚI KHÁM PHÁ KHOA HỌC
TRONG TRƯỜNG MẦM NON.
I. Lời giới thiệu
“Xung quanh ta có bao điều kì lạ,
mà sao ta biết chẳng bao nhiêu”.
Đó là một câu hát quen thuộc với mọi người. Câu hát đã nói lên thế giới xung
quanh ta rất bao la rộng lớn. Nó bao gồm tất cả sự vật, hiện tượng, cây cỏ, con
vật, các vấn đề về tự nhiên và xã hội. Chúng ta không thể đi đến tất cả mọi nơi,
không thể tận mắt nhìn thấy hết thảy các sự vật, hiện tượng nhưng con người
luôn có khát vọng muốn được khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh ta,
đó chính là môi trường sống của con người. Nó lại là một kho tàng kiến thức
vô tận ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của con người, cho nên con người
luôn có nhu cầu khám phá thế giới xung quanh thông qua các hoạt động để có
thể có những hiểu biết về thế giới, cải tạo thế giới nhằm phục vụ chính cuộc
sống của con người. Nhu cầu tìm hiểu, khám phá về thế giới xung quanh
của con người đã xuất hiện ngay từ khi còn nhỏ. Từ khi trẻ ra đời đã muốn
ngắm nhìn xung quanh như khi chỉ mới 2 tháng tuổi trẻ đã hứng thú đưa mắt
nhìn theo những quả bóng bay xanh – đỏ treo trước mắt và tò mò đưa tay với,
….. Càng lớn, nhu cầu đó càng tăng lên bằng việc bắt chước giọng điệu người
lớn (thích mặc quần áo, đeo dép của mẹ…), làm những công việc của người lớn
hay với trẻ 5-6 tuổi kinh nghiệm sống đã có trẻ liên tục hỏi những câu hỏi về thế
giới xung quanh như: “Tại sao lại có trời ? gió ở đâu đến? con sinh ra như thế
nào?....” chính là lúc nhu cầu khám phá thế giới xung quanh của trẻ càng cao.
Nhưng vì trẻ nhỏ chưa có vốn sống, vốn kinh nghiệm, sự trải nghiệm còn
ít, trẻ chưa tự khám phá về thế giới xung quanh nên người lớn phải giúp đỡ
trẻ, phải tổ chức, hướng dẫn trẻ tham gia vào các hoạt động nhằm cho trẻ làm
quen, khám phá về môi trường xung quanh. Khi trẻ được làm quen với thế
giới xung quanh sẽ giúp trẻ tích lũy được kiến thức, kĩ năng về tự nhiên và
xã hội, giúp trẻ được phát triển về các mặt: Đức – Trí - Thể - Mĩ - Lao động.
1
Thông qua việc tổ chức cho trẻ được hoạt động khám phá, trẻ sẽ được phát triển
toàn diện các mặt, nhân cách được hình thành và phát triển. Đây là mục đích
hàng đầu của giáo dục nói chung và Giáo dục mầm non nói riêng. Bởi vậy, việc
trẻ được khám phá, được làm quen với môi trường xung quanh là một việc làm
thiết thực, rất cần thiết và cần đưa đến có hệ thống từ độ tuổi nhà trẻ tới các lứa
tuổi tiếp theo. Dựa trên đặc điểm tâm lí, nhận thức của trẻ mẫu giáo nói chung
và trẻ Mẫu giáo lớn nói riêng, các nhà tâm lí học, giáo dục học đã chỉ ra rằng,
quá trình tìm hiểu môi trường xung quanh được tổ chức mang tính chất khám
phá, trải nghiệm theo phương thức “học mà chơi, chơi mà học”, là phù hợp hơn
cả đối với trẻ.
Vì tất cả những những lý do này, tôi luôn mong muốn mình phải làm thế nào để
giúp trẻ học thật tốt bộ môn khám phá khoa học, tôi đã không ngừng suy nghĩ và
sáng tạo, để tìm ra những cách thức, phương pháp giảng dạy và tạo ra môi
trường học tập tốt nhất cho trẻ. Bằng tất cả sự nỗ lực, cố gắng đó, tôi cảm thấy
một phần nào ý nguyện của mình đã thực hiện được.
Tôi rất quan tâm và trăn trở về việc làm sao để có những phương pháp hay và
hữu ích nhất giúp trẻ thỏa mãn được nhu cầu khám phá và tìm hiểu thế giới xung
quanh, mai này biết đâu đó những “Mầm non” ấy sẽ tiếp tục là những nhà khoa
học khám phá ra những điều kì vĩ hơn nữa. Chính vì thế tôi không những áp
dụng những phương pháp vốn có trong trường, lớp, sách vở mà thường xuyên
học hỏi từ đồng nghiệp, sách báo và đặc biệt là tôi rất quan tâm tới những sáng
kiến kinh nghiệm về khám phá khoa học của những giáo viên trong huyện và
tỉnh, tôi cũng nghiên cứu và áp dụng vào các tiết dạy của mình. Khi áp dụng
sáng kiến vào trẻ tôi thật sự cảm nhận rõ vai trò riêng của từng sáng kiến. Mỗi
sáng kiến lại như phần nào góp phần thêm vào sự hoàn thiện cho buổi học. Với
mong muốn được góp phần nào vào sự nghiệp giáo dục đặc biệt lĩnh vực khám
phá khoa học nên bản thân tôi đã đề cập tới đề tài “Một số phương pháp cho trẻ
làm quen với khám phá khoa học trong trường mầm non”.
2
II. Tên sáng kiến:
“Một số phương pháp cho trẻ làm quen với khám phá khoa học trong trường
mầm non”
V. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Khám phá khoa học qua các giờ học các trò chơi thực nghiệm đã được khảo sát
trong các hoạt động chơi của trẻ tại trường mầm non nhạo sơntrên lứa tuổi 4 – 5.
VI. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Sáng kiến được áp dụng lần đầu tiên vào tháng 10 năm 2016 tại lớp 4 tuổi
A2 qua tiết dạy khám phá khoa học đề tài thí nghiệm “Vật chìm vật nổi”.
VII. Mô tả bản chất của sáng kiến:
1) Phương pháp 1: Sử dụng các trò chơi thực nghiệm :
Trong khám phá khoa học việc sử dụng trò chơi, thí nghiệm đơn giản luôn tạo
cho trẻ sự hứng thú, kích thích trẻ tích cực hoạt động, phát triển ở trẻ tính
tò mò, ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi, phát triển óc quan sát, phán đoán
và các năng lực hoạt động trí tuệ,....chính vì vậy mà phương pháp sử dụng các
trò chơi thực nghiệm luôn đạt kết quả cao trong hoạt động khám phá khoa học.
Ví dụ 1: Thí nghiệm về sự nảy mầm của hạt
* Mục tiêu:
Trẻ biết được cây cũng cần thức ăn ,ánh sáng và nước mới sinh trưởng
được.
* Chuẩn bị:
Một vài hạt đậu tương, đậu đen…2 Khay nhỏ, một ít đất .bình nước tưới.
3
*Tiến hành:
- Ngâm hạt vào trong nước ấm từ 1 đến 2 tiếng sau đó lấy ra đặt hạt vào khay có
sẵn đất. Đặt 1 khay nơi có ánh sáng mặt trời và cho trẻ tưới nước hàng ngày.
Khay còn lại đặt trong bóng tối và không tưới nước. Quan sát sau 3 đến 4 ngày
cây trong khay được tưới nước hàng ngày sẽ nảy mầm và lớn dần còn khay
không tưới sẽ không nảy mầm. Lúc này hãy cho trẻ giải thích hiện tượng nảy
mầm và không nảy mầm trên .
- Vì trẻ mẫu giáo lớn nên tôi cho trẻ tự làm và nêu kết quả thực nghiệm của bản
thân .
* Giải thích và kết luận:
Cây nảy mầm được nhờ được gieo xuống đất, có ánh sáng và tưới nước đầy đủ
sáng có thức ăn trong hạt và nước uống trong đất và ngược lại cây mà không
được chăm sóc đầy đủ sẽ không nảy mầm được.
Ví dụ 2: Trò chơi với nước, không khí và ánh sáng : “Bóng cây thay đổi”
* Mục tiêu:
Cho trẻ biết vào mỗi thời điểm khác nhau trong một ngày: sáng, trưa, tối thì
các vật trên mặt đất được chiếu vào sẽ tạo ra bóng một cách khác nhau.
* Chuẩn bị::
- Phấn, thước đo, một số cây trên sân.
-Đố trẻ bóng người, nhà ở, bóng cây dưới ánh sáng mặt trời trong ngày có thay
đổi không? Theo trẻ thay đổi như thế nào?.
- Cùng trẻ đo bóng cây, một người, nhà ở hoặc của một cây dưới ánh sáng mặt
trời ở 3 thời điểm trong ngày (sáng- trưa- tối).
4
- Cho trẻ nhận xét vị trí của bóng cây thay đổi như thế nào? tìm hiểu vì sao bóng
cây thay đổi theo các thời điểm trong ngày như vậy. so sánh khi nào bóng ngắn,
dài nhất.
Cho trẻ trực tiếp tham gia quan sát và đo bóng cây sau đó tự nêu ra các yêu cầu
của bài thí nghiệm.
* Giải thích và kết luận:
- Ánh sáng mặt trời chiếu vào phần vướng cây xanh nên không đi qua được nên
tạo ra bóng trên mặt đất. Ngoài ra vào các thời điểm khác nhau thì sẽ có các
bóng xuất hiện trên mặt đất là khác nhau do bóng mặt trời di chuyển.
Ví dụ 3:Namchâm hút gì?
* Mục tiêu:
Cho trẻ biết nam châm có thể hút các vật làm từ kim loại, còn những vật
không làm bằng chất kim loại thì nam châm không hút.
* Chuẩn bị:
Cục nam châm, cái đinh, cái kéo, thanh bằng nhôm, cái thước nhựa, cục
gôm, quả bóng bay và một số đồ dùng khác trong lớp.
*Tiến hành:
- Cho trẻ quan sát những đồ dùng đã chuẩn bị gọi tên chúng và nêu chất liệu của
từng đồ dùng.
- Mời 6 – 7 trẻ lên lấy 1 trong số những vật mà cô chuẩn bị hỏi trẻ:
+ Vật đó có tên là gì? làm bằng gì?
5
+ Cho trẻ đưa vật đó lại gần cục nam châm và trẻ lời xem chúng có hút nhau
không và vì sao?
- Lần lượt cô cho các trẻ được thí nghiệm với các vật xung quanh lớp và đưa ra
nhận xét, nam châm hút được những vật làm bằng gì ?
* Giải thích và kết luận:
Nam châm chỉ hút được các vật làm bằng kim loại ngoài ra không hút
được các vật làm từ các chất khác.
Ví dụ 4: Thí nghiệm về vật nổi vật chìm dưới nước.
* Chuẩn bị:
+ Đồ dùng: Các mẩu gỗ, bi sắt đường kính 3-4cm, thìa inox, cục nam châm, một
miếng xốp, giấy, chậu đựng nước sạch.
+Đồ chơi: Thuyền giấy, lá mít trẻ đã gấp, bóng nhựa, đồ chơi nhựa.
-Tiến hành: Cho trẻ tự lấy đồ chơi đã chuẩn bị sẵn thả vào chậu nước, và yêu
cầu trẻ nhận xét vật nào chìm? vật nào nổi tại sao ?
Kết quả: Qua thí nghiệm này giúp trẻ hiểu những đồ vật làm từ những nguyên
liệu nặng sắt, thép, nhôm… như bi sắt , bát, thìa inox, …. những đồ vật làm từ
nguyên liệu nhẹ: gỗ, xốp, giấy, nhựa,….thì nổi trên nước .
Qua việc tạo các điều kiện cho trẻ tiếp xúc các sự vật hiện tượng và môi trường
xung quanh bằng các thí nghiệm, thử nghiệm tôi thấy nhận thức của trẻ được
mở rộng, khả năng quan sát, tri giác của trẻ phát triển tốt đa số trẻ thể hiện được
tính tích cực chủ động khi quan sát đối tượng trong quá trình quan sát trẻ tỏ ra
nhanh nhẹn linh hoạt và phát triển nhiều vốn kinh nghiệm, vốn từ của trẻ trở
nên phong phú hơn khả năng diễn đạt tổt hơn.
6
2) Phương pháp 2: Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan:
Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học chiếm một vị trí rất quan trọng
trong việc giúp trẻ tiếp thu những kiến thức. Bởi lẽ trực quan trong dạy học huy
động được tất cả các giác quan tham gia vào quá trình nhận thức của trẻ.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đồ dùng trực quan đối với tiết khám phá
khoa học cho nênngay từ đầu năm học tôi mạnh dạn đề xuất với ban giám hiệu
nhà trường trang bị thêm cho các lớp các thiết bị đồ dùng dạy học như ti vi,
bảng, tranh ảnh lô tô, và một số các mô hình mô phỏng để phục vụ dạy học.
Khi lập kế hoạch cho mỗi tiết học tôi đã rất chú ý tới cách thức truyền tải
kiến thức với trẻ đặc biệt đồ dùng trực quan vừa phải mang tính thẩm mỹ, tính
chính xác và sự sáng tạo từ đó kich thích được sự hứng thú, ham hiểu biết ở trẻ
Phương tiện trực quan trong các hoạt động dạy và học rất đa dạng như: Đồ
dùng trực quan bằng vật thật: cốc,chén, con cá, các loại rau-quả, …Các loại mô
hình: Mô hình máy bay, Tàu hỏa...Các loại tranh ảnh, lô tô.
Tôi luôn lưu ý tới việc sử dụng đồ đùng trực quan phải phù hợp với nội dung
từng tiết dạy ngay từ khi lập kế hoạch cho mỗi tiết khám phá khoa học tôi luôn
suy nghĩ và lựa chọn những đồ dùng trực quan sao cho trẻ dễ hiểu và thích thú
đối với những tiết chủ đề về môi trường xã hội thì tôi lựa chọn tranh, ảnh để dạy
trẻ. Đối với những đồ dùng trực quan là đồ chơi tôi đưa vào trong các tiết dạy
như: Đồ chơi của bé, phương tiện giao thông, con vật…Qua những đồ chơi được
làm khéo léo giống với thực tế sẽ giúp trẻ chú ý quan sát đồ chơi, chơi với đồ
chơi để khám phá những kiến thức về đối tượng.
Vì trẻ mẫu giáo có sự tưởng tượng chưa phong phú, kinh nghiệm sống của trẻ
còn ít nên tôi thường xuyên tận dụng các vật thật để dạy trẻ. Khi cho trẻ được
tiếp xúc với vật thật thì tôi nhận thấy trẻ hứng thú và nắm bắt kiến thức một cách
rõ ràng nhất.
7
Ví dụ: Khi tìm hiểu về quả cam tôi dùng quả cam thật cho trẻ quan sát và trải
nghiệm.
- Đây là quả gì? nhìn xem quả cam có hình gì? Màu gì?
- Hãy sờ xem vỏ của chúng có đặc điểm gì? muốn biết cam có mùi gì hãy đưa
lên mũi ngửi xem nào…
Cuối cùng tôi cho trẻ tự lấy dao bổ cam và nếm thử vị của cam sau đó hỏi trẻ
về vị của cam (có trẻ nói chua, trẻ nói ngọt) từ đó tôi giải thích “Qủa cam chưa
chín có vị chua, còn quả cam chín có vị ngọt” khi được trải nghiệm thực tế thì
trẻ đã nắm vững những kiến thức tôi muốn truyền đạt. Qua bài về quả cam tôi
không những đã cho trẻ tìm hiểu một cách tổng quát về quả cam mà còn dạy trẻ
kĩ năng bổ cam và vứt rác đúng nơi.
Việc sử dụng màn hình, máy chiếu cũng là một hình thức sử dụng trực quan vì
vậy tôi thường xuyên sử dụng tạo điều kiện để cho trẻ nắm kiến thức.Thông qua
những cảnh quay, đoạn băng được đưa lên màn hình sẽ tạo ra sự thay đổi, sự
mới lạ cho trẻ vì tất cả những sự vật hiện tượng đều có thể chụp lại, quay lại để
đưa lên màn hình cơ hội để trẻ khám phá những sự vật- hiện tượng, con vật…
mà trẻ khó có cơ hội tiếp xúc như: tìm hiểu động vật sống trong rừng, động vật
sống dưới biển…
Việc sử dụng đồ dùng trực quan phải được sử dụng một cách linh hoạt và
sáng tạo. Trong tiết dạy tôi không sử dụng một loại đồ dùng từ đầu đến cuối
cũng không sử dụng quá nhiều loại ôm đồm để trẻ khó hiều mà tôi phối hợp các
loại đồ dùng trực quan sao cho phù hợp, linh hoạt từng phần sao cho trẻ không
nhàm chán.
Ví dụ: Trong tiết dạy cho trẻ làm quen với một số loại rau tôi có thể sử dụng
một số loại đồ dùng như: Tranh lô tô, vật thật, đồ chơi, màn hình, mô hình kết
hợp với nhau sao cho linh hoạt và phù hợp như phần đầu giới thiệu bài cho trẻ đi
thăm mô hình vườn rau với nhiều loại rau, phần cung cấp kiến thức cho trẻ quan
8
sát các loại rau thật, phần mở rộng cho trẻ xem trên màn hình một số loại rau
khác và các món ăn từ rau, phần luyện tập cho trẻ đi chơi trò chơi qua những đồ
rau nhựa, tranh lô tô.
Việc kết hợp sử dụng linh hoạt các loại đồ dùng trực quan trong tiết học tôi thấy
trẻ hứng thú hơn mỗi khi học khám phá khoa học, kiến thức tôi truyền đạt vì thế
mà dễ dàng và trẻ ghi nhớ hơn.
3) Phương pháp 3: Phương pháp lồng luồn khám phá khoa học vào các
tiết học.
Trong dạy học không có môn nào học nào, không có phương pháp nào là duy
nhất , bao quát các môn học, các phương pháp khác, mà để đạt được hiệu quả
giáo dục cần phải phối hợp lồng luôn giữa các lĩnh vực, các phương pháp mới có
được hiệu quả tốt nhất với người học. Hiểu được vấn đề ấy trong các tiết dạy tôi
thường xuyên lồng luồn khám phá khoa học vào trong các môn học khác như
toán, âm nhạc, văn học, …
Ví dụ: trong hoạt động âm nhạc trẻ học bài hát “Cá vàng bơi”
Tôi cho trẻ quan sát bức tranh (chậu cá thật) về những chú cá vàng đáng yêu sau
đó hỏi trẻ:
+ Đây là cá gì? Nêu các đặc điểm của chúng?
+ Chúng thường được nuôi ở đâu? Cá vàng ăn gì?
+ Vai trò của cá vàng để làm gì? Nêu cảm nhận của các con về những chú cá
này?
Sau khi trò chuyện, tìm hiểu về những chú cá vàng xong tôi giới thiệu với trẻ
bài hát nói về những chú cá đáng yêu này. Bài hát “Cá vàng bơi”.
9
Qua tiết học âm nhạc tôi đã giúp trẻ có thêm những hiểu biết về đặc điểm và
vai trò của những con cá vàng từ đó trẻ cảm thấy yêu thích bài hát hơn, hoạt
động âm nhạc trở nên hứng thú hơn.
Và những tiết khám phá khoa học thường được quan niệm khô khan thì tôi luôn
khéo léo lồng ghép thích hợp các môn khác như : Toán , âm nnhạc , tạo hình
,văn học… để trẻ thêm hứng thú, ghi nhớ tốt hơn, hiểu vấn đề sâu và rộng hơn.
Ví dụ 1 : Trong tiết dạy làm quen với động vật sống dưới nước.
Tôi cho trẻ thi “ đố vui ” hai đội ra câu đố cho nhau và giải câu đố đội bạn.
“ Nhà hình soắn nằm ở dước ao
Chỉ có một cửa ra vào mà thôi
Mang nhà đi khắp mọi nơi
Không đi đóng cửa nghỉ ngơi một mình .”
( con ốc )
Con gì đầu bẹp .
Hai ngạnh hai bên
Râu ngắn vểnh lên
Mình trơn bóng nhỡn
( con cá trê)
Như vậy trẻ được câu đố rất vui vẻ hào hứng, kích thích tư duy, làm phong phú
vốn từ và ngôn ngữ mạch lạc... Trong tiết dạy tôi cũng lồng ghép toán sơ đẳng,
làm quen với con cua, cô và trẻ cùng đếm số chân cua sau đó đọc câu đồng dao,
10
bài hát về con cua, sự kết hợp ấy giúp tiết học không nhàm chán, khô khan mà
còn giúp trẻ tìm hiểu được một cách tổng quát nhất về con cua .
4) Phương pháp 4: Thay đổi cho trẻ khám phá khoa học dưới nhiều hình
thức khác nhau.
Với đặc điểm tâm lý “Học mà chơi, chơi mà học”. trẻ tri giác dưới đồ vật, sự
vật qua các hình ảnh, vật thật và nếu tổ chức cho trẻ tri giác quan sát các sự vật
dưới nhiều hình thức khác nhau thì trẻ hứng thú học tập và tiếp thu bài học tốt
hơn, bằng kinh nghiệm giảng dạy của bản thân tôi thấy nếu một tiết học đơn
thuần cô chỉ cung cấp kiến thức cô đưa tranh ra cho trẻ quan sát, đàm thoại và
cung cấp kiến thức cho trẻ thì tiết học trẻ học buồn chán, trẻ không tập trung,
nhưng cũng tiết học đó mà thay đổi hình thức dạy dưới các dạng trò chơi hay
các hình thức thi đua trẻ học tốt hơn nhất là môn khám phá khoa học thì yêu cầu
cần phải chuẩn bị tốt các điều kiện như đồ dùng dạy học và các không gian để
trẻ được thực hành và trải nghiệm nhiều. Xuất phát từ tình hình trên tôi luôn
luôn đặt ra cho mình là phải luôn đổi mới các hình thức tổ chức và các thủ
thuật khác nhau khi cho trẻ làm quen với khám phá khoa học. Tuỳ vào mỗi yêu
cầu bài dạy tôi tổ chức các dạy tiết học dưới các hình thức khác nhau. Như với
bài cho trẻ quan sát các con vật, các cây, các loại hoa quả thì tôi có thể chuẩn bị
bằng vật thật hoặc tranh ảnh và tổ chức dưới các dạng trò chơi để trẻ vừa chơi
vừa quan sát tri giác các sự vật hiện tượng một cách tôt nhất. Hay tổ chức cho
trẻ làm các thí nghiệm thì tôi chia trẻ về các nhóm để trẻ cùng nhau làm và khi
tiến hành làm thí nghiệm tôi cho trẻ dự đoán hiện tượng gì sẽ sảy ra trước, trong
và sau khi làm thí nghiệm. Như thế sẽ phát huy được tính mò, chủ động, khả
năng tích cực hoạt động và lòng ham hiểu biết của trẻ.
Ví dụ: Cho trẻ làm thí nghiệm “ không khí quanh chúng ta” tổ chức dưới dạng
trò chơi.
Cho trẻ bịt mũi, hỏi trẻ có thở được không?
11
Vậy làm thế nào để thở được ?
Cho trẻ đứng vào chỗ cô quy định, hỏi trẻ: con có thở được không?
Cho trẻ đứng góc khác cùng với vài bạn nữa, hỏi trẻ: con có thở được không?
Cho trẻ đứng tự do trong lớp, hỏi trẻ:con có thở được không?
Lúc này tôi mới đặt vấn đề: chúng ta thở được là nhờ là nhờ có không khí, vậy
không khí có ở đâu? ( không khí có ở xung quanh chúng ta)
Tôi kết luận: Như vậy không khí có ở quanh chúng ta.
Tôi tiếp tục đặt tình hình huống: thế không khí có bắt được không ( Có trẻ nói
được, có trẻ nói không)
Tôi hỏi tiếp: Làm thế nào để bắt được không khí ( lúc này các trẻ đưa ra rất
nhiều ý kiến: lấy ly, lấy chai, lấy hộp, để bắt không khí )
Tôi lấy cho mỗi trẻ một cái túi ni lon và yêu cầu “ Hãy lấy và bắt không khí vào
túi ” mỗi trẻ có thể thực hiện một cách khác nhau: nắm bắt không khí xung
quanh bỏ vào túi, vời không khí cho vào túi … nhưng các trẻ vẫn chưa thấy gì
trong túi. Tôi tiếp tục gợi ý “ Các con hãy làm cách nào để túi phồng lên đi ” trẻ
phát hiện là mình phải thổi hơi vào túi và muốn giữ hơi trong túi thì phải xoắn
hay cột túi lại ) .
Sau đó tôi giải thích: Không khí đang ở trong túi các con đấy!..
Tiếp theo tôi cho các trẻ chơi với túi không khí. lấy kéo cắt túi để thấy không
khí xì ra, lấy kim nhọn đâm nhẹ sẽ thấy hơi thoát ra đó là không khí.
Tiết học sôi động và vui vẻ hẳn lên giúp trẻ hiểu biết thêm là: không khí luôn
luôn ở bên cạnh con người, con người phải có không khí thì mới sống, mới thở
được.
12
Qua đó tôi thấy nếu cho trẻ tự khám phá trẻ sẽ rất hứng thú, kiến thức đến
với trẻ nhẹ nhàng mà khắc sâu phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, để trẻ
tự đừng đánh mất cái tôi của trẻ.
Trong các tiết học khám phá khoa học tôi luôn thay đổi các thủ thuật để
đưa các đối tượng ra cho trẻ quan sát và mối bài tuỳ thuộc vào đối tượng cho trẻ
làm quen, tôi tìm cách vào bài khác nhau cũng có bài cho trẻ quan sát tri giác
bằng vật thật, cũng có bài dùng tranh ảnh, băng hình, hoặc dùng câu đố để đưa
ra giúp trẻ không bị nhàm chán lại dễ tiếp thu để trẻ ghi nhớ và chính xác hoá
các biểu tượng của mình.
5) Phương pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy khám
phá khoa học:
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống mạng
cùng với những tiện ích, ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách mạng
trong mọi người, mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Chính vì vậy ngay từ cấp
học mầm non trẻ đã được làm quen với công nghệ thông tin như một phần của
hoạt động giáo dục không thể thiếu(chuyên đề công nghệ thông tin). Không chỉ
với người lớn mà đối với trẻ em mầm non thì công nghệ thông tin luôn mang lại
nhiều điều kì thú và hữu ích trong việc tiếp thu kinh nghiệm sống.
Hơn nữa trong việc giáo dục, truyền đạt kiết thức cho trẻ không phải sự vật hiện
tượng nào cũng có sẵn để trẻ được trực tiếp tri giác, nhất là với hoạt động khám
phá khoa học như tìm hiểu động vật sống dưới biển, quan sát máy bay, các hiện
tượng tự nhiên, …. , hay chúng ta không thể có thời gian để chứng kiến những
hiện tượng trong tự nhiên xảy ra như tìm hiểu về cách sinh sản của một số loại
vật nuôi, quá trình phát triển của cây…chính vì vậy để trẻ được tìm hiểu thế giới
xung quanh một cách bao quát nhất thì ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết
học là một việc cần thiết.
13
Được ưu thế là một giáo viên trẻ và có khả năng sử dụng công nghệ thông tin
khá thành thạo tôi rất quan tâm và thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin
như các bài powerpoint, Elearning vào các tiết học. Tôi nhận thấy khi sử dụng
công nghệ thông tin vào các tiết khám phá khoa học trẻ tỏ ra rất hào hứng, thích
thú và cũng giúp trẻ nhận biết sự vật- hiện tượng một cách rõ ràng hơn.
Ví dụ 1: Tìm hiểu về “Mưa có từ đâu?”
Tôi sử dụng bài powerpoint trình chiếu các quá trình tạo thành mưa (ánh nắng
chiếu xuống mặt nước – Nước bốc hơi- Tạo thành mây - Gió thổi mây thành
đám nặng rồi rơi xuống thành mưa)
Sau khi tìm hiểu xong về quá trình tạo thành mưa tôi cho trẻ xem phim hoạt
hình “Đám mây đen xấu xí” vừa là phim vừa đám ứng việc củng cố kiến thức về
quá trình tạo thành mưa cho trẻ.
Thông qua việc trình chiếu và xem phim hoạt hình trẻ vừa như được giải trí và
cũng là khi lượng kiến thức cần cung cấp cho trẻ đảm bảo trọn vẹn với hình thức
này.
Việc triển khai chuyên đề công nghệ thông tin trong trường mầm non Nhạo Sơn
được Ban giám hiệu và giáo viên rất quan tâm đặc biệt là đối với trẻ 5-6 tuổi,
các trò chơi thông minh trong “Vui học kidsmart” luôn làm trẻ tò mò và hứng
thú. Biết được điều đó tôi thường xuyên tìm hiểu những trò chơi thông minh có
liên quan tới chủ đề, chủ điểm mà trẻ đang học vừa giúp trẻ thỏa mãn tính tò mò
cũng như củng cố, mở rộng hiểu biết về bào học với trẻ hơn.
Ví dụ 2: Trò chơi “Tìm lá cho hoa” chủ đề Thế giới thực vật.
Cách chơi: Trên màn hình xuất hiện những hình ảnh về 1 số cành hoa bất kì sau
đó biến mất chỉ xuất hiện hoa và lá riêng rẽ nhiệm vụ của trẻ di chuột sắp xếp
hoa và lá lại thành một bông hoa có cành lá chính xác.
14
Khi trẻ đã chơi thành thạo tôi nâng cao trí nhớ cũng như sự nhanh nhẹn của trẻ
bằng cách chỉnh thời gian xuất hiện hoa ban đầu nhanh hơn hoặc cao hơn nữa là
không có sự xuất hiện của cành hoa ban đầu mà đòi hỏi trẻ phải có trí nhớ, kĩ
năng từ những lần chơi trước tự xếp lá cho hoa đúng theo yêu cầu.
Qua công nghệ thông tin từ một trò chơi tôi đã giúp trẻ có thêm kĩ năng sử
dụng máy tính, đồng thời giúp trẻ củng cố, ghi nhớ bài học hơn là tiền đề tốt cho
các cuộc thi Olympic ở cấp Tiểu học.
6) Phương pháp 6:Nâng cao kỹ năng quan sát, so sánh và phân loại ở trẻ.
Một trong những phương pháp quan trọng và không thể thiếu đối với khám phá
khoa học là quan sát, so sánh và phân loại .
Với mỗi bài tuỳ thuộc vào đối tượng cho trẻ làm quen, tôi tìm những cách vào
bài khác nhau để gây sự chú ý, tò mò của trẻ. có thể dùng câu đố, bài hát… Để
trẻ nhận biết đối tượng bằng tranh ảnh và đồ vật, vật thật và mô hình.
Với mỗi đối tượng trẻ được làm quen, trẻ được quan sát thật kỹ, trẻ biết đưa ra ý
kiến nhận xét của mình, cùng với đó là câu hỏi gợi mở của cô, cứ mỗi lần làm
quen như vậy tôi lồng ghép nội dung giáo dục vào bài. Trẻ không những hiểu về
vật đó mà còn có cách ứng xử, hành động với chúng .
Qua các buổi dạo chơi, thăm quan, hoạt động ngoài trời, dã ngoại … khi trẻ
quan sát tôi hướng trẻ sử dụng mọi giác quan để trẻ có thể chỉ ra chọn vẹn đối
tượng đó. Qua hoạt động cho trẻ quan sát cô đưa ra các câu hỏi đàm thoại để cho
trẻ so sánh và phân loại từ đó sẽ phát huy khả năng sáng tạo và tư duy cho trẻ.
Ví dụ : Cô và trẻ quan sát bồn hoa của lớp có nhiều loại hoa khác nhau, hướng
trẻ nhận biết màu sắc cánh hoa. Cho trẻ sờ cánh hoa thấy mịn và nhẵn. Đưa hoa
nên ngửi có mùi thơm .
15
Trẻ được quan sát kỹ, có được đầy đủ các đặc điểm của đối tượng nên trẻ so
sánh rất tốt và phân loại rất nhanh .
Dạo chơi thăm quan hoạt động ngoài trời, không những để trẻ khám phá thế giới
xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ môi
trường. Tôi cũng luôn chú ý kiến thức xã hội với trẻ về công việc của mỗi
người, về mối quan hệ giữa con người với nhau, đặc biệt là giáo dục Bảo vệ môi
trường. Với trẻ mặc dù kiến thức rất đơn giản như tạo cho trẻ thói quen vứt rác
đúng nơi quy định,chăm sóc vườn rau bắt sâu cho rau và ý thức bảo vệ môi
trường xanh sạch đẹp.
7) Phương pháp 7: Kết hợp với với phụ huynh.
Để nâng cao chất lượng hoạt động của trẻ trong trường mầm non để có sự giáo
dục toàn bộ giữa gia đình và nhà trường là một việc làm hết sức cần thiết tôi
thấy rằng tất cả mọi khó khăn trong học tập không thể thiếu được vai trò giải
quyết khó khăn của phụ huynh vì thế ngay từ đầu năm học để phụ huynh hiểu
thêm về các hoạt động của trẻ trong trường mầm non trường tôi đã tổ chức họp
phụ huynh và tuyên truyền đến các bậc phụ huynh.
Bản thân tôi là một cộng tác viên tuyên truyền của nhà trường ngoài việc tuyên
truyền các chuyên đề của nhà trường giao về lớp tôi đã làm tốt công tác tuyên
truyền tới các bậc phụ huynh như thông qua bảng tuyên truyền của lớp, trang trí
những hình ảnh của chủ đề đang học một cách sinh động. Thường xuyên trao
đổi về tình hình sức khoẻ của trẻ, tình hình học tập của trẻ đặc biệt qua các buổi
đón trả trẻ tôi đã trao đổi với các bậc phụ huynh về tình hình học tập của trẻ ở
lớp, về các chủ đề chủ điểm trẻ đang học giúp phụ huynh nắm rõ từ đó có thể tạo
điều kiện cho trẻ được trải nghiệm ở nhà, củng cố thêm kiến thức .
Ví dụ: Trong chủ đề “Thế giới thực vật” Hôm nay tôi cho trẻ làm Tìm hiểu
về sự nảy mầm của cây. Trẻ được tham gia trải nghiệm và thực hiện công việc
xong do thực nghiệm cần thời gian trẻ mới thu được kết quả và có thể một số trẻ
16
nghỉ, thông qua trao đổi với phụ huynh phụ huynh nắm được từ đó tạo điều kiện
cho trẻ được thực hiện việc gieo hạt ở nhà, khi được cô thường xuyên hỏi thăm
về sản phẩm thì trẻ tỏ ra rất hứng thú, khi chính trẻ thực hiện và khám phá.
Nhận được kết quả giúp trẻ nhớ hơn, hiểu và kích thích trí ham học hỏi.
Trang thiết bị đồ dùng đồ chơi mà nhà trường đã cấp cho lớp còn thiếu những gì
từ đó vận động các bậc phụ huynh cùng tham gia đóng góp thêm các loại đồ
dùng như có phụ huynh đã sưu tầm các loại tranh ảnh về các con vật hoa quả,
một số danh lam thắng cảnh để ủng hộ, có bậc phụ huynh đã ủng hộ các cây
cảnh, cây hoa và một số loại cây ăn quả để trồng ở vườn trường và góc thiên
nhiên, vì phần lớn là trẻ em nông thôn nên đặc biệt các sẩn phẩm của nông
nghiêp được phụ huynh ủng hộ rất nhiệt tình. Qua tìm hiểu về nghề nghiệp của
bố mẹ trẻ tôi đã nắm được nghề của bố mẹ trẻ từ đó tôi có kế hoạch gặp gỡ và
trao đổi nhờ các bậc phụ huynh sưu tầm những vật liệu hỏng bỏ đi để gom lại
mang về làm đồ chơi như bố cháu Quang làm nghề sửa chữa điện tử nhờ bác
sưu tầm những cục mam châm những hòn bi sắt để cho trẻ làm thí nghiệm, mẹ
cháu Phi làm thợ may nhờ chị sưu tầm cho vải vụn ,đôi khi chị may cho những
bộ trang phục búp bê bằng vải vụ, bác Hà làm thợ mộc nhờ bác sưu tầm các khối
gỗ để làm đồ chơi xếp nhà, xếp ô tô...Hàng ngày trước khi dạy một bài tìm hiểu
nào tôi thường xuyên trao đổi với các bậc phụ huynh về bài học ngày hôm nay
về nhà các bậc phụ huynh cùng trò chuyện với trẻ về bài học hoặc có thể cung
cấp cho trẻ một số kiến thức để cho trẻ học tập tốt hơn.
8 )Khả năng áp dụng:
Các biện pháp trên được ứng dụng và giúp trẻ làm quen với khám phá
khoa học, giúp trẻ phát huy trí tưởng tượng về thế giới tự nhiên xung quanh trẻ
mang lại hiệu quả cao trong việc cho trẻ tiếp xúc với lĩnh vực khám phá khoa
học trong trường. Đồng thời cũng giúp trẻ luôn tìm tòi, học hỏi suy nghĩ, phát
hiện những điều hay, những cái mới về thế giới xung quanh trẻ.
17
Tôi nghĩ kết quả nghiên cứu này có thể ứng dụng cho độ tuổi 5-6 tuổi trong
trường mầm non.
VIII. Những thông tin cần được bảo mật: Không có
IX. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
-Điều kiện về cơ sở vật chất:
Đồ dùng, trực quan, đồ chơi phục vụ tiết học như: Bàn, ghế, bảng, tranh, mô
hình, các từ gắn với mỗi hình ảnh, vật mẫu ... Cần phải đầy đủ cho cô và trẻ
cùng hoạt động.
Đồ dùng của trẻ cũng phải đẹp, hấp dẫn, phong phú sinh động nhằm kích thích
hứng thú, tò mò lòng ham hiểu biết của trẻ, tôi thường sử dụng đồ thật, vật thật
hoặc hình ảnh động cho tiết học sinh động.
Dựa vào yêu cầu thực tế dạy trẻ, tôi đề nghị với ban giám hiệunhà trường trang
bị thêm thiết bị,đồ dùng dạy học như : Bảng,tranh ảnh,lôtô, ngoài ra còn cung
cấp thêm các công nghệ như máy tính, máy chiếu để phục vụ tốt cho các hoạt
động khám phá, với mỗi tiết cần có đồ dùng để phục vụ thật đầy đủ .
Với các bậc phụ huynh vận động họ mua thêm đồ dùng, tranh , truyện, đặc biệt
là tranh, sách, ảnh về các con vật, cây cối, hoa lá, quả ,... Sưutầm những câu ca
dao, tục ngữ, đồng dao để làm phong phú vốn hiểu biết về khám phá khoa
họccủa trẻ .
Với chính bản thân mình tôi tận dụng những nguyên vật liệu có sẵn ở địa
phương như: vải vụn, cọng rơm khô, lá khô, hoa ép khô, vỏ cây khô để làm
tranh ảnh cho tiết dạy. Sưu tầm các loại hạt, các loại vỏ trai ốc, hến sò ... để bổ
xung ra đồ chơi của trẻ .
Được nhà trường cấp cho tranh dạy khám phá khoa học, lô tô các loại...Ngoài ra
tôi còn tự làm đồ dùng phục vụ tiết dạy, các loại tranh ảnh, hình ảnh, các con
18
vật,cây cỏ, hoa lá ... Sưutầm tranh có hình ảnh đẹp xử dụng trong việc cho trẻ
làmquen với khám phá khoa học. Tận dụng các hình ảnh ở đốc lịch, bìa, hoạ
báo, ảnh cũ ... Vừa trang trí lớp vừa làm đồ dùng đồ chơi .
Tôi tận dụng bìa cát tông có dây dạt thật sinh động, hấp dẫn, gây hứng thú với
trẻ. Sau đó để trẻ tự điều khiển, để trẻ biết con vật này có chân hay có cánh, có
chân thì biết chạy có cánh thì biết bay .
Tôi để cho trẻ tự làm một sản phẩm như tranh vẽ về các con vật, cỏ cây, hoa lá ,
hoặccác sản phẩm nặn những đồ vật xung quanh trẻ, các sản phẩm tạo hình,
tranh từ những phế liệu, cô và trẻ cùng làm thể hiện vốn hiểu biết phong phú của
trẻ về khám phá khoa học.
Tôi sưutầm những bài thơ về môi trường xung quanh, sau đó dùng hình ảnh
minh hoạ và có chữ viết đi cùng. Vừa giúp trẻ củng cố hình ảnh vừa để trẻ rèn
luyện ngôn ngữ. Từ đó tư duy của trẻ cũng phát triển .
Với những đồ dùng, đồ chơi đợc phát và tự làm khi tôi đưavào sử dụng trong tiết
dạy khám phá khám phá khoa học tôi thấy trẻ rất hào hứng, hứng thú học, trẻ
hiểu biết nhiều, quan sát rất tốt, tìm rất nhanh các vật mẫu cô đưa ra, so sánh và
phân loại cũng rất rõ ràng, rành mạch, ngôn ngữ rất phát triển, trẻ thuộc rất
nhiều thơ ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các câu đố về các con vật, các cây hoa, các
loại quả ... Tư duy của trẻ cũng nhanh và chính xác hơn.
-Điều kiện về con người: Trình độ chuyên môn đạt chuẩn và luôn học tập, bồi
dưỡng tự rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ sư phạm.Yêu nghề mến trẻ và được sự quan tâm, tin tưởng của
các bậc phụ huynh và của ban giám hiệu trường mầm non Nhạo sơn.
X. Đánh giá lợi ích thu được theo các nội dung sau:
Qua thực hiện một số phương pháp cho trẻ làm quen với khám phá khoa học tôi
đã đạt được kết quả như sau.
19
X.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
- Hiệu quả kinh tế:
Hiện nay việc giáo viên linh hoạt tạo ra môi trường hoạt động và sáng tạo ra
những nghệ thuật sư phạm cung cấp kiến thức kỹ năng khoa học và xã hội cho
trẻ làm quen, khám phá khoa học đạt hiệu quả mà không cần dùng đến các đồ
chơi, đồ dùng bằng nhựa nhàm chán. Mặt khác lại tạo ra khuôn viên trường lớp
với “hệ sinh thái” môi trường học tập đẹp, xanh, sạch thoáng mát ...Thu hút
được nhiều sự quan tâm và ủng hộ của các bậc phụ huynh.
- Hiệu quả xã hội:
Làm tăng vốn hiểu biết cho trẻ, các cháu hứng thú tham gia các hoạt động, sáng
tạo trong mọi công việc.
Bản thân tôi linh hoạt, tự tin hơn khi tiến hành hoạt động, bên cạnh đó tôi được
trau dồi kiến thức, kỹ năng, nghệ thuật chăm sóc và giảng dạy trẻ.
- Tạo được môi trường học phong phú với nội dung của từng chủ đề, đồ dùng đồ
chơi và trang thiết bị cũng đã được trang bị đầy đủ hấp dẫn trẻ.
- Các hoạt động khám phá khoa học không còn tẻ nhạt, khô khan đối với trẻ mà
trẻ tích cực tham gia hoạt động phát huy tính sáng tạo và khả năng tư duy khi
khám phá khoa học cụ thể trẻ có tiến bộ rõ rệt trong từng hoạt động. Trẻ có kỹ
năng quan sát, so sánh, phân loại tốt, hiểu biét rộng về tự nhiên cũng như xã hội
…
- Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ làm
quen với khám phá khoa học, cùng phối kết hợp với cô giáo tạo điều kiện cho
trẻ được làm quen với khám phá khoa học đạt kết quả cao nhất, điều đó cũng đã
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ.
20
-Kết quả đạt được như sau:
+ Về phía trẻ
Trước khi áp dụng các phươngSau
Số trẻ 23 trẻ) pháp trên
Số trẻ
Trẻ chú ý vào
17
nội dung
Trẻ thích được
nói lên ý kiến15
của mình.
Trẻ nắm được
kiến thức
14
khi
áp
dụng
%
phương pháp trên
Số trẻ
%
74%
22
96%
65%
19
83%
61%
18
78%
các
+Về phía giáo viên
Cô giáo cần có lòng say mê khám phá khoa học, mong muốn tìm hiểu về các sự
vật hiện tượng lòng ham hiểu biết của cô giáo phải được thể hiện trong mọi hoạt
động để làm gương cho trẻ lôi cuốn trẻ vào các hoạt động khám phá, tìm hiểu về
khám phá khoa học
Giáo viên có những kiến thức cơ bản về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội ,
nắm vững nội dung chương trình và có kỹ năng sử dụng linh hoạt các phương
pháp, luôn có ý thức trong việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức cho trẻ
khám phá khoa học theo hướng tích cực các hoạt động của trẻ và lấy trẻ làm
trung tâm.
Cô luôn tạo cho trẻ môi trường học tập “ Học bằng chơi, chơi mà học”
Luôn động viên kịp thời và giúp trẻ tập luyện thường xuyên cho trẻ được trải
nghiệm khám phá và tạo các điều kiện tốt nhất để trẻ có khả năng tư duy và phát
triển tốt.
21
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cô giáo và gia đình trong việc tổ chức cho trẻ
thực hiện các hoạt động trong trường mầm non.
Thu được những kết quả tích cực trên trẻ, tôi càng nỗ lực học hỏi, tìm hiểu
và mong ứng dụng được nhiều hơn những tri thức về khoa học trong công tác
giảng dạy của mình. Những điều kì thú trong khoa học vô cùng phong phú, song
không phải bất cứ hiện tượng khoa học vui nào cũng có thể ứng dụng trong việc
dạy trẻ mầm non. Việc lựa chọn cũng như thực hiện những thí nghiệm khoa học
phải đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với lứa tuổi và đặc biệt là đảm bảo an toàn
cho trẻ. Qua đó giáo dục trẻ biết tự khám phá trong khả năng của mình, tránh
những trường hợp tò mò hiếu động gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Chính
vì vậy mà trên đây tôi mới chỉ đưa ra được một số thí nghiệm nhỏ, mong có
được sự góp y của các cấp lãnh đạo và các đồng nghiệp để phần sáng kiến kinh
nghiệm của mình được hoàn thiện hơn.
+Về phía phụ huynh
Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ làm
quen với khám phá khoa học, tạo điều kiện cùng công tác với cô giáo để được
làm quen với khám phá khoa học của trẻ đạt hiệu quả cao nhất , đó cũng đã góp
phần nâng cao chất lượng môn cho trẻ làm quen với khám phá khoa học.
* Nhận xét:
Từnhững kết quả mà tôi thu được trên trẻ sau một thời gian với các
phương pháp trên tôi thấy rằng các trò chơi các phương pháp đã đem lại một kết
quả tốt, phần đại đa số các trẻ đã bị cuốn hút và thật sự thấy hứng thú, háo hức
mỗi khi đến với khám phá khoa học. Do vậy mà các trẻ rất tự tin khi phát biểu
và nói lên ý kiến của mình. Chứng tỏ các phương pháp đã dần cụ thể hóa, trực
quan hóa các kiến thức khoa học trìu tượng, giúp các trẻ tiếp thu đễ dàng hơn.
22
Như vậy, kết quả thực nghiệm của tôi đã thành công và tạo được thêm cảm hứng
cho tôi thiết kế thêm nhiều các phương pháp mới nhằm phục vụ tốt hơn cho việc
giảng dạy.
X.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
-Sáng kiến mang tính khả thi cao, có tính mới tính sáng tạo.
- Giáo viên thực sự yêu nghề mến trẻ, có năng lực sư phạm, nắm chắc chuyên
môn.
- Có sự hiểu biết về kỹ năng dạy trẻ làm quen với khám phá khoa học .
- Có sự sáng tạo trong mỗi tiết dạy, luôn có sự đổi mới trong phương pháp dạy
trẻ.
- Thường xuyên rèn luyện bản thân, kỹ năng dạy, thao tác, rèn luyện giọng nói
- Đồ dùng dạy trẻ phong phú sáng tạo hấp dẫn với trẻ .
- Làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh .
- Luôn tạo được môi trường học mà chơi, chơi mà làm .
- Chú ý rèn trẻ ít nói, chậm hiểu có phương pháp hướng dẫn cụ thể .
- Động viên kịp thời và giúp trẻ tập luỵên thường xuyên .
- Tạo điều kiện tốt để trẻ có khả năng tư duc, phát triển tốt .
23