Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một vài kinh nghiệm sử dụng bài giảng điện tử trong dạy học môn hình học lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.35 KB, 18 trang )

MỘT VÀI KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ TRONG DẠY HỌC
MÔN HÌNH HỌC LỚP 9
hỗ trợ học sinh học toán hình thông qua một số ứng dụng công nghệ
thông tin
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN :
Hiện nay một trong những trọng tâm của việc đổi mới chương trình
và thay sách giáo khoa là đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin vào việc dạy học. Thực hiện dạy học phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của học sinh dưới sự hướng dẫn đúng mức của của
giáo viên nhằm hình thành nhu cầu tự học, tạo hứng thú và niềm tin trong
học tập của học sinh đang là sự quan tâm hàng đầu của các nhà giáo dục.
Năm học 2010 - 2011 là năm học với chủ đề : “tiếp tục đổi mới quản lý,
nâng cao chất lượng giáo dục". tiếp tục thực hiện phong trào “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Thực hiện Chỉ thị số 55/2008/CTBGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về tăng cường giảng dạy,
đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn
2008-2012.
Trên tinh thần nội dung đó Sở GD-ĐT Gia Lai đã chỉ đạo và tổ chức
hướng dẫn cho giáo viên các môn học triển khai việc tích hợp, lồng ghép, ứng
dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào quá trình dạy các môn học của mình.
Cụ thể là : Giáo viên (Gv) bộ môn cần tự khai thác, trực tiếp thiết kế giáo án,
sử dụng các phần mềm dạy học phù hợp với nội dung và phương pháp bộ của
môn .
Đổi mới phương pháp giáo dục nhằm tích cực hoá quá trình học tập của
học sinh; để thực hiện được điều này, ngoài sự nghiên cứu về phương pháp
truyền giảng, phương pháp tổ chức lớp học thì giáo viên còn phải nghiên cứu
sử dụng các thiết bị công nghệ, các phần mềm hỗ trợ dạy học để ứng dụng.
CNTT trong trường học được đẩy mạnh ứng dụng trong nhiều năm qua đã
từng bước nâng cao chất lượng dạy học, tích cực thực hiện đổi mới phương
pháp giáo dục.


Xu hướng chung của sự đổi mới phương pháp giảng dạy ở bậc trung
học cơ sở là làm sao để giáo viên không chỉ là người truyền thụ kiến thức mà
còn là người tổ chức định hướng cho học sinh hoạt động để học sinh huy
động vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân vào sự chiếm lĩnh tri thức
mới.
Vì thế việc cải tiến phương pháp giảng dạy bằng cách tạo ra nhiều hình
thức học tập là cần thiết nhằm cuốn hút học sinh say mê hào hứng, tự giác
lĩnh hội tri thức, từ đó phát huy năng lực, trí sáng tạo của mỗi học sinh.
1


Xuất phát từ yêu cầu đó mà vấn đề sử dụng bài giảng điện tử trong các giờ
học phục vụ đổi mới phương pháp dạy học được các cấp lãnh đạo và nhiều
giáo viên quan tâm. Bởi học sinh bậc trung học cơ sở mới từ trung học cơ sở
chuyển lên, nên việc thu nhận kiến thức thông qua việc phát huy tính tự học
còn có nhiều hạn chế. Mặt khác xuất phát từ nhận thức của học sinh bậc trung
học cơ sở là :” Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng – từ tư duy trừu
đến thực tiễn khách quan” cho nên việc ứng dụng CNTT vào dạy học là hết
sức cần thiết .
Vậy làm thế nào để việc ứng dụng CNTT trong dạy học có hiệu quả
nhất trong các giờ lên lớp phục vụ đổi mới phương pháp dạy học? Đó là câu
hỏi mà tôi luôn trăn trở và thực sự lưu tâm chú trọng.Trong khi ở một số
trường từ lâu đã sử dụng bài giảng điện tử vào giảng dạy có hiệu quả thì ở
một số trường vẫn chưa thực hiện được vì tâm lý ngại khó khi soạn giảng
bằng bài giảng điện tử. Chính vì những lí do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài
“Sử dụng bài giảng điện tử trong dạy học môn hình học lớp 9” nhằm đẩy
mạnh ứng dụng CNTT vào dạy học phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo
của học sinh dưới sự hướng dẫn đúng mức của giáo viên, hình thành nhu cầu
tự học, tạo hứng thú và niềm tin trong học tập của học sinh qua môn hình học
lớp 9.

II.CƠ SỞ THỰC TIỄN :
1.Kết quả khảo sát học sinh khi chưa áp dụng CNTT:
Thời gian trước đây mặc dù đã sử dụng nhiều phương pháp và phương
tiện trong dạy học bộ môn toán nhưng kết quả cho thấy học sinh muốn học bộ
môn toán không nhiều vì đây là bộ môn “khô khan”, đòi hỏi học sinh phải tư
duy nhiều, qua khảo sát 350 học sinh lớp 9 của trường …, kết quả như sau:
- 55% 193/350 học sinh thích học toán hình.
- 25% 85/350 học sinh thích môn toán nhưng không muốn học.
- 20% 72/350 học sinh không chú ý trong bài dạy môn toán hình.
2. Sự cần thiết của ứng dụng CNTT trong dạy học, thực hiện đổi mới
phương pháp giáo dục:
a.CNTT trong dạy học :
Học là một quá trình thu nhận thông tin; dạy là phát thông tin và giúp
người học thực hiện quá trình trên một cách có hiệu quả, nếu nội dung bài chỉ
truyền tới người học bằng văn bản thì người học có thể sẽ kém hứng thú. Nhờ
sự phát triển của khoa học kỹ thuật, quá trình dạy học có thể sử dụng các
phương tiện dạy học sau:
- Đèn chiếu Overhead,Video, projector.
- Phần mềm dạy học, sử dụng Internet.
Ở đây tôi đã ứng dụng projector trong bài giảng, dạy học với phương
tiện tôi thấy có các ưu thế sau:
- Giáo viên chuẩn bị một lần mà được sử dụng để giảng dạy nhiều lần.
- Các projector dạy học thay thế giáo viên thực hành, tăng tính năng động cho
người học.
2


- Giáo viên trình bày bài giảng sinh động, dễ dàng cập nhật thích nghi với sự
thay đổi nhanh chóng của khoa học hiện đại.
- Phương tiện hỗ trợ làm tăng thêm hiệu quả đối với những bài giảng khó,

phức tạp.
- Học sinh không bị thụ động khi các hoạt động của giáo viên đã chuẩn bị ở
bài giảng.
b. Vai trò của CNTT trong dạy học :
Trong những năm trở lại đây, ứng dụng CNTT trong dạy học được đẩy
mạnh và đạt hiệu quả tích cực. Một trong những yếu tố dễ nhận thấy là một
giờ học có ứng dụng CNTT thì việc truyền đạt kiến thức - luyện tập kĩ năng
của giáo viên được cải thiện, học sinh dễ tiếp thu bài học và giờ học sinh
động, lôi cuốn các em vào bài học, chất lượng giờ học được nâng cao. Tất cả
các môn học đều có đặc thù khác nhau, vì vậy việc vận dụng các thiết bị công
nghệ và phần mềm tin học cũng khác nhau nhưng nhìn chung ứng dụng
CNTT trong dạy học là một việc làm hết sức cần thiết nhằm nâng cao chất
lượng dạy học và từng bước đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện
đại hoá, không những đáp ứng nhu cầu bộ môn mà còn dần dần tạo cho Hs
làm quen với phương pháp học tập hiện đại, giáo viên cũng từng bước nâng
cao kỹ năng, nghiệp vụ của mình để đáp ứng với yêu cầu công tác trong thời
đại mới.
Trong giảng dạy bộ môn toán, việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan
là một trong những việc làm không thể thiếu được đối với giáo viên. Nó dùng
làm điểm xuất phát cho quá trình nhận thức của học sinh để giúp các em lĩnh
hội kiến thức mới một cách chắc chắn và có lôgíc. Vì vậy việc sử dụng
phương tiện dạy học trực quan (qua cổng CNTT) trong các tiết dạy là điều
cần thiết.
3. Tính hiệu quả của việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy bộ môn Toán
Trong những năm chưa có điều kiện ứng dụng CNTT trong dạy học,
thiết bị dạy học đối với bộ môn toán chỉ có một số ít tranh ảnh phục vụ cho
việc giảng dạy bộ môn, ngoài ra đều là trang thiết bị giáo viên tự làm, dẫn đến
giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình dạy học, thực tế do điều kiện
cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu thốn ; vì vậy việc phát huy tính tích cực
chủ động sáng tạo cho các em còn nhiều hạn chế. Từ khi nhà trường đẩy

mạnh ứng dụng CNTT trong dạy học với tất cả các môn học, dần dần chất
lượng giờ dạy được nâng cao, học sinh hứng thú hơn với môn học và bước
dầu đã đạt được những kết quả nhất định.
Với môn toán, khi được học và thực hành bằng những thiết bị công
nghệ và các phần mềm được ứng dụng, đa số các em đều rất thích thú và chất
lượng thực hành cũng cao hơn hẳn. Giờ học được tiến hành nhẹ nhàng hơn,
lôi cuốn hơn. Các em có năng khiếu thì việc tiếp thu kiến thức mới tốt hơn,
bài học trở nên đơn giản và chất lượng, các em chưa phát triển được năng
khiếu cũng tích cực hơn trong học tập. Đa số học sinh dần dần yêu thích môn
3


học hơn, việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy đã lôi cuốn các em, phương
pháp dạy học hiện đại đã được chứng minh qua kết quả cụ thể.
PHẦN II : THỰC TRẠNG
VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT
I.THỰC TRẠNG :
1. Thực trạng chung:
Trước tiên chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là học sinh ngày càng
lười môn toán, tư duy toán học ngày càng kém cỏi, đặc biệt học sinh rất sợ
học hình học. Vì vậy số học sinh khá giỏi toán càng giảm đi để làm tăng thêm
số lượng lớn học sinh yếu toán. Điều này đã, đang và sẽ còn xảy ra mặc dù
Đảng và Nhà Nước đã đầu tư rất lớn cho giáo dục trong những năm qua. Theo
tôi, thực trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
- Một bộ phận cha mẹ học sinh bị cuốn vào vòng xoáy của cơ chế thị
trường, không quan tâm, quản lý đến việc học của con em mình. Bản thân học
sinh chưa ý thức được sự quan trọng của việc học, còn ham chơi hơn ham học
hoặc bị cám dỗ bởi nhiều trò chơi điện tử ngoài xã hội.
- Nội dung chương trình còn nặng so với thực tế học sinh vùng xã,
vùng khó khăn.

- Phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới, chưa phù hợp với yêu
cầu thực tế cuộc sống hiện nay là đào tạo nên những học sinh năng động, có ý
thức làm việc độc lập, những người “vừa hồng vừa chuyên”.
Theo tôi trong những nguyên nhân kể trên thì nguyên nhân thứ ba là
một nguyên nhân đã góp phần làm cho số học sinh yếu toán ngày càng tăng
lên rất nhiều. Bởi vì với phương pháp dạy học "thầy giảng đọc, cho trò ghi"
thì học sinh đến lớp tiếp thu một cách thụ động. Các định lí, tính chất thầy ghi
lên bảng sau đó chứng minh (có khi không chứng minh) và cho ví dụ áp dụng
kiến thức đó, xong việc này, thầy trò vui vẻ sang việc khác. Sự việc cứ tiếp
diễn như vậy và điều đó làm cho tư duy học sinh ngày càng bị thui chột dần,
học sinh học bài sau thì quên bài trước, không nắm được dây chuyền kết nối
các kiến thức với nhau.
Để khắc phục tình trạng trên, ý kiến của tôi là: đối với các học sinh yếu,
tôi tập dần cho các em biết suy nghĩ tìm cách giải quyết một vấn đề nào đó
bằng một hệ thống câu hỏi đầy đủ, từ dễ đến khó trong giáo án của mình
trước khi lên lớp. Đây không phải là một sáng kiến gì mới mà là một kinh
nghiệm mà bản thân tôi thấy rằng: với phương pháp "hệ thống câu hỏi" vừa
sức thì học sinh yếu từ từ lấy lại niềm tin khi học toán, có thể độc lập giải
quyết được những vấn đề nhỏ, một bộ phận lớn học sinh từ yếu toán có thể
vươn lên trung bình.
2. Thực trạng về sử dụng bài giảng điện tử của giáo viên:
Hiện nay trên tất cả các trường học tại thành phố Pleiku, đã tiến hành
ứng dụng CNTT trong giảng dạy với tất cả các bộ môn như ở trường Phạm
4


Hồng Thái, Trưng Vương, Trần Phú, Nguyễn Du, Lê Văn Tám…., qua tham
khảo và học hỏi ở một số trường bạn và qua các đợt thao giảng liên trường,
chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết giáo viên đều ứng dụng CNTT vào bài giảng
một cách có hiệu quả.

Tuy nhiên vẫn còn có một số vấn đề bất cập trong việc sử dụng bài
giảng điện tử của giáo viên như:
- Giáo viên chưa chú ý đến lựa chọn bài nào để sử dụng giáo án điện tử
để đạt kết quả học tập cao nhất, không phải là bài dạy nào cũng có thể sử
dụng giáo án điện tử.
- Trong một số tiết dạy, giáo viên chọn bài để dạy bài giảng điện tử
chưa phù hợp, hoặc còn quá lạm dụng dẫn đến bài dạy chỉ mang tính trình
chiếu, không phát huy được tính tích cực của học sinh và không rèn được kỹ
năng giải toán cho học sinh.
- Trong một số bài vì quá lạm dụng trong việc soạn giảng bằng bài
giảng điện tử nên việc phân bố thời gian không hợp lý giữa phần lý thuyết và
phần luyện tập (có nhiều trường hợp giáo viên đi quá nhanh phần nội dung
trọng tâm của bài mà dành nhiều thời gian cho các trò chơi sau tiết học), cụ
thể là phụ thuộc quá mức vào máy tính xách tay và máy chiếu.
- Trình độ vi tính của một số ít giáo viên còn hạn chế, chưa tự mình
thiết kế được các bài giảng điện tử một cách khoa học và sáng tạo, chỉ coppy
hoặc lấy từ trên mạng Internet về để dạy, thiếu sự sáng tạo của giáo viên và
đôi khi không phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
- Các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ còn thiếu nên khi soạn giáo án điện tử
chỉ ở mức độ đơn giản, hình ảnh âm thanh đôi khi chưa bảo đảm về chất
lượng, làm giảm tác dụng minh hoạ.
Bởi vậy trước đây, dư luận đã có nhiều ý kiến phê phán tình trạng thầy
đọc, trò chép là kiểu dạy máy móc, thụ động thì hiện nay lại xuất hiện tình
trạng mới là nhìn – chép (giáo viên ít khi nhìn vào học trò mà chủ yếu quay
mặt vào màn hình máy tính còn học sinh thì dán mắt vào màn chiếu để chép).
Nói tóm lại, cần tránh nhầm lẫn khái niệm giáo án điện tử là các bài
trình chiếu powerpoint hoặc các phần mềm khác. Cần xác định công nghệ
thông tin là phương tiện hỗ trợ, nhằm nâng cao chất lượng dạy học nên hiệu
quả của nó phụ thuộc chủ yếu vào cách thức sử dụng của giáo viên. Từ đó
giáo viên cần tránh lạm dụng công nghệ thông tin, gây phản tác dụng như

không lựa chọn kỹ nội dung trình chiếu, thời gian trình chiếu quá nhiều, trình
chiếu với âm thanh ồn ào và với chữ viết có mầu sắc loè loẹt, với chữ chạy
nhảy mang tính biểu diễn kĩ thuật không cần thiết và kích thước chữ quá nhỏ.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH NGHIỆM :
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học toán rất phong phú và đa dạng tuy
nhiên trong bài viết này, tôi xin minh họa bằng giáo án cho một tiết dạy áp
dụng CNTT qua bài giảng điện tử "Diện tích hình tròn, hình quạt tròn" tiết
5


54 môn hình học lớp 9. Bài dạy này tôi thiết kế theo hướng phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo của học sinh dưới sự hướng dẫn đúng mức của của
giáo viên nhằm hình thành nhu cầu tự học, tạo hứng thú và niềm tin trong
học tập của học sinh qua môn hình học lớp 9.
Trước đây, khi chuẩn bị bài này tôi thường làm như sau: sau khi dạy
xong bài "Độ dài đường tròn, cung tròn" tôi dặn học sinh về nhà làm bài tập
trong sách giáo khoa, dĩ nhiên là nhấn mạnh học sinh học kỹ quan hệ giữa
“Độ dài đường tròn, cung tròn”. Đến tiết sau, tôi gọi một học sinh lên kiểm
tra miệng, tất nhiên là hỏi câu hỏi có liên quan đến việc xây dựng bài học hôm
nay, cho học sinh làm một bài tập nào đó trong sách giáo khoa và cho các em
khác bổ sung góp ý, cuối cùng giáo viên tổng kết cho điểm và thế là Gv và Hs
cùng sang bài mới.
Khi dạy bài "Diện tích hình tròn, hình quạt tròn" thì ghi sẵn các kiến
thức liên quan đến bài học lên sile trình chiếu vậy là học sinh ở dưới lớp cứ
theo những gì giáo viên hiện lên màn hình mà ghi vào vở. Sau đó, tôi cho một
bài tập áp dụng các kiến thức trên (cũng ở trên màn hình), học sinh chỉ cần
nhìn lên đó, nêu cách làm.
Ưu điểm của phương pháp này là tốn rất ít thời gian xây dựng lý thuyết.
Bởi vì thầy đóng vai trò chủ động, không phụ thuộc vào học sinh.
Nhược điểm của phương pháp này là học sinh không thấy được một

dây chuyền liên hệ giữa kiến thức cũ và mới, học sinh không chủ động tìm
tòi. Giống như tình trạng thầy đọc trò chép trước đây, học sinh thấy kiến thức
dàn trải, không cô đọng và sau khi học xong tìm hiểu thì các em nói cứ thuộc
lòng các công thức trên một cách máy móc mà không biết gắn kết chân lý đã
biết để xác lập chân lý mới. Dĩ nhiên là sau một thời gian ngắn, các em sẽ
quên hết các kiến thức này và chỉ nhớ những hình ảnh “bay lượn trên màn
hình” của bài học hôm đó.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT
1. Công tác chuẩn bị :
* Đối với giáo viên :
- Biết soạn giảng bằng bài giảng điện tử.
- Công tác chuẩn bị cho việc soạn bài giảng điện tử: Sưu tầm hình ảnh
minh hoạ, kiến thức bổ trợ.
- Thiết kế và lồng ghép các hình ảnh vào bài giảng cho phù hợp; kiến thức
bổ trợ phù hợp với đối tượng học sinh.
* Đối với học sinh :
- Hs tham gia tích cực cùng với giáo viên trong việc chuẩn bị bài .
- Cùng với giáo viên sưu tầm hình ảnh minh học cho bài học.
Nếu trước kia “Sử dụng bài giảng điện tử” trong tiết dạy giáo viên tiết
kiệm được thời gian, chỉ việc đưa những kiến thức liên quan đến bài giảng rồi
cho Hs nhìn chép, thì chẳng khác gì phương pháp dạy học giáo viên đọc, học
6


sinh chép sẽ không phát huy tính tích cực của các em sau mỗi giờ học. Vì vậy
phải đòi hỏi giáo viên khi chuẩn bị “ bài giảng điện tử ” phải đầu tư công phu,
kỹ lưỡng hơn.
Để phát huy tích cực của công nghệ thông tin vào dạy học đối với bài
“Diện tích hình tròn, hình quạt tròn ”giáo viên có thể áp dụng CNTT dưới
nhiều hình thức, ở đây tôi đưa ra hình thức sử dụng CNTT ở mức độ minh

hoạ khi cần thiết.
* Thiết kế các Slides để sử dụng bài giảng điện tử ở mức độ minh hoạ
khi cần thiết, giáo viên có thể áp dụng ở các phần sau:
- Phần khởi động : Giới thiệu bài mới, đây là phần rất quan trọng nhằm
gây hứng thú cho học sinh trước khi vào bài học. Vì vậy giáo viên có thể kết
hợp kiểm tra kiến thức cũ hoặc kiến thức có liên quan để đưa ra câu hỏi, bài
tập trắc nghiệm chọn đúng sai cho học sinh trả lời hoặc có thể dùng những
hình ảnh để giới thiệu bài một cách trực quan sinh động.
- Phần nội dung bài dạy: Đây là phần cung cấp nội dung kiến thức
trọng tâm của bài, yêu cầu giáo viên phải thiết kế giáo án, sử dụng hình ảnh
hoặc kiến thức bổ trợ sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Tránh hiện
tượng lạm dụng việc trình chiếu để đưa quá nhiều kiến thức lên màn hình,
hoặc quá nhiều hình ảnh không cần thiết, làm cho kiến thức dàn trải, không
xác định được trọng tâm của bài.
- Phần củng cố kiến thức: đây là phần giúp giáo viên và học sinh hệ
thống lại kiến thức trọng tâm đã học trong bài. Giáo viên có thể sử dụng giáo
án điện tử để hệ thống hoá kiến thức, nhấn mạnh nội dung cần học. Giáo viên
có thể thiết kế một số câu hỏi nhỏ để học sinh lựa chọn đáp án đúng - sai,
hoặc có thể tổ chức củng cố kiến thức bằng những trò chơi ô chữ, hái hoa dân
chủ… qua đó giúp học sinh nắm chắc kiến thức bài.
Trong việc dạy học bằng bài giảng điện tử, kiến thức được truyền đến
học sinh dưới dạng hình ảnh, âm thanh…tuy nhiên việc sử dụng phương tiện
truyền thống “ Phấn trắng bảng đen” thật ra vẫn cần thiết.
Vậy làm thế nào để chuẩn bị bài dạy cho tốt đó là điều trăn trở của mỗi
giáo viên. Dạy tốt mỗi nội dung kiến thức chính là góp phần vào việc hình
thành tư duy, năng lực sáng tạo nhất định cho học sinh theo như mục tiêu môn
học đề ra.
Tóm lại, phương tiện dạy học bộ môn toán rất phong phú và đa dạng,
có cả những phương tiện dạy học truyền thống và phương tiện dạy học hiện
đại. Xu hướng hiện nay, người dạy học sử dụng nhiều phương tiện dạy học

hiện đại hơn như máy chiếu, đầu video, băng hình...Việc sử dụng các phương
tiện dạy học hiện đại kết hợp với phương tiện dạy học truyền thống đem lại
nhiều thuận lợi trong quá trình giảng dạy cho cả giáo viên và học sinh, đặc
biệt là đối với bộ môn hình học lớp 9.
2) Bài soạn minh họa
Bài “ Diện tích hình tròn, hình quạt tròn”
Bước 1 : Cho học sinh chuẩn bị ở nhà các yêu cầu sau đây :
7


1: Nắm chắc các công thức tính độ dài đường tròn, cung tròn.
2: Ôn lại công thức tính diện tích hình tròn đã học ở lớp dưới.
3: Tìm hiểu một số vật dụng trong thực tế có dạng hình quạt tròn.
Bước 2 : Giáo viên và học sinh thực hiện tại lớp.
Phần 1 . Kiểm tra bài cũ
Gọi Hs lên bảng thực hiện các yêu cầu sau :
Câu 1:Hãy nêu công thức tính độ dài đường tròn và công thức tính độ dài
cung tròn ?
Câu 2 :Cho hình vẽ hãy tính độ dài cung AmB với bán kính 6 cm ? m
Giải: Ta có ta có sđ ¼
AmB = ·AOB ( Đ/ n góc ở tâm )
B
A
0
0
0
¼
do đó sđ AmB =120 nên n = 120
120°
Độ dài cung AmB là: l ¼AmB =


π Rn 3,14.6.120

≈ 12,56 (cm)
180
180

O

Sau khi Hs thực hiện xong, giáo viên gọi Hs khác nhận xét, sửa sai, Gv
đặt vấn đề vào bài :
Trong tiết học trước các em đã được học cách tính độ dài đường tròn
và độ dài cung tròn . Vậy hình mà bạn vừa làm trong phần KTBC, các em
xem hình này giống vật gì trong thực tế ?( Gv chỉ vào hình vẽ trên bảng).
Trong tiết học hôm nay trên cơ sở diện tích hình tròn ta đi tìm hiểu cách tính
diện tích của hình quạt tròn.
2.Bài mới
Hoạt động 1: Tìm hiểu công thức tính diện tích 1- Công thức tính
hình tròn.
diện tích hình tròn:
Cho hình tròn tâm O bán kính R (Gv trình chiếu)
H : Em hãy nêu công thức tính diện tích hình tròn
R
mà em đã biết ?
O
 công thức tính diện tích hình tròn là
S = πR 2
S = π . R2
H : Vậy theo công thức để tính được diện tích hình
SHình

= π58R2
tròn ta cần biết đại lượng nào ?
( S: diện tích hình
H : Vận dụng công thức hãy tính diện tích hình tròn bán kính R)
tròn biết bán kính đường tròn bằng 3 cm ?(S= π
R2= π 32 ≈ 9.3,14= 28,36 (cm2))
 Hs lên bảng thực hiện .
Gv : Cho Hs quan sát lại bài sửa trên đèn chiếu.
Gv : Như vậy từ công thức S = π R2 để tính diện
tích hình tròn ta cần biết bán kính của đường tròn
đó – Vậy nếu biết diện tích hình tròn ta có thể tính
được bán kính của hình tròn đó hay không ? *)
Lưu ý : Từ S = π R2 ⇒ R =

S
π

Trên cơ sở các em đã nắm được công thức tính
diện tích hình tròn bây giờ chúng ta cùng tìm hiểu
8


hình quạt tròn là hình như thế nào và cách tính diện 2 -Cách tính diện tích
tích của nó ra sao ta cùng sang mục 2
hình quạt tròn
Hoạt động 2: Cách tính diện tích hình quạt tròn
- Giáo viên chỉ vào hình vẽ từ phần kiểm tra bài cũ Hình quạt tròn : Sgk
( trên đèn chiếu )
A
R

Như các em đã biết hình này là hình quạt tròn vậy
n0
O
các em nghiên cứu Sgk và cho biết hình quạt tròn
B
là hình như thế nào
Hình 59
Gv : Hình quạt tròn là một phần hình tròn giới hạn
bởi một cung tròn và hai bán kính đi qua hai mút
của cung đó .
Bây giờ các em cùng cô quan sát một số vật dụng
trong thực tế có dạng hình quạt tròn.
Gv : Đưa lên màn hình một số vật dụng trong
thực tế có dạng hình quạt tròn.
?.Sgk Kết quả lần lượt
Gv: Để thiết lập được
π R 2 π R 2n
2
π
;
là: R ;
công thức tính diện tích
360 360
hình quạt tròn ta cùng
thực hiện ?
*)Giáo viên cho đề ? . Sgk (trình chiếu )
- HS đọc đề bài ? Sgk. Sau đó gọi học sinh điền
kết quả trên phiếu học tập.
Công thức:
Ta có công thức tính diện tích quạt tròn là

S =

π R 2n
khi biết số đo độ cung và bán kính
360

πR 2 n
S=
(1)
360
lR
hay S = (2)
2

quạt. Vậy nếu chỉ biết độ dài cung và bán kính quạt
tròn thì liệu ta có tính được diện tích của quạt tròn
không ?
(l là độ dài cung n0
π R.n R
R
l.R
π R 2n
của hình quạt tròn)
× = l× =
Ta biến đổi S =
=
360

180


2

2

2

H : Vậy diện tích quạt tròn còn được tính thông
qua độ dài cung như thế nào ?
Gv : Vậy để tính diện tích quạt tròn khi biết bán
kính quạt tròn và số đo độ của cung ta dùng công
π R 2n
thức S =
, còn nếu biết bán kính quạt tròn và
360
l.R
độ dài cung ta dùng công thức S =
2

Vận dụng kiến thức vừa học cả lớp hãy : Tính diện
tích hình quạt tròn trong phần kiểm tra bài cũ với
9


bán kính 6cm.
HS đọc đề bài. Gọi 1 học sinh tóm tắt đề bài – Gv
ghi bảng.
Gv : Gọi 1 học sinh lên bảng trình bày bài giải.
Tóm tắt : R = 6 cm
·AOB =120 0
S=?

Giải : ta có sđ ¼
AmB = ·AOB ( Đ/ n góc ở tâm )
0
0
0
do đó sđ ¼
AmB =120 nên n = 120
Diện tích hình quạt tròn là:
π R 2 n π .62.120 3,14.36.120
S=
=

≈ 37, 68(cm 2 )
360
360
360

Ngoài cách tính này, chúng ta còn có cách làm
nào khác ?
( dùng công thức S =

l.R
)
2

Gv : Như vậy để tính diện tích hình quạt tròn ta
cần biết những yếu tố nào ? ( bán kính và số đo độ
cung hoặc độ dài cung và bán kính quạt tròn)
Vì vậy khi thực hiện tính toán các em cần biết vận
dụng linh hoạt các công thức đã học.

π R 2n ⇒
360
S .360
π .n

Từ S =
R=

R= ±

S .360
. Mà R > 0 nên
π .n

π R 2n
ta suy ra n = ?
360
S .360
l.R
π R 2n ⇒
S=
n =
Ngoài ra từ S =
2
π .R
2
360
2S
2S
⇒l =

và R =
R
l

H :Tương tự từ công thức S =

3 . Luyện tập củng cố :
Gv : Cho Hs quan sát đống đá dăm trên màn hình.
Gv : Giới thiệu Chân đống đá dăm đổ trên một
nền nằm ngang là một hình tròn. Nêu một vài cách
để xác định diện tích của phần mặt bằng bị đống đá
chiếm chỗ ?
Gv gợi ý : Ta có cần dời đống đá đi để đo bán kính không ?
Hs hoạt động theo nhóm tìm cách để xác định diện tích của phần mặt bằng bị
đống đá chiếm chỗ .
Gv : Gọi Hs đại diện nhóm trình bày cách thực hiện.
10


Gv Hd :Để tính diện tích hình tròn ta cần biết đại lượng nào ? Vậy để tìm bán
kính R ta làm thế nào ?
1 - Đo chu vi đáy C suy ra bán kính đáy R , rồi từ C = 2 π R ⇒ R =
2 - Tính S từ công thức S = π R2
Hs áp dụng kiến thức vừa học làm bài 78.Sgk
Tóm tắt : C = 12 m
S=?

C



C
12
6
Giải : Từ C = 2 . π .R ⇒ R =
=
=

Diện tích chân đống cát là :





π

36
6
36
36

≈ 11,5 ( m2 )
Vậy S = π .R2 = π .( )2 = π . 2 =
3,14
π
π
π
Vậy chân đống cát chiếm diện tích gần bằng 11,5 m2

Bài 82 trang 99 Sgk : Phần thi “đi tìm tài liệu bí hiểm”
Dưới đây là một mẩu giấy duy nhất còn sót lại của một tài liệu, em hãy khôi

phục chúng bằng cách tính và điền vào ô trống trong bảng sau (Làm tròn kết
quả đến chữ số thập phân thứ nhất).
Bán kính
Độ dài
Diện tích
Số đo của
Diện tích
đường tròn đường tròn
hình
cung tròn
hình quạt
o
(R)
(C)
tròn(S)
(n )
tròn (Sq)
o
a)
13,2 cm
47,5
b)
2,5 cm
12,50 cm2
c)
37,8 cm2
10,60 cm2
Chia lớp thành 2 nhóm - Hs hoạt động theo nhóm làm bài tập trên
Gv: Yêu cầu đại diện nhóm nêu cách tính ?
Gv: Hd sửa sai - Sau đó yêu cầu Hs nhắc lại công thức tính diện tích hình tròn

và công thức tính diện tích quạt tròn ?
4 .Hướng dẫn về nhà
-Học bài và làm bài tập: 78, 80, 83 /98, 99 Sgk .
-Hd bài 80.Sgk ( trên màn hình trình chiếu- xem hình bên dưới)

11


H : Các con dê di chuyển khi căng hết độ dài dây sẽ tạo nên hình gì?
 Gv minh hoạ qua hình vẽ :
A

30m

10m

B

A

10m
30m

D

20m

C

D


20m

20m

B
20m

C

H: Hãy nhận xét về diện tích cỏ của mỗi con dê có thể ăn được trong cách
buộc thứ nhất? Diện tích cỏ có thể ăn được của con dê buộc ở A? Diện tích cỏ
có thể ăn được của con dê buộc ở B?
H:Từ đó suy ra diện tích cỏ của cả hai con dê có thể ăn được trong cách buộc
thứ nhất ?
Tương tự tính diện tích cỏ có thể ăn được của cả hai con dê trong cách buộc
thứ hai?
H : Vậy cách buộc nào diện tích cỏ có thể ăn được của hai con dê lớn hơn?
*) Chuyển biến của sự việc :
- Không khí lớp học rất sinh động, hoạt động của giáo viên và học sinh
trên lớp, diễn ra sôi nổi, liên tục. Hầu hết các em chú ý vào việc trả lời hệ
thống câu hỏi của giáo viên đặt ra. Có một số ít học sinh lơ là, không suy nghĩ
khi giáo viên đặt câu hỏi, nguyên nhân là không chuẩn bị trước ở nhà những
yêu cầu đã dặn dò ở tiết trước, bộ phận này nhỏ và giáo viên có thể khắc phục
dần.
- Học sinh nắm được nguồn gốc của vấn đề, hiểu được tại sao có được
công thức và tính chất đó. Từ đó khi xem và học bài lại ở nhà rất nhanh thuộc
và khó quên.
- Học sinh nắm được liên hệ dây chuyền trong hệ thống kiến thức của
bài, hiểu được một vấn đề có được là do những nguyên nhân nào. Dần dần

các học sinh yếu, trung bình khắc phục được thói quen thụ động và không
thấy chán học môn hình nữa.
- Kiến thức đưa ra cô đọng, nội dung bài học được trình bày khoa học
bên phần bảng đen giúp học sinh xâu chuỗi được kiến thức, nắm được nội
dung bài học.

12


PHẦN III : KẾT QUẢ VÀ VIỆC PHỔ BIẾN
ỨNG DỤNG NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN
I.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC :
Bằng phương pháp nêu vấn đề và dựa trên cơ sở lấy học sinh làm trung
tâm , mục đích của tôi là để học sinh tự suy nghĩ, tìm ra phương pháp giải
toán có liên quan đến việc vận dụng các kiến thức đã học. Tôi không còn chú
ý đến việc học sinh được giải nhiều hay giải ít bài tập mà tôi đã lựa chọn, đưa
nội dung kiến thức phù hợp, sắp xếp các dạng bài tập theo một thứ tự có liên
quan logic các nội dung, kiến thức cần giải quyết.
Trong quá trình dạy học tôi đóng vai trò là trọng tài tổ chức cho học
sinh tìm kiến thức cơ bản nhất, tìm phương pháp giải toán tối ưu nhất thông
qua hệ thống câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu. Tôi giúp học sinh đặt câu hỏi khi gặp
khó khăn như quên kiến thức, không xác định được phương pháp giải toán
nhằm bộc lộ quá trình tư duy của học sinh. Đặc biệt hơn tôi luôn thay đổi hình
thức tổ chức giữa các hoạt động để tránh sự nhàm chán và gây hứng thú cho
học sinh trong suốt tiết học...
Phương pháp mới này đã tạo một môi trường học tập sôi nổi, các em
là người suy nghĩ giải quyết vấn đề dưới những câu hỏi có hệ thống của giáo
viên cho dù có thể mất nhiều thời gian.
Việc sử dụng bài giảng điện tử phù hợp loại bài, nội dung trình chiếu
hợp lý cùng với kỹ năng sử dụng vi tính nhuần nhuyễn qua việc áp dụng đề

tài trong những năm học qua tôi đã thu được một số kết quả như sau :
-Học sinh hứng thú với môn học, không còn cảm thấy “sợ ” học hình
như trước nữa.
- Khắc sâu được nội dung trọng tâm của bài nhưng vẫn đảm bảo được
chuẩn kiến thức, kỹ năng của bài học, có nhiều điều kiện rèn kỹ năng cho học
sinh nhờ ứng dụng CNTT.
Thống kê kết quả khảo sát sau bài học.
Lớp TS
9/1
9/2

42
43

Điểm
Điểm
Điểm
Điểm
Điểm
Trên TB
Từ 0 đến Từ 3.25 Từ 5,0 Từ 6,25 Từ 8,0
TS
%
3,25
đến 4,75 đến 6,25 đến 7, 75 đến 10
5
11
16
10
37

88.1
4
11
18
9
39
90.1

Qua bảng thống kê ta thấy việc tiếp thu và vận dụng kiến thức đã học
của học sinh tương đối tốt.
II.BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
13


*)Đối với bản thân :
Sau quá trình tìm tòi, lựa chọn phương pháp để áp dụng vào giảng dạy
ứng dụng CNTT tôi đã rút ra được bài học kinh nghiệm cho bản thân như sau:
- Trước khi tiến hành với phương pháp này, giáo viên tự đặt mình vào
vị trí của học sinh, từ đó đầu tư tìm tòi hệ thống câu hỏi vừa sức cho các em,
kết hợp phương pháp dạy học truyền thống và dạy học bằng bài giảng bài
giảng điện tử. Hệ thống câu hỏi này kích thích được tư duy của học sinh.
- Thiết kế bài giảng khoa học, sắp xếp hợp lý hoạt động của giáo viên
và học sinh, thiết kế hệ thống câu hỏi hợp lý, tập trung vào trọng tâm, vừa sức
tiếp thu của học sinh (nhất là đối với bài dài, bài khó, nhiều kiến thức mới);
bồi dưỡng năng lực độc lập suy nghĩ, vận dụng sáng tạo kiến thức đã học,
tránh thiên về ghi nhớ máy móc không nắm vững bản chất kiến thức.
- Sử dụng ngôn ngữ chuẩn xác, sinh động, dễ hiểu, tác phong thân
thiện, coi trọng việc khuyến khích, động viên học sinh học tập, tổ chức hợp lý
cho học sinh làm việc cá nhân và theo nhóm.
- Dạy học sát đối tượng, coi trọng việc bồi dưỡng học sinh khá giỏi và

giúp đỡ học sinh học lực yếu kém.
- Phải nhìn rõ được các nét điển hình trong dạy học toán. Bởi vì dạy
học toán là dạy hoạt động toán học, do đó giáo viên cần phải hiểu rõ: Dạy học
toán ứng dụng CNTT không phải là đưa hết tất cả các kiến thức, rót kiến thức
vào học sinh mà chủ yếu là quá trình giáo viên thiết kế, tổ chức, điều khiển
các hoạt động của học sinh theo chuẩn kiến thức kỹ năng của bài học, đặc biệt
phải biết kết hợp phương pháp dạy học hiện đại (qua việc ứng dụng CNTT)
và phương pháp truyền thống “phấn trắng bảng đen” không phải đưa tất cả
nội dung bài học lên màn hình trình chiếu.
- Cần chuẩn bị kỹ hệ thống bài tập và câu hỏi nhằm gieo tình huống,
hướng dẫn từng bước cách giải quyết vấn đề phù hợp từng loại đối tượng học
sinh.
- Nội dung bài dạy, kiến thức được đưa ra cần lựa chọn để ưu tiên cho
học sinh đại trà tương ứng với yêu cầu tối thiểu của bài học, bởi vì học sinh
đại trà thường chiếm đa số trong lớp học. Tuy nhiên vẫn phải có những bài
tập có yêu cầu cao hơn cho học sinh khá, giỏi giúp học sinh biết quá trình
sáng tạo trong việc vận dụng công thức hay định lí, định nghĩa, ... vào việc
giải toán. Từ đó học sinh có niềm tin vào khả năng toán học của mình. Ở sau
mỗi kiến thức đưa ra ngoài những kiến thức kĩ năng mà học sinh đạt được
giáo viên cần phải chú ý nhiều đến việc hình thành kĩ năng vận dụng kiến
thức đã học vào giải toán. Giáo viên phải biết khai thác để học sinh tự phát
hiện và giải quyết một cách chủ động sáng tạo các vấn đề có liên quan đến
mỗi dạng bài tập.
- Đối với tiết dạy bằng “bài giảng điện tử”, mỗi bài dạy, mỗi tiết dạy
đều có những nét chung, nét riêng cần chú ý, không tiết nào giống tiết nào nên
giáo viên không được vận dụng một phương pháp nào đó một cách máy móc.
Nội dung của tiết dạy bằng “bài giảng điện tử” cần được giáo viên lựa chọn
14



kĩ, không tham lam đưa ra giải nhiều bài tập để có đủ thời gian cho học sinh
thực hiện các hoạt động học tập như: Tìm hiểu, phân tích bài toán, tìm chuẩn
kiến thức liên quan để định hướng giải toán, rèn kĩ năng vẽ hình, cách vẽ
đường phụ, trình bày lời giải ... Giáo viên cần biết định dạng, chọn lọc kiến
thức để hướng dẫn học sinh cách học, cách giải toán tránh thông báo kết quả
đúng, sai sau khi học sinh lên bảng giải bài tập.
- Việc thực hành đổi mới phương pháp không chỉ là áp dụng một
phương pháp, một cách tổ chức hoạt động học tập của học sinh để phát huy
tính tích cực của học sinh mà đòi hỏi mỗi giáo viên cần phải biết lựa chọn một
số phương pháp nhất định để truyền thụ lượng kiến thức có chọn lọc, mang
tính chất trọng tâm của bài học cho học sinh. Giúp cho các em hiểu và nắm
chắc kiến thức, nhằm vận dụng tốt vào việc thực hành. Đặc biệt trong quá
trình dạy học theo hướng tích cực và tích hợp, giáo viên chúng ta cần vận
dụng khéo léo hình thức tổ chức học sinh học tập theo nhóm để rèn cho các
em thói quen học và chuẩn bị bài kĩ ở nhà trước khi đến lớp. Tạo điều kiện
cho các em tư duy tích cực, sáng tạo, hăng hái phát biểu ý kiến, tham gia
tranh luận sôi nổi có kết quả tạo được niềm hứng thú say mê cho các em trong
giờ học.
- Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong dạy học. Đối với tổ, nhóm
chuyên môn nên chọn chuyên đề, bài giảng, giáo án điện tử phù hợp với đối
tượng học sinh .
- Ứng dụng CNTT, giảng dạy với “ bài giảng điện tử” có thể áp dụng
trong tất cả các bộ môn, ở các khối lớp với các dạng bài dạy khác nhau tuy
nhiên phông phải bài dạy nào cũng có thể dùng bài giảng điện tử. Vì vậy việc
ứng dụng CNTT trong bài dạy đòi hỏi mỗi giáo viên cần vận dụng và phát
huy hết tác dụng thật sự của nó, để sau mỗi tiết học “bài giảng điện tử” như là
nguồn để học sinh khai thác, tìm kiếm và phát hiện những kiến thức, kỹ năng
thực sự bổ ích.
* Đối với học sinh :
Hình thành một phương pháp học tập mới, thay thế dần lối học thụ

động, máy móc nhìn chép.
Học sinh lấy lại được niềm tin khi chính bản thân mình giải quyết được
một vấn đề dù là vấn đề nhỏ.
Nâng dần khả năng suy luận lôgic của học sinh. Biết giải thích một vấn
đề nhỏ từ những chân lý đã biết.
III. KẾT LUẬN :
Hiện nay sự nghiệp giáo dục – đào tạo của đất nước đang có những cơ
hội để phát triển. Chưa bao giờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với giáo
dục lớn như bây giờ. Phó Thủ tướng, nguyên bộ trưởng Bộ GD & ĐT Nguyễn
Thiện Nhân cũng tha thiết căn dặn :“ Mỗi thầy cô giáo phải là một tấm
gương sáng về đạo đức, tấm gương sáng về tự học và sáng tạo”. Đó là những
luận điểm vô cùng quan trọng để mỗi thầy cô giáo vận dụng, phấn đấu, nhằm
15


mục đích cuối cùng là đào tạo cho đất nước những thế hệ công dân tốt nhất
vai trò của đôi ngũ nhà giáo được đề cao hơn bao giờ hết. Dạy học là một
nghề vinh quang, và vinh quang chỉ đến khi mỗi nhà giáo thực sự là tấm
gương sáng về đạo đức, bậc thầy thực sự về kiến thức đối với người đi học.
Ngành giáo dục thành phố Pleiku, trong những năm vừa qua, đã và
đang khởi sắc, hoà nhịp chung cùng sự đổi mới của giáo dục cả nước. Đầu tư
về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, quan tâm sâu sát đến đội ngũ giáo
viên, khơi dạy ý thức trách nhiệm, lòng nhiệt tình và nâng cao năng lực hành
động của đội ngũ các nhà giáo. Với quyết tâm đổi mới trong giáo dục, nhằm
đạt hiệu quả cao nhất.
Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ giáo viên chúng ta cần phải
đầu tư hơn nữa đến công tác dạy học của mình. Làm thế nào để nâng cao chất
lượng giáo dục của đơn vị mình nói riêng, ngành giáo dục Pleiku nói chung.
Rất mong sự góp ý, giúp đỡ của quý thầy cô giáo, bạn đọc để đề tài này
thực sự hấp dẫn và có hiệu quả khi đến với các em học sinh.

Xin chân thành cảm ơn !

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.

Phan Đức Chính , Sách giáo khoa toán 9, NXB Giáo Dục, 2004.
Phan Đức Chính , Sách giáo viên toán 9, NXB Giáo Dục, 2005.
Tạp chí toán tuổi thơ.
Tập san báo giáo dục thời đại.
500 bài toán cơ bản và nâng cao THCS toán 9.(Nhà xuất bản Đại Học Sư
Phạm)
Tài liệu tập huấn “Phương pháp dạy học toán học phổ thông"của bộ Giáo
dục và đào tạo.
Bộ giáo dục đào tạo, Tài liệu tập huấn giáo viên “dạy học, kiểm tra đánh
giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ thông”,
tháng 7 năm 2010.
Phạm Đức Tài, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn toán
trung học cơ sở, nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
Trang điện tử ; ;

;

17


MỤC LỤC
Tran
g
PHẦN I: Đặt vấn đề ……………………………………………..……..……………..1
I. Cơ sở lý luận.............................................................................................….1
II. Cơ sở thực tiễn..............................................................................................2
1. Kết quả của học sinh khi chưa áp dụng CNTT ............................................2
2. Sự cần thiết của việc ứng dụng CNTT .........................................................3
3. Tính hiệu quả của ứng dụng CNTT...............................................................3
PHẦN II. Thực trạng và một số biện pháp giải quyết................................3
I. Thực trạng ....................................................................................................4
1. Thực trạng chung..........................................................................................4
2. Thực trạng về sử dụng bài giảng điện tử của giáo viên ............................. 4
II. Quá trình phát triển kinh nghiệm.................................................................5
III. Một số biện pháp giải quyết...................................................................... 6
1. Công tác chuẩn bị........................................................................................ 6
2. Bài soạn minh hoạ....................................................................................... 7
PHẦN III: Kết quả và việc phổ biến ứng dụng nội dung vào thực tiễn …13
I. Kết quả đạt được ....................................................................................…13
II.Bài học kinh nghiệm………………….…………..……………………… 13
III. Kết luận ………………………………………………………….…….. 15

18




×