Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận: Pháp luật về đại diện cho thương nhân và môi giới thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.79 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Pháp luật về các hoạt động trung gian thương mại của Việt Nam nhìn
chung ra đời muộn hơn các chế định pháp luật khác, chỉ từ khi Việt Nam chính
thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì các quy
định của pháp luật mới bắt đầu được đề cập đến trong Luật thương mại 2005,
trong các luật chuyên ngành như Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ Luật Hàng hải,
Luật Du lịch, Luật Kinh doanh chứng khoán và các băn bản hướng dẫn. Việc áp
dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh trong hoạt động trung gian thương
mại nói chung và hoạt động môi giới thương mại nói chung đã được xác định rõ
ràng, phù hợp với nguyên tắc áp dụng luật chung.
Phương thức kinh doanh thương mại qua trung gian thương mại chủ yếu
bao gồm: các hoạt động đại diện thương mại, môi giới thương mại, ủy thác
thương mại được coi là những phương thức kinh doanh truyền thống, được các
thương nhân sử dụng khá sớm trong lịch sử phát triển thương mại và ngày nay
vẫn được ưa chuộng. Việc sử dụng các dịch vụ trung gian thương mại có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển kinh doanh của thương nhân cũng như nền kinh
tế quốc dân đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Vì vậy, việc tìm hiểu
các quy định của pháp luật về hoạt động một số hoạt động trung gian trong
thương mại như môi giới thương mại và đại diện cho thương nhân một trong
những hoạt động khá phổ biến ngày này là hoàn toàn cần thiết. Vì vậy, tôi đã lựa
chọn đề tài: “Pháp luật về đại diện cho thương nhân và môi giới thương mại”
nhằm nâng cao nhận thức về các quy định pháp luật trong hai hoạt động trung
gian thương mại này.

1


NỘI DUNG
A. PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN CHO THƯƠNG NHÂN.
1. Khái niệm quan hệ đại diện cho thương nhân.
Theo Điều 139 Bộ Luật Dân sự 2005: “đại diện là việc một người (gọi là


người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (gọi là người được đại
diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Quan hệ đại
diện có thể được thiết lập trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và
bao gồm hai loại:
 Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định ( Điều 140 Bộ Luật Dân sự).
 Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa
người đại diện và người được đại diện ( Điều 142 Bộ Luật Dân sự).
Điều 141 Luật Thương mại quy định: Đại diện cho thương nhân là việc
một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác
(gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh
nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại
diện.
Từ quy định của Bộ luật Dân sự và Luật thương mại hiện hành có thể
khẳng định đại diện cho thương nhân là một dạng của đại diện theo uỷ quyền
được thực hiện trong hoạt động thương mại.
2. Đặc điểm của quan hệ đại diện cho thương nhân.
Quan hệ đại diện cho thương nhân phát sinh giữa bên đại diện và bên giao
đại diện.Trong quan hệ này thì cả bên đại diện và bên giao đại diện đều phải là
thương nhân. Bên giao đại diện là thương nhân có quyền thực hiện một hoạt
động thương mại nhất định nhưng lại muốn trao quyền đó cho thương nhân khác
thay mình thực hiện hoạt động thương mại. Bên đại diện cho thương nhân cũng
phải là thương nhân thực hiện hoạt động đại diện một cách chuyên nghiệp. Hoạt
động đại diện cho thương nhân liên quan đến ba chủ thể : bên giao đại diên, bên
đại diện và bên thứ ba. Bên đại diện nhân danh chính mình trong quan hệ với
bên giao đại diện và nhân danh bên giao đại diện trong quan hệ với bên thứ ba.
2


Bên đại diện được giao dịch với bên thứ ba trong phạm vi uỷ quyền, mọi hành vi

do bên đại diện thực hiện đều mang lại hậu quả pháp lý cho bên giao đại diện.
Đây là điểm khác biệt cơ bản của hoạt động đại diện cho thương nhân so với các
hoạt động trung gian thương mại khác. Trong quan hệ đại diện cho thương nhân,
bên đại diện và bên giao đại diện có sự ràng buộc khá chặt chẽ.
Nội dung của hoạt động đại diện cho thương nhân do các bên tham gia
quan hệ thoả thuận. Các bên có thể thoả thuận về việc bên đại diện được thực
hiện một phần hoặc toàn bộ các hoạt động thương mại thuộc phạm vi hoạt động
của bên giao đại diện. Hoạt động đại diện cho thương nhân thường bao gồm việc
tìm kiếm các cơ hội kinh doanh cho thương nhân giao đại diện và được tiến
hành trong suốt thời gian đại diện, không giới hạn vào một vụ việc cụ thể. Bên
đại diện cho thương nhân có thể được uỷ quyền tiến hành các hoạt động nghiên
cứu thị trường, lựa chọn đối tác, đàm phán, giao kết hợp đồng với bên thứ ba
trên danh nghĩa của bên giao đại diện. Cùng một lúc bên đại diện có thể tiến
hành hoạt động này cho nhiều thương nhân trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác.
Quan hệ đại diện cho thương nhân phát sinh trên cơ sở hợp đồng đại diện,
là một dạng riêng của quan hệ đại diện theo uỷ quyền được quy định trong Bộ
luật Dân sự, là một dạng đặc biệt của hợp đồng uỷ quyền. Hợp đồng đại diện
cho thương nhân luôn mang tính chất đền bù.
Hợp đồng đại diện cho thương nhân được giao kết giữa các thương nhân
với nhau, thương nhân giao đại diện phải có quyền thực hiện hoạt động thương
mại mà mình uỷ quyền, thương nhân đại diện phải có đăng ký kinh doanh dịch
vụ đại diện.
Hợp đồng đại diện cho thương nhân là một dạng riêng của hợp đồng uỷ
quyền được quy định trong Bộ luật Dân sự nhưng đồng thời là hợp đồng dịch
vụ. Đối tượng của hợp đồng đại diện cho thương nhân là những công việc mà
bên đại diện phải tiến hành trên danh nghĩa và theo sự chỉ dẫn của bên giao đại
diện.

3



Hợp đồng đại diện cho thương nhân phải được lập thành văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 142 Luật thương mại).
Xuất phát từ bản chất của quan hệ đại diện cho thương nhân và hạn chế
tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng đại diện cho thương nhân,
khi giao kết hợp đồng này các bên có thể thoả thuận về những điều khoản: Phạm
vi đại diện; thời hạn đại diện; mức thù lao trả cho bên đại diện; thời điểm phát
sinh quyền được hưởng thù lao, thời gian và phương thức thanh toán tiền thù lao
cho việc đại diện; quyền và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng; hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng.
Khác biệt giữa đại diện cho thương nhân với đại diện theo uỷ quyền được
quy định trong Bộ luật Dân sự.
Về chủ thể: hoạt động đại diện cho thương nhân theo quy định của Luật
thương mại có chủ thể bắt buộc phải là thương nhân. Đại diện theo uỷ quyền
quy định của Bộ luật Dân sự có chủ thể là bất kỳ ai miễn là đáp ứng đủ điều kiện
về năng lực chủ thể được quy định trong Bộ luật Dân sự.
Về mục đích hoạt động đại diện: Hoạt động đại diện cho thương nhân
theo quy định trong Luật thương mại có mục đích sinh lời. Quan hệ đại diện gắn
liền với lĩnh vực hoạt động thương mại. Quy định về đại diện trong Bộ luật Dân
sự không nhất thiết phải có mục đích này.
Về hình thức hợp đồng: Hợp đồng đại diện cho thương nhân quy định
trong Luật thương mại phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá
trị pháp lý tương đương. Hợp đồng uỷ quyền quy định trong Bộ luật Dân sự
không nhất thiết phải thể hiện bằng văn bản.
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đại diện cho thương
nhân.
Trong quan hệ giữa bên đại diện và bên giao đại diện được thiết lập thông
qua hợp đồng nên quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đại diện cho
thương nhân chủ yếu được xác định thông qua các điều khoản của hợp đồng.

Ngoài những điều khoản của hợp đồng thì bên đại diễn cũng như bên giao đại
diện cũng có các quyền và nghĩa vụ nhất định được pháp luật quy định và rang

4


buộc các bên phải thực hiện (trừ các bên thoản thuận khác nhưng không phạm
vào điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội).
3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên đại diện đối với bên giao đại diện.
3.1.1. Nghĩa vụ của bên đại diện.
Trong quan hệ đại diện cho thương nhân, bên giao đại diện không những
cho phép và ủy quyền cho bên đại diện quan hệ với bên thứ ba mà còn thường
xuyên giao tiền và tài sản của mình cho bên đại diện quản lý. Vì vậy, nếu bên
đại diện sơ suất hay thiếu trung thực có thể làm ảnh hưởng tới bên giao đại diện.
Do đó cần quy định những nghĩa vụ phải thực hiện của bên đại diện.
Theo quy định tại Điều 145 Luật thương mại 2005, bên đại diện có các
nghĩa vụ sau (trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác).
Thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa và vì lợi ích của bên
giao đại diện.
Nghĩa vụ này thường xuất hiện trong các trường hợp có sự xung đột về
quyền lợi giữa bên đại diện và bên giao đại diện. Trong phạm vi đại diện, bên
đại diện thực hiện các hoạt động thương mại nhân danh bên giao đại diện chứ
không nhân danh mình. Những giao dịch do bên đại diện thực hiện nhân danh
bên giao đại diện mà vượt quá phạm vi đại diện nếu không được bên giao đại
diện chấp nhận thì bên đại diện phải chịu trách nhiệm đối với bên thứ ba, trừ
trường hợp bên thứ ba biết hoặc phải biết về việc không có thẩm quyền đại diện.
Bên đại diện có nghĩa vụ hoạt động vì lợi ích của bên giao đại diện, có nghĩa vụ
báo cho bên thứ ba về thời hạn, phạm vi được ủy quyền của mình cũng như việc
sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền.
Thông báo cho bên giao đại diện về cơ hội và kết quả thực hiện các hoạt

động thương mại đã được uỷ quyền.
Bên đại diện phải nỗ lực để cung cấp cho bên giao đại diện các thông tin
mà mình biết hay phải biết với cương vị là bên đại diện như diễn biến thị trường,
tình hình kinh doanh, khả năng trả nợ của đối tác, kết quả của các hoạt động đã
thực hiện… để bên giao đại diện chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh

5


doanh của mình cho phù hợp với tình hình thị trường và kịp thời đưa ra những
chỉ dẫn cụ thể cho bên đại diện.
Tuân thủ chỉ dẫn của bên giao đại diện nếu chỉ dẫn đó không vi phạm quy
định của pháp luật.
Nghĩa vụ này đòi hỏi trong phạm vi được ủy quyền bên đại diện phải tuân
theo mọi chỉ dẫn của bên giao đại diện. Bên đại diện phải trao đổi, thông báo
cho bên giao đại diện khi không thể thực hiện những chỉ dẫn của họ hoặc việc
thực hiện có nguy cơ gây thiệt hại cho bên giao đại diện. Bên đại diện có quyền
từ chối thực hiện chỉ dẫn của bên giao đại diện nếu chỉ dẫn đó vi phạm pháp luật
hoặc không phù hợp với hợp đồng đại diện.
Không được thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa của mình
hoặc của người thứ ba trong phạm vi đại diện.
Nghĩa vụ này không có nghĩa là bên đại diện không được phép đại diện
cho hại hoặc nhiều thương nhân cùng một lúc nếu trong trường hợp không có
những hạn chế như vậy.
Không được tiết lộ hoặc cung cấp cho người khác các bí mật liên quan
đến hoạt động thương mại của bên giao đại diện trong thời gian làm đại
diện và trong thời hạn hai năm, kể từ khi chấm dứt hợp đồng đại diện.
Khi giao kết hợp đồng đại diện các bên có thể thỏa thuận thông tin nào
được coi là bí mật, nếu các bên không thỏa thuận thì tùy vào điều kiện cụ thể để
xem xét song các thông tin đó phải liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh

của bên giao đại diện. Những thông tin này chưa được công bố công khai và đã
được tiết lộ cho bên đại diện. Nếu bên đại diện tiết lộ các thông tin này có thể
làm phương hại đến việc kinh doanh của bên giao đại diện.
Bảo quản tài sản, tài liệu được giao để thực hiện hoạt động đại diện.
Bên đại diện có trách nhiệm bảo quản tài sản, tài liệu được giao và phải
hoàn trả tài sản, tài liệu đó cho bên giao đại diện khi kết thúc hoạt động đại diện.
Bên đại diện phải bảo quản tài sản do bên giao đại diện giao riêng biệt với tài
sản của mình.

6


3.1.2. Quyền của bên đại diện.
Quyền hưởng thù lao.
Bên đại diện được hưởng thì lao đối với các hợp đồng được giao kết trong
phạm vi đại diện. Mức thù lao và thời điểm phát sinh quyền hưởng thù lao,
phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận trong hợp đồng đại diện.
Nếu trong hợp đồng đại diện các bên không thỏa thuận về mức thù lao thì
mức thù lao cho bên đại diện được xác định theo giá của các dịch vụ đó trong
các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường
địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch
vụ.
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận về thời hạn thanh toán thù lao
cho bên đại diện và giữa các bên không có bất kì thói quen nào về việc thanh
toán thì thời hạn thanh toán là thời điểm bên đại diện đã hoàn thành việc cung
ứng dịch vụ.
Quyền yêu cầu thành toán chi phí.
Trong hợp đồng đại diện, các bên có thỏa thuận về nghĩa vụ thanh toán
các chi phí liên quan đến việc thực hiện hoạt động đại diện. Các bên có thể thỏa
thuận mọi chi phí cho hoạt động do bên đại diện tự chụi, bên đại diện không có

nghĩa vụ thanh toán các chi phí đó. Để bảo vệ lợi ích chính đáng của bên đại
diện. Điều 148 Luật thương mại quy định: “Trừ trường hợp có thoả thuận khác,
bên đại diện có quyền yêu cầu được thanh toán các khoản chi phí phát sinh hợp
lý để thực hiện hoạt động đại diện”.
Quyền được nắm giữ, tài liệu được giao.
Đây thực chất là một quyền phái sinh từ quyền được hưởng thù lao và
thanh toán các chi phí hợp lí khi đã đến hạn, vì để đảm bảo các quyền này được
thực hiện, bên đại diện có quyền cấm giữ tài sản, tài lệu được giao trong quá
trình thực hiện hoạt động đại diện. Điều này được quy định cụ thể tại Điều 149
Luật thương mại 2005: “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên đại diện có
quyền cầm giữ tài sản, tài liệu được giao để bảo đảm việc thanh toán các khoản
thù lao và chi phí đã đến hạn.”

7


3.2.

Quyền và nghĩa vụ của bên được giao đại diện đối với bên đại
diện.

Mặc dù cả bên đại diện và bên giao đại diện đều có quyền và nghĩa vụ
phát sinh từ quan hệ đại diện nhưng người ta thường quan tâm nhiều hơn đến
nghĩa vụ của bên đại diện. Điều đó xuất phát từ bản chất của quan hệ đại diện,
trong quan hệ này người phải thực hiện dịch vụ theo hợp đồng và theo quy định
của pháp luật chủ yếu là bên đại diện. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì
người giao đại diện cũng có một số các quyền và nghĩa vụ sau:
3.2.1. Nghĩa vụ của bên giao đại diện.
Điều 146 Luật thương mại 2005 quy định, trừ trường hợp các bên có thảo
thuận khác, bên giao đại diện có nghĩa vụ sau:

Thông báo ngay cho bên đại diện về việc giao kết hợp đồng mà bên đại
diện đã giao dịch, việc thực hiện hợp đồng mà bên đại diện đã giao kết,
việc chấp nhận hay không chấp nhận các hoạt động ngoài phạm vi đại
diện mà bên đại diện thực hiện.
Cung cấp tài sản, tài liệu, thông tin cần thiết để bên đại diện thực hiện
hoạt động đại diện.
Đây là nghĩa vụ mà bên giao đại diện phải thực hiện nhằm tạo điều kiện
cho bên đại diện hoạt động cũng như làm để phục vụ cho lợi ích của chính họ.
Trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại diện.
Đây là nghĩa vụ quan trọng của bên giao đại diện. Thù lao mà bên giao
đại diện phải thanh toán có thể bao gồm thù lao theo hợp đồng đại diện và
những khoản thù lao phát sinh từ hợp đồng đại diện. Ngoài ra, bên giao đại diện
còn phải thanh toán cho bên đại diện những chi phí liên quan đến việc đại diện,
nếu các bên không có thoản thuận khác.
Thông báo kịp thời cho bên đại diện về khả năng không giao kết được,
không thực hiện được hợp đồng trong phạm vi đại diện.
3.2.2. Quyền của bên giao đại diện.
Quyền của bên giao đại diện không được quy định một các cụ thể trong
Luật thương mại, song do tính chất của hợp đồng đại diện cho thương nhân là

8


hợp đồng song vụ nên thông qua các nghĩa vụ của bên đại diện, có thể thấy được
quyền của bên giao đại diện. Đó là những quyền sau:
Quyền không chấp nhận hợp đồng do bên đại diện kí không đúng thẩm
quyền. Bên giao đại diện có quyền yêu cầu bên đại diện và khách hàng
liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh nếu những người này cố ý xác lập,
thực hiện giao dịch vượt quá thẩm quyền đại diện.
Quyền yêu cầu bên đại diện cung cấp các thông tin liên quan đến việc

thực hiện hợp đồng thương mại được ủy quyền.
Quyền đưa ra những chỉ dẫn và yêu cầu bên đại diện phải tuân thủ các chỉ
dẫn đó.
4. Chấm dứt hợp đồng đại diện cho thương nhân.
Việc chấm dứt hợp đồng đại diện cho thương nhân được điều chỉnh chung
theo quy định tại Điều 589 Bộ luật dân sự 2005 và được hiểu như sau:
 Thời hạn đại diện cho thương nhân chấm dứt.
 Công việc đại diện cho thương nhân hoàn thành.
 Một trong các bên tham gia hợp đồng chết, mất hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự, mất tư cách thương nhân;
 Hợp đồng môi giới bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện.
Trong quy định về thời hạn của hợp đồng đại diện cho thương nhân thì
quy định tại Điều 144 Luật Thương mại năm 2005:
“1. Thời hạn đại diện do các bên thoả thuận.
2. Trường hợp không có thoả thuận, thời hạn đại diện chấm dứt khi bên
giao đại diện thông báo cho bên đại diện về việc chấm dứt hợp đồng đại diện
hoặc bên đại diện thông báo cho bên giao đại diện về việc chấm dứt hợp đồng.
3. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu bên giao đại diện đơn phương
thông báo chấm dứt hợp đồng đại diện theo quy định tại khoản 2 Điều này thì
bên đại diện có quyền yêu cầu bên giao đại diện trả một khoản thù lao do việc
bên giao đại diện giao kết các hợp đồng với khách hàng mà bên đại diện đã
giao dịch và những khoản thù lao khác mà đáng lẽ mình được hưởng.
4. Trường hợp thời hạn đại diện chấm dứt theo quy định tại khoản 2 Điều
này theo yêu cầu của bên đại diện thì bên đại diện bị mất quyền hưởng thù lao

9


đối với các giao dịch mà đáng lẽ mình được hưởng nếu các bên không có thoả
thuận khác.”

Theo quy định trên thì hợp đồng đại diện thương nhân có thể chấm dứt
theo hai trường hợp:
Thứ nhất, hợp đồng chấm dứt do hết thời hạn thỏa thuận, khi đó các bên
phải hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ của hợp đồng.
Thứ hai, hợp đồng chấm dứt trong trường hợp không có thỏa thuận về
thời hạn. Khi đó, hợp đồng sẽ chấm dứt khi một trong hai bên thông báo cho
bênkia biết về việc chấm dứt hợp đồng. Trường hợp hợp đồng chấm dứt theo
yêu cầu của bên giao đại diện, thì bên đại diện có quyền yêu cầu bên giao đại
diện trả một khoản thù lao do việc giao kết hợp đồng với khách hàng mà bên đại
diện đã giao dịch và những khoản thù lao khác mà mình được hưởng; Trường
hợp nếu hợp đồng chấm dứt theo yêu cầu của bên đại diện, thì bên đại diện bị
mất quyền hưởng thù lao với các giao dịch mà mình được hưởng.
B. PHÁP LUẬT VỀ MÔI GIỚI THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm của môi giới thương mại.
Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, môi giới được hiểu là
người làm trung gian để cho hai bên tiếp xúc, giao thiệp với nhau. Tương tự với
cách hiểu thông thường về môi giới, Điều 150 Luật thương mại đã định nghĩa
môi giới thương mại như sau: “Môi giới thương mại là hoạt động thương mại,
theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm
phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và được hưởng thù lao theo
hợp đồng môi giới”.
2. Đặc điểm của môi giới thương mại.
Môi giới thương mại có những đặc điểm sau:
Chủ thể của quan hệ môi giới thương mại gồm bên môi giới và bên được
môi giới, trong đó bên môi giới phải là thương nhân, có đăng kí kinh doanh để
thực hiện dịch vụ môi giới thương mại và không nhất thiết phải có ngành nghề
đăng kí kinh doanh trùng với ngành nghề kinh doanh của các bên được môi giới.

10



Pháp luật hiện hành không quy định bên được môi giới có nhất thiết phải là
thương nhân hay không. Trong hoạt động môi giới thương mại, không phải tất
cả các bên được môi giới đề có quan hệ môi giới thương mại với bên môi giới
mà chỉ có bên được môi giới nào kí hợp đồng môi giới với bên môi giới thì giữa
họ mới phát sinh quan hệ môi giới thương mại.
Khi sử dụng dịch vụ môi giới thương mại, bên môi giới nhân danh chính
mình để quan hệ với các bên được môi giới và làm nhiệm vụ giới thiệu các bên
được môi giới với nhau. Sau đó, các bên được môi giới trực tiếp giao kết hợp
đồng với nhau. Nếu họ thay mặt bên được môi giới kí hợp đồng với khách hàng
thì họ sẽ trở thành bên đại diện không đúng thẩm quyền của bên được môi giới.
Tuy nhiên, luật thương mại của Việt Nam không cấm bên được môi giới ủy
quyền cho bên môi giới kí hợp đồng với khách hàng. Trong trường hợp này, bên
môi giới hành động với tư cách của bên đại diện.
Nội dung hoạt động môi giới rất rộng, bao gồm nhiều hoạt động như: tìm
kiếm và cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến
hành các hoạt động giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để các
bên được môi giới tiếp xúc với nhau, tiếp xúc các bên được môi giới soản thảo
văn bản hợp đồng khi họ yêu cầu. Mục đích của hoạt đồng môi giới là các bên
được môi giới giao kết hợp đồng với nhau.
Môi giới thương mại là một hoạt động kinh doanh thuần túy. Mục đích
của bên môi giới thương mại khi thực hiện việc môi giới là tìm kiếm lợi nhuận.
Bên môi giới thông thường được hưởng thù lao khi các bên được môi giới đã
giao kết hợp đồng với nhau.
Phạm vi của môi giới thương mại theo luật thương mại năm 2005 bao
gồm tất cả các hoạt động môi giới có mục đích kiếm lợi như môi giới mua bán
hàng hóa, môi giới chứng khoán, môi giới bảo hiểm, môi giới tàu biển, môi giới
thuê máy bay, môi giới bất động sản…Tuy nhiên, luật thương mại là luật chung
điều chỉnh các hoạt động thương mại nên những quy định về môi giới thương

mại trong luật này chỉ mang tính nguyên tắc còn các hoạt động môi giới trong
từng lĩnh vực riêng biệt lại được luật chuyên ngành quy định cụ thể. Ví dụ: môi

11


giới bảo hiểm được quy định trong Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, môi
giới hàng hải được quy định trong Luật hàng hải năm 2005…
Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi
giới.
Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới,
bên môi giới phải là thương nhân còn bên được môi giới không nhất thiết phải là
thương nhân (vì pháp luật không quy định gì về điều kiện bên được môi giới).
Đối tượng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới nhằm chắp nối
quan hệ giữa các bên được môi giới với nhau. Hình thức của hợp đồng môi giới
thương mại không được luật thương mại 2005 quy định.
Luật thương mại 2005 đã bỏ quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng
môi giới nhưng xuất phát từ bản chất của quan hệ môi giới và để hạn chế tranh
chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng môi giới, khi giao kết hợp đồng
này các bên có thỏa thuận những điều khoản về nội dung cụ thể của việc môi
giới, mức thù lao mà bên môi giới sẽ được nhận, thời hạn thực hiện hợp đồng
môi giới, quyền và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng môi giới.
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ môi giới thương mại.
3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới đối với bên được môi giới.
3.1.1.
Nghĩa vụ của bên môi giới.
Điều 151 của Luật thương mại quy định, trừ trường hợp các bên thỏa
thuận khác, bên môi giới có các nghĩa vụ sau:
• Bảo quản các mẫu hàng hoá, tài liệu được giao để thực hiện việc môi giới

và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoàn thành việc môi giới.
• Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của
bên được môi giới.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng môi giới, có thể bên được môi giới
phải cung cấp cho bên môi giới một số thông tin liên quan đến bí mật kinh
doanh của mình. Bên môi giới chỉ được sử dụng các thông tin này để thực hiện
việc môi giới theo hướng có lợi cho bên được môi giới mà không được cung cấp

12


những thông tin đó cho khách hàng hay đối thủ cạnh tranh của người được môi
giới.
• Chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên được môi giới, nhưng
không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ.
Là người trung gian, bên môi giới có trách nhiệm cung cấp thông tin tư
vấn cho bên được đại diện. Biên môi giới phải có trách nhiệm cung cấp chính
xác về tư cách pháp lý của đối tác cho các bên được môi giới. Căn cứ vào bản
chất của hoạt động môi giới, bên môi giới không tham gia vào quá trình thực
hiện mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ thương mại đã được giao kết giữa
các bên. Do đó, không chụi bất kì trách nhiệm nào trước sự vi phạm hợp đồng
của các bên được môi giới với nhau. Tuy nhiên, nếu được ủy quyền hợp pháp
của một hoặc các bên được môi giới thì bên môi giới được thực hiện một số
nghĩa vụ theo hợp đồng như giao hàng hay nhận tiền thanh toán…
• Không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ
trường hợp có uỷ quyền của bên được môi giới.
3.1.2.
Quyền của bên môi giới.
Quyền hưởng thù lao môi giới được quy định như sau:
“Điều 153. Quyền hưởng thù lao môi giới

1. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát
sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với nhau.
2. Trường hợp không có thỏa thuận, mức thù lao môi giới được xác định
theo quy định tại Điều 86 của Luật này.”
Quyền hưởng thù lao của bên môi giới phát sinh từ thời điểm các bên
được môi giới kí kết với nhau về hợp đồng mua bán hàng hóa hay hợp đồng
cung ứng dịch vụ, trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác. Điều này có nghĩa là
việc các bên được môi giới không thực hiện hợp đồng đã giao kết hoàn toàn
không ảnh hưởng đến quyền hưởng thù lao của bên môi giới, quy định như vậy
là phù hợp với chức năng của bên môi giới, bỏi môi giới không chụi trách nhiệm
cho khả năng thực hiện hợp đồng hoặc khả năng tài chính của các bên. Tuy
nhiên, trong hợp đồng môi giới các bên có thỏa thuận về thù lao môi giới chỉ

13


phát sinh sau khi hợp đồng môi giới giữa các bên được thực hiện dưới các điều
kiện mà bên được môi giới mong muốn.
Trong trường hợp, các bên được môi giới không giao kết hợp đồng với
nhau, bên môi giới không được hưởng thù lao môi giới nhưng nếu các bên
không có thỏa thuận khác, bên môi giới vẫn có quyền yêu cầu bên được môi giới
thanh toán cho mình chi phí hợp lí liên quan đến việc môi giới.
Nếu trong hợp đồng các bên không thỏa thuận về mức thù lao thì mức thù
lao môi giới được xác định theo giá của loại dịch vụ đó theo các điều kiện tương
tự về phương thức cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các
điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ.
3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên được môi giới đối với bên môi giới.
3.2.1.
Nghĩa vụ của bên được môi giới.
Theo quy định tại điều 152 Luật thương mại 2005, nếu các bên không có

thỏa thuận khác, bên được môi giới các các nghĩa vụ sau:
• Cung cấp các thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết liên quan đến hàng
hoá, dịch vụ.
• Trả thù lao môi giới và các chi phí hợp lý khác cho bên môi giới.
3.2.2.
Quyền của bên được môi giới.
Luật thương mại không quy định về quyền của bên được môi giưới, tuy
nhiên căn cứ vào các nghĩa vụ của bên được môi giới, có thể suy ra bên được
môi giới có các quyên sau:
• Yêu cầu bên môi giới bảo quản các mẫu hàng hóa, tài liệu đã được giao
để thực hiện việc môi giưới và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau
khi hoàn thành việc môi giới.
• Yêu cầu bên môi giới không tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại
đến lợi ích của mình.

4. Chấm dứt hợp đồng môi giới thương mại.
Luật thương mại 2005 không quy định về các trường hợp chấm dứt hợp
đồng môi giới thương mại. Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 424 Bộ luật dân sự 2005

14


về các trường hợp chấm dứt hợp đồng dân sự thì hợp đồng môi giới thương mại
chấm dứt theo thỏa thuận của các bên và trong những trường hợp sau:
 Hợp đồng môi giới hết thời hạn;
 Mục đích môi giới đã hoàn thành;
 Một trong các bên tham gia hợp đồng chết, mất hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự,bên môi giới mất tư cách thương nhân;
 Hợp đồng môi giới bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện.
Luật thương mại hiện hành không quy định về quyền đơn phương chấm

dứt hợp đồng của các bên tham gia hợp đồng môi giới thương mại. Tuy nhiên,
hợp đồng này là một loại hợp đồng dịch vụ nên căn cứ theo Điều 525 Bộ luật
dân sự 2005, bên được môi giới có quyền đơn phương chấm dứt việc thực hiện
hợp đồng nếu việc tiếp tục thực hiện dịch vụ không có lợi cho mình nhưng phải
thông báo cho bên môi giới viết trước một thời gian hợp lý và thanh toán tiền
công cho phần dịch vụ đã tiến hành và bồi thường thiệt hại. Nếu bên được môi
giới không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không đúng theo thỏa
thuận thì bên môi giới có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và
yêu cầu bồi thường thiệt hại.

15


KẾT LUẬN
Tiêu thụ sản phẩm là một khâu hết sức quan trọng trong quá trình kinh
doanh. Để sản xuất kinh doanh phát triển, thương nhân phải biết lựa chọn
phương thức phân phối, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa phù hợp, trong đó việc sử
dụng một số hoạt động trung gian trong thương mại như môi giới thương mại và
đại diện cho thương nhân sẽ mang lại hiệu quả lớn cho các thương nhân trong
quá trình tổ chức mạng lưới phân phối; tiêu thụ hàng hóa dịch vụ ở trong nước
cũng như ở nước ngoài. Vì vậy, để đảm bảo hơn nữa quyền tự do hoạt động
thương mại của thương nhân cũng như tạo cơ sở pháp lý để định liệu hành vi
của thương nhân trong quá trình thực hiện các hoạt động trung gian thương mại
nói chung và các hoạt động môi giới thương mại và đạo diện cho thương nhân
nói riêng, việc hoàn thiện pháp luật về các hoạt đồng này là rất cần thiết. Việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với vấn đề này cần phải phù hợp với
đặc điểm của nền kinh tế nước nhà, đồng thời cũng cần phải đáp ứng nhưng yêu
cầu hội nhập quốc tế nhưng phải luôn đảm bảo sự đồng bộ thông nhất và tính
thực thi của pháp luật, tránh những mâu thuẫn, chồng chéo của các văn bản pháp
luật hơn nữa.

Trên đây là bài viết của tôi, do thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài
viết không thể tránh khỏi những sai sót, vậy nên rất mong thầy cô và các bạn có
thể góp ý bổ sung để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Giáo trình luật thương mại tập 2 – Trường Đại học Luật Hà Nội.
Giáo trình luật dân sự tập 1 - Trường Đại học Luật Hà Nội.
Giáo trình luật dân sự tập 1 - Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
Bộ luật dân sự 2005.
Luật thương mại 2005.
Web của trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
MỤC LỤC

17



×