Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Đề bài: Anh/chị hãy bình luận về cơ chế bảo hiến trong các hệ thông pháp luật tại Pháp, Đức và Mỹ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.48 KB, 18 trang )

1


VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI


BÀI TẬP CÁ NHÂN
LUẬT SO SÁNH
Đề bài: Anh/chị hãy bình luận về cơ chế bảo hiến trong các hệ
thông pháp luật tại Pháp, Đức và Mỹ.

Họ và tên:
Phan Quốc Nghiệp
Mã số sinh viên:
1353801010057
Lớp:
K1B

Hà Nội, 2016

2


MỞ ĐẦU
Hiến pháp như đạo luật cơ bản, đạo luật tối cao của mỗi quốc gia
đòi hỏi sự bảo vệ đặc biệt về mặt pháp lý nhằm bảo đảm sự tuân thủ
hiến pháp, ngăn ngừa sự vi phạm hiến pháp của công dân và tổ chức
cũng như của các cơ quan quyền lực nhà nước. Trên nguyên tắc, bảo
vệ hiến pháp là nhiệm vụ và trách nhiệm của tất cả các cơ quan quyền
lực nhà nước và các quan chức có liên quan, được thực hiện thông qua


việc áp dụng những phương tiện pháp lý khác nhau trong khuôn khổ
thẩm quyền của mình.
Nhưng ở đại đa số các nước trên thế giới, vai trò đặc biệt trong
việc bảo vệ hiến pháp, giám sát bảo hiến thuộc về các cơ quan bảo hiến
khác nhau tuỳ theo từng nước: ở một số nước đó là các toà thẩm quyền
chung với đỉnh là toà án tối cao, ở những nước khác – toà án hiến pháp,
ở một số nước thứ ba – hội đồng bảo hiến…
Với mục đích muốn tìm hiểu về các cơ chế bảo hiến của các các
quốc gia trên thế giới, chính vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài: “Anh/chị
hãy bình luận về cơ chế bảo hiến trong các hệ thông pháp luật tại Pháp,
Đức và Mỹ” làm bài tập lớn học kì của mình. Ba quốc gia này là đại diện
tiêu biểu của các các chế bảo hiến trên. Và bài viết của tôi gồm các mục
sau đây:
I.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ BẢO HIẾN.

II.

CƠ CHẾ BẢO HIẾN TẠI PHÁP – HỘI ĐỒNG BẢO HIẾN.

III.

CƠ CHẾ BẢO HIẾN TẠI ĐỨC – TÒA ÁN HIẾN PHÁP.

IV.

CƠ CHẾ BẢO HIẾN TẠI MỸ.

3



NỘI DUNG
I.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ BẢO HIẾN.
1. Khái niệm.
Hiến pháp như đạo luật cơ bản, đạo luật tối cao của mỗi quốc gia

đòi hỏi sự bảo vệ đặc biệt về mặt pháp lý nhằm bảo đảm sự tuân thủ
hiến pháp, ngăn ngừa sự vi phạm hiến pháp của công dân và tổ chức
cũng như của các cơ quan quyền lực nhà nước. Trên nguyên tắc, bảo
vệ hiến pháp là nhiệm vụ và trách nhiệm của tất cả các cơ quan quyền
lực nhà nước và các quan chức có liên quan, được thực hiện thông qua
việc áp dụng những phương tiện pháp lý khác nhau trong khuôn khổ
thẩm quyền của mình.
Để bảo vệ được hiến pháp của quốc gia cần phải có các cơ chế
bảo hiến. Vậy bảo hiến là gì? Theo sự tìm hiểu của tôi thì:
Hiện nay, ở các nước trên thế giới không có một khái niệm thống
nhất về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Ở Anh và Mỹ có một khái niệm là
“judical review” có thể tạm dịch là kiểm tra tư pháp và hiểu là thẩm quyền
của các tòa án của một quốc gia được xem xét và đánh giá tính hợp
hiến của các đạo luật hoặc quyết định của các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Bản chất của khái niệm này là dùng để chỉ việc kiểm tra
của cơ quan tư pháp đối với tính hợp hiến của các đạo luật do cơ quan
lập pháp đưa ra. Khái niệm này tương đương với khái niệm “bảo hiến”
hay “kiểm hiến”.
Bảo hiến (bảo vệ hiến pháp) về ý nghĩa cốt lõi được hiểu là kiểm
soát tính hợp hiến của các đạo luật, là xem xét xem những đạo luật
được đưa ra có phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp hay

không. Theo cách hiểu này, bảo hiến không nhằm vào các văn bản dưới
luật. Sự bảo hiến chỉ nhằm vào những đạo luật do Quốc hội đưa ra bởi
những văn kiện này đứng ở tột đỉnh của hệ cấp những hành vi pháp lý .
Tuy nhiên cách hiểu bảo hiến chỉ là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo
luật là một cách hiểu theo nghĩa hẹp. Thực tiễn của chế độ bảo hiến ở
4


các nước cho thấy, các định chế bảo hiến được sinh ra không chỉ đơn
thuần là kiểm soát tính hợp hiến của hành vi lập pháp. Toà án Hiến pháp
ở nhiều quốc gia châu Âu bên cạnh việc kiểm soát tính hợp hiến của các
đạo luật của Nghị viện còn thực hiện nhiều chức năng khác để bảo vệ
nội dung và tinh thần của Hiến pháp như giải quyết tranh chấp giữa lập
pháp và hành pháp, giữa liên bang và tiểu bang, giữa trung ương và địa
phương; kiểm soát tính hợp hiến trong hành vi của Tổng thống cũng như
của các quan chức trong bộ máy hành pháp… Ở nghĩa rộng hơn, bảo
hiến được hiểu là kiểm soát tính hợp hiến của các hành vi của các định
chế chính trị được quy định trong Hiến pháp.
2. Lịch sử của vấn đề bảo hiến.

Khi nói về lịch sử của vấn đề bảo hiến, có thể chia thành các giai
đoạn như sau:
Trước Chiến tranh thế giới thứ I
Những yếu tố ban đầu của bảo hiến được cho là xuất hiện vào thời
cổ Hy Lạp, khi pháp luật nước này phân biệt giữa một nomos (văn bản
pháp luật có chức năng như hiến pháp) và một psephisma (văn bản
pháp luật có chức năng như một nghị định, hiệu lực thấp hơn). Một
psephisma, bất kể nội dung quy định về vấn đề gì, cũng không được trái
với nomos, nếu trái sẽ bị coi là vô hiệu.
Một số khía cạnh của bảo hiến sau đó được áp dụng trong hệ

thống pháp luật của Đức từ năm 1180 (về sau được đề cập trong Hiến
pháp Weimar). Ngoài ra, các hình thức sơ khai của bảo hiến cũng xuất
hiện ở một số nước châu Âu khác như ở Pháp (từ giữa thế kỷ XIII), Bồ
Đào Nha (từ thế kỷ XVII), Na Uy, Đan Mạch, Hy Lạp, Áo, Romania (thế
kỷ XIX). Mặc dù không có hiến pháp thành văn, nước Anh cũng được coi
là có đóng góp quan trọng vào sự phát triển của lý luận và pháp luật về
bảo hiến, vì từ thời trung cổ, người Anh đã khởi xướng ra thủ tục
impeachment (hạch tội để bãi miễn quan chức nhà nước), đồng thời từ
năm 1610 đã đề xướng nguyên tắc về tính tối thượng (supremacy) của
5


Hiến pháp và quyền của tòa án được xem xét tính hợp hiến của các hoạt
động của chính phủ - những điều mà sau đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ
đến việc thiết lập cơ chế bảo hiến ở Hoa Kỳ.
Ở Hoa Kỳ, vào cuối thế kỷ XVIII, tòa án đã ra một phán quyết
tuyên bố các luật của đế chế Anh không có hiệu lực trên lãnh thổ các
bang Bắc Mỹ. Tuy nhiên, phải đến năm 1803, trong vụ án nổi tiếng
Marbury kiện Madison, quyền bảo hiến của tòa án mới được xác lập một
cách chính thức ở Hoa Kỳ. Vụ Marbury kiện Madison cũng xác lập mô
hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ, do các tòa án thực hiện - một trong những
mô hình bảo hiến chính trên thế giới hiện được áp dụng ở nhiều quốc
gia.
Trong thời gian giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới thứ I và thứ II
Giai đoạn này được gọi là “thời kỳ của nước Áo” (the Austrian
Period). Chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của hai nhà luật học Adolf Merkl và
Hans Kelsen, Hiến pháp năm 1920 của Áo đã xác lập nền tảng của Tòa
án Hiến pháp nước này, với độc quyền xem xét tính hợp hiến của các
đạo luật. Mô hình tòa án hiến pháp chịu trách nhiệm về bảo hiến sau đó
được áp dụng ở nhiều quốc gia khác, đặc biệt là ở châu Âu, trở thành

một trong các mô hình bảo hiến chính hiện nay trên thế giới.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ II
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ chế bảo hiến tiếp tục được
thiết lập ở khắp nơi trên thế giới. Trong thời kỳ này, ngoài tòa án (tòa án
thường và tòa án hiến pháp) như ở Mỹ và Áo, ở một số nước, pháp luật
còn giao quyền bảo hiến cho một số cơ quan khác, ví dụ như Hội đồng
bảo hiến, các tòa đặc biệt thuộc Toà án tối cao, hoặc cho bản thân Nghị
viện.
II.

CƠ CHẾ BẢO HIẾN CỦA PHÁP – HỘI ĐỒNG BẢO HIẾN.
Hội đồng Hiến pháp cũng là một mô hình bảo hiến tập trung nhưng

mang nhiều yếu tố chính trị hơn là một cơ quan chuyên môn tài phán
Hiến pháp như Tòa án Hiến pháp. Cụ thể, trong Hội đồng Hiến pháp của
6


một số quốc gia, các Tổng thống nghỉ hưu thường được coi là thành
viên đương nhiên. Với các thành viên khác, tiêu chí tuyển chọn cũng
không bắt buộc phải có chuyên môn về pháp luật. Thêm vào đó, quy
trình giải quyết vụ việc của các Hội đồng Hiến pháp thường thiếu đặc
trưng của thủ tục tố tụng, không mang tính công khai.
Hội đồng Hiến pháp, ra đời đầu tiên ở Pháp, chỉ có chức năng
kiểm tra tính hợp hiến của các dự án luật trước khi công bố. Mặc dù vậy,
gần đây một số quốc gia áp dụng mô hình này, kể cả Pháp, đã trao cho
Hội đồng Hiến pháp quyền kiểm hiến sau (kiểm hiến các đạo luật đã có
hiệu lực).
Ở Pháp, Hội đồng bảo hiến được thành lập năm 1958. Hội đồng
bảo hiến bao gồm 9 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm 1/3, Chỉ tịch

Thượng viện bổ nhiệm 1/3, Chỉ tịch Hạ viện bổ nhiệm 1/3 với nhiệm kì 9
năm và các thành viên không ai được phép giữ chức vụ này quá một
nhiệm kì.
Ngoài 9 thành viên nói trên, các cựu tổng thống Pháp (nếu không
từ chối) đều là thành viên của Hội đồng bảo hiến.
Hội đồng Hiến pháp đảm bảo cho cuộc bầu cử Tổng thống được
tiến hành hợp lệ. Hội đồng Hiến pháp xem xét, giải quyết các khiếu nại
và công bố kết quả bầu cử. Trong trường hợp có khiếu nại, Hội đồng
bảo hiến có quyền xem xét về tính hợp lệ của cuộc bầu cử Hạ viện và
Thượng viện. Hội đồng Hiến pháp đảm bảo cho các hoạt động trưng cầu
ý kiến nhân dân được tiến hành hợp lệ và tuyên bố kết quả trưng cầu ý
kiến nhân dân. Các đạo luật về tổ chức, trước khi được được ban hành,
và các Quy chế hoạt động của Hạ viện và Thượng viện, trước khi được
áp dụng, phải trình lên Hội đồng bảo hiến để xem xét tính hợp hiến của
các văn bản đó.
Đối với các đạo luật khác, trước khi được ban hành, cũng có thể
được trình lên Hội đồng bảo hiến để xem xét tính hợp hiến khi có yêu
cầu của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Thượng viện
7


hoặc 60 Hạ nghị sỹ hoặc 60 Thượng nghị sỹ. Trong các trường hợp nêu
trên, Hội đồng bảo hiến phải xem xét và cho ý kiến trong thời hạn một
tháng. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp, theo yêu cầu của Chính
phủ, thời hạn này có thể rút lại còn 8 ngày. Cũng trong những trường
hợp trên, việc chuyển văn bản sang cho Hội đồng bảo hiến xem xét tính
hợp hiến sẽ tạm đình chỉ thời hạn ban hành văn bản. Quy định bị tuyên
bố không hợp hiến thì không được ban hành và áp dụng. Các quyết định
của Hội đồng bảo hiến không bị khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị. Các
quyết định này có hiệu lực áp dụng bắt buộc đối với tất cả các cơ quan

quyền lực Nhà nước và tất cả các cơ quan hành chính và tư pháp. Một
đạo luật về tổ chức sẽ quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng
bảo hiến, thủ tục và thời hạn giải quyết trước Hội đồng bảo hiến.
Hội đồng Hiến pháp không mang tính phổ biến như các mô hình
Tòa án Hiến pháp và Tòa án thường. Hiện nay, ở Châu Âu – nơi phát
xuất của mô hình này - hiện chỉ còn nước Pháp đang áp dụng. Hầu hết
các quốc gia đang áp dụng mô hình Hội đồng Hiến pháp là các nước
Châu Phi, chỉ có một vài nước ở Trung Đông và Châu Á, bao gồm:
Angiêri; Bờ Biển Ngà; Cadắcxtan; Campuchia; Chad; Comoros; Dibuti;
Ethiopia; Iran; Libăng; Marốc; Môdămbích; Môritani; Xênêgan; Timor
Leste; Tuynidi.
III.

CƠ CHẾ BẢO HIẾN CỦA ĐỨC – TÒA ÁN HIẾN PHÁP.
Tòa án hiến pháp Đức có tên gọi là Bundesverfassungsgericht là

cơ quan xét xử sơ thẩm và chung thẩm các vụ kháng cáo, kháng nghị
liên quan đến tính hợp hiến của các đạo luật, xung đột về thẩm quyền
giữa các bang và giữa các bang với liên bang. Toà án hiến pháp Đức
vừa là cơ quan Hiến pháp cao nhất của Liên bang, vừa là toà án xem
xét các vấn đề liên quan đến áp dụng Hiến pháp. Toà án Bảo hiến Liên
bang đảm bảo việc thực hiện Hiến pháp của Liên bang; Toà án bảo hiến
của các bang đảm bảo việc thực hiện Hiến pháp của bang mình. Mặc dù
không có quan hệ thứ bậc giữa các Toà án Bảo hiến, Toà án Bảo hiến
8


Liên bang vẫn có vai trò quan trọng vì trên thực tế, văn bản pháp luật
Liên bang có hiệu lực pháp lý cao hơn văn bản pháp luật của các bang.
Toà án Bảo hiến Liên bang gồm 16 thẩm phán, một nửa do Hạ

viện Liên bang và một nửa do Thượng viện Liên bang bầu ra với đa số
tuyệt đối (hai phần ba số phiếu thuận). Thẩm phán Tòa án hiến pháp
phải là những người uyên thâm trong lĩnh vực pháp luật, 6 thẩm phán
được lựa trong số các thẩm phán của Toà án Liên bang, 10 thẩm phán
còn lại là những nhân vật ngoài 40 tuổi, hội đủ các điều kiện để được
chọn thành dân biểu Hạ viện, đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật,
có khả năng chuyên môn cần thiết để hành nghề thẩm phán. Quyền hạn
và nhiệm vụ của các thẩm phán Toà án Bảo hiến Liên bang kéo dài 12
năm nhưng có thể ngắn hơn nếu đã đến tuổi nghỉ hưu. Các thẩm phán
Tòa án hiến pháp chỉ có thể giữ chức vụ của mình một nhiệm kì và
không được tái nhiệm.
Tòa án hiến pháp chia làm 6 Hội đồng xét xử, mỗi hội đồng gồm 3
thẩm phán, chịu trách nhiệm giải quyết phần lớn các khiếu kiện gồm hai
loại: Thứ nhất là các khiếu kiện của người dân về các bản án, quyết định
hay hành vi hành chính, trừ trường hợp khiếu kiện đó liên quan đến vấn
đề chưa từng được giải quyết trước đó hoặc khiếu kiện về tính hợp hiến
của văn bản luật; Thứ hai là các yêu cầu của các thẩm phán về kiểm tra
tính hợp hiến của một văn bản pháp luật cụ thể. Khi xem xét tính hợp
hiến của các đạo luật , Tòa án hiến pháp có thể tuyên bố đạo luật là vi
hiến và xóa bỏ đạo luật đó. Tòa án hiến pháp có thể xem xét tính hợp
hiến của các đạo luật ngay cả khi vấn đề về tính hợp hiến không nảy
sinh từ vụ việc cụ thể - giám sát trừu tượng.
Tòa án Hiến pháp cũng thuộc mô hình bảo hiến trừu tượng (có
nghĩa là việc xem xét các hành vi vi hiến không cần xuất phát từ một vụ
tranh chấp cụ thể nào). Ở các quốc gia theo mô hình này, Tòa án Hiến
pháp thường được trao quyền tự động phán quyết xem một đạo luật hay
quyết định của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp có vi phạm
9



Hiến pháp hay không, bất kể có hay không có vụ việc được trình lên.
Quyền này áp dụng cả với các dự luật trước khi công bố (kiểm hiến
trước) và đang có hiệu lực (kiểm hiến sau). Tuy nhiên, khác với mô hình
bảo hiến bằng tòa án thường, nơi mà các bên của vụ việc có quyền đề
nghị kiểm tra tính hợp hiến, theo mô hình Tòa án Hiến pháp, chỉ có các
cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước (ví dụ, các
nhà lãnh đạo hành pháp, nghị sỹ hoặc các cơ quan chính quyền địa
phương…) mới có quyền đưa vụ việc kiểm hiến lên Tòa án Hiến pháp.
Tuy nhiên, Tòa án Hiến pháp ở Đức trong thời gian gần đây đã kết
hợp giữa bảo hiến trừu tượng với bảo hiến cụ thể. Các tòa án thường
trong khi giải quyết một vụ việc cụ, theo đề nghị của các bên trong vụ
việc hoặc tự mình đề nghị Tòa án Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của
các đạo luật áp dụng cho vụ việc đó. Tòa án Hiến pháp của các quốc gia
thường có thẩm quyền rộng, bao gồm:


Kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật theo yêu cầu của Chính
phủ liên bang hoặc 2/3 thành viên Hạ nghị viện hoặc theo yêu cầu
của các thẩm phán khi giải quyết các vụ việc nếu văn bản đó được

ban hành sau năm 1945 (thẩm quyền cơ bản và quan trọng nhất);
• Tranh chấp giữa các bang hoặc giữa cá bang với liên bang.
• Quyết định cấm các đảng phái chính trị hoạt đọng vì vi phạm Hiến
pháp do yêu câu của chính phủ liên ban hoặc của một bang.
• Giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực với
nhau,
• Bảo vệ các quyền con người trước sự xâm phạm của các cơ quan
nhà nước;
• Kiểm tra tính hợp hiến của các cuộc bầu cử, trưng cầu ý dân…
Ở các nước theo mô hình này, phán quyết của Tòa án Hiến pháp

có tính chất chung thẩm và có giá trị bắt buộc với mọi đối tượng. Với
những ưu điểm của một thiết chế bảo hiến tập trung và sức mạnh của
các phán quyết tư pháp, Tòa án Hiến pháp tỏ ra là một trong những thiết
chế bảo hiến hiệu quả nhất. Chính vì vậy nó được nhiều quốc gia trên
thế giới lựa chọn.
10


IV.

CƠ CHẾ BẢO HIẾN CỦA MỸ.
Hiến pháp Mỹ ban hành năm 1789 và được coi là đạo luật cơ bản

của quốc gia, vì vậy bất kể nguồn luật nào trên đất nước Mỹ, kể cả luật
của liên bang và bang đều không tái với nội dung của Hiến pháp như đã
được Tòa án tối cao Mỹ giải thích. Theo René David, Hiến pháp Mỹ
không chỉ là bản hiến chướng chính trị mà còn là văn kiện sáng lập quốc
gia, dựa trên ý tưởng của trường phái pháp luật tự nhiên và bản hiến
pháp đã đưa vào thực tiễn khái niệm về thỏa ước xã hội.
Hiến pháp Mỹ không chỉ thừa nhận chính phủ mới mà mục đích
lớn hơn là nhằm thành lập nên một nhà nước mới từ những nhà nươc
đã có chủ quyền, là những thành viên của nhà nước liên bang mới thành
lập nhưng chủ quyền của cá bang vẫn tiếp tực được tôn trọng mà còn là
những công cụ để thành lập, tổ chức và trao quyền cho các nhánh
quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hiến pháp Mỹ trao quyền lập pháp cho Quốc hội, hành pháp cho
Tổng thống và tư pháp cho Tòa án tối cao Mỹ. Hiến pháp cũng cho phép
thảo luận tự do trong Quốc hội và giới hạn cách cư xử tùy tiện của các
nghị sĩ, quy định trình tự thủ tự của cơ quan lập pháp và quyền của các
cơ quan lập pháp. Quyền lập pháp được chi thành chính quyền liên ban

và các bang. Chánh việc ban hành các văn bản pháp luật trái với quy
định của Hiến pháp, vì vậy cần phải có cơ chế về cơ chế bảo hiến và
giao cho Tòa án tối cao Mỹ. Có thể nói, Mỹ là quốc gia đầu tiên trên thế
giới trao cho các tòa án quyền phán quyết về tính hợp hiến của các văn
bản luật và văn bản dưới luật. Quyền giám sát Hiến pháp thuộc về Tòa
án Tối cao Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Chức năng của Tòa án tối cao khá
phức tạp vì ngoài chức năng xét xử của cấp phúc thẩm cuối cùng trong
hệ thống tòa án Mỹ, Tòa án có quyền xem xét tính hợp hiến của các văn
bản pháp luật và các hành vi của chính phủ. Đây là quyền năng quan
trọng của Tòa nhằm bảo vệ quyền con người ở Mỹ vì quyền năng này
nhằm đảm bảo ý nguyện của toàn thể nhân dân Mỹ, như được quy định
11


trong hiến pháp, được đặt lên trên ý nguyện của cơ quan lập pháp, nơi
ban hành những văn bản pháp luật và đồng thời nhằm duy trì "sức sống"
của Hiến pháp Mỹ. Khi Tòa án tối cao xem xét tính hợp hiến của văn bản
pháp luật hay hành vi của chính phủ, phán quyết của Tòa hầu như là
phán quyết cuối cùng. Những phán quyết này của Tòa án chỉ có thể
được sửa đổi bằng thủ tục sửa đổi Hiến Pháp.
Kiểm tra tư pháp – bảo vệ Hiến pháp ở Mỹ được xem như chức
năng tự nhiên của cơ quan tư pháp. Mặc dù sự kiểm tra tư pháp là một
công cụ quyền lực mạnh nhất của Toà án liên bang nhưng điều này
không được quy định trong Hiến pháp Mỹ.
Mọi Toà án Liên bang đều có thể xem xét sự phù hợp của đạo luật
đối với Hiến pháp và từ chối áp dụng đạo luật đó nếu nó vi hiến và chỉ có
Toà án Liên bang có quyền xem xét về sự phù hợp của các điều khoản
trong Hiến pháp của bang với Hiến pháp Liên bang. Quá trình xem xét
tính hợp hiến của Toà án Liên bang được gọi là “judicial review” .
Mặc dù quyền tài phán hiến pháp thuộc về tất cả các toà án nhưng

người ta hay nhắc đến vai trò của Toà án Tối cao Mỹ (với 9 thẩm phán
cao cấp do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng nghị viện phê chuẩn với
nhiệm kỳ suốt đời) vì trong một vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án Liên
bang, hai bên bao giờ cũng đem việc tranh tụng ra trước cơ quan tư
pháp cao nhất, phán quyết chung thẩm do vị thẩm phán cao nhất đưa ra.
Toà án Mỹ chỉ có quyền tuyên bố đạo luật không hợp hiến sẽ
không được áp dụng trong vụ án cụ thể chứ không có quyền tuyên bố
huỷ bỏ đạo luật đó. “Chúng ta không có quyền nói như một số người cho
rằng nếu các vị Chánh án có quyền tuyên bố một đạo luật trái với tinh
thần Hiến pháp là một đạo luật vô hiệu lực, các vị Chánh án sẽ có quyền
quyết định theo ý nghĩ riêng của mình, thay thế quyết định do cơ quan
lập pháp ban hành bằng một quyết định dựa trên ý kiến riêng của họ” .
Như vậy về nguyên tắc, hiệu lực phán quyết của Toà án chỉ giới hạn
trong các vụ án cụ thể. Tuy nhiên có một nguyên tắc bổ sung cho sự
12


thiếu hụt hiệu lực toàn vẹn của các phán quyết hiến pháp là nguyên tắc
xác định việc giải thích Hiến pháp của Toà án Tối cao liên quan đến tất
cả các toà án cấp dưới. Mặc dù về nguyên tắc, Toà án không có quyền
huỷ bỏ một đạo luật bất hợp hiến, đạo luật đó vẫn tồn tại, nhưng việc
Toà án từ chối áp dụng một đạo luật bất hợp hiến trong trường hợp cụ
thể trên thực tế đã vô hiệu hoá đạo luật đó. Với truyền thống tôn trọng
án lệ, trong những trường hợp tương tự, nếu đương sự viện dẫn đạo
luật đã bị Toà án tuyên bố bất hợp hiến, Toà thụ lý vụ án sẽ từ chối áp
dụng nó.
Toà án Tối cao Mỹ chú trọng bảo vệ các quyền tự do và bình đẳng
của công dân thông qua việc kiểm tra tính hợp hiến của các phán quyết
của toà án (đặc biệt trong lĩnh vực hình sự), các quyết định hành chính
và các văn bản quy phạm pháp luật.

Mô hình này được chia thành hai nhánh chính: Bảo hiến bằng Tòa
án tối cao và bằng tòa án có thẩm quyền chung.
Tòa án tối cao cũng là mô hình bảo hiến tập trung vì chỉ có Tòa án
này mới được trao thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp. Thông thường ở các
quốc gia theo mô hình này, Tòa án tối cao sẽ thành lập ra một bộ phận
riêng, thậm chí là một tòa riêng, để xem xét, xử lý các vụ việc vi hiến.
Quyền bảo hiến cũng có thể được giao cho các Tòa án thường có
thẩm quyền chung (mô hình Hoa Kỳ). Trong trường hợp này, khi giải
quyết các vụ việc cụ thể, mọi tòa án tư pháp thông thường đều có quyền
xem xét tính hợp hiến của một quy định hay một vấn đề liên quan, do đó,
mô hình bảo hiến này được gọi là mô hình bảo hiến phi tập trung. Nếu
có kháng cáo, Tòa án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất và cuối cùng
các vụ việc về Hiến pháp và các phán quyết của Tòa án tối cao sẽ trở
thành án lệ cho các vụ việc tương tự. Việc xét xử các vụ việc Hiến pháp
cũng theo quy trình tố tụng như với các vụ việc hành chính, hình sự, dân
sự. Trong một vụ việc được giải quyết (hành chính, hình sự, dân sự…)
tại tòa, các bên có quyền đề nghị kiểm tra tính hợp hiến của một đạo luật
13


áp dụng để giải quyết vụ việc đó. Khi được đề nghị như vậy, thẩm phán
phải tạm đình chỉ vụ việc đang giải quyết để chuyển sang vụ việc kiểm
hiến. Vì vậy, đây vừa mang tính chất là kiểm hiến sau và bảo hiến cụ thể
(việc kiểm hiến được thực hiện thông qua một vụ việc cụ thể đang được
giải quyết tại tòa án).
Khi đã xác định một đạo luật là vi hiến, tòa án sẽ không áp dụng
đạo luật đó để giải quyết vụ việc; tuy nhiên, tòa không có thẩm quyền
tuyên bố hủy bỏ đạo luật vi hiến, vì đó là thẩm quyền riêng có của Nghị
viện. Trong hệ thống thông luật, việc tòa án không áp dụng một đạo luật
sẽ trở thành án lệ nên cho dù đạo luật vẫn còn giá trị về hình thức (chưa

bị hủy bỏ) thì nó cũng không còn giá trị trên thực tế vì không được các
tòa án áp dụng nữa.
Một khía cạnh khác đó là, phán quyết kiểm hiến của tòa án chỉ có
giá trị đối với các bên tham gia vụ việc mà không có giá trị với các chủ
thể khác. Điều đó có thể dẫn đến sự không thống nhất trong hệ thống
pháp luật nếu không có truyền thống án lệ. Nói cách khác, truyền thống
án lệ có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất
của hệ thống pháp luật trong trường hợp quyền bảo hiến được giao cho
các tòa án thường. Thêm vào đó, mô hình này đòi hỏi quốc gia phải có
cơ chế đào tạo và tuyển dụng thẩm phán tiên tiến để có thể bảo đảm
rằng đội ngũ thẩm phán có năng lực chuyên môn giỏi, đủ khả năng xử lý
các vụ việc kiểm hiến thường rất phức tạp.

14


KẾT LUẬN
Trên đây, là bài viết của tôi khi viết về cơ chế bảo hiến của ba quốc
gia Pháp, Đức và Mỹ, là ba đại diện cho ba mô hình bảo hiến thông qua
toà thẩm quyền chung với đỉnh là toà án tối cao, toà án hiến pháp, hội
đồng bảo hiến… phổ biến hiện nay trên thế giới của các quốc gia. Qua
đó, có thể giúp các bạn hiểu một các sơ lược về một số cơ chế bảo hiến
của các quốc gia và đặc biệt là của ba quốc gia trên.
Do thời gian làm việc cũng như trình độ chuyên môn còn hạn chế
nên bài viết của tôi không thể tránh hỏi các sai sót. Vật nên rất mong
thầy cô và các bạn góp ý bổ sung để bài viết của tôi được hoàn thiện
hơn,
Xin chân thành cảm ơn !

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Giáo trình luật so sánh – Đại học Luật Hà Nội.
2) />3) />
lap-hien-va-nha-nuoc.html
4) />AnPhamItemID=273
5) />6) />7) />8) />portalid=52&tabid=108&catid=434&distid=3043
9) />
16


MỤC LỤC

17



×