Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình từ thực tiễn thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.27 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ NHUNG

CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ NHUNG

CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ PHÚ HẢI



HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Đỗ Phú Hải.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên

Lê Thị Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ
BẠO LỰC GIA ĐÌNH ...................................................................................... 11
1.1. Các khái niệm công cụ .............................................................................. 11
1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình. .......................................................... 12
1.3. Đặc điểm phụ nữ bị bạo lực gia đình ........................................................ 13
1.4. Nhu cầu công tác xã hội của phụ nữ bị bạo lực gia đình ............................. 13
1.5. Quan điểm và mục tiêu phòng chống bạo lực gia đình................................ 14
1.6. Chính sách, pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình.............................. 14
1.7. Một số mô hình hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực gia đình ...................................... 17
1.8. Công tác xã hội với phụ nữ bị bạo lực gia đình ........................................... 19
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ
BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI THÀNH PHỐ YÊN BÁI ..................................... 27
2.1. Thực trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại địa bàn ............................... 27

2.2. Thực trạng công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình tại Yên Bái
.......................................................................................................................... 35
2.3. Trường hợp điển cứu................................................................................. 41
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÃ HỘI HỖ TRỢ
ĐỐI VỚI PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN TẠI
THÀNH PHỐ YÊN BÁI ................................................................................... 69
3.1. Hoàn thiện chính sách pháp luật ............................................................... 69
3.2. Nâng cao thông tin tuyên truyền ............................................................... 70
3.3. Áp dụng các hoạt động tư vấn, chăm sóc tại địa phương ........................ 71
3.4. Phát triển kinh tế ....................................................................................... 72
3.5. Tăng cường năng lực quản lý Nhà nước ................................................... 73
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 76


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bạo lực gia đình là một vấn đề được xã hội đặc biệt quan tâm.Đây không
còn là đề tài mới, nhưng vẫn rất thời sự.Nạn bạo lực gia đình vẫn xảy ra đâu đó
một cách khá thường xuyên, để lại sự tổn hại xã hội nghiêm trọng.Bạo lực gia
đình có ảnh hưởng lớn đến tinh thần và thể chất của nạn nhân, có những trường
hợp dẫn đến thương tật suốt đời, thậm chí tử vong.
Xã hộingày càng phát triển, vị trí của mỗi người trong gia đình cũng thay
đổi và hướng tới sự bình đẳng, bình đẳng giữa vợ - chồng, giữa cha mẹ và con
cái. Xu hướng phát triển này đang được cả xã hội khuyến khích. Song, bên cạnh
những gia đình được xem là tổ ấm thực sự thì tình trạng bạo lực mà nạn nhân
chủ yếu là người phụ nữ - người vợ trong gia đình vẫn xảy ra ở mọi nơi, mọi lúc
đến mức báo động. Điều này gây ảnh hưởng lớn tới nền tảng gia đình và xã
hội. Ngày nay, bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã trở thành một vấn đề mang
tính toàn cầu, xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới và được nhiều tổ chức cũng

như các nhà nghiên cứu quan tâm. Bạo lực gia đình không còn được xem là
chuyện nội bộ của mỗi gia đình, nó đã trở thành một vấn đề xã hội gây nhiều
nhức nhối mà người được cho là chịu nhiều ảnh hưởng nhất chính là phụ nữ những người vợ trong gia đình.
Có thể nói bạo lực trong gia đình nhằm chống lại phụ nữ là một vấn đề
tồn tại trong các chế độ xã hội, nó có ở tất cả các nước có trình độ văn minh
khác nhau và Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng này.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
(được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII thông qua
tại kì họp thứ 2 ngày 21 tháng 11 năm 2007), bạo lực gia đình (BLGĐ) là hành
vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về
thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Phòng,
1


chống bạo lực gia đình (PCBLGĐ) là trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ
quan tổ chức. PCBLGĐphải kết hợp phòng ngừa, ngăn chặn với xử lý hành vi
và giải quyết hậu quả của hành vi bạo lực gia đình trong đó lấy phòng ngừa,
ngăn chặn là chính.
Bạo lực gia đình đã có từ rất lâu trong đời sống gia đình, nhưng hiện nay
đang trở thành một vấn đề xã hội nhức nhối khiến dư luận phải đặc biệt quan
tâm. Bạo lực gia đình làm xói mòn các giá trị, chuẩn mực, truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, phá vỡ sự bền vững của gia đình, đồng thời tác động tiêu cực đến
tình hình kinh tế – xã hội ở địa phương, thậm chí ở một quốc gia, các báo cáo
nghiên cứu đều khẳng định nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình là: nhận
thức về vấn đề bình đẳng giới rất hạn chế, bất bình đẳng giới là gốc rễ của bạo
lực gia đình. Quan niệm về bất bình đẳng giới đã có từ rất lâu trong xã hội, chủ
yếu là sự phân biệt của nam giới đối với phụ nữ, đẩy chị em vào vị trí yếu thế,
phụ thuộc vào nam giới trong tất cả các hoạt động: kinh tế, văn hoá, giáo dục,
chính trị và cả trong gia đình. Vì vậy nạn nhân chủ yếu của bạo lực gia đình là
phụ nữ, trẻ em (chiếm khoảng trên 75%)..Trong đó có những vụ gây bất bình dư

luận xã hội về việc thể hiện bạo lực như: vụ chồng nhốt vợ vào cũi nuôi chó ở
Song Khê - Yên Dũng, đuổi vợ ra khỏi nhà vào đêm giáp Tết Nguyên đán ở
Hương Vĩ - Yên Thế, nhốt vợ dùng điếu cày đập vào đầu dẫn đến tử vong ở Mi
Điền - Việt Yên, bắt vợ phải quan hệ tình dục theo sở thích điên dại ở Quý Sơn Lục Ngạn và nhiều vụ việc khác liên quan đến bất bình đẳng không cho vợ
tham gia các hoạt động xã hội, chính trị tại địa phương. Từ những vụ việc trên
có thể khái quát về một số định kiến giới thường gặp hiện nay như sau:
- Phụ nữ phải phụ thuộc, yếu đuối, thụ động, nam giới là độc lập, mạnh
mẽ có năng lực và là người ra quyết định.
- Chồng có quyền dạy vợ, vợ phải nghe theo chồng.

2


- Nam là trụ cột trong gia đình, có quyền quyết định những việc lớn quan
trọng trong gia đình, nữ có trách nhiệm nuôi dạy con cái, nội trợ trong nhà.
- Nam giỏi việc xã hội, nữ phải giỏi việc nhà.
Định kiến như trên, đã gây nhiều tác động tiêu cực đến cơ hội, khả năng
phát triển của chị em phụ nữ trong công việc xã hội và nhất là trong đời sống gia
đình. Ở những gia đình có sự phân biệt, coi trong nam giới hơn nữ giới thì gia
đình đó dành nhiều sự quan tâm, chăm sóc về mọi mặt cho các trẻ em trai, nhiều
hơn cho trẻ em gái. Do đó khi trưởng thành, các em trai thường có điều kiện
tham gia vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội tốt hơn các em gái, mặc dù năng
lực của các em gái không thua kém các em trai. Những suy nghĩ, cách hành xử,
sự dạy dỗ có liên quan đến phân biệt, định kiến giới của ông, bà, cha, mẹ, anh,
chị chính là những yếu tố ảnh hưởng lớn tới việc hình thành quan niệm về giới
của mỗi thành viên trong gia đình. Do đó, nếu trong gia đình có những định
kiến giới thì những định kiến này sẽ được lặp lại ở các thế hệ tiếp theo. Chính vì
vậy, để đảm bảo sự bình đẳng giới trong xã hội, rất cần thực hiện tốt việc bình
đẳng giới ngay trong mỗi gia đình. Và muốn xoá bỏ, hạn chế bạo lực gia đình thì
phải loại trừ những nguyên nhân gốc rễ gây ra nó - đó chính là quan niệm về bất

bình đẳng giới trong gia đình và trong xã hội hiện nay.
Trên địa bàn tỉnh Yên Bái cũng đã diễn ra nhiều vụ bạo hành gia đình, tuy
nhiên số vụ được công khai trên báo chí, truyền thông còn hạn chế vì nguyên
nhân do chính nạn nhân của những vụ bạo hành đó còn e ngại không muốn chia
sẻ câu chuyện gia đình mình.
Với những thực trạng đã nêu trên và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, tôi lựa
chọn đề tài: “ Công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình từ
thực tiễn thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt
nghiệp.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những nghiên cứu tiêu biểu về bạo lực gia đình đối với phụ nữ được thực
hiện từ trước đến nay có thể kể đến đó là:
Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt
Nam. Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ Chương trình Phối hợp
chung giữa Liên Hợp Quốc và Chính phủ Việt Nam về Bình đẳng Giới, do Tổng
Cục Thống kê tiến hành với trợ giúp kỹ thuật của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
và sự tham gia của các chuyên gia tư vấn trong nước từ Trung tâm Sáng kiến
Sức khỏe và Dân số (CCIHP), Bộ Y tế, và một chuyên gia tư vấn quốc tế.
Nghiên cứu được tài trợ từ nguồn ngân sách của Quỹ Thực hiện các Mục tiêu
Phát triển Thiên niên kỷ (MDGF) và Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Tây
Ban Nha (AECID).
“Nghiên cứu các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam
hiện nay” của Ths. Trần Tuyết Ánh, Vụ trưởng Vụ Gia đình, Bộ VHTT&DL
(2014)
Lê Thị Quý – Đặng Vũ Cảnh Linh (2007), Bạo lực gia đình – một sự sai
lệch giá trị, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội

Bạo lực gia đình, nguyên nhân của nhiều vụ ly hôn tại Việt Nam, RFA
(2006)
Nghiên cứu bạo lực gia đình ở Việt Nam của TS.Hoàng Bà Thịnh
(Trường Đại học KHXH&NV)
Bạo hành "câm" - Nỗi kinh hoàng trong phòng ngủ. Thống kê của Viện
Xã hội học, Viện KH-XH VN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
- Học viện thực hiện nghiên cứu này làm đề tài tốt nghiệp thạc sỹ ngành
công tác xã hội.
4


- Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng phụ nữ bị bạo lực gia đình tại
thành phố Yên Bái. Đồng thời đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng
này.
- Thông qua sự trợ giúp của công tác xã hội những phụ nữ bị bạo lực gia
đình nói chung và phụ nữ bị bạo lực gia đình tại địa phương tôi nói riêng sẽ tự
giải quyết được vấn đề khó khăn, có niềm tin vào khả năng và sức mạnh của bản
thân, xây dựng gia đình hạnh phúc, ổn định cuộc sống.
- Đánh giá hoạt động của công tác xã hội trong việc hỗ trợ phụ nữ bị bạo
lực gia đình tại thành phố Yên Bái. Đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác xã hội.
- Nghiên cứu trường hợp cụ thể về phụ nữ bị bạo lực gia đình và đưa ra
biện pháp hỗ trợ hợp lý trong tiến trình trị liệu cho thân chủ.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận nhằm ứng dụng vào đề tài.
- Nghiên cứu thực trạng công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực gia
đình tại thành phố Yên Bái.
- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động công tác xã hội

với phụ nữ bị bạo lực gia đình tại thành phố Yên Bái.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình từ thực tiễn
thành phố Yên Bái.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
 Nội dung nghiên cứu:
Công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình từ thực tiễn
thành phố Yên Bái.
 Khách thể nghiên cứu:
5


- Phụ nữ bị bạo lực gia đình tại thành phố Yên Bái.
- Cán bộ chính quyền, đoàn thể: Hội phụ nữ, Đoàn Thanh Niên.
- Gia đình của phụ nữ bị bạo lực gia đình.
 Thời gian nghiên cứu
- Từ tháng 11/2016 đến tháng 12/2016: Thu thập tài liệu và xây dựng cơ
sở lý luận cho đề tài.
- Từ tháng 1/2017 đến tháng 2/2017: Xây dựng bảng công cụ cho đề đài
và triển khai nghiên cứu thực tế.
- Từ tháng 2/2017 đến tháng 3/2017: Xử lý phân tích kết quả và hoàn
thiện báo cáo.
 Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu tại thành phố Yên Bái.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
- Lý thuyết nhu cầu.
Theo Maslow, về căn bản, nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm
chính: nhu cầu cơ bản và nhu cầu bậc cao.

Nhu cầu cơ bản liên quan đến các yếu tố thể lý của con người như mong
muốn có đủ thức ăn, nước uống, được ngủ nghỉ.Những nhu cầu cơ bản này đều
là các nhu cầu không thể thiếu hụt vì nếu con người không được đáp ứng đủ
những nhu cầu này, họ sẽ không tồn tại được nên họ sẽ đấu tranh để có được và
tồn tại trong cuộc sống hàng ngày.
Các nhu cầu cao hơn nhu cầu cơ bản trên được gọi là nhu cầu bậc cao.
Những nhu cầu này bao gồm nhiều nhân tố tinh thần như sự đòi hỏi công bằng,
an tâm, an toàn, vui vẻ, địa vị xã hội, sự tôn trọng, vinh danh với một cá nhân.
Các nhu cầu cơ bản thường được ưu tiên chú ý trước so với những nhu
cầu bậc cao này. Với một người bất kỳ, nếu thiếu ăn, thiếu uống họ sẽ không
6


quan tâm đến các nhu cầu về vẻ đẹp, sự tôn trọng.Tuy nhiên, tuỳ theo nhận thức,
kiến thức, hoàn cảnh, thứ bậc các nhu cầu cơ bản có thể đảo lộn. Ví dụ như:
người ta có thể hạn chế ăn, uống, ngủ nghỉ để phục vụ cho các sự nghiệp cao cả
hơn. Ngược lại, theo chủ thuyết cách mạng vô sản, của cải, sở hữu tài sản là nhu
cầu số một bỏ qua các nhu cầu bậc cao khác.
Tháp nhu cầu của Maslow:
Tầng thứ nhất: Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc "thể lý" - thức ăn,
nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở, nghỉ ngơi.
Tầng thứ hai: Nhu cầu an toàn - cần có cảm giác yên tâm về an toàn thân
thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản được đảm bảo.
Tầng thứ ba: Nhu cầu được giao lưu tình cảm và được trực thuộc- muốn
được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè thân
hữu tin cậy.
Tầng thứ tư: Nhu cầu được quý trọng, kính mến - cần có cảm giác được
tôn trọng, kinh mến, được tin tưởng.
Tầng thứ năm: Nhu cầu về tự thể hiện bản thân - muốn sáng tạo, được
thể hiện khả năng, thể hiện bản thân, trình diễn mình, có được và được công

nhận là thành đạt.
- Lý thuyết về quyền con người.
Tiếp cận dựa trên quyền con người là phương pháp tiếp cận lấy các tiêu
chuẩn về quyền con người làm cơ sở để xác định kết quả mong đợi và lấy các
nguyên tắc về quyền con người làm điều kiện, khuôn khổ cho quá trình đạt được
kết quả đó.
Sử dụng các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con người làm cơ sở và
mục tiêu cho hoạt động là đích mà cách tiếp cận dựa trên quyền con người
hướng tới. Khác với cách tiếp cận khác, tiếp cận dựa trên quyền con người
không chỉ quan tâm tới việc đạt được mục tiêu mà còn quan tâm thích đáng tới
7


quy trình, cách thức được lựa chọn để đạt được những mục tiêu đó với mục đích
hỗ trợ người dân tham gia tích cực vào phát triển, chứ không phải chỉ là người
hưởng lợi thụ động từ các chính sách của nhà nước. Tiếp cận dựa trên quyền con
người có nội dung cơ bản sau:
Sử dụng những tiêu chuẩn và nguyên tắc cơ bản về quyền con người làm
tiêu chí hướng dẫn quá trình hoạch định và thực thi chính sách cũng như các
chương trình và dự án phát triển. Bởi lẽ, các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền
con người phản ánh những giá trị chung nhất được thừa nhận trong các điều ước
quốc tế cơ bản về quyền con người. Do đó, các tiêu chuẩn và nguyên tắc về
quyền con người sẽ là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng các mục tiêu phát triển,
cũng như cho hoạt động để đạt được các mục tiêu đó.
Làm rõ mối quan hệ tương ứng giữa chủ thể của quyền và chủ thể có
nghĩa vụ thực hiện quyền.Về nguyên tắc, nhà nước có nghĩa vụ chính trong việc
đảm bảo quyền con người cho tất cả mọi người. Tuy nhiên trên thực tế, vì nhiều
lý do khác nhau, vẫn có những quyền của cá nhân hay nhóm xã hội nào đó chưa
thể được thực hiện. Do đó, tiếp cận dựa trên quyền nhấn mạnh đến việc xác định
các quan hệ quyền và trách nhiệm giữa các chủ thể, xác định vai trò của các cá

nhân, nhóm xã hội trong việc đòi hỏi được đáp ứng các quyền của họ; đồng thời
nhấn mạnh vai trò của bên có trách nhiệm trong việc thực hiện các quyền của cá
nhân, nhóm xã hội một cách công khai, minh bạch mà không có sự phân biệt
đối xử...
Phân tích và đánh giá năng lực của chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ
thực hiện quyền. Đối với chủ thể quyền, các năng lực quan trọng nhất gồm:
năng lực nhận thức, năng lực hành vi và năng lực về vị thế xã hội, nếu thiếu một
trong các năng lực trên sẽ là trở ngại để họ thực hiện các quyền của mình. Đối
với chủ thể có nghĩa vụ thực hiện quyền, các năng lực quan trọng nhất gồm:
năng lực nhận thức, năng lực tổ chức, năng lực con người (lãnh đạo, quản lý,
8


công chức, nhân viên), năng lực về tài chính... Phân tích, đánh giá năng lực của
các chủ thể là khâu quan trọng then chốt để xác định năng lực nào mà chủ thể
quyền đang thiếu hụt; năng lực nào mà chủ thể có nghĩa vụ thực hiện quyền
đang thiếu hụt, từ đó xây dựng các chiến lược hành động cụ thể, đề xuất các biện
pháp sửa đổi, bổ sung hoàn thiện sự thiếu hụt đó để hỗ trợ họ hoàn thành tốt
quyền và nghĩa vụ của mình.
Chú ý quan tâm đến nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt nhóm người bị thiệt
thòi nhất và bị loại ra khỏi quá trình phát triển.Mục tiêu của phương pháp tiếp
cận dựa trên quyền là bảo đảm các quyền nhiều hơn cho mọi người.Đó cũng là
yêu cầu của tiến bộ và công bằng xã hội.Vì vậy, lẽ tự nhiên nó phải hướng đến
nhóm người dễ bị tổn thương và bị thiệt thòi nhiều nhất trong đời sống xã hội,
như người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người nhiễm HIV/AIDS. Do
vậy, trách nhiệm của các nhà hoạch định chính sách phải “làm hết sức mình để
đảm bảo các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa cho những người bị thiệt thòi
nhất và đảm bảo sự tham gia của họ trong quá trình ra quyết định"
5.2.


Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thu thập thông tin và phân tích tài liệu.
Đọc, tìm hiểu, phân tích tài liệu có liên quan tới CTXH như: Nhập môn
CTXH, CTXH cá nhân, CTXH nhóm, CTXH tổ chức và phát triển cộng đồng,
CTXH với người LGBT ở một số quốc gia trên thế giới.
Phân tích những công trình nghiên cứu có liên quan tới vấn đề công tác xã
hội với phụ nữ bị bạo lực gia đình trên những tài liệu đã công bố, in ấn.
- Phương pháp phỏng vấn sâu.
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà nghiên
cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu cuộc sống, kinh nghiệm và nhận
thức của người cung cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ của người ấy.
- Phương pháp quan sát.
9


Quan sát trực tiếp khi tham gia các buổi tập huấn, giao lưu, hoạt động xã
hội và tiếp xúc với thân chủ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
 Ý nghĩa lý luận.
Đề tài góp phần làm sáng tỏ một số lý luận liên quan đến vấn đề nghiên
cứu như:
- Bạo lực gia đình với phụ nữ là gì?
- Các hoạt động công tác xã hội cá nhân đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình
là gì?
- Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện công tác xã hội cá nhân
với phụ nữ bị bạo lực gia đình.
 Ý nghĩa thực tiễn.
- Đề tài làm rõ thực trạng hoạt động của công tác xã hội cá nhân với phụ
nữ bị bạo lực gia đình.

- Phân tích ưu điểm, hạn chế của quá trình thực hiện.
- Phát hiện các vấn đề trong thực tiễn thực hiện và từ đó đưa ra các giải
pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính bao gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình
tại thành phố Yên Bái.
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo
lực gia đình từ thực tiễn tại thành phố Yên Bái.

10


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các
thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống
hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với
nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực
hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người.
1.1.2. Bạo lực gia đình
Ở Việt Nam, Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 định nghĩa
“Bạo lực gia đình (BLGĐ) là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại
hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành
viên khác trong gia đình”.

1.1.2. Bạo lực đối với phụ nữ
Theo định nghĩa của Đại hội đồng Liên hiệp quốc thì Bạo lực đối với phụ
nữ bao gồm bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào dẫn đến, hoặc
có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm lý, hay những
đau khổ của phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự
cưỡng bức hay tước đoạt một cách tùy tiện sự tự do, dù nó xảy ra nơi công cộng
hay cuộc sống riêng tư.
1.1.3. Công tác xã hội cá nhân với phụ nữ bị bạo lực gia đình
Công tác xã hội cá nhân với phụ nữ bị bạo hành gia đình là một phương
pháp trong công tác xã hội để nhân viên xã hội tiến hành đánh giá mức độ tổn
thương tâm lý, xác định phương pháp tham vấn và trị liệu, cung cấp dịch vụ trị
liệu tâm lý để phục hồi sang chấn cho nạn nhân bị bạo lực gia đình.
11


1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình.
Bạo lực gia đình được chia làm nhiều loại.Gồm có bạo lực thể xác, bạo
lực tinh thần, bạo lực tình dục, bạo lực xã hội.
 Bạo lực thể xác
Những hành vi như đá, đấm, tát tác động trực tiếp đến sức khỏe nạn nhân.
Kiểu hành vi này hay xảy ra khi hai bên chênh lệch về sức mạnh thể chất .
Những hành động này thường gây nên sự đau đớn về thể xác và cả tinh thần, nó
thường để lại dấu vết trên cơ thể nạn nhân và đó là những bằng chứng vi phạm
pháp luật và dễ bị phát hiện, người gây ra bạo lực thể xác có thể bị xử lý bởi
pháp luật.
 Bạo lực tình dục
Tình dục là dựa trên sự đồng thuận, tôn trọng lẫn nhau, đảm bảo an toàn
cho nhau, không cưỡng bức, không bạo lực. Vì thế mà bất cứ hành vi quan hệ
nào nằm ngoài những điều này đều dược gọi là bạo lực.
 Bạo lực tinh thần

Chửi bới, mắng nhiếc, im lặng không nói chuyện trong thời gian dài...
được coi là bạo lực tinh thần.
 Bạo lực xã hội
Bạo lực xã hội là các hành vi ngăn không cho tiếp xúc với gia đình, bạn
bè, bao vây kinh tế nhằm hạn chế các hoạt động mang tính cộng đồng.
Các dạng cơ bản của bạo lực xã hội:
Cô lập/cách ly: Là những hành động tường xuyên chỉ trích, nghi ngờ về
gia đình và bạn bè của người vợ, không tin tưởng vào bạn bè của vợ đến nhà và
thường xuyên đi lại xung quanh làm cho bạn bè của vợ cảm thấy không thoải
mái, không cho phép vợ có bạn riêng và tìm cách cô lập vợ.

12


Kiểm soát chặt chẽ vợ: Người chồng luôn kiểm soát chặt chẽ vợ mình,
mọi thứ vợ làm, nói chuyện với ai, đi đâu, không để cho vợ có cuộc sống riêng
của mình.
Bao vây kinh tế: Người chồng luôn muốn vợ phải phụ thuộc kinh tế vào
mình, tìm mọi cách không cho vợ đi làm, kiểm soát tiền, từ chối những ý kiến,
quyết định của vợ liên quan đến tài chính.
1.3. Đặc điểm phụ nữ bị bạo lực gia đình
1.3.1. Đặc điểm tâm lý
Phụ nữ bị bạo lực gia đình thường có các có các ảnh hưởng tâm lý như lo
lắng, sợ hãi, hoảng loạn, xấu hổ và né tránh. Họ cảm thấy nhân phẩm bị xúc
phạm, có cảm giác bị cô lập, bị bỏ rơi, cảm thấy bị khống chế và kiểm soát, cuộc
sống rất nặng nề, chán nản, căng thẳng, tuyệt vọng, mất ăn, mất ngủ, bị stress,
những nạn nhân trong tình trạng nặng thì có các dấu hiệu ảnh hưởng về tâm thần
như trầm cảm, rối loạn tâm thần, thậm chí có ý định tự tử.
1.3.2. Đặc điểm thể chất
Về thể chất người phụ nữ thường phải chịu những thương tích trên cơ thể

như những vết bầm, trầy, gãy tay chân, bị những chấn thương ở nhiều mức độ khác
nhau phải cấp cứu bệnh viện. Người bị bạo lực về tình dục thì vừa chịu những đau
đớn về thể xác lẫn tinh thần khi bị chồng cưỡng ép quan hệ tình dục để thỏa mãn
nhu cầu sinh lý cũng như thỏa những hình thức làm tình quái ác của chồng.Họ chịu
những hậu quả nặng nề về sức khỏe tinh thần lẫn sức khỏe sinh sản. Họ sa sút về
sức khỏe thể chất, gặp khó khăn về đi lại hoặc thực hiện những hoạt động thường
ngày, viêm nhiễm các bệnh phụ khoa, HIV, có thai ngoài ý muốn, phá thai, nạo thai,
thai chết lưu…
1.4. Nhu cầu công tác xã hội của phụ nữ bị bạo lực gia đình
Nạn nhân bị bạo lực gia đình có nhu cầu rất lớn về hàng loạt các dịch vụ
công tác xã hội như chăm sóc, bảo vệ, giải quyết việc làm, kết nối với các nguồn
lực khác. Đó là các nhu cầu thiết yếu để phục hồi các chức năng xã hội của họ.

13


Nhân viên công tác xã hội có thể cung cấp một số dịch vụ xã hội để hỗ trợ
nạn nhân. Cụ thể:
- Lập kế hoạch trợ giúp cho nạn nhân và điều phối các dịch vụ hỗ trợ cho
nạn nhân dựa trên nguyên tắc ưu tiên và đáp ứng nhu cầu của họ. Đảm bảo giải
quyết tất cả những vấn đề khó khăn mà thân chủ đang gặp phải.
- Trong quá trình tìm hiều và phân tích vấn đề của nạn nhân, nhân viên xã
hội sẽ là cầu nối giữa nạn nhân với Ngôi nhà bình yên; TW Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Các trung tâm bảo trợ xã hội, các nhà xã hội… để đảm bảo nạn nhân có
được chỗ ở an toàn trong suốt thời gian can thiệp; giúp đỡ nạn nhân từ quá trình bắt
đầu và sau khi tái hòa nhập cộng đồng, đảm bảo có chỗ ăn ở an toàn.
- Nhân viên xã hội tiến hành đánh giá mức độ tổn thương tâm lý, xác định
phương pháp tham vấn và trị liệu, cung cấp dịch vụ trị liệu tâm lý để phục hồi sang
chấn cho nạn nhân bị bạo lực gia đình. Những trường hợp có vấn đề về tâm lý quá
lớn, nhân viên xã hội không đủ khả năng giải quyết thì sẽ đựơc kết nối, chuyển giao

đến các cơ quan và tổ chức có khả năng, đủ thẩm quyền.
1.5. Quan điểm và mục tiêu phòng chống bạo lực gia đình
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc thực hiện
bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình. Năm 2006, tại kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khoá XI đã chính thức thông qua Luật Bình đẳng giới, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2007, tiếp đến ngày 21/11/2007, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá
XII đã thông qua Luật Phòng chống bạo lực gia đình có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2008. Đây là hai bộ Luật thể hiện tính nhân văn sâu sắc của chế độ ta, cụ thể
hoá chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về thực hiện bình đẳng giới, bảo
đảm quyền con người, đề cao vai trò của gia đình đối với xã hội, khẳng định gia
đình là nền tảng của xã hội phát triển bền vững.
1.6. Chính sách, pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình
Năm năm qua, công tác thông tin, tuyên truyền Luật Phòng, chống bạo lực
gia đình được các cơ quan báo chí địa phương, Cổng thông tin điện tử tỉnh, phòng
Văn hóa - Thông tin, Đài Truyền thanh – Truyền hình cấp huyện và hệ thống Đài
14


truyền thanh cơ sở chú trọng triển khai bằng nhiều hình thức và phương thức khác
nhau đã góp phần thay đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình, tiến tới xoá bỏ
bạo lực gia đình và tạo sự chuyển biến về nhận thức của các cấp, các ngành, cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
Với chức năng quản lý nhà nước về báo chí – xuất bản, Sở thông tin và
truyền thông đã thường xuyên hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, giám sát trên báo chí,
hệ thống phát thanh - truyền hình, Cổng thông tin điện tử tỉnh, các trang thông tin
điện tử, các bản tin, xuất bản phẩm trên địa bàn tỉnh về công tác tuyên truyền, trong
đó có hoạt động phổ biến chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình,
bình đẳng giới. Bên cạnh đó, Sở Thông tin và Truyền thông đã định hướng công
tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng tập trung vào các nội
dung: Chỉ thị 49/CT-TW ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa

IX) về "Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; Luật
Phòng chống BLGĐ; Luật Bình đẳng giới; Nghị định số110/2009/NĐ-CP ngày
10/12/2009 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo
lực gia đình; Thông tư số: 23/2011/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm
2011 Quy định thu thập, xử lý thông tin về gia đình và phòng, chống bạo lực gia
đình; Đề án “Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên
địa bàn tỉnh Yên Bái, giai đoạn 2010 - 2015”; Kế hoạch số 57/KH-UBND ngày 05
tháng 7 năm 2011 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái về tổ chức cuộc thi viết tìm
hiểu Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Đề án “Phát triển gia đình tỉnh Yên Bái”,
giai đoạn 2012- 2020, tầm nhìn 2030.
Từ năm 2009 đến nay, các cơ quan báo chí địa phương đã tăng thời lượng,
tần suất và diện tích tuyên truyền rộng rãi các chính sách, pháp luật, các hoạt động
của Trung ương và của tỉnh liên quan đến thực hiện Luật phòng, chống bạo lực gia
đình, chính sách Dân Số - Kế Hoạch Hóa Gia Đình (DS-KHHGĐ), bình đẳng
giới. Báo Yên Bái, Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh, Tạp chí Văn nghệ, Cổng
thông tin điện tử tỉnh đã đăng tải trên2.000 tin, bài, ảnh, video truyền hình có nội
dung tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình. Cùng với đăng tải, phát sóng
15


bằng tiếng Việt, các cơ quan báo chí địa phương đã lựa chọn nhiều tác phẩm về đề
tài phòng, chống bạo lực gia đình biên dịch ra tiếng dân tộc đăng trên Báo Yên Bái
vùng cao; chương trình phát thanh tiếng Thái, Mông, Dao; chương trình truyền
hình tiếng Mông, Dao phát sóng tại các huyện có đông đồng bào dân tộc sinh sống
và cộng tác với kênh VTV5 của Đài Truyền hình Việt Nam.
Bên cạnh đó, Sở Thông tin và Truyền thông hàng tháng đều ban hành văn
bản hướng dẫn hệ thống Đài Truyền thanh - Truyền hình cấp huyện, chỉ đạo Phòng
Văn hóa – Thông tin chỉ đạo hệ thống Đài truyền thanh cơ sở tuyên truyền, phổ
biến chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình trên các
chương trình phát thanh, truyền thanh của địa phương. Đồng thời Sở cũng đã

thường xuyên hướng dẫn các cơ sở phát hành thực hiện tốt các quy định của Luật
Xuất bản, các quy định của Nhà nước về kinh doanh xuất bản phẩm, đặc biệt là tài
liệu về thực hiện chính sách Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ); Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình; bình đẳng giới. Trong 5 năm, Sở Thông tin và
Truyền thông đã cấp phép 15 giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh có nội
dung tuyên truyền về công tác phòng, chống bạo lực gia đình với tổng số trên
15.000 bản.
Ngoài ra, Sở còn tích cực tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình trên website Sở Thông tin và Truyền thông; tổ chức
hội nghị tập huấn tuyên truyền DS-KHHGĐ trong đó có nội dung phòng, chống
bạo lực gia đình tại Sở Thông tin và Truyền thông; tuyên truyềnlồng ghép trong các
Hội nghị của cơ quan, các cuộc họp của Chi bộ và các tổ chức Công đoàn, Đoàn
Thanh niên. Từ đó, nhận thức của cán bộ công chức, viên chức trong cơ quan đã có
những chuyển biến rõ rệt. Kết quả, từ năm 2009 đến nay, 100% cán bộ công chức,
viên chức trong cơ quan thực thực hiện nghiêm chỉnh Luật Hôn nhân gia đình, Luật
phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới cũng như chính sách DS-KHHGĐ.
Qua 5 năm triển khai, công tác thông tin, tuyên truyền Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình trên các phương tiện thông tin đại chúng tỉnh Yên Bái được chú
trọng triển khai bằng nhiều hình thức và phương thức khác nhau đã góp phần thay
16


đổi nhận thức, hành vi về bạo lực gia đình, tiến tới xoá bỏ bạo lực gia đình và tạo
sự chuyển biến về nhận thức của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân trên địa bàn tỉnh, góp phần không nhỏ vào giảm thiểu tình trạng
bạo lực gia đình, giảm thiểu các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình và phát triển
kinh tế - xã hội tại địa phương.
1.7. Một số mô hình hỗ trợ phụ nữ bị bạo lực gia đình
1.7.1. Mô hình nhóm phòng, chống bạo lực gia đình
Mô hình phòng, chống bạo lực gia đình được thành lập ở cấp thôn, ấp, buôn,

bản, tổ dân phố. Ủy ban nhân dân xã ra Quyết định thành lập và tổ chức các hoạt
động của từng Mô hình PCBLGĐ. Mô hình lấy Câu lạc bộ gia đình phát triển bền
vững để tập hợp các gia đình trong cộng đồng tham gia sinh hoạt, cùng chia sẻ kinh
nghiệm, kiến thức về đời sống gia đình; phòng, chống bạo lực gia đình và các tệ
nạn xã hội xâm nhập vào gia đình, xây dựng gia đình đạt chuẩn văn hóa. Ở mỗi
CLB có 01 nhóm PCBLGĐ thực hiện nhiệm vụ can thiệp, xử lý các vụ việc bạo
lực gia đình xảy ra trên địa bàn theo quy định. Để hỗ trợ và chỉ đạo hoạt động của
Mô hình, ở mỗi cấp nên có Ban chỉ đạo PCBLGĐ. Căn cứ tình hình thực tế của địa
phương, Ban chỉ đạo có thể được lồng ghép trong Ban chỉ đạo Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hoặc thành lập Ban chỉ đạo riêng ở cấp tỉnh,
huyện, xã .
- Ban chỉ đạo có từ 7- 9 thành viên do lãnh đạo UBND làm Trưởng ban. Phó
Trưởng ban và thành viên được lựa chọn trong các ban, ngành: Văn hóa, Thể thao
và Du lịch, Công an, Tư pháp, Y tế, Lao động, Thương và xã hội, Giáo dục - Đào
tạo, Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Người cao tuổi,
Hội Cựu chiến binh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
- Ban chỉ đạo được thành lập bằng Quyết định của Chủ tịch của UBND cùng
cấp kèm theo quy chế hoạt động.
Ban chỉ đạo cấp xã có từ 7 đến 9 thành viên gồm: Chủ tịch hoặc phó chủ tịch
phụ trách Văn hóa- Xã hội làm trưởng ban. Phó ban và thành viên được lựa chọn
trong số: Công chức văn hóa-Xã hội, Tư pháp, Y tế, Lao động, Thương binh và xã
17


hội, Công an xã, cán bộ Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân,
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi,
Trưởng thôn... Tại địa bàn có đồng bào dân tộc ít người, vùng đồng bào có đạo, có
thể mời đại diện Hội đồng già làng, trưởng bản, đại diện chức sắc tôn giáo tham gia.
Thành phần Ban chỉ đạo có thể thay đổi, bổ sung.
Ban chỉ đạo hoạt động theo cơ chế kiêm nhiệm, có quy chế hoạt động và

phân công trách nhiệm cho từng thành viên tham gia. Ít nhất 3 tháng 1 lần, Ban chỉ
đạo họp đánh giá kết quả hoạt động và đề xuất phương hướng tiếp theo.
Mục đích hoạt động: Tập hợp các gia đình có nhu cầu tham gia sinh hoạt để
giao lưu, học hỏi, chia sẻ những kiến thức, kỹ năng xây dựng gia đình.
- Câu lạc bộ được thành lập ở cấp thôn. Mỗi thôn có thể có nhiều Câu lạc bộ.
- Số lượng thành viên từ 20 đến không quá 40 gia đình
- Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ: có từ 3 đến 5 thành
- Địa điểm sinh hoạt: linh hoạt tuỳ theo thực tế từng địa bàn triển khai, có thể
tại trụ sở nhà văn hoá xã/phường, nhà sinh hoạt cộng đồng, nhà thành viên Ban chủ
nhiệm hoặc nhà các thành viên Câu lạc bộ...
1.7.2. Mô hình “ Ngôi nhà bình yên”
“Ngôi nhà bình yên” là ý tưởng được mở ra từ tháng 3/2007, nhằm tạo một
nơi trú ẩn an toàn cho những nạn nhân trốn thoát khỏi bọn buôn người. Thông
thường, những đối tượng này khi trở về đến biên giới Việt Nam sẽ được các cơ
quan chức năng đón nhận và đưa về “Ngôi nhà bình yên”.Tại đây, họ được bảo vệ,
chăm sóc sức khoẻ, tâm lý cũng như phục hồi các tổn thương cả thể xác lẫn tâm lý
do bị buôn bán, hành hạ bạo lực. Khi được bình ổn tâm lý sức khoẻ, cán bộ làm
việc tại ngôi nhà này sẽ định hướng giúp họ có những quyết định về kỹ năng nghề
nghiệp, tạo cơ hội cho họ tham gia các lớp học nghề như: nghề phục vụ khách sạn,
nấu ăn, trang điểm.
Tại Ngôi nhà bình yên, những người là nạn nhân bị buôn bán sẽ được hỗ trợ
về nơi ăn, ở, chăm sóc y tế, hỗ trợ tâm lý và pháp lý, đào tạo nghề, hướng dẫn kỹ
năng sống trong tối đa 18 tháng.
18


Đối với các trường hợp là nạn nhân của bạo hành gia đình họ cũng được
hưởng những sự trợ giúp tương tự, từ vài ngày đến vài tuần. Ở đây còn có nhà trẻ
chuyên chăm sóc trẻ 3 - 6 tuổi là nạn nhân. Các cháu được chăm sóc ăn uống và
hưởng chế độ giáo dục toàn diện theo chương trình phù hợp do giáo viên chuyên

ngành Giáo dục đặc biệt đảm trách.
“Ngôi nhà Bình yên” là mô hình nhà tạm lánh đầu tiên của Việt Nam cung
cấp gói dịch vụ hỗ trợ toàn diện cho phụ nữ và trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia
đình và mua bán người trở về. Từ khi thành lập (năm 2007) đến nay, “Ngôi nhà
Bình yên” đã hỗ trợ 619 lượt nạn nhân, trong đó có 378 lượt bị bạo lực gia đình và
241 người bị buôn bán. 72% nạn nhân bị buôn bán trở về có trình độ học vấn thấp
(cấp 1 và 2) và hầu hết họ dưới 25 tuổi; gần 50% các nạn nhân bị bạo lực làm nghề
tự do; 71% nạn nhân bị cả 3 hình thức bạo lực: bạo lực tinh thần, bạo lực thể chất
và bạo lực tình dục...
1.8. Công tác xã hội với phụ nữ bị bạo lực gia đình
1.8.1 Vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực gia
đình
* Vai trò của người kết nối
Nhân viên xã hội (NVXH) thực hiện vai trò này bằng việc là người kết nối
đối tượng với các dịch vụ và nguồn lực phù hợp
- Đánh giá tình hình đối tượng: đánh giá chính xác nhu cầu và khả năng của
đối tượng.
- Đánh giá nguồn lực: tìm kiếm và đáng giá các nguồn lực sẵn có liên quan
đến những nhu cầu của đối tượng.
- Chuyển giao/kết nối: liên lạc, chắp nối nguồn lực tìm kiếm được với nhu
cầu của đối tượng.
* Vai trò của người biện hộ
Nhân viên xã hội đứng trên quan điểm của đối tượng đảm bảo quyền lợi của
đối tượng tiếp cận với nguồn lực và dịch vụ do chính sách xã hội quy định.

19


- Cung cấp cho đối tượng thông tin, sự ủng hộ, sự tham khảo trong việc lựa
chọn những dịch vụ thích hợp.

- Đại diện cho đối tượng trước các nhà cung cấp dịch vụ.
- Thực hiện các vấn đề của đối tượng liên quan đến các cơ quan và các quan
chức chính phủ.
- Thúc đẩy các cam kết, thúc đẩy sự bình đẳng và công bằng của hệ thống
các cơ quan liên quan đến việc bảo vệ đối tượng.
- Đại diện giải quyết các vấn đề của đối tượng khi liên quan đến các cơ quan
pháp luật và điều tra.
- Thực hiện tất cả các quan tâm khác với tư cách là người đại diện của thân
chủ.
1.8.2. Các nguyên tắc cơ bản trong quá trình thực hành công tác xã hội
Trên cơ sở nền tảng triết lý và giá trị và nguyên tắc nghề nghiệp của công tác
xã hội người ta đưa ra hệ thống các qui tắc ứng xử cho NVXH trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ. Những qui tắc ứng xử này đóng vai trò như kim chỉ nam cho hành
động tương tác của NVXH với thân chủ trong quá trình trợ giúp. Sau đây là những
nguyên tắc ứng xử của NVXH trong quá trình tiến hành hoạt động trợ giúp.
 Chấp nhận thân chủ
Khái niệm chấp nhận thân chủ là một khái niệm khá trừu tượng, nhưng có
thể biến thành hành động cụ thể qua việc sử dụng các kỹ thuật. Chấp nhận đòi hỏi
việc tiếp nhận thân chủ, theo nghĩa bóng và nghĩa đen, không tính toán, không
thành kiến và không đưa ra phán quyết nào về hành vi của anh ta. Nguyên tắc chấp
nhận thân chủ dựa trên nến tảng của giả định triết học mỗi cá nhân đều có giá trị
bẩm sinh, bất kể địa vị xã hội hay hành vi của anh ta. Thân chủ được chú ý và nhìn
nhận là một con người dù anh ta có thể phạm tội. Thân chủ phục vụ của ngànhcông
tác xã hội là con người, đặc biệt là nhóm người yếu thế, nhóm người có hoàn cảnh
và nhu cầu cơ bản chưa được đáp ứng. Mỗi con người, dù là bình thường hay bất
bình thường họ đều có nhân phẩm, có giá trị riêng và có quyền được tôn trọng, bình
đẳng. Chính vì vậy trong các hoạt động trợ giúp, NVXH cần có thái độ tôn trọng
20



phẩm giá con người và chấp nhận họ. Việc chấp nhận những hành vi, quan điểm
hay giá trị của thân chủ không có nghĩa là đồng tình với những hành vi, suy nghĩ
của họ. Sự tôn trọng hay chấp nhận ở đây ám chỉ sự ghi nhận sự tồn tại và không
phán xét những hành vi hay suy nghĩ của họ.
Chấp nhận thân chủ với tất cả những phẩm chất tốt hoặc xấu, điểm mạnh
hay điểm yếu, không xem xét đến hành vi của anh ta. Thái độ này có ý nghĩa rất
gần với câu dạy của hầu hết các tôn giáo “Yêu người phạm lỗi, ghét hành vi tội”.
Nguyên tắc này diễn đạt thái độ thân thiên đối với thân chủ một sự rộng lượng và
mong muốn giúp đỡ.
Sự thực hiện nguyên tắc này giúp cho NVXH tạo được lòng tin từ thân chủ,
qua đó thúc đẩy sự hợp tác và chia sẻ của họ, đó là nền tảng cho thiết lập mối quan
hệ tương tác trong quá trình giúp đỡ.


Tạo điều kiện để thân chủ tham gia giải quyết vấn đề

Nguyên tắc để thân chủ tham gia giải quyết vấn đề là một trong những nguyên
tắc cơ bản trong hoạt động của NVXH. Vấn đề là của thân chủ, họ hiểu hoàn cảnh
và khả năng của mình hơn ai hết nếu được sự trợ giúp. Và vì vậy họ cần là người
tham gia chủ yếu từ khâu đánh giá vấn đề tới ra quyết định, lựa chọn giải pháp,
thực hiện giải pháp cũng như lượng giá kết quả của giải pháp đó. Việc để thân chủ
tham gia vào hoạt động giải quyết vấn đề sẽ giúp cho họ học hỏi cách thức từ đó họ
tăng cường khả năng đối phó với tình huống có vấn đề. Người NVXH chỉ đóng vai
trò xúc tác, vai trò định hướng trong quá trình trợ giúp thân chủ thực hiện giải pháp
cho vấn đề của họ mà không làm thay, làm hộ chủ yếu khích lệ họ có niềm tin để tự
giải quyết vấn đề.


Tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ


Mỗi cá nhân có quyền quyết định về các vấn đề thuộc về cuộc đời, những quyết
định của người khác hướng dẫn họ nhưng không nên áp đặt trên họ. Trong các tình
huống, NVXH không nên quyết định, chọn lựa hay lên kế hoạch cho thân chủ,
ngược lại thân chủ có thể được hướng dẫn và họ có khả năng tự quyết định về
mình.
21


×