Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN kế THỪA và đổi mới các GIÁ TRỊ đạo đức TRUYỀN THỐNG của các MẠNG VIỆT NAM TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.3 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

2

I.

TRUYỀN THỐNG VÀ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG

1.

CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.
Giá trị và thang giá trị đạo đức truyền thống

3
3

2.

Nội dung giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc việt nam

5

3.
II.

Hạn chế và tác động của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ hiện nay
YÊU CẦU, NỘI DUNG KẾ THỪA VÀ ĐỔI MỚI CÁC GIÁ TRỊ

16



ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
1.

TRONG GIA ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY
Yêu cầu kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống

2.

Một số nội dung cơ bản kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức

18
18

truyền thống của dân tộc trong giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN

22
28

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

29


2

MỞ ĐẦU
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Quá trình đó đã rèn luyện và hun đúc nên những thế hệ con người Việt Nam

giàu lòng yêu nước, thương yêu con người, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó
khăn, tính cần cù, óc sáng tạo, trọng nhân nghĩa, kính thầy, ham học hỏi,...
Những đức tính đó đã trở thành truyền thống mà hàng ngàn đời nay, những thế
hệ con người Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ. Những giá trị tốt đẹp đó có tác
dụng củng cố, phát triển quan hệ xã hội, tạo ra sức mạnh cho con người vượt qua
khó khăn trong cuộc sống để phát triển xã hội và hoàn thiện nhân cách.
Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng đất nước, với quá trình chuyển đổi
cơ cấu kinh tế đòi hỏi chúng ta phải mỏ rộng quan hệ hợp tác kinh tế và giao
lưu văn hóa vói các nưốc trên thế giới. Thông qua việc mỏ rộng quan hệ,
chúng ta đã tiếp thu được nhiều thành tựu văn minh của nhân loại, làm phong
phú thêm nển văn hóa dân tộc. Nhưng cũng trong quá trình mở cửa hội nhập,
sự xâm nhập của văn hóa và lối sống ngoại lai làm cho văn hóa truyền thống
có nguy cơ bị mai một. Trong xã hội ta hiện nay, bên cạnh những truyền thống
đạo đức tốt đẹp của dân tộc, cũng còn không ít vấn đề về đạo đức, lối sống
đang đặt ra đòi hỏi phải nhận thức và giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai
lối sống, lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, chăm lo lợi ích cộng
đồng, bảo vệ thành quả lao động với lối sống thực dụng, ích kỷ, dối trá, ăn
bám, chạy theo đồng tiền bất chính; những biểu hiện coi nhẹ những giá trị
truyền thống, chạy theo thị hiếu không lành mạnh.
Trong bối cảnh đó, việc bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống là vấn
đề cần phải nhìn nhận nghiêm túc và có sự quan tâm đặc biệt trong giai đoạn
cách mạng hiện nay. Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và cồng bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế
thị trường, đồng thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.


3

I. TRUYỀN THỐNG VÀ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG

CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.
1. Giá trị và thang giá trị đạo đức truyền thống.
Giá trị là cái gì làm cho một vật trở nên có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng quý
về mặt nào đó. Có giá trị cá nhân và giá trị xã hội. Từ quan niệm trên, có thể
hiểu giá trị đạo đức là những cái được con người lựa chọn và đánh giá, là những
cái có ý nghĩa tích cực với đời sống xã hội và phù hợp với dư luận xã hội.
Truyền thống là quá trình chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác
những yếu tố xã hội và văn hóa, những tư tưởng, đức tính, lễ nghi, chuẩn
mực xã hội, lối sống, phong tục tập quán, thói quen… được duy trì trong các
tầng lớp nhân dân trong thời gian tương dài.
Một tổ hợp giá trị đạo đức hay một hệ thống giá trị đạo đức được xếp
theo một thứ tự ưu tiên nhất định được gọi là thang giá trị đạo đức. Ví dụ, khi
nói về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, giáo sư Trần Văn Giàu
nhấn mạnh bảng nội dung sau: “yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc
quan, thương người, vì nghĩa”. Đó là thang giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc được xếp theo thứ tự nhất định. Thang giá trị đạo đức truyền thống
được hình thành và phát triển phụ thuộc vào điều kiện lịch sử xã hội nhất
định, và từ thang giá trị đạo đức, chủ thể đạo đức (dân tộc, nhóm, cá thể) có
thể vận dụng nó để tạo lập một hoạt động, hành vi hay đánh giá một hiện
tượng xã hội, một cử chỉ hành vi…được gọi là thước đo giá trị.
Đạo đức không sinh ra từ đạo đức mà là sản phẩm của những điều kiện
lịch sử cụ thể. Các giá trị đạo đức truyền thống là kết quả của các mối quan hệ
giữa người với người trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Đạo đức, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ
thống những quan điểm, quan niệm, quy tắc, chuẩn mực, nhờ đó con người
điều chỉnh, hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích xã hội trong mối quan
hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Bản thân giá trị đạo đức, xét theo chiều thời gian (lịch đại) có thể phân
thành giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Mỗi dân tộc đều có truyền thống
của mình do lịch sử để lại. Truyền thống là điểu kiện để duy trì và phát triển



4

cuộc sống của cộng đồng. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển của mỗi dân
tộc. Từng dân tộc khác nhau có truyền thống khác nhau. Cùng một dân tộc, qua
từng giai đoạn lịch sử khác nhau truyền thống cũng biểu hiện và có cách lý giải
khác nhau. Truyền thống vừa mang tính công đồng vừa mang tính giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều góp phần mình tạo dựng truyền thống
của dân tộc, quốc gia, Trong truyền thống của mỗi dân tộc có những truyền
thống tốt và cũng có những truyền thống xấu mà tiêu chuẩn đánh giá là nó có
đóng góp vào sự tiến bộ xã hội, có phù hợp với quy luật khách quan hay không.
Truyền thống, xét về mặt đặc trưng, là những gì đã trở nên ổn định, được đông
đảo mọi người thừa nhận và đã ăn sâu vào tâm lý, tập quán xã hội từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Truyền thống biểu hiện qua từng giai đoạn lịch sử nhất định
mà biểu hiện đầy đủ và cụ thể nhất là ở thời điểm hiện tại. Những giá trị được
hình thành từ hôm nay và ngày mai nếu trở thành phổ biến và ăn sâu vào đời
sống tâm lý, lối sống của cộng đồng thì sẽ tạo ra truyền thông mới.
Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của
dân tộc ta. Trong hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, các giá trị đạo đức
chiếm vị trí nổi bật tạo nên cốt lõi của nó. Nói đến các giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm
chất tốt đẹp đã hình thành và được bảo lưu cho đến thời điểm hiện tại. Đó là các
gíá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn mực mang tính phổ biến có
tác đụng điều chỉnh hành vi giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và xã hội. Giá
trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là do cộng đồng người Việt Nam tạo
dựng trong lịch sử phát triển lâu dài trên dải đất Việt Nam với tất cả những điều
kiện lịch sử đặc thù tạo nên bản sắc độc đáo của nó.
Các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hình thành gắn với điều kiện lịch

sử cụ thể của Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là kết quả và là động
lực to lớn của quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước của dân tộc
mang đậm nét đặc thù của sự phát triển xã hội trong lịch sử Việt Nam. Đó còn là
kết quả của quá trình tiếp thu sáng tạo tinh hoa của nhiều trào lưu tư tưởng, văn
hóa lớn của thế giới để bồi đắp thêm cho những giá trị đạo đức - văn hóa vốn có


5

của mình, đặc biệt đã được nâng lên tầm cao mới dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động.
2. Nội dung giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc việt nam.
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Quá trình đó đã rèn luyện và hun đúc nên những thế hệ con người Việt Nam
giàu lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân để cứu nước, thương yêu con người,
thương yêu đồng loại, có tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn... Những đức
tính đó đã trở thành truyền thống mà hàng ngàn đời nay, những thế hệ con
người Việt Nam đã nâng niu, gìn giữ, đó là những giá trị tinh thần, tư tưởng,
tâm lý như lòng yêu nước, tính cần cù, óc sáng tạo, hài hước, trọng nhân nghĩa,
kính thầy, ham học,… những giá trị tốt đẹp đó có tác dụng củng cố, phát triển
quan hệ xã hội, tạo ra sức mạnh cho con người vượt qua khó khăn trong cuộc
sống hiện tại để phát triển xã hội và hoàn thiện nhân cách. Có những phong tục
tập quán, những thói quen không phù hợp với sự phát triển xã hội thì không thể
coi đó là những truyền thống. Vậy, khi nói đến đạo đức truyền thống thường là
nói đến những giá trị văn hóa, tinh thần tốt đẹp, có ý nghĩa tích cực.
Theo giáo sư Vũ Khiêu, truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam bao
gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh
thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người 1. Giáo sư Trần Văn
Giàu cho rằng, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm:

yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa2.
Còn trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các giá trị đạo đức
thường được đề cập đến và được coi là những giá trị nổi bật. Nghị quyết của
Bộ Chính trị về một số “định hưống lớn trong công tác tư tưởng hiện nay”,
khẳng định: “Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt
Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương
người như thể thương thân”, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao
động... Đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng
1
2

Vũ Khiêu, Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, tr.74 - 86.
Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tr.74.


6

một xã hội phát triển, tiến bộ, công bằng, nhân ái” 3. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VII của Đảng về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một lần nữa
khẳng định: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết thúc cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính
cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tê trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống...” 2. Như vậy, từ quan điểm của các nhà khoa học cũng như của Đảng ta,
có thể khẳng định, dân tộc Việt Nam có một di sản giá trị đạo đức vô cùng
phong phú, trong đó, các giá trị điển hình là: Chủ nghĩa yêu nước; Lòng thương
người sâu sắc; Tinh thần đoàn kết cộng đồng; Đức tính cần kiệm; Lòng dũng
cảm, bất khuất, tính khiêm tốn, giản dị, trung thực, thủy chung, lạc quan.

* Chủ nghĩa yêu nước: Trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc, chủ nghĩa yêu nước là “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá
trị”3, là “động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc
thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta”4.
Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với
Tổ quốc biểu hiện ở khát vọng và hành động tích cực để phục vụ lợi ích của
Tổ quốc và nhân dân. Yêu nước là tình cảm phổ biến của nhân dân các dân
tộc trên thế giới. V.I. Lênin đã từng khẳng định: “Chủ nghĩa yêu nước là một
trong những tình cảm sâu sắc nhất đã được củng cố qua hàng trăm, hàng
nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”5. Song, sự hình thành sớm hay
muộn, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện của nó tùy thuộc vào
điểu kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng
hiện nay (Lưu hành nội bộ), Hà Nội, 1995, tr.19.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.56.
3
Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Sđd, tr.94.
4
Vũ Khiêu, Đạo đức mới, Sđd, tr.74.
5
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.37, tr.226.


7

Trong lịch sử phát triển của một số quốc gia, tinh thần dân tộc có lúc

phát triển chệch hướng theo chủ nghĩa sôvanh nước lớn, đại dân tộc hoặc sa
vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Đó là một trong những nguyên nhân sâu xa
của các xung đột sắc tộc và xung đột giữa một số quốc gia, khu vực trên thế
giới. Nhưng lịch sử cũng cho thấy sức mạnh to lớn của chủ nghĩa yêu nước,
một khi nó được phát triển theo xu hướng lành mạnh, tích cực mà chủ nghĩa
yêu nước của nhân dân ta là một minh chứng đầy sức thuyết phục.
Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của nhân dân ta từ xưa đến nay.
Lòng yêu nước có nguồn gốc sâu xa từ ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình - làng xã - Tổ quốc. Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
lên trên hết, là chăm lo xây dựng quê hương, đất nưóc, sẵn sàng chống đô hộ
và xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc. Đối với mỗi người, lòng yêu nước phát triển từ những tình
cảm bình dị và gần gũi đối với những người ruột thịt, dần dần phát triển thành
tình cảm gắn bó với làng xóm, quê hương và cao hơn hết là tình yêu Tổ quốc,
lòng tự hào, tinh thần tự tôn dân tộc.
Tinh thần yêu nước Việt Nam được bắt nguồn từ những tình cảm bình
dị, đơn sơ của mỗi người dân. Tình cảm đó, mới đầu, chỉ là sự quan tâm đến
những người thân yêu ruột thịt, rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thành
tình yêu Tổ quốc. Tình yêu đất nước không phải là tình cảm bẩm sinh, mà là
sản phẩm của sự phát triển lịch sử, gắn liền với một đất nước nhất định.
Tình yêu đất nước không chỉ gắn liền với quá trình xây dựng đất nước;
nó còn được thể hiện rõ hơn trong quá trình bảo vệ đất nước. Trên thế giới,
hầu như dân tộc nào cũng phải trải qua quá trình bảo vệ đất nước, chống xâm
lăng. Nhưng có lẽ không dân tộc nào lại phải trải qua quá trình giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc nhiều và đặc biệt như ở Việt Nam. Trong khoảng thời
gian từ thế kỷ III TCN đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, dân tộc ta đã dành
hơn nửa thời gian cho các cuộc kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống
ngoại xâm, các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Không có
một dân tộc nào trên thế giới lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh như vậy và
với những kẻ thù mạnh hơn rất nhiều.



8

Chính lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc đã giúp nhân
dân ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thế lực xâm lược dù chúng to
lớn đến bao nhiêu và từ đâu đến. Chính qua các cuộc chiến đấu trường kỳ đầy
gian khổ hy sinh đó mà chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ra được bộc lộ rõ nét
và được nâng lên ở tầm cao mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc
ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó bước qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”1
Trong quan niệm phổ biến của nhân dân ta, lợi ích của Tổ quốc bao giờ
cũng lớn hơn và được đặt lên trên lợi ích của cá nhân, quyền lợi của gia đình,
dòng họ, ngai vàng của vua chúa. Kẻ nào vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại đến
lợi ích dân tộc đều bị nhân dân trừng trị bằng nhiều cách và lịch sử đời đời lên
án. Còn những người có công trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước đều được
nhân dân đặc biệt kính trọng và tỏ lòng biết ơn sâu sắc. Nhiều đền thờ, miếu mạo
được đặt ở nơi trang trọng, trải dài khắp đất nước đã ghi lại bao chiến tích lẫy
lừng của ông cha ta, thể hiện tình cảm sâu sắc của nhân dân đối với những người
đã xả thân vì dân, vì nước. Nó có sức mạnh giáo dục và cổ vũ lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc của các thế hệ người Việt Nam từ xưa đến nay.
Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam
từ cổ đại đến hiện đại, là dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam, trở thành một
dạng triết lý xã hội và nhân sinh trong tâm hồn Việt Nam. Nó là tiêu chí cơ
bản và phổ biến để đánh giá tính đúng đắn trong đường lôì chính trị của giai
cấp cầm quyền cũng như hành vi của từng cá nhân. Hình thành sớm, được thử
thách và khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, được bổ sung và phát
triển qua từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của dân tộc và thời đại, chủ

nghĩa yêu nước là một trong những giá trị cao quý và bền vững nhất của dân
tộc ta. Truyền thống yêu nước của dân tộc ta bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với
lòng thương yếu và quý trọng con người, nhất là người lao động.

1

Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.6. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.171.


9

* Lòng thương người của dân tộc Việt Nam
Lòng thương người của cha ông ta có nguồn gốc sâu xa từ sinh hoạt trong
công xã nông thôn, chế độ ruộng công, làng cùng họ từ thời cộng đồng nguyên
thủy và được củng cố phát triển qua quá trình chung lưng khai phá giang sơn,
giữ gìn đất nước. Mặt khác, xuất phát từ tình cảm yêu quý con người - “người ta
là hoa của đất”. Chính trong quá trình lao động sản xuất và đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc, cha ông ta đã rút ra triết lý: con người là vốn quý hơn cả, không có gì có
thể so sánh được. Mọi người luôn luôn “thương người như thể thương thân” và
vì lẽ đó, trong quan hệ đối xử hàng ngày, người Việt Nam luôn coi trọng tình,
luôn đặt tình nghĩa lên trên hết - “vì tình vì nghĩa ai vì đĩa xôi đầy”. Chữ “tình”
chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của người dân. Trong gia đình, đó là
tình cảm vợ chồng “đầu gối tay ấp”, tình anh em “như thể tay chân”, tình cảm
đối với bố mẹ: “Công cha như núi Thái sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra”. Rộng hơn là tình cảm đối với làng xóm: “Sớm khuya tối lửa tắt đèn có
nhau”. Và, rộng hơn cả là tình yêu đất nước: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Người trong một nước thì thương nhau cùng”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy
là khác giống nhưng chung một giàn”… Chính sự coi trọng chữ “tình” mà trong
những xung đột, người Việt Nam thường cố gắng giải quyết theo phương châm
“có lý có tình”, “chín bỏ làm mười”. Bởi với họ, tình cảm con người là cao quý

hơn cả, không thể vì những điều khác mà bỏ đi được, “một mặt người hơn mười
mặt của”, “người sống đống vàng”,…
Vì giàu lòng thương người nên khi bị chà đạp, nhân dân ta luôn sẵn
sàng đứng lên đấu tranh giành lấy quyền sống cho mình. Trong suốt trường
kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn đứng trước nguy cơ bị xâm lược và đồng hóa. Vì
vậy, nhân dân ta hiểụ rất rõ quyền sống của mình gắn với vận mệnh của Tổ
quốc và dân tộc. Đạo làm người của nhân dân ta trước hết là, yêu nước và
dám xả thân vì nước. Con người yêu nước và con người thương dân gắn bó
chặt chẽ với nhau. Yêu nước và cứu nước là để đem lại quyền sống trong độc
lập, tự do của con ngưòi. Thương yêu con người trước hết là yêu nước và cứu
nước. Nước không có độc lập thì nhân dân không thể có tự do, hạnh phúc.
Chống áp bức, bất cộng, thần quyền, quần quyển, đả kích những ràng buộc


10

khắt khe của đạo đức phong kiến là để đem lại quyển sốíng chân chính của
con người. Lòng thương người truyền thống của dân tộc ta còn bao hàm cả
lòng vị tha, với những kẻ lầm đường lạc lối, biết lập công chuộc tội, trở về với
chính nghĩa và “mở đường hiếu sinh” với kẻ thù một khi chúng đã bị thất bại.
Tình thương người của dân tộc Việt Nam không chỉ biểu hiện trong đời
sống hàng ngày của người dân, trong hương ước của các làng xã, mà còn được
nâng lên thành những chuẩn tắc trong luật của nhà nước. Trong các bộ luật của
Việt Nam - những bộ luật rất hiếm hoi và ra đời tương đối muộn trong lịch sử
phát triển dân tộc, chúng ta có thể thấy, việc vi phạm các chuẩn mực đạo đức,
như con cái đối xử không tốt với cha mẹ, với người thân có thể bị xử phạt. Trong
các kho của nhà nước Việt Nam hầu như lúc nào cũng có thóc gạo dự trữ để
phân phát cho những người dân nghèo, đau ốm, hay vào những năm hạn hán mất
mùa. Việc lập các nhà thương tế bần nuôi dưỡng những người già cả, cô đơn,
đau ốm bệnh tật ở các nơi luôn được sự khuyến khích của nhà nước.

Lòng thương người đã trở thành một nếp nghĩ, một cách sống, một giá trị
đạo đức trong đời sống của người Việt Nam. Khi Phật giáo và Nho giáo thâm
nhập vào Việt Nam với những quan niệm từ bi bác ái, thương người thì chúng
càng khẳng định, củng cố thêm tư tưởng thương người của dân tộc Việt Nam.
Nhưng tư tưởng thương người của dân tộc Việt Nam không bị ảnh hưởng quá
nặng nề bởi quan niệm từ bi vượt thoát hiện thực của Phật giáo, vì người Việt
Nam vẫn chủ trương chú trọng nhiều đến những giá trị đời sống thường ngày; nó
cũng không bị ảnh hưởng nặng nề bởi chữ nhân quá thiên về lễ nghĩa của Nho
giáo, vì người Việt Nam hiểu chữ nhân như là một đạo làm người - đạo làm
người xuất phát từ chính bản chất của con người, chứ không phải với nghĩa là
trách nhiệm của bề trên đối với kẻ dưới như trong quan niệm Nho giáo.
Lòng thương người vốn có của dân tộc đã được Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, người đại bịểu chân chính cho lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, do Chủ tịch Họ
Chí Minh sáng lập và rèn l.uyên - kế thừa và phát triển rực rỡ trên cơ sở chủ
nghĩa Mác - Lênin và trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đúng như Đảng ta
khẳng định: “Người Việt Nam vốn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần dân


11

chủ, bình dạng trong quan hê giữa người với người. “Thương nước - thương nhà,
thương người - thương mình” là truyền thống đậm đà của nhân dân ta. Từ ngày
có Đảng, dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu
nước va dân chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy
mạnh mẽ hơn hết”1 Lòng yêu nước, thương người là cơ sở sâu xa và vững bền
của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay.
* Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết
Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết là nhân tố tinh thần hợp thành
động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Tinh thần đoàn kết

bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước và là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước. Nhờ
đoàn kết, cha ông ta đã tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc
trong xây dựng và bảo vệ Tô quốc. Đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn
dân tộc, nhất là khi đất nước có giặc ngoại xâm. Nhờ đoàn kết, cha ông ta đã
sáng tạo nên nền văn minh sông Hồng, đặt cơ sở cho toàn bộ tiến trình phát
triển về sau của đất nước. Đoàn kết đã giúp nhân dân ta vượt qua những thử
thách khắc nghiệt của thiên nhiên, phát triển sản xuất để phục vụ đời sống của
mình. Từ kinh nghiệm thực tế, cha ông ta nhận thức sâu sắc rằng: “Đoàn kết
thì sống, chia rẽ thì chết”, “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại
thành hồn núi cao”. Tinh thần đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh to lớn để
nhân dân ta đánh thắng mọi thế lực ngoại xâm.
Lịch sử dân tộc ta cho thấy rằng, đứng trước các thế lực ngoại xâm mà
không thực hiện đoàn kết toàn dân, để cho mầm chia rẽ làm suy yếu đất nước thì
sự nghiệp giữ nước sẽ thất bại. Thất bại của nhà Hồ trong cuộc kháng chiến chống
quân Minh đầu thế kỷ XV là một trường hợp tiêu biểu. Nhà Hồ có 7 năm để
chuẩn bị kháng chiến (tuyển mộ quân lính, đắp thành dựng lũy, rèn đúc vũ khí...)
nhưng chỉ vì “chính sự phiên hà, để trong nước lòng dân oán hận” như nhận xét
của Nguyễn Trãi nên không đoàn kết được toàn dân để đánh giặc cứu nước. Vì
vậy, sau nửa năm chống đỡ quân Minh, nhà Hồ đã bị thất bại hoàn toàn.
Thấy rõ vai trò của yếu tố đoàn kết, cha ông ta luôn có ý thức chống chính
sách chia rẽ của các thế lực ngoại bang và xu hướng cát cứ của các thế lực phong
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, tập 1, tr.94.


12

kiến. Tinh thần đoàn kết cộng đồng của nhân dân ta đã làm thất bại chính sách
dùng người Việt đánh người Việt của các thế lực phong kiến phương Bắc (dĩ Di

công Di), chính sách chia rẽ của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ.
Ý thức cộng đồng, tính thần đoàn kết của nhân đân ta là một điểm tựa
tinh thần vững chắc, một động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc cũng như trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công,
thành công, đại thành công”1. Trước lúc đi xa, Người còn khẳng định: “Đoàn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta” và yêu cầu
mỗi cán bộ, đảng viên “cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”2.
* Đức tính Cần kiệm
Cần kiệm là một giá trị đạo đức có từ bao đời của dân tộc ta. Cần cù là
biểu hiện thái độ của con người trong hoạt động sáng tạo ra của cải vật chất,
tinh thần và các mặt hoạt động khác của con người. Nó là kết quả và là điểu
kiện không thể thiếu được của quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài
người nói chung, dân tộc ta nói riêng. Lao động của con người, ngoài giá trị
kinh tế còn là hình thức để phát triển năng lực tinh thần, phương tiện để giáo
dục. rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp của con người.
Tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm cũng là một giá trị đạo đức nổi bật
trong hệ giá trị của dân tộc Việt Nam. Thực ra, để kiến tạo ra của cải vật chất thì
bất cứ dân tộc nào cũng phải lao động, cũng phải chịu khó, và họ cũng có thể tự
hào về những thành quả đã tạo dựng được của mình, nhưng dân tộc Việt Nam lại
là một trường hợp đặc biệt. Trong lịch sử, nhân dân ta đã tận dụng nhiều yếu tố
tự nhiên thuận lợi để phát triển sản xuất và đời sống, nhưng cũng gặp vô vàn khó
khăn, đòi hỏi phải nỗ lực khắc phục để tiến lên. Chính hoàn cảnh sản xuất và đấu
tranh xã hội qua bao đời đã hình thành trong con người Việt Nam.
Trong điều kiện thiên nhiên Việt Nam vừa hào phóng vừa rất khắc
nghiệt, lao động của con người chủ yếu dựa vào cơ hấp, nếu không cần cù và
1
2


Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 13, tr 120,
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 15, tr 622.


13

tiết kiệm thì khó có thể tồn tại, lại càng không thể nói đến sự phát triển. Ngay
trong bản thân hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng hết sức vất vả với tất cả
các khâu phải dùng sức người là chính với một cường độ cao và thời gian kéo
dài, thậm chí người ta phải tranh thủ làm cả về đêm. Rõ ràng là, do điều kiện
thiên nhiên khắc nghiệt, nên muốn khai thác thiên nhiên để phục vụ cho cuộc
sống của mình, người Việt Nam phải đấu tranh vô cùng gian khổ. Sự hình
thành một nền văn minh nông nghiệp trên đất nước ta chính là kết quả của
cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt của nhân dân ta nhằm khắc phục mặt trái của
thiên nhiên để sản xuất của cải vật chất, bảo đảm sự sống còn của mình.
Cùng với thiên tai khắc nghiệt, các cuộc chiến tranh xâm lược và sự
thống trị của các thế lực bên ngoài đã phá hoại nền kinh tế, làm cho nền kinh
tế và đời sống của nhân dân ta bị kéo lùi mà thời gian tính hằng thế kỷ so với
sự phát triển bình thường. Trong lịch sử, các cuộc chiến tranh xâm lược của
quân nhà Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ và các thế lực bành trướng khác đã gây ra vô số tổn thất về tính mạng và
tài sản của nhân dân ta.
Như thế, đầu tiên, lao động cần cù như một yêu cầu tất yếu để đảm bảo
cho sự sinh tồn của dân tộc. Sau đó, trong sự đấu tranh gian khổ với thiên
nhiên, với cuộc sống luôn bị kẻ thù xâm lăng, lao động cần cù đã trở thành
một phẩm chất đạo đức không thể thiếu đối với con người Việt Nam. Cần cù
và tiết kiệm là một giá trị đạo đức truyền thông có từ bao đòi của nhân dân ta.
Nó vừa là điều kiện bảo đảm nhu cầu sống của con người, vừa là sự thể hiện ý
thức trách nhiệm của người Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của mình. Tất cả những thành quả vật chất và tinh thần mà cha ông ta để lại

cho đến ngày nay đều gắn liền với truyền thống cần kiệm đó.
Ngoài những giá trị chủ yếu trên, còn có những đức tính phổ biến hợp
thành hệ thống giá trị đạo đức truyền thống dân tộc: lòng dũng cảm, tinh thần
bất khuất, tính khiêm tốn, giản dị, trung thực, thủy chung, lạc quan. Lòng
dũng cảm, bất khuất, tinh thần tự tôn dân tộc và tự tin ở sức mình là những
phẩm chất khá nổi bật trong hệ giá trị văn hóa truyền thống. Những giá trị này
không tồn tại riêng rẽ mà liên quan đến nhau - đức tính này là điều kiện, là


14

biểu hiện của đức tính kia. Người ta không thể nói yêu Tổ quốc mà không yêu
thương con người, không có lòng nhân ái, bao dung. Thương người cũng là ý
thức về tính cộng đồng, về lý tưởng phục vụ cộng đồng, về việc biết đặt cái
chung lên trên cái riêng. Cũng chỉ có yêu nước, con người ta mới lao động
cần cù, tiết kiệm để kiến tạo cuộc sống của mình cũng như cuộc sống của con
cháu mình. Và, để thực hiện được những ước vọng đó, con người ta cần phải
đoàn kết lại để xây dựng, bảo vệ những thành quả do mình làm ra.
Chính những giá trị đạo đức truyền thống này đã tạo nên lịch sử vẻ vang
của dân tộc Việt Nam. Chúng là nhân tố quan trọng định hướng tư tưởng, tình
cảm, hành động của con người Việt Nam trong suốt quá trình phát triển của
mình. Chúng đã tạo nên những con người biết sống xả thân vì nghĩa, vì đồng
bào, dân tộc, bất kể con người đó thuộc tầng lớp, giai cấp nào trong xã hội.
Đặc biệt, từ khi giai cấp công nhân Việt Nam xuất hiện và bước lên vũ
đài lịch sử, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta đã được nâng lên một
tầm cao mới do hấp thu được hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại là chủ nghĩa
Mác - Lênin qua việc truyền bá của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự giáo dục, rèn
luyện của Đảng ta.
Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải nêu cao vai trò của đạo đức cách
mạng. Mặt khác, chính phong trào hành động cách mạng của quần chúng là

môi trường thuận lợi rèn luyện phẩm chất đạo đức của con người, làm giàu
thêm truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Sự phát triển của đạo đức cách mạng từ khi có Đảng đến nay qua gắn liền
với tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với
tấm gương của những người cộng sản tiêu biểu của thế hệ cách mạng đầụ tiên
như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Ngô
Gịa Tự và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác. Tấm gương của họ mãi mãi là nguồn
động viên to lớn cho các thế hệ người Việt Nam vươn lên hoàn thành nhiệm vụ
được lịch sử giao phó cho mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta được nhận thức một, cách
khoa học, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với yêu cầu cụ thể của từng giai
đoạn cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc được phát huy


15

mạnh mẽ và trở thành chủ nghĩa yêu nước mới mang nội dung xã hội chủ nghĩa
và kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính. Truyền thống nhân
ái của dân tộc ta được đặt trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó không
chỉ dừng lại ở khát vọng giải phóng con người mà gắn với hành động cách mạng
giải phóng người lao động bị áp bức, phát huy tiềm năng to lớn của cả cộng
đồng và từng cá nhân trong cuộc đấu tranh vì hạnh phúc của mình. Đức tính cần
kiệm được các tầng lớp nhân dân, nhất là giai cấp công nhân Việt Nam đem lại
một ý nghĩa mới mẻ gắn với yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả vì
lợi ích của xã hội, tập thể, trong đó có lợi ích của cá nhân ngưòi lao động. Tinh
thần đoàn kết dân tộc, niềm lạc quan của người Việt Nam được cổ vũ bởi mục
tiêu cao quý vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã trở thành nguồn sức mạnh vô địch của nhân dân ta trong
sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Đó là biểu hiện tập trung của những phẩm chất đạo đức cao đẹp của con

người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã
trở thành hiện tượng phổ biến của hàng triệu quần chúng thuộc mọi tầng lớp và
lứa tuổi khác nhau. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, trong cuộc kháng chiến chông Mỹ cứu nước...chủ nghĩa
anh hùng cách mạng đã trở thành định hướng giá trị đạo đức cơ bản trong tư
tưởng và hành động của mỗi người Việt Nam.
Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Hàng loạt tấm
gương tiêu biểu đã xuất hiện trong phong trào hành động cách mạng sôi nổi của
quần chúng. Lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức làm chủ tập thể...
không chỉ là những khẩu hiệu động viên mà đã là những chuẩn mực chi phối suy
nghĩ và hành động của con người Việt Nam trong bước chuyển từ chiến tranh
sang hòa bình xây dựng đất nước. Được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã đánh dấu một bước phát
triển mới về chất trong nội dung của các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.
Có thể nói rằng, các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hình thành và
được bồi đắp qua suốt chiều đài lịch sử và đã chứng tỏ vai trò to lớn của
chúng với với sự phát triển của dân tộc ta.


16

3. Hạn chế và tác động của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ
hiện nay.
Ở nước ta, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự định hướng và
quản lý của Nhà nước, bên cạnh những mặt tích cực, đã xuất hiện những cách
sống và lối sống xa lạ, trái với các chuẩn mực của xã hội và thuần phong mỹ tục
của dân tộc. Trước đây, trong nội dung của các giá trị đạo đức mang truyền
thống dân tộc còn có những hạn chế nhất định, như: Tinh thần cộng đồng làng
xã dẫn đến tâm lý phủ định cá nhân, san bằng cá tính, dẫn đến chủ nghĩa bình
quân, địa phương, bè phái, cục bộ. Chủ nghĩa tình cảm dẫn đến thiếu duy lý,

không lôgíc, thiếu khách quan, thiếu tinh thần pháp luật, không tôn trọng quy
luật khách quan. Đánh giá cao giá trị tinh thần mà coi nhẹ yếu tố vật chất dẫn
đến duy tâm, duy ý chí. Yêu nước, yêu làng dẫn đến tâm lý cố thủ, bám làng
xóm, quê cha đất tổ, không dám vươn lên khám phá… Cần cù, chịu đựng dẫn
đến kém tư duy kỹ thuật, không năng động, chậm đổi mới…. Những hạn chế
này mang tính thời đại và giai cấp. Bởi vì, các giá trị đạo đức truyền thống được
hình thành trong bối cảnh thế giới chưa có sự phát triển mạnh mẽ như ngày nay
và trong một xã hội phong kiến có nền kinh tế kém phát triển, khép kín.
Nhưng trong thời kỳ hiện nay, khi chúng ta chuyển mô hình kinh tế tập
trung sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã và
đang xuất hiện những xung đột giữa truyền thống và hiện đại, giữa những giá
trị Việt Nam và những giá trị phương Tây. Chỉ trong một thời gian ngắn, Việt
Nam đã đạt được những thành quả quan trọng trong phát triển kinh tế, giải
quyết được nhiều vấn đề bức xúc của xã hội. Đó là những kết quả đáng khích
lệ. Nhưng bên cạnh đó, cũng đã có không ít những vấn đề nảy sinh.
Theo nhận định của Đảng ta: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường
những giá trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ…
đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì
đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò,
đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng, ma tuý, mại dâm và các tệ


17

nạn xã hội khác gia tăng, nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và
mới lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội…Nghiêm trọng hơn là
sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà
nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ không được ngăn chặn có hiệu quả.
Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ,

địa phương, bè phái mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó gây sự bất
bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước”1
Hiện nay, kinh tế thị trường như một luồng gió mới ảnh hưởng không ít
đến quan điểm sống, đến định hướng giá trị của mọi người, nhiều khi người ta
quá chú trọng đến bản thân mình, không quan tâm đến người khác, làm giàu
bằng mọi giá, bất chấp đạo lý. Cùng với đó là làn sóng toàn cầu hoá tràn vào
Việt Nam. Những giá trị mang tính thực dụng, duy lý… của toàn cầu hoá, những
giá trị mà dường như trái ngược với những giá trị đạo đức truyền thống đã làm
cho nhiều người bị “choáng ngợp”. Từ sự tiếp nhận chúng như là một tất yếu
cho quá trình hội nhập đến việc đề cao thái quá đã làm cho tính tích cực của
những giá trị này mang cả tính tiêu cực. Tất cả những điều đó đã dẫn đến sự gia
tăng các hiện tượng xã hội không lành mạnh. Đó là thói vị kỷ, tình trạng tham ô,
tham nhũng, phạm pháp hình sự, tỷ lệ ly hôn, mâu thuẫn gia đình…
Trước tình hình đó xuất hiện những tư tưởng sai trái, có quan niệm cho
rằng, các giá trị đạo đức truyền thống không còn vai trò trong một xã hội phát
triển như hiện nay. Lại có quan niệm cho rằng, để khắc phục tình trạng trên,
chúng ta cần phải trở về sử dụng các giá trị dân tộc truyền thống. Thực ra, thái
độ phủ nhận mọi giá trị truyền thống hay bảo thủ trước những biến đổi của đời
sống đều gây nên những hậu quả tai hại. Bởi lẽ, mọi thứ không thể xuất phát từ
hư vô, nhưng cũng không thể không phát triển. Trước kia, các giá trị đạo đức
truyền thống có vai trò không nhỏ trong tiến trình xây dựng và phát triển nhân
cách con người Việt Nam, thì ngày nay, chúng sẽ vẫn có tác dụng. Nhưng chúng
ta phải có một thái độ thích hợp trong việc sử dụng chúng, sao cho chúng vẫn
phát huy được mặt tích cực trong điều kiện xã hội mới.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Sđd, tr.46-47.


18


II. YÊU CẦU, NỘI DUNG KẾ THỪA VÀ ĐỔI MỚI CÁC GIÁ
TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
TRONG GIA ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY.
1. Yêu cầu kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống.
Một là, phải nhận rõ những mặt tích cực, những hạn chế và thiếu hụt
trong đạo đức truyển thông dân tộc.
Các giá trị đạo đức truyền thống là sản phẩm của quá trình đấu tranh
lâu dài để tồn tại và phát triển của dân tộc ta. Đó là các giá trị cao quý, phổ
biến và vững bền hợp thành nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc
ta trong hành trình lịch sử của mình, Tuy nhiên, truyền thống là sản phẩm của
quá trình phát triển của lịch sử dân tộc trải qua nhiều giai đoạn, nhiểu thế hệ,
nên ngoài những mặt tích cực nó còn chứa đựng những hạn chế mang tính
lịch sử của từng thòi đại nhất định. Ngay cả các giá trị đạo đức truyền thống
mà chúng ta quan niệm là những nhân tố có tác động tích cực góp phần vào
sự phát triển xã hội thì nội dung cụ thể, mức độ tác động của nó đối vối sự
phát triển xã hội không phải lúc nào cũng như nhau và phù hợp với mọi hoàn
cảnh. Hình thành trên cơ sở xã hội nông nghiệp và luôn phải tiến hành đấu
tranh chống xâm lược nên ngoài mặt tích cực, đạo đức truyền thống của dân
tộc ta cũng bộc lộ nhiều hạn chế.
Các giá trị đạo đức được đề cao trong đời sống xã hội và trong nhiều
trường hợp nó bị đặt đối lập, chi phối hoặc thay thế các giá trị khác như giá trị
khoa học, giá trị thẩm mỹ, giá trị pháp luật... (chẳng hạn như các quan niệm
“Đức thắng tài”, “Cái nết đánh chết cái đẹp’’, “Phép vua thua lệ làng”,...). Vì
vậy, nó hạn chế việc hình thành các giá trị khác ở con người. Ngay trong nội
dung của các giá trị đạo đức truyền thống cũng chứa đựng những hạn chế
mang tính lịch sử. Trong thời kỳ phong kiến tinh thần yêu nước bị một số tập
đoàn phong kiến lợi dụng khi nó gắn yêu nước với trung quân một cách mù
quáng, tinh thần đoàn kết của người Việt thể hiện một cách đậm nét trong
những vấn đề lớn liên quan đến sự tồn vong của dân tộc và cộng đồng (chống

giặc ngoại xâm, chống thiên tai...), nhưng trong các hoạt động mang tính chất
nghề nghiệp thì còn hạn chế. Do hiểu đoàn kết một chiều nên tinh thần đấu


19

tranh phê phán trong nội bộ kém. Thái độ “dĩ hòa vi quý” là nét phổ biến
trong cách hành xử của nhiều người. Người Việt Nam rất cần cù và tiết kiệm
trong sản xuất và đời sống, nhưng trong tâm lý của số đông, cần cù trong lao
động chân tay được đánh giá cao hơn cần cù trong lao động trí óc, cần cù
trong sản xuất được coi trọng hơn nhiều so với cần cù trong các hoạt động
thương mại. Kỷ luật lao động lỏng lẻo, tùy tiện... do đó, năng suất, chất lượng
và hiệu quả sản xuất thấp, đời sống vật chất và tinh thần chậm được cải thiện.
Như vậy, việc nhận rõ những mặt tích cực và tiêu cực trong đạo đức
truyền thống và cả những hạn chế mang tính lịch sử trong nội dung của các giá
trị đạo đức truyền thống là yêu cầu cần thiết đối với nhân tố chủ quan khi xử lý
những vấn để liên quan đến truyền thống, trong đó có đạo đức. Nó giúp xác định
rõ những mặt tích cực cần được kế thừa, bổ sung, phát triển cho phù hợp với yêu
cầu mới hiện nay và những mặt tiêu cực, hạn chế cần phải được loại bỏ dần,
những thiếu hụt cần được bổ sung. Có như vậy, truyền thống dân tộc mới thực
sự đóng vai trò cơ sở, động lực của sự phát triển xã hội trong điều kiện hiện nay.
Thái độ bôi đen hoặc tô hồng, phủ định sạch trơn hoặc bê nguyên xi truyền
thống, lẫn lộn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực hoặc không thấy hết những hạn
chế mang tính lịch sử trong nội dung của các giá trị đạo đức truyền thống đều là
phản khoa học và gây rối loạn trong sự định hướng việc kế thừa và đổi mới các
giá trị đạo đức truyền thống nhằm phục vụ cho yêu cầu của tiến bộ xã hội.
Hai là, quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta trong việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức
truyền thống.
Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưỏng Hồ Chí

Minh làm nền tảng tư tưỏng, kim chỉ nam cho hành động”. Việc quán triệt chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân tố có ý nghĩa định hướng việc
kế thừa và đổi mới các giá trí đạo đức truyền thống, xây dựng đời sống đạo đức tinh thần lành mạnh của xã hội ta hiện nay. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết
duy nhất từ trước đến nay đặt ra mục tiêu giải phóng triệt để giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới khỏi tình trạng
nghèo đói, bị bóc lột và nô dịch, xây dựng một xã hội văn minh mà ở đó con


20

người thực sự tự do và hạnh phúc. Từ đó xác định thế giới quan và phương pháp
luận quan trọng khi xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, xác định
đúng mục đích, nội dung và phương hướng kế thừa và phát huy các giá trị đạo
đức truyền thông của dân tộc và nhân loại phù hợp với yêu cầu mới của hiện nay
Chủ nghĩa Mác - Lênin với thế giới quan và phương pháp luận khoa
học, là chìa khóa giúp chúng tạ giải thích các hiện tượng xã hội, trong đó có
đời sống đạo đức. Nó giúp chúng ta vạch ra nguồn gốc, bản chất của đạo đức,
đánh giá đúng vị trí, vai trò, đặc điểm của các kiểu đạo đức trong lịch sử, chỉ
rõ những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực và con đường hình thành đạo đức
mới - đạo đức xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động kết hợp nó với những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa văn hóa của nhân loại, đặc biệt là tư tưởng
văn hóa đặc sắc của phương Đông. Tất cả được chắt lọc thông qua một tư duy
độc lập, sáng tạo để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc kế thừa
được Người vận dụng một cách nhuần nhuyễn và trở thành nguyên tắc có tính
chất chỉ đạo trong việc tiếp thu các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và nhân
loại để xây dựng nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đánh giá cao và rất chú trọng khai thác những nhân tố tích cực trong văn hóa
truyền thốhg dân tộc. Người cho rằng: "Gốc của văn hóa là dân tộc", xây dựng
nền văn hóa mới, đạo đức mới không phải và không được đoạn tuyệt với truyền

thống tốt đẹp của cha ông để lại, mà phải khôi phục và phát triển giá trị đích thực
của nó trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin và phục vụ cho yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người khẳng định:
“Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì
cũng làm mới.
Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ...
Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý.
Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm…
Cái gì mới mà hay, thà ta phải làm”1 .

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr 112 - 113.


21

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng sáng tạo
trong quá trình xây dựng đời sống đạo đức - văn hóa của con người và xã hội
Việt Nam. Quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng ta về kế thừa các giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa của văn
hóa nhân loại là vấn để có ý nghĩa lý luận và phưong pháp quan trọng giúp
chúng ta định hưởng đúng đắn việc kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc trong điều kiện hiện nay. Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn để cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại;
là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”1.

Ba là, kế thừa và đổi mối các giá trị đạo đức truyền thống phải quán
triệt nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn
mới phù hợp với yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp đổi mới và các giá trị nhân
văn của thời đại.
Một trong những lĩnh vực chủ yếu của định hướng phát triển đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa hiện nay là “xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” không chỉ trong hình thức
mà cả trong nội dung. Đảng ta cho rằng: “Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà
nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tường Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người,
vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong
mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên”2.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa được xây dựng trên hệ tư tưởng
tiên tiến của thời đại - hệ tư tưỏng Mác - Lênin. Đây là hệ tư tưởng duy nhất
lấy việc giải phóng con người toàn diện và triệt để làm mục tiêu cao cả của
mình. Tính, chất tiên tiến của nền văn hóa đó bao hàm cả tính chất hiện đại,
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.88.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Sđd, tr.55- 56.


22

tiến bộ và nhân văn. Nền văn hóa tiến bộ là nền vãn hóa hấp thu trong mình
các giá trị văn hóa dân tộc, tinh hoa của văn hóa nhân loại và nâng lên một
trình độ mới vì sự phát triển con người và xã hội. Như vậy, tính chất tiên tiến
của nền văn hóa phải được nuôi dưỡng và phát triển gắn với bề dày và chiều
sâu của văn hóa dân tộc. Văn hóa mang tính dân tộc và cùng với thời gian, nó

được chọn lọc và định hình thành bản sắc dân tộc với những đặc điểm, đặc
trưng phân biệt văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác, cộng đồng người
này với cộng đồng người khác. Bản sắc văn hóa dân tộc được kết tinh trong
các thành quả vật chất và tinh thần của dân tộc, trong các giá trị vững bền tạo
nên tiềm lực nội sinh của dân tộc ta.
Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống đòi hỏi phải tiếp
cận và tiếp nhận có chọn lọc các giá trị nhân văn mà loài người tiến bộ đang
hướng tới. Đó là thái độ sống tích cực, coi con người là giá trị cao nhất, phát
triển con người bền vững là “mệnh lệnh cao nhất của thế kỷ XXI”; yêu hòa
bình và chống chiến tranh xâm lược; thấm nhuần tư tưởng khoan dung, chống
kỳ thị dân tộc; xác lập và tăng cường quan hệ hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi
giữa các quốc gia dân tộc.
Như vậy, việc quán triệt các yêu cầu cơ bản nêu trên đánh giá đúng truyền
thống trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và bám
sát mục tiêu góp phần xây dựng con người và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và các giá trị
nhân văn của thời đại là điều kiện cần thiết để tự giác hóa quá trình kế thừa và
đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong giai đoạn hiện nay.
2. Một số nội dung cơ bản kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
* Chủ nghĩa yêu nước, như đã khẳng định, là giá trị hàng đầu, giá trị
định hướng của các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam. Chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam hình thành từ rất sớm, phát triển cùng với sự phát triển của
dân tộc và luôn được bổ sung để thành một hệ thống với những nội dung xác
định. Đó là một giá trị vững bền nhất của dân tộc ta. Song, cũng như các giá
trị khác, sự bền vững đó không có nghĩa là cố định, bất biến mà nó có sự biến


23


đổi, bổ sung, phát triển những nội dung mới phù hợp với yêu cầu phát triển
của dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam thời phong kiến lấy độc lập
dân tộc làm giới hạn cao nhất của mình. Chủ nghĩa yêu nước mới gắn độc lập
dân tộc với sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và làm
nên những thắng lợi vẻ vang. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội là xu thế tất
yếu của lịch sử, là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta. Độc lập dân tộc là nấc thang
để tiến tới mục tiêu cao hơn là mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Muốn
vậy phải từ giải phóng dân tộc tiến tới giải phóng giai cấp công nhân và nhân
dân lao động khỏi mọi ách áp bức bóc lột, từng bước nâng cao đòi sống mọi
mặt cho nhân dân vì “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc
tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Đó cũng là nội dung chủ yếu
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện nay - yêu nước là đem hết tinh thần và
nghị lực, sức mạnh và tài năng của từng người, từng tập thể và cả cộng đồng
dân tộc để bảo vệ độc lập dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân đòi hỏi phải
được thể hiện trong quyết tâm biến Tổ quốc mình thành Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
và sẵn sàng đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của giai cấp công nhân và
các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Lòng yêu nước truyền thống Việt Nam gắn liền
với tinh thần yêu chuộng hòa bình và mong muốn hòa hiếu với các nựớc láng
giềng. Nó được kế thừa và nâng cao trong quan điểm “Việt Nam là ban, đối tác tin
cậy của các nước trong công đồng quốc tế, tham gia. tích cực vào tiến trình hợp
tác quốc tế và khu vực”1. Lòng yêu nước biểu hiện tình yêu với văn hóa của dân
tộc, với những truyền thống lành mạnh của nhân dân, đóng góp tích cực vào việc
củng cố và phát triển những truyền thống ấy phù hợp với yêu cầu xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nưóc ta hiện nay.
1


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội,
2006, tr. 112.


24

Trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc
tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải luôn chú ý giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc. Đảng ta khẳng định rằng: “Đi vào kinh tế thị trường, mở
rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp thu những
tinh hoa của nhân loại, song phải luôn luôn coi trọng những giá trị truyền
thống và bản sắc dân tộc, quyết không được tự đánh mất mình, trở thành bóng
mờ hoặc bản sao chép của người khác”2.
Truyền thống yêu nước của dân tộc ta trước đây được phát huy cao độ
trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Trước yêu cầu mới của đất nước hiện nay,
một mặt, phải thường xuyên chăm lo thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, mặt
khác, phải dồn sức cho nhiệm vụ xây dựng đất nước với ý thức coi nghèo nàn lạc
hậu là nỗi nhục không kém gì nỗi nhục mất nước. Các thế hệ trước đây đã “rửa
được nỗi nhục nô lệ cho dân tộc”, thế hệ ngày nay “phải tiếp nối sự nghiệp của lớp
người đi trước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước
nhà để rửa nỗi nhục nghèo khổ”, mở ra chương sử mới rạng rỡ cho non sông Việt
Nam vinh quang sánh vai cùng các dân tộc khác trên thế giới.
Yêu nước hiện nay là nâng cao lòng tự hào dân tộc, tin tưởng ở tiền đồ
tươi sáng của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu thực
hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Như vậy, Yêu nước hiện nay là phải gắn độc lập dân tộc với sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao tinh thần
tự tôn dân tộc, từng bước xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, phấn đấu thực hiện mục

tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
* Lòng thương người là một giá trị đạo đức cao đẹp của dân tộc ta. Nó có
cơ sở sâu xa trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc ta. Từ khi có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo lập trường của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lòng thương người truyền thống của dân tộc ta
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 30.


25

được nâng lên một trình độ mới. Lý tưởng nhân đạo của giai cấp công nhân là
giải phóng người lao động khỏi chế độ bóc lột, giải phóng các dân tộc bị áp bức,
đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, nó mang tính cách mạng triệt để
và tính khoa học sâu sắc. Đó không phải là lòng thương người chung chung, trừu
tượng hoặc giúp đỡ người khác theo kiểu bố thí với thái độ của “bề trên” mà gắn
với hành động cải tạo hiện thực, để con ngưòi phát huy hết năng lực của mình.
Chủ nghĩa nhân đạo trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin coi việc
giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, phát huy sức mạnh của chính
con người, trước hết là người lao động trong việc đem lại tự do, hạnh phúc
cho chính mình là mục đích tối cao của sự phát triển kinh tê - xã hội. Chủ
nghĩa nhân đạo mới bao hàm trong nó yêu cầu giải phóng giai cấp, dân tộc và
toàn thể nhân dân lao động, trong đó có giải phóng cá nhân, chính là sự tôn
trọng con người, bảo vệ và chăm lo cho sự phát triển của con người. Phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, đồng thời cũng nêu cao tính tự
chủ của từng cá nhân, vừa kế thừa mặt tích cực của truyền thống dân chủ
cộng đồng của dân tộc vừa chú ý khắc phục những tàn dư của quá khứ kìm
hãm sự phát triển của con người cá nhân theo hướng xã hội chủ nghĩa.

Giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc thực sự cho con người
là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, là ý nghĩa
cao quý của chủ nghĩa nhân đạo mácxít. Xác định mục tiêu và động lực chính
của sự phát triển là vì con người, do con người, Đảng ta khẳng định quan
điểm đặt con người ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bô sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân
tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” 1. Đồng thời, Đảng chỉ rõ: "Phải
bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người
được phát triển toàn diện"2.
Như vậy, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, truyền thống
1 ,2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđđ, tr.76, 100.


×