Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Những biện pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742 KB, 80 trang )

Header Page 1 of 133.

LUẬN VĂN:

Những biện pháp kinh tế chủ yếu nhằm
chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn
huyện Thanh Trì - Hà Nội

Footer Page 1 of 133.


Header Page 2 of 133.

Đặt vấn đề

Trong những năm qua nền nông nghiệp nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể. Tuy nhiên, một đất nước với gần 70% dân số sống trong khu vực nông thôn và thu
nhập từ nông nghiệp chiếm khoảng 50% tổng thu nhập của các hộ nông dân,trong khi đó
sự chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng. Điều đó chứng
tỏ nông nghiệp, nông thôn nước ta còn nhiều khó khăn. Để giải quyết được vấn đề đóthì
một trong những biện pháp mang tính cấp thiết và thực tiễn nhất là chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và chuyển dịch cơ cấu cây trồng nói riêng.
Thanh trì là huyện ngoại thành Hà Nội, diện tích tự nhiên khoảng 102,71 Km2 , là
vùng đồng bằng trũng do phù sa của sông Hồng bồi đắp, hàng năm diện tích gieo trồng của
huyện đạt gàan 8000 ha cho nhiều loại cây trồng như lương thực, rau quả… Hơn nữa
Huyện có vị trí địa lí rất thuận lợi cho việc trao đổi hành hoá. Tuy vậy sản xuất nông
nghiệp còn những hạn chế, chưa phát huy tốt các tiềm năng vốn có của Huyện, do chưa
xác định được một hệ thống cây trồng hợp lí , có hiệu quả kinh tế coa. Vấn đề đặt ra cho
sản xuất nông nghiệp của huyện cho những năm tới lànghiên cứu chuyển dịch cơ cấu cây
trồng trên nguyên tắc đáp ứng nhu cầu lương thực cho tiêu dùng, chú trọng phát triển
những loại cây trồng có giá trị hàng hoá cao như cây ăn quả, rau có chất lượng cao phục vụ


cho tiêu dùng đô thị … nhằm nâng cao thu nhập, góp phần ổn định và cải thiện đời sống
nông thôn.
Xuất phát từ yêu cầu đó em chọn nghiên cứu đề tài: “ Những biện pháp kinh tế
chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội”.
Đề tài được nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá thực trạng cơ cấu cây trồng và thu nhập
Footer Page 2 of 133.


Header Page 3 of 133.

của nông dân trên địa bàn huyện Thanh Trì, đồng thời xác định và áp dụng cơ cấu cây
trồng phù hợp nhằm tăng thu nhập cho người nông dân trên cơ sở tăng thu nhập trên một
đơn vị diện tích.
Kết cấu của đề tài bao gồm:
Chương I:

Cơ sở lí luận chung về cơ cấu cây Thanh Trìồng và chuyển dịch cơ cấu cây
trồng.

Chương II:

Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà
Nội

Chương III: Phương hướng và những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu
cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội.
Kết luận và kiến nghị.

Footer Page 3 of 133.



Header Page 4 of 133.

Chương I: cơ sở lí luận chung về cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
I . khái niệm, đặc trung của cơ cấu cây trồng.
1 . Khái niệm cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
1.1. Cơ cấu cây trồng.
Cơ cấu của một tổng thểlà cấu trúc bên trong của tổng thể đó với các bộ phận hợp
thành và mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng.
Mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành đó thể hiện vai trò, vị trí của từng bộ phận.
Mỗi một cơ cấu cụ thể của sự vật hiện tượng chỉ phù hợp trong một giai đoạn nhất định,
khi những yêu cầu khách quan thay đổithì cơ cấu cũng thay đổi cho phù hợp với những
yêu cầu khachs quan đó.
Cơ cấu cây trồng là một phạm trù khoa học biểu hiện trình độ tổ chức và quản lí sản
xuất nông nghiệp đồng thời cơ cấu cây trồng cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng của chiến
lược nông sản phẩm hàng hoá. Cũng có thể quan niệm cơ cấu cây trồng trên cơ sở của khái
niệm cơ cấu kinh tế: là tổng thể các mối quan hệgắn bó hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ
nhất định, chúng tác động qua lại lẫn nhau trong những điều kiện không gian và thời gian
nhất định, tạo thành một hệ thống kinh tế trong nông thôn,một bộ phận hộp thành không
thể thiếu được của nền kinh tế. Cơ cấu cây trồng còn là một bộ phận chủ yếu của cơ cấu
sản xuất nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn ở nước ta.
Tuỳ theo điều kiện tự nhiên của vùng phù hợp với những loại cây trồng gì mà do
đó cơ cấu cây trồng hình thành từ những loại cây trồng đó, cơ cấu cây trồng có thể được
hình thành từ nhiều nhóm, chẳng hạn nhóm cây lương thực gồm có lúa, ngô, khoai, sắn;
nhóm cây công nghiệp gồm cây gắn ngày như lạc, mía, đậu tương… và cây dài ngày như
chè, cà fê, cao su…
Như vậy có thể khái niệm cơ cấu cây trồng một cách cụ thể hơn là thành phần và
các loại cây trồng bố trí theo không gian và thời gian trong một cơ sở hay một vùng sản
xuất nông nghiệp . cơ cấu cây trồng là một nội dung trong hệ thống các biện pháp kĩ thuật
gọi là chế độ canh tác. Ngoài cơ cấu cây trồng, chế độ canh tác bao gồm chế độ luân canh,


Footer Page 4 of 133.


Header Page 5 of 133.

làm đất, bón phân, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh. Cơ cấu cây trồng là yếu tố cơ bản của
chế độ canh tác vì chính nó quyết định nội dung của các biện pháp kĩ thuật khác.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Chuyển dịch cơ cấu khi xem xét trong một tổng thể nhất định là sự phát triển về cơ
cấu các bộ phận hợp thành tổng thể đó trong một khoảng thời gian nhất định ; quá trình
phát triển về cơ cấu đó bao gồn sự thay đổi những mối quan hệ giữa các bộ phận với nhau
trong quá trình phát triển của tổng thể. Như vậy chuyển dịch cơ cấu cây trồng là qúa trình
phát triển hay qúa trình thay đổi về thành phần và các loại cây trồng trong một cơ sở hay
một vùng nhất định .
Sự phát triển của cơ cấu cây trồng tuỳ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất và
sự phân công lao động xã hội. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất nói chung và cơ
cấu cây trồng nói riêng tự nó đã xác lập những tỷ lệ theo mối quan hệ nhất định.
Nói cách khác chuyển dịch cơ cấu cây trồng mang tính khách quan thông qua nhận
thức chủ quan của con người; đó là sự chuyển dịch phù hợp với sự thay đổi nhu cầu thị
trường trên cơ sở khai thác những tiềm năng, thế mạnh của vùng.
Một số khái niệm hình thành trong quá trình chuyển dịch cơ cấu là: Điều chỉnh cơ
cấu là quá trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở thay đổi một số mặt, một số yếu tố của cơ
cấu làm cho nó thích ứng với điều kiện khách quan từng thời kì, không toạ ra sự thay đổi
đột biến, tức thời. Cải tổ cơ cấu là qúa trình chuyển dịchmang tính thay đổi về mặt chất so
với thực trạng cơ cấu ban đầu, nhanh chóng tạo ra sự đột biến.
Cuộc cách mạng xanh diễn ra ở một số nướcnhiệt đới trong những năm gần đây, khi
đưa những giống lúa ngắn ngày, năng suet cao vào cơ cấu cây trồng đã làm cho sản lượng
lương thực tăng lên và tăng vụ đối với cây thức ăn gia súc, rau và cây công nghiệp ngắn
ngày. Như vậy cơ cấu cây trồng là một vấn đề quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, đặc

biệt là nước ta đang phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá trong qúa trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoáđất nước, vì vậy cần có sự chuyển dịch của cơ cấu cây trồng
ở nhiều vùng để đáp ứng yêu cầu của phương hướng sản xuất mới cũng như của cơ chế thị
trường .

Footer Page 5 of 133.


Header Page 6 of 133.

2. Đặc trưng của cơ cấu cây trồng.
- cơ cấu cây trồng mang tính hợp lí khách quan, hình thành do trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Cơ cấu cây trồng và xu hướng biến
đổi của nó phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên , kinh tế, xã hội nhất định chứ không tuỳ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Tuy nhiên cùng với qúa trình phát triển kinh tế,
xã hội; và qúa trình nhận thức của con người mà con người có thể tác động vào cơ cấu cây
trồng làm cho nó chuyển dịch phù hợp với những điều kiện khách quan và nhu cầu phát
triển của chính bản thân con người.
- cơ cấu cây trồng mang tính lịch sử và xã hội nhất định. Qúa trình sản xuất cụ thể
sẽ khác nhau giữa các vùng do chúng có điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử và xã hội
khác nhau. Vì vậy không có một cơ cấu cây trồng mẫu mã nào chung cho mọi vùng sản
xuất mà nó chỉ có ý nghĩa kế thừa và chọn lọc để phù hợp với các điều kiện nhất định
trong mọi giai đoạn nhất định. Cơ cấu cây trồng luân biến đổi theo xu hướng ngày càng
hoàn thiện. Nó luân vận động và phát triển thông qua sự chuyển hoá từ cũ sang mới, từ
đơn điệu đến đa dạng, từ hiệu quả thấp đến hiệu quả cao do yêu cầu của sự tăng trưởng và
phát triển của xã hội.
- qúa trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng diễn ra nhanh hay chậm. Tuỳ thuộc vào
nhiều yếu tố: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của
người tiêu dùng, nhận thức của người lãnh đạo và quản lí sản xuất.
- cơ cấu cây trồng sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao khi nó gắn liền với với một

ngành công nghiệp, thương nghiệp phát triển. Thương nghiệp phát triển giúp cho cầu nối
giữa sản xuất và tiêu dùng luôn thông suốt. Nghĩa là quá trình tiêu thụ sản phẩm nhanh và
thuận lợi. Còn một ngành công nghiệp chế biến sẽ góp phần tăng giá trị sản phẩn nông
nghiệp, nâng cao thu nhập cho người nông dân , đồng thời đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
ngày càng cao càng đa dạngcủa xã hội. Điều đó đặt ra yêu câu Nhà nước cần có chính sách
hỗ trợ hợp lí đối với mỗi cơ cấu cây trồng hay mỗi vùng sản xuất nông nghiệp nhất định.
3. ý nghĩa của việc xác định cơ cấu cây trồng hợp lí.
Cơ cấu cây trồng hợp lí là cơ cấu cây trồng mà trước hết phải phù hợp với điều kiện
tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng; hơn nữa,nó phải đáp ứng đúng nhu cầu về lương thực,

Footer Page 6 of 133.


Header Page 7 of 133.

thực phẩmcủa thị trường ; đồng thời nó phù hợp với quan điển tiên tiến về phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện trong bối cảnh phát triển kinh tế chung của cả đất nước.
Nông nghiệp Việt Nam đã phát triển đến giai đoạn mà nó không chỉ đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia mà còn phục vụ xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng hướng tới
một hệ thống sản xuất đa dạng. Tuy nhiên sự đa dạng hoá đó không thuồn tuý là tăng
chủng loại sản phẩm nông nghiệp ở cấp nông trại mà nó phải hướng tới thị trường , tăng
thu nhập.
Xác định cơ cấu cây trồng hợp lí có ý nghĩa cơ bản và quan trọng trong quá trình
chuyển đổi nền nông nghiệp từ độc canh cây lương thực sang nền nông nghiệp đa dạng có
nhiều nông sản hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng và cho xuất khẩu, làm cơ sở vững chắc
cho việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn. cơ cấu cây trồng còn là căn cứ để xây dung các kế hoạch đầu tư vốn , sử dụng lao
động và các loại tư liệu sản xuất trong nông nghiệp cũng như áp dụng tiến bộ khoa học kĩ
thuật một cách có hiệu quả và chủ động.
Xác định cơ cấu cây trồng hợp lí góp phần giải quyết vấn đề dư thừa lao động trong

nông thôn, llld dồi dào ở nông thôn và không thể thu hút hết vào những hoạt động sản xuất
trong một thời gian ngắn. Do đó, đây là một qúa trình rất khó khăn đối với dân cư nông
thôn và có thể dẫn đến những xáo trộn về xã hội nếu như không tạo ra nhiều công ăn việc
làm hoặc những loại hình công việc khác ngoài sản xuất lúa. Tạo ra khả năng luân canh,
tăng vụ và hướng tới thị trường nên chuyển dịch cơ cấu cây trồng có khả năng tạo ra nhiều
việc làm hơn cho dân cư nông thôn, giảm thời gian nhàn rỗi trong qúa trình sản xuất nông
nghiệp. Từ đó nó tạo ra khả năng giảm sức ép về dân số và lao động đối với thành thị.
Xác định cơ cấu cây trồng hợp lí theo hướng đa dạng hoácơ cấu cây trồng sẽ tạo điều
kiện cho người sản xuất giảm được rủi ro xuáat phát từ nền kinh tế mở với cơn sốc về giá
cả sự thay đổi quá nhanh về cầu..
Ngoài ra, xác định cây trồng hợp lí với việc luân canh cây trồng , trồng xen hay gối
vụ tạo khả năng giảm phân đạm cần thiết; nông dân có thế sử dụng những nguồn phân hữu
cơ, phân xanh từ những phụ phẩm từ nông nghiệp để cải thiện độ phì và chất hữu cơ trong
đất.

Footer Page 7 of 133.


Header Page 8 of 133.

Với quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp thì việc xác
định một cơ cấu cây trồng hợp lí đạt hiệu quả cao là một đòi hỏi tất yếu đối với mỗi thành
phần kinh tế sủ dụng đất nông nghiệp ở nước ta. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở nước
ta hiện nay vừa là nội dung trọng tâm của chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo
hướng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vừa là biện pháp để phát triển nông
nghiệp toàn diện và bảo vệ tốt nguồn tài nguyên đất đai. Từ việc nghiên cứu cơ cấu cây
trồng đặt ra cho các nhà lí luận cũng như các nhà quản lý những nhiệm vụ mới có ý nghĩa
chiến lược trong bố trí sản xuất trồng trọt, đó là xác định cơ cấu cây trồng trước mắt và
trong tương lai phục vụ cho chiến lược phát triển nông nghiệp của nước ta trong qúa trình
xây dựng nền kinh tế đất nước theo con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

II . những nhân tố ảnh hưởng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản
xuất hàng hoá.
1. Những nhân tố ảnh hưởng.
1.1. nhóm nhân tố thuộc về điếu kiện tự nhiên.
Nhóm nhân tố này bao gồm các yếu tố như: vị trí địa lí của các vùng lãnh thổ, điều
kiện đất đai các vùng, điều kiện khí hậu các vùng, các nguồn tài nguyên khác của vùng,
các nguồn tài nguyên khác của các vùng như nước, rừng, biển, khoáng sản…
Các nhân tố tác động trực tiếp tới sự hình thành, vận động và biến đổi cơ cấu cây
trồng; sự tác động và ảnh hưởng của acá điều kiện tự nhiên tới mỗi loại cây trồng không
giống nhau. Chính từ sự không giống nhau đó làm cho số lượng và quy mô của các loại
cây trồng khác nhau. Điều này thể hiện rõ nẻttong sự phân biệt về cơ cấu cây trồng giữa
các vùng trong cả nước đặc biệt là giữa đồng bằng và miền núi hay là ngay bản thân cùng
mmột lãnh thổ. Do đó phải dựa vào cơ sở của các phương án phân vùng quy hoạch nông
nghiệp, nhất là việc hình thành các vùng chuyên canh cây trồng, hình thành các vùng trọng
điểm sản xuất hàng hoá có hiệu quảkinh tế cao. Cần phải nhận thức rằng không thể dựa
vào quan niệm sản xuất hàng hoá nhỏ, phân tán, manh mún dể bố trí cây trồng một cách
dàn trải, bất hợp lí mà phải dựa vào khai thác lợi thế từng vùng, từng địa phươngđể bố trí
cơ cấucay trồng hợp lí, lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo.
- Vị trí địa lí của vùng lãnh thổ và cơ cấu cây trồng.

Footer Page 8 of 133.


Header Page 9 of 133.

Vị trí địa lí của vùng lãnh thổ là nơi chốn của vùng lãnh thổ đó trong mối quan hệ
với các vùng lãnh thổ khác. Mỗi vùng lãnh thổ thích hợp với một số loại cây trồng nhất
định và vị trí địa lí của vùng lãnh thổ cùng với một số yếu tố thuộc về kinh tế, xã hội ảnh
hưởng tới cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng qua qúa trình xác định và
chuyển dịch cơ cấu cây trồng sao cho phù hợp với mối quan hệ giữa vùng lãnh thổ đóvới

các vùng lãnh thổ khác đặc biệt là giữa các vùng lãnh thổ lân cận.
Xác định cơ cấu cây trồng và chuyển dịch cơ cấu cây trồng của một vùng lãnh thổ
phải dựa trên những thế mạnh của vùng đồng thời phù hợp với quan điểm về chuyên môn
hoá và đa dạng hoasx nông nghiệp của cả nước. Vị trí địa lí là một trong những nhân tố
quan trọng quyết định thế mạnh của vùng thông qua mối quan hệ giữa các vùng lãnh thổ
về cơ sở hạ tầng, thị trường…
- Khí hậu và cơ cấu cây trồng.
Khí hậu là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu của việc xác định cơ cấu
cây trồng. Đối với việc bố trí cơ cấu cây trồng hàng năm thì việc quan trọng phải xem xét
là có thể trồng được mấy vụ trong một năm. Điều này phụ thuộc vào nhu cầu nhiệt lượng
của cây trồng và tổng nhiệt lượng hàng năm của vùng đó. Các cây trồng hàng năm ở sứ
nóng có thời gian sinh trưởng khoảng từ 90 đến 150 ngày, tuỳ thuộc nhiệt độ trung bình
ngày để cây có trể tích luỹ được một tổng nhiệt lượng cần thiết- được gọi là tổng tích ôn,
khoảng từ 2500 – 2600oc. Nừu một vùng nào đó có tổng nhiệt độ khoảng 9000oc/năm thì
có thể gieo trồng được 3 vụ/năm.
- Đất đai và cơ cấu cây trồng.
Đất là nguồn cung cấp nước và dinh dưỡng chủ yếu cho cây.Đất và khí hậu tạo
thành một hệ thống tác động vào cây trồng. Do đó cần phải lắm được mồi quan hệ giữa
cây trồng và các đặc điểm của đất thì mới xác định được cơ cấu cây trồng.
Tuỳ thuộc vào địa hình, chế độ nước của đất, thành phần cơ giới đất, độ chua, phèn,
mặn của đất cũng như một số đặc điểm lý, hoá tính khác của đất để bố trí các loại cây
trồng phù hợp.
Hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất chủ yếu quyết định đến năng suất cây trồng
hơn là quyết định tính thích ứng của cây trồng. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất
có thể khắc phục bằng cách bón phân thêm. thông thường các loại đất tốt sẽ trồng loại cây

Footer Page 9 of 133.


Header Page 10 of 133.


mà có độ phản ứng mạnh với độ phì của đất và có giá trị kinh tế cao. Do nắm được đặc
điểm lí, hoá tình của đất, nên con người có thể tác động cải toạ đất dần dần phù hợp với
cây trồng hơn.
- Cây trồng và cơ cấu cây trồng.
Cây trồng là thành phần chủ yếu của hệ sinh tái nông nghiệp, cụ thể hơn là của hệ
sinh thái đồng ruộng.nội dung của việc bố trí cơ cấu cây trồng hợp lí là chọn những loại
cây trồng nào để`lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu đất đai cũng như các nguồn tài
lực, vật lực khác của vùng. Khác với khí hậu và đất đai là các yếu tố mà con người ít có
khả năng thay đổi, thì đối với cây trồng thì con người có thể thay đổi, lựa chọn, di chuyển
chúng từ nơi này đến nơi khác. Với trình độ phát triển của nền sinh học hiện đại con người
còn có khả năng thay đổi bản chất bên trong của chúng theo hướng mà mình mong muốn
bằng các biện pháp như: lai tạo, chọn lọc, gây đột biến gen…
- Các nhân tố sinh vật và cơ cấu cây trồng.
Xây dung cơ cấu cây trồng là xây dung một hệ thống sinh thái trong nông nghiệp.
Như vậy ngoài thành phần chính là các cây trồng, hệ sinh thái này còn có các thành phần
sống khác như cỏ dại, động vật, vi sinh vật… các thành phần sống này cùng với cây trồng
tạo nên quần thể sinh vật, chúng chi phối lẫn nhau tạo nên các mối tác động qua lại rất
phức tạp. Vấn đề là phải tạo dựng và duy trì mối cân bằng sinh học trong hệ sinh thái theo
hướng hạn chế mặt có hại, phát huy các mặt có lợi đối với lợi ích của con người. Khi bố trí
cơ cấu cây trồng cần chú ý đến các mối quan hệ giữa các thành phần sinh vật trong hệ sinh
thái nông nghiệp dựa trên các nguyên tắc sau: lợi dụng tốt nhất mối quan hệ giữa các sinh
vật khác với cây trồng mà có lợi cho con người nhưng không nên lợi dụng thái quá.
Khắc phục, phòng tránh, hạn chế các mối quan hệ gây tác hại đối với cây trồng
cũng như đối với các lợi ích của con người. Các mối quan hệ giữa cây trồng và vi sinh vật
trong hệ sinh thái được biểu hiện qua các mối quan hệ như: Cạnh tranh cộng sinh, kí sinh
và ăn nhau, theo nguyen tắc hình tháp số lượng trong mạng lưới thức ăn. Vì vậy khi xác
địnhccct cần chú ý đến các mặt sau:
+ Xác định thành phần, tỷ lệ và giống cây trồng thích hợp với điều kiệncụ thể của
đôn vị sản xuất.


Footer Page 10 of 133.


Header Page 11 of 133.

+ Bố trí cây trồng theo thời vụ tốt, tránh độc canh, tỷ lệ các giống và giống chống
chịu sâu bệnh hợp lí sẽ đảm bảo được năng suất, sản lượng cây trồng, dồng thời hạn chế
được tác hại của cỏ dại, sâu bệnh, thời tiết khắc nghiệt.
+ Trồng xen nhiều loại cây trồng trong cùng một ruộng một cách hợp lí có thể làm
giảm được sự gây tác hại của cỏ dại, sâu bệnh, đồng thời làm tăng được năng suất đất đai
ví dụ như trồng cây họ đậu, cây phân xanh xen với cây mầu lương thực.
Tóm lại các nhân tố thuộn về điều kiện tự nhiên của một vùng lãnh thổ tác động
một cách đồng thời tới tất cả các loại cây trồng đã đặt ra yêu cầukhách quan cho việc lựa
chọn các loại cây trồng và việc bố trí cơ cấu cây trồng một cách hợp lí theo mùa vụ, chế độ
luân canh, xen canh, gối vụ.
Trong đó đất đai là nhân tố quan trọng trong qúa trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng
cũng như đa dạng hoánông nghiệp. Địa hình đất đai( thể hiện ở độ cao thấp của từng vùng,
từng chân ruộng) gắn liền với những điều kiện tưới tiê luôn là điều kiện quan trọng trong
việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng . Độ phì của đất là chỉ tiêu quan trọng trong việc bố trí
cây trồng cũng như công thức luân canh cụ thể để sử dụng đầy đủ và hợp lí hàm lương
dinh dưỡng của từng loại đất, tránh tình trạng huỷ hoại đất đai và môi trường nhằm tăng
hiệu quả chung của toàn bộ hệ thống. Các nhân tố khác như khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, độ
ẩm, ánh sáng, hạn hán, lũ lụt… thường chi phối đến năng suất cây trồng và hiệu quả kinh
tế của hệ thống canh tác.
1.2. Nhóm nhân tố kinh tế – xã hội.
Nhóm này bao gồmcác nhân tố như: thị trường( trong nước và ngoài nước), vốn, hệ
thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, cơ sở hạ tầng, kinh nghiêm, tập quán, truyền
thống sản xuất của dân cư, dân số và lao động … Nhóm nhân tố này luôn có tác động
mạnh mẽ tới sụ hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói chung và cơ cấu cây

trồng nói riên.
Nhân tố thị trường có ảnh hưởng tới quyết định tới sự phát triển kinh tế nói chung
và sự hình thành biến đổi cơ cấu kinh tế, bởi vì nó chỉ tồn tại và vận động thông qua hoạt
động của con người . Những người sản xuất hàng hoá chỉ sản xuất và đem bảna thị trường,
trao đổi những sản phẩm mà họ cảm they chúng đem lại lợi ích thoả đáng, như vậy thị
trường thông qua quan hệ cung cầu mà tín hiệu là giá cả, hàng hoá, thúc đẩy hay ngăn cản
Footer Page 11 of 133.


Header Page 12 of 133.

người sản xuất tham gia hay không tham gia vào thị trường, do đó chính từ thị trường mà
người sản xuất tự xác định khả năng tham gia cụ thể của mình vào thị trường những loại
sản phẩm hay hàng hoá, dịch vụ gì? với quy mô như thế nào? thông qua đó phản ánh cơ
cấu kinh tế từng vùng, từng địa phương. Tuy nhiên do mức độ tiếp cận thông tin khác nhau
và khả năng xử lí cũng khác nhau, điề kiện sản xuất lại chi phối dẫn đến lượng người tham
gia vào việc tạo ra và tiêu thụ sản phẩm cũng không giống nhau.
Cơ cấu cây trồng về cơ bản phản ánh yeu cầu của sản xuất hàng hoá và thị trường,
tuân theo sự phân công lao động xã hội, tính chất chuyên môn hoá và tập trung hoá sản
xuất. Nhu cầu sản xuất hàng hoá và thị trường là diều kiện quyết định sự biến đổi về chất
của cơ cấu cây trồng. Suy cho cùng thì nhu cầu về nông sản và môi sinh của xã hội cành
cao thì càng thúc đẩy cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
Từ các đặc điểm đó đòi hỏi khi xác định cơ cấu cây trồng thì cần dựa vào nhu cầu
thị trường nông sản, điều kiện tự nhiên, kinh tế –xã hội của mỗi vùng, mỗi địa phương, sự
phân công quy hoạch nông nghiệp và phương hướng phát triển nông nghiệp trong từng
thời kì. Vốn cho sản xuất giữ vai trò quyết định cho chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nhất là
đối vowis những hệ thống sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao và mang
tính thay đổi về chất như nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây lâu năm.
Chính sách kinh tế cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hay kìm hãm qúa
trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Nhờ chính sách đổi mới trong những năm 90 của Nhà

nước thông qua việc giao đất lâu dài cho hộ nông dân nên ngưới sản xuất ở một số vùng đã
mạnh dạn chuyển đổi hệ thống cây trồng, thay đổi phương thức canh tác đã thu được lợi
ích lớn. Tuy nhiên có những chính sách nhiều khi chưa tạo môi trường thuận lợi cho việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng như chính sách an toàn lương thực, chính sách đất đai( ruộng
đất chia manh mún).
1.3. Nhóm các nhân tố về tổ chác kĩ thuật.
Nhóm nhân tố này bao gồm các hình thức tổ chức sản xuất, sự phát triển của khoa
học kĩ thuật và việc ứng dụnh tiến bộkhoa học kĩ thuật vào sản xuất.
Việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất góp phần hoàn thiện
các phương thức sản xuất nhằm khai thác, sử dụng hợp lí, hiệu quả hơn các nhuồn lực xã
hội vào tronh ngành trồng trọt.
Footer Page 12 of 133.


Header Page 13 of 133.

Trong lĩnh vực trồng trọt việc xác định cơ cấu cây trồng trước hết phải tìm hiểu nhu
cầu của thị trường cả trong và ngoài nước về số lương, chất lương, chủng loại, giá cả. Trên
cơ sở đó mà có sự bố trí, sắp xếp hợp lí đáp ứng nhu cầu thị trường thúc đẩy nhanh tái sản
xuất mở rộng.
1.4. Nhân tố về tổ chức quản lí.
Mặc dù người sản xuất có tính độc lập và tự chutrong việ sản xuất nông nghiệp của
mình nhưng để đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao hơn thì người sản xuất phải có sự hợp tác
trong qúa trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Từng hộ riêng lẻ không thể chuyển dịch cơ
cấu cây trồng có hiẹu quả vì sản xuất nông nghiệp có đặc điểm riêng gắn lion với ddất đai,
sinh vật, hệ thống tưới tiêu, bảo vệ thực vật và ruộng đồng… Điều này đòi hỏi việc chuyển
đổi cây trồng và đa dạng hoá sản phẩm phải gắn lion với qúa trình mở rộng các mối quan
hệ hợp tác liên kết, liên doanh, đồn đồng đổi thửa…
2. Những yêu cầu đặt ra và xu hướng có tính quy luật của chuyển dịch cơ cấu cây
trồng.

2.1. Những yêu cầu.
- Đáp ứng được việc tổ chức các vùng sản xuất chuyên canh có tỷ suất hàng hoá
cao.
- Đảm bảo cho việc tổ chức các yếu tố đầu vào hợp lí phát triển sản xuất đa dạng và
kết hợp chặt chẽ giữa trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản và chế biến.
Trong qúa trình tái sản xuất bao gồm cả khâu sản xuất, lưu thông, tiêu thụ, phân
phối. Cơ cấu cây trồng không thể dừng lại ở một khâu nào đó mà nó là một qúa trình liên
tục, chi phối trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau theo hướng hoàn thiện trong từng hoàn
cảnh cụ thể.
2.2. Xu hướng.
- Xu hướng phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Đây là xu hướng vận động,
phát triển tất yếu của nền nông nghiệp nói chung và cơ cấu cây trồng nói riêng. Nền nông
nghiệp phát triển có quan hệ chặt chẽ với công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nhờ
có công nghiệp hoá cho phép sản xuất nông nghiệp được thực hiện theo phương pháp sản

Footer Page 13 of 133.


Header Page 14 of 133.

xuất và quản lí kiểu công nghiệp, nhờ có hiện đại hoá nông nghiệp mà vùng nông thôn có
thể tiến kịp thành thị, sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao.
Phát triển sản xuất hàng hoá tạo nên sự năng động trong sản xuất kinh doanh, đặt ra
yêu cầu cải tiến nhanh về kĩ thuật, công nghệ sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển .
Phát triển sản xuất hàng hoá làm cho sự phân công lao động xã hội ngày càng phát
triển sâu sắc, chuyên môn hoá, hợp tác hoá, mối quan hệ giữa các vùng, các ngành ngày
càng chặt chẽ hơn và kết quả là đẩy mạnh được qúa trình xã hội hoá sản xuất và lao động.
Sản xuất hàng hoá có quy mô lớn, có ưu thế về trình độ kĩ thuật và khả năng thoả mãn
sức mua của xã hội. Xu hướng phát triển cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá

phản ánh quy luật cung cầu trong xã hội, có thể they rõ trên các khía cạnh:
+ Nhu cầu ngày càng tăng về số lượng, chất lượng của sản phẩm từ cây lương thực,
cây thực phẩm và nhiều loại cây trồng khác.
+ Thị trường cung cầu của sản xuất trồng trọt ngày càng mang tính xã hội hoá và quốc
tế hoá.
+ Công nghiệp hoá và hiện đại hoá có quan hệ tương tác với nông nghiệp và ngày
càng thêm chặt chẽ. - Xu hướng phát triển nền nông nghiệp ổn định, bền vững.
Xây dung một nền nông nghiệp bền vững là xu hướng tất yếu của tiến trình phát
triển. Nội dung của nền nông nghiệp bền vững là:
+ Một nền nông nghiệp phát triển, bồi dưỡng và sử dụng hợp lí các nguồn tài
nguyên thiên nhiên của nông nghiệp đặc biệt là đất đai và nguồn nước.
+ Một nền nông nghiệp có trình độ thâm canh cao, biết kết hợp hài hoà giữa việc sử
dụng các kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học với kinh nghiệm
truyền thống sản xuất của người nông dân để tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt cung cấp
cho xã hội.
+ Một nền nông nghiệp sạch, biết hạn chế một cách tối đa việc sử dụng các hoá chất
độc hạicho môi sinh, môi trường và sức khoẻ công nghiệp. Kết hợp hài hoà giữa việc phát
triển sản xuất với bảo vệ và tôn tạo môi trường.

Footer Page 14 of 133.


Header Page 15 of 133.

+ Một nền nông nghiệp có cơ cấu cây trồng và vật nuôi hợp lí, phù hợp với đặc
điểm và điều kiện tự nhiên của mỗi vùng.
- Xu hướng phát triển sản xuất gắn với công nghiệp chế biến.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp ngày càng đòi
hỏi những sản phẩm có chất lượng cao. Hơn nữa để tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp
trong thị trường nói chung và trong xuất khẩu nói riêng thì càng đặt ra yêu cầu các sản

phẩm nông nghiệp phải qua chế biến. Công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông nghiệp
cũng là một khâu then chốt trong qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn vì nó là một trong những nhân tố quyết định tăng thu nhập cho người nông dân,
thúc đẩy nhanh qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, và trang bị công nghệ, vật
tư thiết bị tiên tiến cho sản xuất nông nghiệp để phát triển một nền nông nghiệp hiện đại,
năng suất cao, sản xuất nông sản hàng hoá.
Như vậy xác định và chuyển dịch cơ cấu cây trồng phải hướng tới một nền sản xuất
nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến như là một mục tiêu chiến lược trong sản xuất
nông nghiệp nói chung.
III. các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng.
1. Các vấn đề kinh tế của cơ cấu cây trồng.
- Cơ cấu cây trồng mới phải đạt giá trị kinh tế cao hơn cơ cấu cây trồng cũ do yêu
cầu của sự phát triển. Tuy nhiên giá trị sản xuất có thể tăng lên nwus tăng vụ, vấn đề tăng
vụ lại chỉ có thể giải quyết được trong một phạm vi nhất định và chịu sự chi phối khá lớn
của điều kiện đất đai, thồi tiết, khí hậu… về mặt kinh tế cơ cấu cây trồng cần thoả mãn yêu
cầu sau:
+ Đảm bảo yêu cầu chuyên canh, thâm canh và tỷ trọng hàng hoá cao.
+ Đảm bảo việc hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận dụng
tốt các nguồn lợi tự nhiên và xã hội.
+ Đảm bảo giá trị sử dụng và gí trị cao hơn cơ cấu cây trồng cũ.

Footer Page 15 of 133.


Header Page 16 of 133.

2. Khái niệm hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh trình độ và khả năng đảm bảo thực hiện có
kết quả cao nhất những nhiệm vụ kinh tế xã hội nhất định với chi phí nhỏ nhất.
Về mặt lượng hiệu quả kinh tế biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với

chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao, chi
phí bỏ ra càng nhỏ, hiệu quả thu được càng lớn.
Về mặt chất, việc đạt được hiệu quả cao phản ánh năng lực và trình độ quản lí, đồng
thời cũng đòi hỏi sự gắn bó giữa việc đạt được mục tiêu xã hội.
3. Khái niệm hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Hiệu quả cơ cấu cây trồng là kết quả so sánh giữa các chỉ tiêu kết quả và chi tiêu
hao phí, hoặc là thước đo trình độ tổ chức sản xuất và mức độ thực hiện các nhiện vụ cụ
thể của hoạt độnh sản xuất trồng trọt.
Khi đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng có thể dựa vào một số chỉ tiêu
như: năng suất, tổng sản lượng, tổng giá trị, giá thành, thu nhập và mức lãi của các sản
phẩm sản xuất ra. Tuy nhiên việc đánh giá này là rất phức tạp và cần có nhiều thời gian.
Đồng thời khi đánh giá hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng cũng cần chú ý đến
các điều kiện ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm như khí hậu, thời tiết, vị trí địa lí và các
điều kiện xã hội khác như giá nhân công lao động, giá các loại dịch vụ, nhu cầu thị trường,
thị hiếu người tiêu dùng.
Đối với qúa trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, hiệu quả kinh tế phải được tính
toán một cách thích hợp. Vì nói đến cơ cấu cây trồng là nói đến việc bố trí các loại cây
trồng trên từng laọi đất cụ thể. Mỗi loại cây trồng đều ứng với một diện tích gieo trồng
nhất định, quy mô và cơ cấu diện tích gieo trồng nhiều khi quyết định quy mô, số lượng và
cơ cấu sản phẩm của ngành trồng trọt. Hiệu quả chuyển dịch cơ cấu cây trồng là phải đảm
bảo được giá trị mục tiêu quan trọng là thu nhập và lợi nhuận của cơ cấu cây trồng mới tất
yếu phải lớn hơn thu nhập và lợi nhuận của cơ cấu cây trồng cũ.

Footer Page 16 of 133.


Header Page 17 of 133.

4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả.
Hiệu quả đầu tư vốn, hiệu quả đầu tư chi phí vật chất biểu hiện kết quả thu được của

hoạt động sản xuất kinh doanh tương ứng với mức chi phí đã bỏ ra.
Năng suất đất đai là số lần gieo trồng được trên một đơn vị diện tích đất trong một
năm, hệ sốgieo trồng càng lớn biểu hiện năng suất đất đai đạt cao .
Năng suất cây trồng chính là sản lượng mà loại cây trồng đem lại tính trên một đơn
vị diện tích gieo trông .
Năng suất lao động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động trong việc
thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Năng suất lao động phản ánh lượng sản phẩm mà
mỗi người lao động tạo ra trong một đơn vị thời gian.
Giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
do lao động nông nghiệp s áng tạo ra trong một thời kì nhất định thường là một năm.
IV – kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
3.1 kinh nghiệm ngoài nước
-kinh nghiệm của nước nga
ở nga các nhà sinh thái học học nghiên cứu nhiều mô hình cơ cấu cây trồng áp
dụng cho nhiều vùng như vùng bông TASKEN với mô hình có chu kỳ 5:1( 5 năm trồng
bông ,một năm trồng cây khác )
Việc nghiên cứu hệ thống canh tác được tiến hành theo nhiều hướng với nhiều nội
dung khác nhau một trong những nội dung đó là vấn đề tăng vụ tăng vụ là chiến lược
trung tâm để tăng sản xuất lương thực tạo thêm công ăn việc làm tăng thu nhập .ở một số
nước phải đối phó với tình trạng thiếu đất thừa lao động đặc là các nước Châu á trong đó
có việt nam
-kinh nghiệm của indonexia
kinh nghiệm của nước này áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp như kết hợp
trồng trọt ,chăn nuôi gia súc và cá ,đưa các giống cây trồng có năng xuất cao khả năng
trống chịu tốt với sâu bệnh và các điều kiện ngoại cảnh không thuận đồng thời đa dạng
hoá cây trồng thích hợp trên các loại đất điều này đã mang lại những kết quả trước năm
Footer Page 17 of 133.


Header Page 18 of 133.


1975có 64%đất bỏ hoang hoá sau một vụ lúa và chỉ có 32% diện tích là hai vụ đến năm
1984 chỉ còn 27% diện tích là một vụ lúa 69%diện tích đã làm hai vụ hoặc ba vụ
-Kinh nghiệm của trung quốc
Trung quốc là nước có nhiều điểm tương đồng với nước ta trên bước đường chuyển
dịch từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước.
Kinh nghiệm thực tiễn của trung quốc trong quá trình tổ chức chỉ đạo phát triển
nông nghiệp , trước hết phải coi trọng sản xuất lương thực
Quan điểm xuyên suốt của trung quốclà coi nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế
quốc dân trong đó coi sản xuất lương thực là cơ sở của nông nghiệp .trong suốt quá trình
cơ cấu sản suất nông nghiệp ,trung quốc luôn đặt lương thực lên vị trí hàng đầu và tập
trung mọi mặt để đảm bảo cho sản suất lương thực được mở mang phát triển nông nghiệp
nhiều ngành nghề.đây là điểm cơ bản trong chính sách đối với sản xuất nông nghiệp mà
trung quốc đã kiên trì trong thời gian dài.trung quốc chủ trương thi hành những biện pháp
chủ yếu sau :
-ổn định diện tích gieo trồng cây lương thực
-Nâng cao sản lượng trên đơn vị diện tích bằng con đường thâm canh, xây dựng các
vùng lương thực hàng hoá trọng điểm ,Nhà nước thi hành chính sách nângđỡ các vùng
trọng điểm sản suất lương thực trọng điểm hàng hoá ,đặt ra các chính sách ưu đãi để giải
quyết tốt các vấn đề cơ chế đầu tư thực hiện các giải pháp gán đầu tư với khối lượng thực
hiện hàng hoá
-Điều chỉnh hợp lí lợi ích giữa các khu vực sản xuất chủ yếu và khu vực nhận được
lương thực từ nơi khác đến Đối với các vùng sản suất lương thực chủ yếu ,trung quốc chủ
trương thi hành các biện pháp bảo đảm lợi ích cho họ. Mọi vùng ,mọi địa phương căn cứ
vào điều kiện của mình sau khi bảo đảm lương thực mà có sự điều chỉnh cơ câú hợp lí.
Tóm lại nhờ có chiến lược cũng như chính sách đúng trong việc tiếp tục điều chỉnh
cơ cấu mà ngày nay trung quốc đã có nhiều thành tựu về phát triển nong nghiệp toàn diện
đã trở thành hiện thực


-Kinh nghiệm của thái lan
Footer Page 18 of 133.


Header Page 19 of 133.

Nét nổi bật nhất của nông nghiệp thái lan trong những năm gần đây là tốc đọ tăng
trưởng nhanh găns liền với đa dạng hoá . đó là nhân tố quan trọng nhất
Để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
Đa dạng hoá nông nghiệp được tiến hành theo hai hướng chủ yếu sau :
-Tăng diện tích trồng trọt và các loại cây trồng mới ,ngoài lúa gạo . Lúc đầu quá
trình này diễn ra tự phát ,từ những năm 1980 nhà nước có chính sách điều tiết
-Phát triển các hoạt động sản suất ngoài trồng trọt như chăn nuôi ,đánh bắt cá.
Khắc phục tình trạng giảm thu nhập do sự giảm giá của một số mặt hàng truyền
thống về lâm sản trên thị trường quốc tế.
Bài học kinh nghiệm :
-Thực hiện các chính sách kích thích kinh tế đối vơéi người sản suất để thực hiện đa
dạng hoá -Chính phủtài trợ cacvs nguồn đồu vào ,các chính sách khác để khuyến khích
nông dân
-Đa dạng hoá gán liền với phát triển thị trường trong nước và thị trường xuất
khẩucho các nông sản mới
3.2 Kinh nghiệm trong nước
đối với nước ta việc cải thiện để hình thành một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý
nên hướng vào đa dạng hoá trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất phù hợp với thế mạnh
thật sự cuả từng vùng sinh thái từng địa phương từng cơ sở xản suất kinh doanh nông
nghiệp trước hết là những lợi thế về điều kiện tự nhiên (đất đai ,thời tiết ,khí hậu…)và lao
động so với các vùng của đất nước cũng như so với quốc tế
Như ở vùng đồng bằng sông cửu long có ý nghĩa quốc gia và quốc tế trong việc
phát triển lương thực chủ yếu là lúa gạo để xuất khẩu trong khi đó vùng đồng bằng sông
hồng lại có ý nghĩa quốc gia và quốc tế trong việc phát triển cây trồng xuất khẩu vụ đông

đặc biệt là các loại rau đậu cao cấp còn việc nuôi tôm để xuất khẩu có thể có thể tìm thấy
khả năng to lớn này ở các tỉnh duyên hải miền trung ý nghĩa quốc gia và quốc tế đối với
vùng trung du và miền núi của cả hai miền đất nước lại hướng vào phát triển xuất khẩu
một số cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày, cây ăn quả, rừng và những đặc sản của rừng

Footer Page 19 of 133.


Header Page 20 of 133.

như : cà phê,cao su, hồ tiêu ,chè lạc đậu tương ,cam ,dứa chuối , trầm hương ,mật ong
,một số cây ,dược liệu quý .v.v..
- Chuyển dịch cơ cấu trong bản thân nghành nông nghiệp như ta biết thì nông
nghiệp có hai nghành chính trồng trọt và chăn nuôi
+ Trong ngành trồng trọt có các tiểu ngành sản xuất lương thực ,cây công nghiệp
cây ăn quả cây rau và hoa ,cây dược liệu cơ cấu của ngành trồng trọt nước ta mấy năm
nay gần đây đã có những biến đổi tốt theo hướng tiến bộ : cây công nghiệp ,cây ăn quả
cây rau và hoa cây dược liệu đã có sự phát triển khá tuy nhiên so với sản xuất lương thực
các ngành này vẫn còn phần hết sức nhỏ bé ngành trồng trọt nước ta về cơ bản vẫn là
ngành trồng lương thực các mà trong đó chủ yếu là sản xuất lúa gạo hướng đổi mới là
tăng năng xuất cây trồng hoặc tăng vụ trong một năm chúng ta đã đưa vào sản xuất một số
giống lúa mới ngắn ngày năng xuất cao đã mở ra một khả năng mới tăng vụ đông làm cho
diện tích trồng trọt sản lượng tăng lên đáng kể chính điều này cho phép giải phóng đất đai
cho các loại cây trồng khác
Theo giáo sư viện Sỹ Đào Thế Tuấn thì muốn tận dụng lợi thế khí hậu mùa đông ở
đồng bằngvà các tỉnh phía bắc nên trồng các cây có nguồn gốc xứ lạnh như khoai tây, cải
bắp , xu hào …hoặc chọn các cây xứ nóng ngắn ngày như ngô đậu tương …chịu lạnh để
trồng vụ đông .Điều này làm tăng hiệu quả kinh tế của cơ cấu cây trồng mà nó còn có tác
dụng bảo vệ và bồi dưỡng đất
Theo tác giả Phạm Chí Thanh, Trần Đức Viên ,Đào Thế Tuấn cho rằng trong

nghiên cứu chuyển đổi hệ thống canh tác phải được bắt đầu bằng công tác kiểm kê điều
kiện tự nhiên và đánh giá được hệ thống canh tác truyền thống từ đó xây dựng được cơ
cấu cây trồng hợp lý cho mỗi vùng sinh thái và tiểu vùng
+ Với chăn nuôi có các loại :chăn nuôi đại gia súc ,tiểu ra súc, gia cầm ,nuôi ong
,nuôi các loài đặc sản ,và nuôi thuỷ hải sản .Lâu nay chăn nuôi nước ta mới quan tâm chủ
yếu đến : trâu ,bò ,lợn và nuôi theo lối tận dụng .Kinh nghiệm là để đổi mới cơ câú một
cách thành công là đổi mới đúng và hợp với xu thế phát triển của nhu cầu với thị trường
trong ngành chăn nuôi thì phát triển nhanh đàn bò theo hướng lấy thịt và sữa phát triển
mạnh đàn lợn theo hướng lợn nạc và mở rộng chăn nuôi gia cầm theo hướng công nghiệp
Đặc biệt quan tâm thoả đáng đến việc nuôi trồng các loài thuỷ hải sản vì đây là thế mạnh

Footer Page 20 of 133.


Header Page 21 of 133.

của nước ta .Chỉ có theo hướng ấy chúng ta mới thành công trong quá trình chuyển dịch
ngành chăn nuôi

từ những kinh nghiệm trên có một số nhận xét:
Một là: Trong mọi điều kiện cơ cấu ngành nông nghiệp đều vận động theo xu
hướng chung .Đó là tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu ngành kinh tế quốc dân
đều giảm tương đối
Hai là :sự áp dụng thành tựu khoa học công nghệ mới trong sản xuất năng xuất
cây trồng lương thực tăng lên tới một giới hạn nhất định (tức là đảm bảo được vấn đề
lương thực) thì khi đó cơ cấu kinh tế sẽ có bước nhẩy đột biến trong nội bộ cơ cấu ngành
Đó là tỷ trọng màu cây công nghiệp tăng sản xuất lâm nghiệp chăn nuôi tăng cơ cấu chăn
nuôi các con đặc sản có giá trị kinh tế cao và từ đó mở ra khả năng xuất khẩu
Ba là: sự biến đổi cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp dẫn đến kết quả hình thành các
vùng chuyên canh mang đặc trưng của sản xuất hàng hoá hướng tới thị trường là chủ yếu

làm cho tỷ trọng nông sản phẩm hàng hoá tăng lên
Bốn là :sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong nông nghiệp gắn liền với sự chuyển
dịch cơ cấu lao động cơ cấu vốn và cơ cấu vùng lãnh thổ ,cũng như cơ cấu thành phần
kinh tế .Đồng thời tác động tới cơ cấu tiểu vùng công nghiệp hình thành nghề phụ nghề
thủ công chế biến ,dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp làm cho cơ cấu kinh
tế nông nghiệp có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ

Footer Page 21 of 133.


Header Page 22 of 133.

Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện Thanh Trì Hà Nội.

I. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện.
1. Điều kiện tự nhiên.
1.1. Vị trí địa lý.
Huyện Thanh Trì là một huyện ngoại thành năm ở phía Nam Thành Phố Hà Nội,
trong khoảng toạ độ địa lý từ 20050’ đến 21000’ Vĩ độ Bắc và từ 105045’ đến 105056’ kinh
độ Đông. Phía Bắc giáp quận Hai Bà Trưng và Quận Thanh Xuân, phía Đông tiếp giáp với
huyện Gia Lâm và tỉnh Hưng Yên qua Sông Hồng,phía Tây giáp tỉnh Hà Tây.
Là cửa ngõ phía nam của thành phố, có các trục đường huyết mạch của cả nước
chạy qua như quốc lộ 1A, đường sắt Bắc nam và trong tương lai sẽ có thêm tuyến đường
vanh đai III của thành phố chạy qua, sông Hồng chạy dọc theo ranh giới phía Đông của
huyện không chỉ là tuyến đường thuỷ chính quan trọng của Thủ đô Hà Nội,mà của cả các
tỉnh trong vùng. Đay là điều kiện rất thuận lợi để huyện trở thành điểm trung chuyển hàng
hoá từ thành phố đi các tỉnh, cũng như từ các tỉnh về thành phố.
Về mặt địa hình địa mạo Thanh Trì là vùng đất trũng ven đê ở phía nam thành phố
với độ cao trung bình từ 4-4,5m, thấp hơn so với khu vực khác của thành phố. Địa hình
dốc nghiêng từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang tây. Toàn bộ lãnh thổ huyện được phân

định thành hai vùng chính, vùng bãi ven sông và cùng nằm giữa đê sông Hồng với diện
tích khoảng 2000 ha, độ cao trung bình của vùng là từ 8 - 9m, trong đó các khu dân cư cao
hơn từ 8 - 9,5m. Các vùng bãi canh tác thấp hơn từ 7 -7,5 m chạy ven đê còn có nhiều đầm
hồ trũng là nơi giữ nước khi sông cạn. Do nằm ngoái đê nên vùng này thường bị ngập
nước vào mùa lũ.
- Vùng nội đồng gồm toàn bộ phần còn lại của huyện với diện tích khoảng 7830 ha.
Độ cao trung bình của vùng 4 - 5m, phía Đông quốc lộ 1A thấp hơn từ 3,5 - 4,5m, còn phía
Tây quốc lộ 1A cao hơn từ 5- 5,5m, toàn vùng bị chia cắt bởi các trục giao thông quốc lộ
1A, đường Pháp Vân – Yên Sở, đường 70A và các con sông tiêu nước thải của thành phố
như sông Kim Ngưu, sông Sét, sông Lừ, sông Tô Lịch… do đó đã hình thành các ô nhỏ

Footer Page 22 of 133.


Header Page 23 of 133.

khó thoát nước với nhiều đầm, ruộng trũng hay bị ngập úng hàng năm khi có mưa lớn và
nước của các con sông lên cao. Do địa hình thấp, trũng nhất thành phố, nên nước thải của
nội thành hầu hết dồn về đây, nếu không được xử lý tốt sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường của huyện nói chung và môi trường đất nói riêng.
Toàn bộ lãnh thổ huyện Thanh Trì nằm trên vùng có nền địa chất công trình thuộc
loại trung bình (kém thuận lợi) và xấu (không thuận lợi), vì vậy khi xây dựng cần phải có
các biện pháp kỹ thuật cần thiết để loại trừ những ảnh hưởng xấu trong thi công và để tăng
tuổi thọ của công trình.
1.2. Khí hậu.
Huyện Thanh Trì nằm trongkhí hậu nhiệtđới gió mùa voí 2 mùa chủ yếu trong
năm: Mùa nóng vàmùa lạnh. Các tháng 4,10 được coi như những tháng chuyển tiếp tạo
cho Thanh Trì có 4 mùa Xuần, hạ, thu, đông.
Nhiệt độ trung bình năm 23,90C.Nắng trung bình năm 1640 giờ. Bức xạ trung bình
4272 Kcal/m2/tháng. Lượng mưa trung bình năm 1649mm, lượng bốc hơi trung bình năm

938 mm. Độ ẩm không khí trung bình năm 83%. Trong năm có hai mùa giá chính: Gió
mùa Đông nam và gió mùa Đông Bắc. Hàng năm chịu ảnh hưởng trực tiếp của khoảng 5-7
cơn bão. Bão mạnh nhất lên tới cấp 9, cấp 10 làm đổ cây cối và gây thiệt hại lớn cho mùa
màng. Bão thường trùng với thời kỳ nước sông Hồng lên cao đe doạ không chỉ sản xuất
nông nghiệp và cả đời sống của người dân.
Do chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa nen khí hậu ở đây biến động thất thường, ảnh
hưởng sâu sắc tới mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp và cả quá trình sinh trưởng của các
loại cây trồng. Thanh Trì có mùa đông lạnh và khô nhưng chỉ trong thời gian ngắn đầu
mùa đồng, đầumùa xuân nhiệt độ không khí đã ẩm lên, có mưa phùn nên độ ẩm cao phù
hợp với các loại cay rau, quả ôn đới phát triển. Nếu đảm bảo được các điều kiện vật tư, kỹ
thuật có thể phát triển cây vụ đông rải rộng trên diện tích đất canh tác của huyện.
1.3. Thuỷ văn.
Trên địa bàn huyện có các sông lớn chảy qua như sông Hồng, sông Nhuệ, sông Tô
Lịch, sông Ngừ, sông Sét, sông Kim Ngưu… Bên cạnh đó còn có một diện tích lớn hồ đầm
với các hồ đầm như Yên Sở, Linh Đàm, Định Công, Pháp Vân.

Footer Page 23 of 133.


Header Page 24 of 133.

- Chế độ thuỷ văn.
Chế độ thuỷ văn của các sông trong huyện chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
của chế độ thuỷ văn sông Hồng và được phân thành 2 mùa khá rõ rệt: Mùa lũ từ tháng 6
đến tháng 10, và mùa cạn từ tháng 5 năm sau.
- Đặc điểm thuỷ chế của các sông.
+ Sông Hồng: Lưu lượng nước trung bình năm khoảng 1220.109m3 trong đó mùa lũ,
lưu lượng nước chiếm tới 72,5%, vào tháng 7 mực nước trung bình là 9,2m, lưu lượng là
5990 m3/s (lúclớn nhất lên tới 22200 m3/s) trong khi đó mực nước trung bình của năm là
5,3m vớilưu lượng 2309 m3/s. Nước lũ của sông Hồng là mộthiểm hoạ đối với người dân,

đối với các công trình xây dựng và đặc biệt là đối vớisản xuất nông nghiệp ở không chỉ
cãcã ngoài bãi mà cả các xã trong đồng. Trong mùa lũ, nước sông Hồng lên to, có nơi mặt
sông rộng đến 2-3km, mực nước sông cao hơn mặt ruộng đến 6-7m. Vào mùa cạn, mực
nước trung bình là 3,06m với lưu lượng 927m3/s.
+ Sông Nhuệ: Lưu lượng ở đầu nguồn từ 26-150m3/s, mực nước ở hạ lưu đập Hà
Đông từ 4,5 – 5,2m.
+ Sông Tô lịch, sông Lừ, sông Sét, sông KimNgưu đều là những sông nội thành
phố, làm nhiệmvụ tiêu thoát nước chotoàn thành phố hiện đang bị ô nhiễm nặng do nước
thải.
+ Các hồ, đầm: phần lớn các hồ đầm của huyện Thanh Trì hiện đang bị ô nhiễm do
lượng mưa và nước thải sinh hoạt không được làm sạch từ khu vực nội thành chảy vào.
1.4. đất đai:
Toàn huyện có 6 loại đất chính sau:
- Đất phù sa không được bồi hoặc giây yếu: có diện tích khoảng 2422 ha phân bố ở
những nơi có địa hình cao và trung bình, tập trung ở các xã Định Công, Đại Kim, Thanh
Liệt, Hoàn Liệt, Tam Hiệp, Tứ Hiệp, Ngũ Hiệp, Ngọc Hồi, Vĩnh Tuy, Lĩnh nam, Liên
Ninh, Đông Mỹ, và thị trấn Văn Điển. Đất cómàu nâu tươi hay nâu xám, PH từ trung tính
đếnít chua thànhphần cơ giới từ cát pha đến thịt nặng, các chất dinh dưỡng tổng số từ khá
đến giàu các chất dễ tiêu khá. Đây là loại đất thuận lợi cho phát triển cây thực phẩm, cây
lương thực và các loại hoa màu.

Footer Page 24 of 133.


Header Page 25 of 133.

- Đất phù sakhông được bồi có giây: có diện tích 1715 ha, phân bố tập trung ở các
xã tả Thanh oai, Đại áng và Tân Triều, nằm ở nơi có địa hình thấp. Đất có giây màu xám
xanh, dẻo, thành phần cơ giới trung bình đến nặng, độ phì nhiêu tiềm tàng khá, nghèo lân
dễ tiêu.

- Đất phù sa ít được bồi, trung tính,kiềm yếu: có diện tích 739 ha phân bố ở dải đất
ngoài đê sông Hồng thuộc các xã Lĩnh nam, Trần Phú, Yên Mĩ, Duyên hà và Vạn Phúc.
Phần lớn loại đất này có thành phần cơ giới cát pha,khả năng giữ màu, giữ nước kém và
không bị chua.
- Đất phù sa không đượcbồi, giâymạnh: có diện tích 60 ha nằm rải rác ở những nơi
trũng, lòng chảo thuộc các xã Đại Kim, Thanh Liệp, Tứ Hiệp, và Ngũ Hiệp, hàng năm bị
ngập nước liên tục vào mùa hè, nên đất thường ở trong tình trạng yếm khí, tỷ lệmùn khá độ
chua PH từ 4,5 - 6 do ảnh hưởng của chất hữu cơ chưa phân giải.
- Đất phù sa được bồi hàng năm trung tính kiềm yếu: có diệntích 197 haphân bố
thành dải đất dọc theo bờ sông Hồng ở các xã Thanh Trì, Lĩnh Nam, Vạn Phúc và yên Sở
và Duyên hà. Nơi địa hình cao đất có thành phần cơ giới nhẹ; nơi đất thấp có thành phần
cơ giới trung bình đến nặng. Nhìn chung loại đất này là một trong những loại đất tốt, chủ
yếu trồng màu và những cây công nghiệp ngắn ngày, có năng suất cao.
- Đất cồn cát, bãi cát ven sông: có diện tích 99 ha nằm ở ngoài bãi sông Hổng thuộc
xã Vạn Phúc, Thanh Trì, Lĩnh Nam. Hàng năm,nước ngập bãi cát được bồi thêm hoặc bị
cuốn đi, do đó địa hình địa mạo luôn bị thay đổi. Cát có phản ứng trung tính, độ phì kém.
Hiện tại một phần nhỏ diện tích được sử dụng khai thác cát phục vụ xây dựng, còn lại bỏ
hoang.
- Khu vực đất còn lại gồm: đất có mặt nước, sông suối, đất khu dân cư có tổng diện
tích 4160 ha.
Biểu 2: Tình hình thổ nhưỡng huyện Thanh Trì.
ST

Tên đất

Ký hiệu

Diện tích (ha)

Đất phù sa không được bồi, không giây hoặc


ph

2422

T
1

giây yếu

Footer Page 25 of 133.


×