Tải bản đầy đủ (.doc) (219 trang)

Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 219 trang )

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Phát triển nông nghiệp sinh thái đang là đòi hỏi tất yếu và là xu hướng
phát triển phổ biến của nông nghiệp thế giới, nhằm giải quyết tốt mối quan
hệ cân bằng, bền vững giữa các yếu tố môi trường sinh thái với sự phát triển
của con người. Trong xu hướng phát triển đó, nông nghiệp sinh thái của các
vùng ngoại thành còn mang một ý nghĩa nhân văn độc đáo, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao cả về vật chất và văn hoá, tinh thần của dân cư đô thị, gắn
liền với việc phát triển nền nông nghiệp sạch và nông nghiệp du lịch- sinh
thái, được khai thác từ những tiềm năng, thế mạnh sẵn có của các vùng
ngoại thành.
Nông nghiệp ngoại thành Hà Nội mặc dù chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong
cơ cấu kinh tế Thủ đô, nhưng được xác định là ngành có vị trí quan trọng
trong phát triển kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vai trò
đó không chỉ được thể hiện ở chỗ đáp ứng đáng kể nhu cầu lương thực, thực
phẩm cho người dân Thủ đô, làm đẹp cảnh quan, bảo vệ môi trường, mà còn
có ý nghĩa to lớn trong việc mang lại những giá trị tinh thần độc đáo, làm
giàu nét đẹp truyền thống văn hoá người Hà Nội. Trong bối cảnh đô thị hoá
và cạnh tranh ngày càng sâu sắc với các hoạt động phi nông nghiệp, lợi ích
từ các sản phẩm nông nghiệp thuần tuý ở các vùng ngoại ô ngày càng thu
hẹp. Chính vì vậy, nông nghiệp ven đô nói chung và nông nghiệp ngoại
thành Hà Nội nói riêng chỉ có thể tiếp tục duy trì và phát triển đúng hướng,
phục vụ phát triển đô thị khi nó được phát triển theo hướng sản xuất nông
nghiệp sinh thái.
1
Phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng sinh thái bao
gồm các nội dung quan trọng như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng nông nghiệp sinh thái, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ
hướng vào phát triển nông nghiệp sinh thái, xây dựng các mô hình sản xuất
nông nghiệp kết hợp đáp ứng các yêu cầu sinh thái, trong đó chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng sinh thái được coi


là nội dung quan trọng hàng đầu. Phát triển nông nghiệp sinh thái tức là tạo
lập một cấu trúc cân bằng, bền vững của hệ sinh thái nông nghiệp, nói cách
khác là xây dựng một cơ cấu cân đối, hợp lýý, theo hướng sinh thái trong
các yếu tố của hệ thống nông nghiệp. Do đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp là vấn đề cơ bản, then chốt để thực hiện sự chuyển đổi các đặc
trưng của phương thức sản xuất nông nghiệp hiện có sang phương thức sản
xuất nông nghiệp sinh thái. Kết quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sinh thái sẽ cho phép tạo lập một cấu trúc cân bằng, bền
vững của hệ sinh thái nông nghiệp.
Cho đến nay, cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội đã có sự
chuyển biến đáng kể theo hướng giảm dần tỷ trọng giá trị sản xuất ngành
trồng trọt, tăng dần tỷ trọng giá trị ngành thuỷ sản, và các loại cây trồng, vật
nuôi có giá trị kinh tế cao, các sản phẩm sạch, an toàn, các hoạt động vui
chơi giải trí phục vụ nhu cầu của dân cư đô thị. Tuy nhiên, so với yêu cầu
phát triển nông nghiệp Thủ đô theo hướng sinh thái, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp hiện tại vẫn chưa thực sự phù hợp. Tỷ lệ giá trị các sản phẩm mang
tính cảnh quan, sinh thái, phục vụ các nhu cầu văn hoá, du lịch của dân cư
còn thấp. Độ an toàn, giá trị kinh tế, năng suất và chất lượng sản phẩm chưa
cao. Môi trường tự nhiên, sinh thái vẫn đang bị đe doạ nghiêm trọng. Tất cả
những vẫn đề trên đã và đang là những đòi hỏi bức xúc của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh
2
thái. Xuất phát từ tình hình thực tế và những đòi hỏi bức thiết trên đây, đề
tài "Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái" đã
được tác giả lựa chọn làm đề tài luận án tiến sỹ.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Phát triển nông nghiệp sinh thái với nội dung cơ bản là chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sinh thái là đòi hỏi bức thiết và là vấn đề
mang tính toàn cầu. Vì vậy, đây là một đề tài đã và đang được sự quan tâm

của nhiều nhà nghiên cứu và của nhiều quốc gia trên thế giới. Đối với các
thành phố và các khu đô thị, đặc biệt ở các đô thị đang phát triển có mức độ ô
nhiễm môi trường lớn, nông nghiệp ngoại thành còn giữ một vai trò hết sức
quan trọng trong bảo vệ môi trường, tạo cảnh quan và phục vụ các chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội. Vì thế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
các vùng ngoại thành theo hướng nông nghiệp sinh thái cũng đang thu hút
khá nhiều sự quan tâm, nghiên cứu trong và ngoài nước.
2.1. Các nghiên cứu ngoài nước
Có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới có liên quan đến phát triển nông
nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị, trong đó có đề cập đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nông nghiệp sinh thái. Các kết quả
nghiên cứu đã được vận dụng vào hoạt động quản lý, xây dựng các chiến
lược, chính sách kinh tế, định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp để phát triển nền nông nghiệp đô thị, sinh thái ở các nước. Có
nhiều nghiên cứu mà kết quả của nó đã trở thành tài liệu tham khảo quý như
sách giáo khoa cho các trường đại học hoặc sách ”gối đầu giường” cho các
nhà quản lý.
3
Trước hết, có thể kể ra những công trình có giá trị lớn về mặt lý thuyết,
đã xây dựng được các học thuyết về sinh thái nông nghiệp và phát triển bền
vững như “Các nguyên lý sinh thái của nông nghiệp” [63] của hai tác giả
Laura E. Powers và Robert McSorley, viết năm 1998, “Kinh tế học sinh thái
và phát triển bền vững: Lý thuyết, phương pháp và ứng dụng” [60] của tác giả
Jenroen, viết năm 1996, do cùng nhà xuất bản Mc Graw Hill, Inc phát hành,
và “Lịch sử nông nghiệp bền vững và hệ thống nông nghiệp bền vững” [68]
của tác giả Richard R. Harwood, viết năm 1990, ấn hành bởi Lucie Press.
Trong các tác phẩm này, các tác giả đã xây dựng những nguyên lý cơ bản về
hệ sinh thái, hệ sinh thái nông nghiệp, nông nghiệp sinh thái và nông nghiệp
bền vững, trong đó, các khái niệm, cấu trúc và mối quan hệ hữu cơ giữa các
thành phần của hệ thống được làm rõ. Thông qua việc nghiên cứu, hệ thống

hoá lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất nông nghiệp, phân tích và
đánh giá các tác động của chúng đến môi trường, các tác giả đã khẳng định
tính tất yếu khách quan phải ra đời phương thức sản xuất nông nghiệp sinh
thái, bền vững.
Liên quan đến phát triển nông nghiệp đô thị và ven đô, cũng có khá
nhiều nghiên cứu quy mô lớn được thực hiện bởi các cá nhân và tổ chức quốc
tế như FAO, UNDP, UNICEF ... Có thể kể ra một số nghiên cứu chủ yếu như
nghiên cứu về “Nông nghiệp đô thị và ven đô” [58] thuộc “Chương trình đặc
biệt về an toàn lương thực” của FAO, mà kết quả (đã được công bố năm
2001) là một cẩm nang hướng dẫn khá chi tiết và có tính ứng dụng cao về các
mô hình phát triển nông nghiệp đô thị và ven đô ở các quốc gia đang phát
triển trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nghiên cứu của UNDP
cũng chỉ ra khá rõ các mô hình nông nghiệp đô thị và ven đô ở một số nước
điển hình như mô hình hệ sinh thái “Aqua-terra” ở Inđônêsia, mô hình nông
nghiệp xanh (Green core) ở Hà Lan, mô hình “vườn trong thành phố” với kỹ
4
thuật trồng rau thuỷ canh ở Ecuađo và một số nước châu phi khác [15]... Các
nghiên cứu nói trên đặc biệt tập trung vào việc phổ biến những kinh nghiệm
thực tiễn về kỹ thuật và tổ chức sản xuất để phát triển nền nông nghiệp sạch,
an toàn, bền vững và bảo vệ môi trường.
Một hướng nghiên cứu khác về nông nghiệp đô thị của các chuyên gia
nông nghiệp Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á lại quan tâm đến tác động của đô
thị hoá đến nông nghiệp đô thị. Trong khi các nhà nghiên cứu Bắc Mỹ (trong
những năm 70 và 80) tập trung đánh giá ảnh hưởng của đô thị hoá đến năng
suất và sản lượng nông nghiệp trên cơ sở nghiên cứu hoạt động của các nông
trại trong điều kiện đô thị hoá, thì các nghiên cứu ở Châu Âu và châu Á lại
quan tâm nhiều hơn đến vai trò của nông nghiệp ven đô đối với bảo vệ cảnh
quan môi trường. Các nghiên cứu này đã đi đến kết luận là sự phát triển của
nông nghiệp ven đô phụ thuộc rất lớn vào các chủ trương, chính sách về kế
hoạch hoá đô thị (như nghiên cứu về “Kế hoạch chiến lược phát triển không

gian xanh cho các khu vực đô thị có mật độ dân cư cao” [57] được trình bày
tại hội thảo quốc tế về “Các vấn đề và tương lai phát triển thành phố sinh
thái” tổ chức qua mạng năm 2003. Tuy nhiên, vẫn có một vài nghiên cứu điển
hình về mô hình phát triển nông nghiệp đô thị đã gắn kết lợi nhuận sản xuất
nông nghiệp với chiến lược sử dụng ruộng đất, phân vùng nông nghiệp và bảo
vệ môi trường, ví dụ như mô hình vành đai xanh- Greenbelt [37] của Boal
(1970). Theo Boal, có thể hình thành ba vành đai khác nhau đối với nông
nghiệp đô thị. Vành đai thứ nhất tại trung tâm thành phố, đất đai đã quy
hoạch ổn định, nông nghiệp đạt được mức lợi nhuận ổn định do có nhiều lợi
thế thị trường. Vành đai thứ hai cận kề ngoại ô, quy hoạch đất đai chưa ổn
định, lợi nhuận sản xuất nông nghiệp thấp do nông dân không muốn đầu tư
mà trông chờ vào sự tăng giá đất do chuyển mục đích sử dụng. Vành đai thứ
ba ở ngoài cùng xa thành phố, nông nghiệp phát triển đa dạng và đạt lợi
5
nhuận rất cao trên đơn vị diện tích. Theo ông, công tác quy hoạch và phân
vùng nông nghiệp để sử dụng hợp lý tài nguyên, phát triển nông nghiệp theo
hướng đa dạng nhằm bảo vệ môi trường là rất quan trọng cho nông nghiệp đô
thị và ven đô trong quá trình đô thị hoá.
Cũng có khá nhiều nghiên cứu trên thế giới về cơ cấu kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp như “Chuyển dịch cơ cấu- cẩm nang kinh tế
phát triển” [56] của tác giả Chenery, viết năm 1988, “Nông nghiệp và chuyển
dịch cơ cấu, các chiến lược kinh tế ở các quốc gia đang phát triển” [61] của
Johnston B. F. Kilby P., ấn hành bởi Oxford University năm 1975, hoặc
“Nghiên cứu so sánh về cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế” [62] của
Kuznets năm 1959... Các nghiên cứu đó đã cung cấp những lý luận nền tảng
về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung cũng như trong
nông nghiệp nói riêng, đặc biệt đã chỉ ra mối quan hệ giữa chiến lược phát
triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sự phát triển
nông nghiệp bền vững.
Có một số nghiên cứu khá điển hình liên quan đến nông nghiệp đô thị

và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá ở các
quốc gia như Thái Lan, Trung Quốc và Mỹ [15] như các nghiên cứu của
McGee và Greenberg (1990), của Doras (1996), của Mollard (1997) và của
Srijantr (1998) về nông nghiệp đô thị Bangkok; nghiên cứu của Gale F.H
(1999) về các mô hình nông nghiệp kết hợp ở Trung Quốc [59]; và nghiên
cứu của Harison và P. Grant (1976) về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp đô thị ở Mỹ [67]. Đặc biệt, khi nghiên cứu về nông nghiệp đô thị Thái
Lan, các tác giả đã nêu ra mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng sinh thái cho Thủ đô Bangkok theo kiểu hình thành những vùng
sản xuất vệ tinh, đan xen quanh Thủ đô, vừa cung cấp các nông sản phẩm đa
6
dạng, an toàn, vừa tạo màu xanh, cảnh quan sinh thái cho thành phố (Doras,
1996).
2.2. Các nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, nông nghiệp ngoại thành Hà Nội có vai trò đặc biệt quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Thủ đô. Chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội Thủ đô từ năm 2000 đã nêu rõ “Phát triển nông nghiệp
ngoại thành theo hướng một nền nông nghiệp đô thị-sinh thái” là định hướng
cơ bản và có tính chiến lược trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
ngoại thành Hà Nội. Vì thế, từ sau năm 2000, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp để phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng đô
thị-sinh thái đã giành được sự quan tâm đáng kể của các nhà lãnh đạo, các
nhà quản lý Trung ương và Hà Nội, cũng như của khá nhiều nhà khoa học
trong nước.
Năm 2001, UBND Thành phố Hà Nội đã giao cho Khoa Kinh tế Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, đại học Kinh tế Quốc dân chủ trì và nghiên
cứu đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học để xác định nội dung, tiêu chí và các
giải pháp phát triển nông nghiệp ngoại thành theo hướng nông nghiệp sinh
thái”. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát và thu thập thông tin từ 100 hộ
nông dân của 5 huyện ngoại thành đại diện cho 4 nhóm ngành sản xuất

chuyên môn hoá khác nhau. Kết quả nghiên cứu đã xuất bản cuốn sách
chuyên khảo có giá trị về “Phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo
hướng nông nghiệp sinh thái” [15] do PGS.TS Phạm Văn Khôi chủ biên, nhà
xuất bản nông nghiệp ấn hành năm 2004. Trong cuốn sách này, tác giả đã chỉ
ra hoạt động sản xuất nông nghiệp ngoại thành đã bước đầu có tiền đề tiếp
cận đến các tiêu chí của nông nghiệp sinh thái vùng ven đô nhưng còn gặp
khá nhiều những khó khăn cần tháo gỡ trên các mặt kinh tế, tổ chức và kỹ
7
thuật để có thể đạt tới các tiêu chí của nông nghiệp sinh thái ngoại thành vào
những năm 2010. Trong số các giải pháp, cần đẩy mạnh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành theo hướng phát triển các sản
phẩm cao cấp, hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên môn hoá kết
hợp phát triển tổng hợp các hoạt động du lịch, dịch vụ. Từ kết quả nghiên
cứu, đề tài cũng đã cung cấp nhiều kinh nghiệm quý báu về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sinh thái của các đô thị trong và ngoài
nước, trong đó có nhiều bài học khá bổ ích cho nông nghiệp ngoại thành Hà
Nội (kinh nghiệm về mô hình VAC và IPM, kinh nghiệm chuyển đổi cơ cấu
của Thành phố Nam Định, Đà Lạt..).
Năm 2003, đề tài nghiên cứu khoa học “Cơ sở khoa học để phát triển
nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị-sinh thái và hiện đại hoá nông
thôn Hà Nội giai đoạn 2006-2010” [12] bắt đầu được nghiên cứu, do Phó chủ
tịch UBND Thành phố Hà Nội Lê Quý Đôn làm chủ nhiệm đề tài. Thông qua
việc điều tra, khảo sát, thu thập thông tin đánh giá tình hình phát triển nông
nghiệp nông thôn Hà Nội 20 năm qua, đề tài đã xây dựng được các luận cứ
khoa học, đề xuất định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp Hà Nội
theo hướng đô thị- sinh thái và hiện đại hoá nông thôn giai đoạn 2006-2010.
Các nhà khoa học trong nước cũng rất quan tâm đến các thuật ngữ
nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp bền vững và nông nghiệp đô thị vì các
thuật ngữ này còn khá mới mẻ và còn nhiều tranh luận ở Việt nam. Đã có
những nghiên cứu khá công phu nhằm làm rõ các khái niệm này. Có thể kể ra

một số nghiên cứu như “Nông nghiệp sinh thái hay nông nghiệp bền vững”
[35] của GS. VS. Đào Thế Tuấn đăng trong tạp chí “Phát triển nông thôn”, số
37 tháng 3, 4 năm 2003; “Nghiên cứu khái niệm, nội dung nông nghiệp đô
thị” [36] cũng của tác giả Đào Thế Tuấn, thực hiện năm 2003; và “Nghiên
8
cứu khái niệm về nông nghiệp đô thị-sinh thái và hiện đại hoá nông thôn”
[19] của PGS.TS Nguyễn Trung Quế, thực hiện năm 2003.
Liên quan đến các mô hình ứng dụng khoa học công nghệ để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một số địa bàn cụ thể trong quá trình đô thị
hoá, cũng có một số nghiên cứu rất đáng quan tâm như “Nghiên cứu giải pháp
và đề xuất mô hình ứng dụng khoa học công nghệ để chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp huyện Sóc Sơn” [16], hoàn thành năm 2004 do PGS. TS.
Nguyễn Đình Long làm chủ nhiệm đề tài; “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn ở vùng trũng phía Nam Hà Nội” [64] của các tác giả Leo
Van Den Berg, Van Wijk và Phạm Văn Hội, đăng trong tạp chí “Môi trường
và đô thị”, số tháng 4 năm 2003; và “Kết quả bước đầu trong sản xuất thử
nghiệm rau theo hướng sạch tại Đà Lạt” của trung tâm khuyến nông Lâm
Đồng (nguồn internet)... Trong nhiều kết quả nghiên cứu đã đạt được, điểm
chung của các nghiên cứu này là đã đề xuất được các giải pháp khả thi và các
mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để dịch chuyển cơ cấu kinh tế
nông nghiệp cho các vùng đạt hiệu quả.
Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội
theo hướng nông nghiệp sinh thái là một vấn đề mới và có tính chiến lược ở
Việt nam hiện nay. Mặc dù đã có khá nhiều các nghiên cứu trong và ngoài
nước có liên quan, quá trình chuyển dịch trên thực tiễn vẫn đang gặp nhiều
khó khăn về cả lý luận, nhận thức, mô hình và giải pháp thực hiện. Do vậy,
rất cần có một nghiên cứu có hệ thống và trực tiếp nhằm đề ra những giải
pháp hữu hiệu cho quá trình chuyển dịch.
9
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về nông nghiệp sinh
thái, nông nghiệp sinh thái ven đô, cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
sinh thái ở ngoại thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại
thành theo hướng nông nghiệp sinh thái, làm cơ sở khoa học cho nghiên cứu
của luận án.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng sinh thái trong những năm qua, rút ra
những ưu điểm và chỉ ra những tồn tại trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
đánh giá các nguyên nhân cơ bản của tồn tại và những vấn đề đặt ra cần tiếp
tục giải quyết cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà
Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái.
- Xây dựng các quan điểm, định hướng chyển dịch một cách có căn cứ
khoa học và đề xuất các giải pháp kinh tế chủ yếu để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề kinh tế chủ yếu của cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà
Nội trong quá trình phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái. Vấn đề
nghiên cứu được đặt trong mối quan hệ với cơ cấu kinh tế của Hà Nội, gắn
liền với các kế hoạch và nội dung phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ
cấu sản xuất nông nghiệp nói chung.
10
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, luận án nghiên cứu trên phạm vi không gian 5 huyện
ngoại thành Hà Nội bao gồm: Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì và
Sóc Sơn.
Về thời gian, luận án nghiên cứu trong phạm vi thời gian gắn liền với
quá trình phát triển của sản xuất nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, đặc biệt từ
năm 1991 đến nay với sự ra đời của chương trình 06/ Ctr-TU về 10 năm phát

triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới và sau đó là chương trình
12/CTr-TU về phát triển kinh tế ngoại thành và từng bước hiện đại hoá nông
thôn giai đoạn 2001-2005. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng quá trình chuyển
dịch trong khoảng thời gian đó, luận án đề xuất định hướng và giải pháp chủ
yếu cho quá trình chuyển dịch tiếp theo đến năm 2010.
Về nội dung của cơ cấu kinh tế: Nội dung của cơ cấu kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Hà Nội theo hướng sinh thái sẽ
được giới hạn xem xét trên ba khía cạnh là theo ngành, theo vùng và theo
yếu tố kỹ thuật (mặc dù cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một bộ phận
trong nội dung của cơ cấu kinh tế). Lý do của điều này là ở Hà Nội hiện nay,
xét theo thành phần kinh tế chỉ có kinh tế hộ là chủ yếu và xu hướng của nó
ít thay đổi. Vì thế, so với cơ cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp Việt
nam hoặc các địa phương khác, sự biến động của cơ cấu thành phần kinh tế
trong nông nghiệp Hà Nội biểu hiện không rõ ràng. Mặt khác, với mục tiêu
xem xét quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp diễn ra theo
hướng sinh thái như thế nào (nông nghiệp sinh thái phản ánh cấu trúc cân
bằng của hệ sinh thái nông nghiệp, nhấn mạnh sự tôn trọng môi trường),
việc phân tích và đánh giá quá trình chuyển dịch dựa trên các mối quan hệ tỷ
lệ về thành phần kinh tế ít phản ánh rõ tính chất sinh thái của quá trình
11
chuyển dịch, trong khi cơ cấu kỹ thuật lại là yếu tố phản ánh khá rõ điều
này. Do đó, phạm vi nội dung nghiên cứu của cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
Hà Nội sẽ được giới hạn xem xét theo ngành, theo vùng và theo yếu tố kỹ
thuật.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu.
Phương pháp luận duy vật biện chứng nhằm nghiên cứu những vấn đề
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng sinh

thái trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau và trạng thái vận động biến đổi không
ngừng của các yếu tố cấu thành và tác động lên cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Phương pháp luận duy vật lịch sử nhằm xem xét những vấn đề trên đây
trong điều kiện lịch sử cụ thể và trong quá trình biến đổi, phát triển của cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành theo hướng sinh thái.
5.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Các phương pháp thu thập thông tin: bao gồm thu thập thông tin thứ
cấp (thu thập và nghiên cứu tài liệu có sẵn) và thu thập thông tin sơ cấp
(điều tra khảo sát).
Nghiên cứu tài liệu có sẵn: giúp tác giả tìm hiểu lịch sử nghiên cứu, kế
thừa những thành tựu khoa học, hệ thống hoá những vấn đề lýý luận và cơ
sở khoa học của luận án, tìm hiểu các kinh nghiệm trong nước và thế giới
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp các vùng ngoại thành theo
hướng sinh thái. Tài liệu có sẵn cũng là nguồn chủ yếu và quan trọng để tác
12
giả phân tích và đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng sinh thái. Các tài liệu chủ yếu đã sử
dụng như các báo cáo kết quả sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn
Hà Nội và niên giám thống kê Hà Nội qua các năm, các báo cáo của chương
trình 12 CTr/TU, báo cáo quy hoạch ngành nông nghiệp Hà Nội cho đến
năm 2010 và định hướng đến 2020, các báo cáo quy hoạch phát triển kinh tế
xã hội 5 huyện ngoại thành và nhiều tài liệu quan trọng khác …Ngoài ra,
thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng và chuyển dịch cơ cấu kỹ thuật
cũng sử dụng nguồn tài liệu này. Các tài liệu nghiên cứu cụ thể được liệt kê
trong phần danh mục các tài liệu tham khảo.
Điều tra khảo sát chủ yếu cung cấp thông tin cho việc phân tích và
đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kỹ thuật,
đồng thời giúp đánh giá thực trạng và tiềm năng, những vấn đề khó khăn
vướng mắc trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại
thành Hà Nội theo hướng sinh thái, từ đó đề xuất phương hướng và các giải

pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội
trong giai đoạn tới.
Đối tượng điều tra khảo sát là các hộ gia đình nông dân 5 huyện ngoại
thành, thuộc 4 nhóm hộ là nhóm hộ trồng hoa- cây cảnh, nhóm hộ trồng rau,
nhóm hộ trồng cây ăn quả và nhóm hộ nuôi trồng thuỷ sản.
Mẫu điều tra: Kích thước mẫu điều tra bao gồm 100 hộ, trong đó có
25 hộ sản xuất hoa, 25 hộ sản xuất rau, 20 hộ trồng cây ăn quả và 30 hộ nuôi
trồng thuỷ sản theo hướng sinh thái. Việc chọn mẫu dựa vào tiêu chí số
lượng diện tích đất canh tác hoặc mặt nước nuôi thả để lựa chọn ra các mẫu
đại diện cho 4 loại nhóm hộ cơ bản chuyên môn hoá 1 trong 4 loại sản phẩm
trên đây.
13
Phiếu điều tra: Nội dung phiếu điều tra chủ yếu tập trung vào khảo sát
thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cụ thể hơn là việc xây dựng các
mô hình sản xuất kết hợp theo hướng sinh thái trên cơ sở tích tụ, tập trung
đất đai và tiền vốn của hộ. Bảng hỏi này cũng khảo sát thực trạng chuyển
dịch cơ cấu đầu tư từ nguồn tự đầu tư của kinh tế hộ và trang trại. Ngoài ra,
để bổ xung các thông tin về việc hình thành và phát triển diện tích các vùng
sản xuất tập trung, tình hình xây dựng các khu nông nghiệp-du lịch sinh thái
và việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp ở các huyện,
tác giả cũng gặp gỡ, phỏng vấn và thu thập số liệu từ các cán bộ phòng Kế
hoạch Kinh tế và Phát triển Nông thôn của 5 huyện ngoại thành.
- Phương pháp xử lýý số liệu: Nhằm tổng hợp các số liệu thu thập
được trong quá trình nghiên cứu để tiến hành phân tích so sánh, làm rõ các
vấn đề thuộc về bản chất của hiện tượng, luận án sử dụng phần mềm thống
kê SPSS và sự trợ giúp của bảng tính Excel để phân tích và xử lýý số liệu.
Ngoài ra, luận án sử dụng phương pháp quan sát các đối tượng nghiên
cứu để minh hoạ thêm cho những phân tích kết luận về quá trình chuyển
dịch cơ cấu, ví dụ như quan sát sắc thái, cảnh quan tại các trang trại du lịch
sinh thái, các vùng nông nghiệp tập trung.

6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
nông nghiệp sinh thái và nông nghiệp sinh thái ven đô, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sinh thái và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
ngoại thành theo hướng nông nghiệp sinh thái.
- Phân tích và đánh giá thực trạng cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội theo hướng sinh thái những năm đổi
14
mới, đặc biệt từ sau năm 2000 trở lại đây. Từ đó đưa ra những nhận xét có
cơ sở khoa học về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại
thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái.
- Đưa ra các quan điểm, đề xuất các định hướng và giải pháp có căn
cứ khoa học nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái.
7. TÊN VÀ KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: " Những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh
thái".
Kết cấu luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục
tài liệu tham khảo, luận án được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lýý luận và thực tiễn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp ngoại thành theo hướng nông nghiệp sinh thái
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ngoại
thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái
Chương 3: Định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái
15
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LýÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP NGOẠI THÀNH THEO HƯỚNG NÔNG

NGHIỆP SINH THÁI
1. 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NÔNG NGHIỆP SINH THÁI
VÀ NÔNG NGHIỆP SINH THÁI VEN ĐÔ
1.1.1 Những vấn đề cơ bản về nông nghiệp sinh thái
1.1.1.1 Sơ lược về các nền nông nghiệp trong lịch sử
Cho đến nay, thế giới đã và đang tồn tại nhiều mô hình nông nghiệp điển
hình. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, các nhà kinh tế có thể dựa vào các tiêu chí
khác nhau để phân loại chúng. Nếu dựa vào phương thức sản xuất, có thể phân
loại các nền nông nghiệp trên thế giới theo những mô hình sau đây [15]:
- Mô hình sản xuất nông nghiệp nguyên thuỷ: Là mô hình nông nghiệp
trong giai đoạn sơ khai của xã hội loài người. Phương thức sản xuất của mô
hình này là du canh, sơ canh và trọc tỉa. Động lực sản xuất trong mô hình là
sức người, không sử dụng sức động vật, không dùng phân bón và thuốc trừ
sâu bệnh các loại. Địa bàn sản xuất trên các triền núi cao, năng suất cây trồng
rất thấp và bị giảm sút nhanh chóng vì đất bị xói mòn. Do đó, con người phải
di chuyển liên tục để khai thác những vùng đất mới, kết quả là tàn phá môi
trường về nhiều mặt. Trong điều kiện dân số còn ít và sống rải rác nên môi
trường vẫn có thể phục hồi một cách tự nhiên sau một số năm nhất định.
Nhưng, về lâu dài mô hình này ngày càng không thoả mãn nhu cầu nông sản
ngày càng cao, các yếu tố môi trường không phục hồi kịp với tốc độ huỷ hoại
của con người.
16
- Mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ cổ truyền: Là mô hình sản xuất
nông nghiệp sử dụng động lực gia súc, phân bón hữu cơ, công cụ thủ công và
các giống cây trồng, vật nuôi được lựa chọn theo kinh nghiệm. Địa bàn sản
xuất trong mô hình này chủ yếu ở đồng bằng. Sự tiến bộ về công cụ sản xuất
đã giảm được mức độ thiếu hụt nông sản. Tuy nhiên, năng suất lao động thấp,
sản phẩm ngày càng khan hiếm, con người vẫn phải không ngừng khai hoang
mở rộng diện tích do năng suất cây trồng thấp. Vì thế tài nguyên rừng và đa
dạng sinh học ngày càng giảm sút. Đây là những nguyên nhân dẫn đến sự

xuất hiện của mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ cải tiến.
- Mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ cải tiến: Là mô hình sản xuất ở
những nơi đã định canh, định cư, với cách thức sản xuất gần giống mô hình
nông nghiệp hữu cơ cổ truyền, nhưng sử dụng ngày càng nhiều động lực cơ
giới, công cụ sản xuất hiện đại, phân hoá học và các chế phẩm phòng trừ dịch
bệnh bằng hoá chất, một số giống cây trồng, vật nuôi được lai tạo theo công
nghệ tiên tiến. Kết quả là về cơ bản đã sản xuất đủ thực phẩm cho con người
nhờ tăng năng suất lao động, cây trồng và vật nuôi. Tuy nhiên, mô hình này
ngày càng bộc lộ những hạn chế cơ bản như: môi trường đất và nước ngày
càng bị suy thoái do sử dụng phân hoá học và thuốc trừ sâu hoá học. Người
sản xuất và tiêu dùng bị ảnh hưởng do sử dụng các hoá chất, đa dạng sinh học
tiếp tục bị giảm sút.
- Mô hình sản xuất nông nghiệp công nghiệp hoá cao: Đây là mô hình
sản xuất khá phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển. Các công cụ và
nguyên vật liệu có nguồn gốc từ công nghiệp được sử dụng ở mức rất cao.
Sản xuất nông nghiệp mang sắc thái của sản xuất công nghiệp, các thành tựu
của công nghệ sinh học cũng được sử dụng nhiều trong sản xuất nông nghiệp.
Quy mô sản xuất lớn dựa trên trình độ thâm canh, chuyên môn hoá sâu sắc.
17
Kết quả của mô hình này là, năng suất ruộng đất, cây trồng và năng suất lao
động đã tăng vọt, an ninh lương thực được đảm bảo, nhu cầu của dân cư được
thoả mãn khá tốt. Tuy nhiên, ở nền nông nghiệp này đã bộc lộ gay gắt mâu
thuẫn giữa sự thoả mãn cao nhu cầu thực phẩm của thế hệ hôm nay với thoả
mãn các nhu cầu đó cho thế hệ tương lai. Phương pháp và công nghệ sản xuất
của nền nông nghiệp này không phải là con đường thích hợp để phát triển bền
vững, do sự huỷ diệt của hoá chất đối với môi trường và sức khoẻ con người.
Các yếu tố như đất đai, nguồn nước, đa dạng sinh học bị suy giảm nghiêm
trọng. Từ các nền nông nghiệp công nghiệp hoá cao độ này đã xuất hiện nhu
cầu phát triển nền nông nghiệp sinh thái, bền vững.
1.1.1.2 Khái niệm nông nghiệp sinh thái

Trước hết cần hiểu rõ khái niệm hệ sinh thái (Ecosystem), và hệ sinh
thái nông nghiệp (Agroecosystem). Có nhiều định nghĩa khác nhau về hệ
sinh thái. Odum (1971) đã định nghĩa hệ sinh thái là “ một cấu trúc và chức
năng của tự nhiên”. Ehrlich và Roughgarden (1987) cho rằng hệ sinh thái là
“mối quan hệ giữa các tổ chức và môi trường sinh học và vật chất của
chúng” [63]. Như vậy, sinh thái đề cập đến tính chất tự nhiên, vốn có của
một hệ thống cân bằng giữa các yếu tố sự sống và môi trường tự nhiên tồn
tại trên trái đất của chúng ta.
Từ khái niệm trên, hệ sinh thái nông nghiệp được hiểu là hệ sinh thái
tạo thành từ hệ thống sản xuất nông nghiệp (tức là đã có sự tác động của con
người và yếu tố thể chế) (sơ đồ 1), nó phản ánh cấu trúc và mối quan hệ
tổng thể giữa các tổ chức của cơ thể sống cây trồng, vật nuôi với các yếu tố
môi trường vật chất (đất, nước, thời tiết, năng lượng..) kinh tế, chính trị và
xã hội xung quanh chúng. Dưới sự can thiệp của con người và thể chế, hệ
sinh thái nông nghiệp có thể cân bằng, đảm bảo sự phát triển bền vững của
18
cả hệ thống, hoặc bị phá vỡ do duy trì mối quan hệ cấu trúc không hợp lýý
giữa các yếu tố của thệ thống. Hệ sinh thái nông nghiệp cân bằng cho thấy
ngoài sự cân bằng về tự nhiên còn có sự cân bằng về các yếu tố kinh tế,
chính trị và văn hoá, xã hội khác.
Sơ đồ 1: Hệ sinh thái nông nghiệp
Khái niệm “nông nghiệp sinh thái” (Ecological Agriculture) được xem
xét gắn liền với khái niệm “hệ sinh thái nông nghiệp”. Theo Laura E.
Powers và Robert McSorley (1998), nông nghiệp sinh thái là “một hình thái
sản xuất nông nghiệp sử dụng lý thuyết sinh thái để nghiên cứu, thiết kế,
quản lý và đánh giá hệ thống nông nghiệp đạt được năng suất, đảm bảo duy
trì, tái tạo nguồn lực và đạt được sự cân bằng của hệ sinh thái nông
nghiệp”[63]. Khái niệm này nhấn mạnh mục tiêu của nông nghiệp sinh thái
là phải đạt được hệ sinh thái nông nghiệp cân bằng.
19


Tổ chức

Cá nhân
Tổ chức


Cá nhân
CỘNG
ĐỒNG

THỂ
CHẾ
Năng
lượng
Đất
Không
Nước


Để hệ sinh thái nông nghiệp đạt được cân bằng, cần xây dựng và duy
trì một cơ cấu hợp lýý giữa các yếu tố trong hệ thống, trong đó tác động của
khoa học-công nghệ và phương pháp sản xuất là hết sức quan trọng để có
được một nền nông nghiệp sạch, năng suất cao và giá trị văn hoá, tinh thần
lớn. Với sự nhấn mạnh tầm quan trọng của phương thức sản xuất nông
nghiệp đến sự cân bằng của hệ sinh thái nông nghiệp, khái niệm “nông
nghiệp sinh thái” còn được xem xét theo tiếp cận phương pháp, tức là “một
phương thức sản xuất nông nghiệp sinh học hoặc hữu cơ, nhằm vào mục tiêu
bảo vệ môi trường là chủ yếu và duy trì các mối cân bằng của đất và hệ sinh
thái nông nghiệp” [35]. Khái niệm này ngụ ýý rằng để đạt được mục tiêu hệ

sinh thái nông nghiệp cân bằng thì sản xuất nông nghiệp phải sử dụng các
phương pháp và công nghệ sản xuất sạch, không ô nhiễm môi trường và bảo
toàn nguồn lực.
Như vậy, dù được hiểu theo tiếp cận nào, nông nghiệp sinh thái cũng
luôn phản ánh một cấu trúc cân bằng của hệ sinh thái nông nghiệp, và giữa
chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nông nghiệp sinh thái sử dụng
phương pháp sản xuất sạch, đáp ứng mục tiêu phát triển cân bằng, bền vững
của hệ thống. Ngược lại, phát triển nông nghiệp đạt được mục tiêu cân bằng,
bền vững trong hệ sinh thái nông nghiệp đòi hỏi phải lựa chọn, sử dụng và
kết hợp linh hoạt các phương pháp và công nghệ sản xuất sạch, cho năng
suất, chất lượng cao, đảm bảo đầy đủ các mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội
và môi trường.
Có khái niệm rất gần gũi với nông nghiệp sinh thái, đó là nông nghiệp
bền vững. Theo Richard R. Harwood (1990), nông nghiệp bền vững là "một
nền nông nghiệp trong đó các hoạt động của các tổ chức kinh tế từ việc lập
kế hoạch, thực hiện và quản lý các quá trình sản xuất, kinh doanh nông
20
nghiệp đều hướng đến bảo vệ và phát huy lợi ích của con người và xã hội
trên cơ sở duy trì và tái tạo nguồn lực, tối thiểu hoá lãng phí để sản xuất một
cách hiệu quả các sản phẩm nông nghiệp và hạn chế tác hại môi trường,
trong khi duy trì và không ngừng nâng cao thu nhập cho dân cư nông
nghiệp" [68]. Theo khái niệm này, nông nghiệp bền vững nghiên cứu và
đánh giá hệ thống nông nghiệp từ ba khía cạnh kinh tế, sinh thái và xã hội
nhằm đạt được ba mục tiêu: Kinh tế (năng suất- chất lượng- hiệu quả), môi
trường (trong sạch, không ô nhiễm) và xã hội (xoá đói giảm nghèo, công
bằng xã hội và nâng cao giá trị văn hoá, tinh thần cho con người).
Như vậy, khái niệm nông nghiệp bền vững có thể được xem gần với
nông nghiệp sinh thái theo tiếp cận mục tiêu. Nó xuất phát từ mục tiêu phát
triển nông nghiệp toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội và
môi trường để đảm bảo nâng cao không ngừng phúc lợi xã hội. Mặt khác,

theo tiếp cận phương pháp, nông nghiệp sinh thái thuộc phạm trù nông
nghiệp bền vững vì để đạt được sự bền vững của hệ thống nông nghiệp, cần
phải có sự bền vững về môi trường.
Bắt đầu từ đầu những năm 40 của thế kỷ 20, các thuật ngữ "nông
nghiệp sinh thái" và "nông nghiệp bền vững" đã trở nên quen thuộc với các
chuyên gia kinh tế ở Mỹ và Châu Âu, sau đó lan sang nhiều nước khác trên
thế giới, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay ở
Trung Quốc và Việt Nam vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi
các thuật ngữ trên. Đối với các nước Bắc Âu, cụm từ “nông nghiệp sinh
thái" thường được dùng để chỉ phương thức sản xuất nông nghiệp sinh học
hay hữu cơ, có mục đích bảo vệ môi trường là chủ yếu (“nông nghiệp sinh
thái” chỉ phương pháp sản xuất nông nghiệp còn “nông nghiệp bền vững”
chỉ mục tiêu của hệ thống nông nghiệp), thì ở Trung Quốc và Việt Nam, khi
21
gọi "nông nghiệp sinh thái", mọi người thường đồng nghĩa nó với nông
nghiệp bền vững.
Như vậy cần hiểu rằng, mặc dù gọi "nông nghiệp sinh thái", Trung
Quốc và Việt Nam vẫn ngụ ý phát triển một nền nông nghiệp nhằm vào mục
tiêu bền vững, tức là vừa hướng vào giảm thiểu tác hại đối với môi trường,
đảm bảo duy trì nguồn lực và hệ sinh thái tự nhiên, vừa có sức sống về mặt
kinh tế, đồng thời đáp ứng các mục tiêu phát triển về mặt văn hoá, xã hội
của con người. Nói cách khác, nông nghiệp sinh thái luôn phản ánh cấu
trúc cân bằng, bền vững của hệ sinh thái nông nghiệp.
1.1.1.3 Đặc trưng của nông nghiệp sinh thái
- Sản phẩm của nông nghiệp sinh thái là sản phẩm sạch trong đó sản
phẩm phi ăn uống (cảnh quan, môi trường) rất được coi trọng: Nông nghiệp
thuần tuýý thường coi trọng các sản phẩm lương thực, thực phẩm, nhưng
nông nghiệp sinh thái với mục tiêu duy trì sự phát triển bền vững của hệ
thống lại nhấn mạnh cả sản phẩm phi ăn uống như cảnh quan môi trường.
Các lương thực, thực phẩm phải đảm bảo sạch, an toàn và có đầy đủ hàm

lượng các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển thể lực của con người.
Các sản phẩm phi ăn uống phải đảm bảo đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
văn hoá tinh thần của con người và duy trì hệ sinh thái cân bằng, bền vững.
Các sản phẩm phi ăn uống bao gồm môi trường tự nhiên hài hoà, trong sạch,
những khu vui chơi, giải trí trong lành, tươi đẹp đáp ứng nhu cầu tinh thần
cho dân cư. Những vành đai xanh quanh thành phố, những hồ nước kết hợp
nuôi thả thuỷ sản với du lịch sẽ vừa thoả mãn nhu cầu tinh thần của con
người, vừa điều hoà khí hậu và bảo vệ các nguồn lực sản xuất.
22
Một điểm cần lưu ýý khi lựa chọn hình thức tổ chức quản lýý và huy
động vốn cho nông nghiệp sinh thái là trong khi lương thực, thực phẩm là
hàng hoá cá nhân mà việc bồi hoàn chi phí do thị trường điều tiết, thì cảnh
quan môi trường là hàng hoá công cộng đặc thù, mà việc bù đắp chi phí
không thuộc cơ chế điều tiết của thị trường tự do. Tuỳ theo loại hình cảnh
quan sinh thái và mục đích phát triển chúng mà có các hình thức tổ chức
quản lýý và huy động vốn khác nhau. Ví dụ, cảnh quan tạo bởi cây xanh
đường phố là hàng hoá công cộng thuần tuýý thì nhà nước sẽ có vai trò cơ
bản trong việc cung cấp các sản phẩm này. Ngược lại, các khu công viên cây
xanh hoặc các điểm du lịch nghỉ dưỡng có mục tiêu kinh doanh là chủ yếu,
nên vai trò tổ chức quản lýý và đóng góp vốn lại cơ bản thuộc về các tổ chức
tư nhân. Do đó, khi lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất và giải quyết vấn đề
tiền vốn để khuyến khích phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái cần
hết sức chú ýý đặc điểm này.
- Công nghệ và phương thức sản xuất của nông nghiệp sinh thái kết
hợp linh hoạt giữa tính chất địa phương, truyền thống và tính chất hiện đại:
Để bảo vệ môi trường, duy trì và tái tạo nguồn lực trong khi vẫn đảm bảo an
ninh lương thực, nông nghiệp theo hướng sinh thái có xu hướng giảm sử
dụng các yếu tố hoá học, tăng cường áp dụng công nghệ cao, công nghệ
sạch, công nghệ sinh học và kỹ thuật canh tác truyền thống. Công nghệ sinh
học (lai ghép, nuôi cấy mô tế bào, công nghệ gen) ngày nay được coi là

động lực của sự phát triển. Các giống mới sẽ tăng khả năng chống chịu sâu
bệnh cho cây trồng, vật nuôi để giảm dần việc sử dụng hoá chất. Công nghệ
truyền thống sử dụng phân vi sinh, hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, các cây
họ đậu), kỹ thuật trồng cây che phủ đất, chống xói mòn, hoặc các phương
thức canh tác luân canh, trồng xen…vẫn đang là những phương pháp thích
hợp, không thể thay thế được ở nhiều nơi trên thế giới (chiếm 5-10% diện
23
tích canh tác ở châu Âu). Công nghệ sản xuất rau thuỷ canh đối với nông
nghiệp đô thị cũng được phát triển phổ biến ở các nước châu Phi và một số
nước châu Á. Công nghệ này sử dụng môi trường dung dịch và nước sạch,
lao động gia đình với kỹ thuật truyền thống để sản xuất các loại rau xanh
cho thu nhập cao, tốn ít không gian, kết hợp với kỹ thuật quản lý sâu bệnh
tổng hợp (IPM), giảm tác hại môi trường. Công nghệ sản xuất hoa tươi hoặc
nuôi trồng sinh vật cảnh không sử dụng nhiều máy móc hiện đại mà đòi hỏi
bàn tay khéo léo, tinh xảo, óc thẩm mỹ tinh tế, kết hợp với công nghệ vi sinh
và sinh học để điều khiển quá trình sinh trưởng và phát triển của hoa và sinh
vật cảnh.
- Bố trí sản xuất của nông nghiệp sinh thái tạo thành một không gian hài
hoà về cảnh quan sinh thái nhằm tôn trọng môi trường và khai thác sản phẩm
văn hoá tinh thần. Nếu vấn đề về sản phẩm sạch được giải quyết chủ yếu bởi
công nghệ và phương pháp sản xuất thì việc tạo ra cảnh quan, môi trường
tươi đẹp, có giá trị văn hoá, tinh thần lớn phải được giải quyết chủ yếu bởi bố
trí sản xuất và phân vùng kinh tế. Hơn thế nữa, bố trí sản xuất còn có thể tác
động đến công nghệ và ảnh hưởng đến mức độ can thiệp của công nghệ vào
sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp sinh thái phản ánh cấu trúc cân bằng của
hệ sinh thái nông nghiệp. Cấu trúc cân bằng này được hình thành cơ bản từ
việc bố trí sản xuất và phân vùng nông nghiệp để tạo ra một cơ cấu hợp lýý
giữa các yếu tố của hệ thống nhằm đạt đến sự cân bằng sinh thái. Duy trì một
cấu trúc cân đối, hài hoà giữa các yếu tố sinh học và vật chất trong hệ thống
tự nó sẽ tạo ra một môi trường trong sạch, hạn chế sự can thiệp của công nghệ

và thúc đẩy sự phát triển của cả hệ thống nông nghiệp. Do đó, đây là đặc
trưng rất quan trọng của nông nghiệp sinh thái.
Để hình thành một cơ cấu cân đối trong hệ thống, bố trí sản xuất của
nông nghiệp sinh thái phải tạo ra một không gian hài hoà về cảnh quan, môi
24
trường trên cơ sở coi trọng quy hoạch không gian theo hướng đan xen, kết
hợp để bảo vệ môi trường và phát triển các hoạt động thăm quan, du lịch trên
địa bàn. Quy hoạch không gian được xem xét trên hai phương diện là không
gian chung và không gian nông nghiệp tại mỗi vùng. Bố trí không gian chung
phải có được sự đan xen hợp lýý giữa các vùng chuyên canh với các khu dân
cư và khu công nghiệp. Bố trí không gian nông nghiệp tại mỗi vùng phải
được xem xét trên nguyên tắc kết hợp chuyên môn hoá với đa dạng hoá và
phát triển các mô hình sản xuất kinh doanh tổng hợp. Các mô hình này ngoài
việc cung cấp giá trị cảnh quan còn cho phép tạo lập lại đa dạng sinh học
bằng cách bố trí các hệ thống cây trồng và vật nuôi xen kẽ hoặc sử dụng các
phương thức sản xuất đa canh, luân canh và trồng xen để bổ sung chất dinh
dưỡng, bảo vệ đất và điều hoà khí hậu.
25

×