Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Kĩ thuật dạy học phân hóa Phương pháp dạy học theo góc và dạy học theo hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.8 KB, 26 trang )

KĨ THUẬT DẠY HỌC PHÂN HÓA, DẠY HỌC TÍCH CỰC
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO GÓC VÀ DẠY HỌC THEO HỢP ĐỒNG
1. Quan điểm về dạy học phân hoá
1.1. Dạy học phân hoá là gì?
- Dạy học phân hoá là dạy học để đáp ứng nhu cầu của tất cả học sinh. Điểm
mạnh, điểm yếu của tất cả các học sinh trong lớp học là không giống nhau và giáo
viên thường dạy theo cách giả định mà họ đang có. Điều này không phải là một
chiến lược hiệu quả để đảm bảo rằng tất cả học sinh đều hiểu bài càng nhiều càng
tốt. Với dạy học phân hoá, một giáo viên sẽ lập kế hoạch cho sự đa dạng của phong
cách học tập, sở thích và khả năng trong lớp học. Hướng dẫn sẽ được thay đổi để có
hiệu quả cho tất cả học sinh và không chỉ rơi vào một số HS trung bình.
- Dạy học phân hoá đòi hỏi phải xem xét quyền lợi của học sinh, phong cách
học tập cá nhân, mức độ làm chủ kiến thức, kỹ năng, thái độ học tập và sở thích cá
nhân. Hoạt động nào là thích hợp với học sinh này mà không phù hợp với HS khác,
để hướng dẫn khác nhau sẽ trở thành một yếu tố quan trọng trong lớp học.
- Dạy học phân hoá là thừa nhận sự khác nhau của học sinh về nền tảng kiến
thức, sự lanh lợi, ngôn ngữ, sở thích trong việc học và sự quan tâm, và để sẵn sàng
phản ứng nhanh. Dạy học phân hoá là một quá trình giảng dạy và học tập cho học
sinh có khả năng khác nhau trong cùng một lớp. Mục đích của dạy học phân hoá là
để tối đa hóa sự phát triển và thành công của mỗi cá nhân học sinh bằng cách đáp
ứng và hỗ trợ trong quá trình học tập của mỗi cá nhân học sinh.
1.2. Tại sao phải dạy học phân hoá ?
Lớp học ngày nay ngày càng trở nên đa dạng trong một xã hội luôn thay đổi.
Giới tính và văn hoá đóng một vai trò quan trọng trong học tập và hứng thú của học
sinh, điều này cần được xem xét trong việc phát triển hướng dẫn học sinh học tập
trên lớp. Một phương pháp giảng dạy duy nhất không thể đáp ứng nhu cầu của tất cả
học sinh. Trong cuốn “Dạy học phân hoá đối với học tập đa dạng “ năm 2003, C.A.
Tomlinson đã chỉ ra rằng học sinh chỉ học khi nhiệm vụ học tập đặt ra thật sự có
một chút khó khăn cần phải vượt qua. Nếu nhiệm vụ quá khó khăn đối với một HS
nào đó, bộ não của họ sẽ chuyển sang giai đoạn ức chế để bảo vệ khỏi bị hại. Nếu
nhiệm vụ học tập quá dễ dàng, sẽ làm người học buồn chán, khi đó bộ não sẽ hoạt




động như đang ở giai đoạn đầu của giấc ngủ. Sự cam kết, tích cực học tập của HS
chỉ được tăng lên khi các hoạt động học tập hấp dẫn, thú vị.
Nghiên cứu trên cho thấy, việc tổ chức cho HS trong lớp (có khả năng, phong
cách, hứng thú và mức độ tiến bộ riêng) học tập theo cách phù hợp để đạt được mục
tiêu giáo dục đã đặt ra có ý nghĩa nhân văn cao ; đảm bảo quyền được tiến bộ và
phát triển của con người. Dạy học phân hoá chính là một chiến lược/quan điểm giúp
mọi HS có thể học tích cực dựa trên năng lực của mình. Nói cách khác, việc tổ chức
cho HS học phân hoá là con đường nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.
1.3. Các yếu tố có thể sử dụng trong lớp học phân hoá
1.3.1. Phân hóa về nội dung :
Nội dung của bài học có thể được phân hóa dựa trên những gì học sinh đã
biết. Các nội dung cơ bản của bài học cần được xem xét dựa trên chuẩn kiến thức
và kỹ năng của chương trình môn học do Bộ BD &ĐT ban hành. Trong lớp học,
một số học sinh có thể hoàn toàn chưa biết gì về khái niệm của bài học, một số học
sinh khác lại làm chủ được một phần của nội dung bài học ; một số học sinh khác
nữa lại có những hiểu biết chưa đúng về khái niệm có trong bài và có những học
sinh lại có thể làm chủ toàn bộ nội dung trước khi bài học bắt đầu. Trên cơ sở đó,
GV có thể phân hóa các nội dung bằng cách thiết kế các hoạt động cho các nhóm
học sinh bao gồm các mức độ khác nhau của bảng phân loại tư duy của Bloom. Ví
dụ, với những học sinh chưa có hiểu biết gì về khái niệm có thể yêu cầu hoàn thành
nhiệm vụ ở mức độ biết, hiểu và ứng dụng (cấp độ thấp trong thang tư duy Bloom).
Học sinh đã làm chủ một phần bài học có thể được yêu cầu để hoàn thành nhiệm
vụ ở mức độ phân tích và đánh giá. Những học sinh đã nắm vững bài học có thể
được yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ tổng hợp và đánh giá.
Cần nhớ rằng mục tiêu của bài học không được thay đổi và không được hạ
thấp chuẩn kiến thức , kỹ năng đã quy định. Việc đưa ra các nhiệm vụ học tập với
các mức độ thách thức thích hợp cho từng loại đối tượng học sinh kém, trung bình
và khá, giỏi sẽ :

Cho phép học sinh được lựa chọn; Khuyến khích tư duy cấp cao; Tăng trách nhiệm
học tập.
1.3.2. Phân hóa về quá trình


Quá trình làm thế nào cho các vật liệu học tập có thể phân hóa cho học sinh dựa
trên phong cách học tập của họ, có tính đến các tiêu chuẩn, hiệu quả và độ tuổi. Ví
dụ, học sinh có thể tiếp cận bài học bằng « đọc » văn bản, hoặc hoặc bằng « nhìn »
các hình ảnh, hoặc bằng « nghe, nhìn » qua videoclip,…Nhiều giáo viên có thể áp
dụng thuyết « đa thông minh » để cung cấp cơ hội học tập cho học sinh. Sự phân
hóa về quá trình dựa trên nhu cầu, lợi ích, phong cách học của học sinh. GV có thể
tổ chức cho học sinh học theo nhóm cùng sở thích, cùng phong cách học hoặc phân
nhóm theo năng lực. Ý tưởng chính đằng sau cách tổ chức dạy học này là học sinh
ở các cấp độ khác nhau và học tập theo những cách khác nhau, do đó, giáo viên
không thể dạy cho tất cả học sinh theo cùng một cách. Tuy nhiên, dạy học phân
hóa không có nghĩa là dạy cho từng học sinh một. Phân hóa về quá trình dạy học
có nghĩa là GV đưa ra các hoạt động học tập hoặc các chiến lược khác nhau để
cung cấp các phương pháp thích hợp cho học sinh học tập :
- Đảm bảo sự linh hoạt trong việc phân nhóm
- Khuyến khích tư duy cấp cao trong mỗi nhóm.
- Hỗ trợ tất cả các nhóm.
Việc phân nhóm trong lớp học nhiều trình độ sẽ hỗ trợ việc phân hóa, bao gồm các
« nhóm linh hoạt » và « nhóm hợp tác » :
“Nhóm linh hoạt”:
Mục đích của “nhóm linh hoạt” là phục vụ cho nhu cầu hoặc sở thích cụ thể
của một nhóm nhỏ học sinh bằng việc hướng dẫn mang tính chiến lược, thực hành
có hướng dẫn hoặc hoạt động nghiên cứu độc lập.
Những nhóm này sẽ thay đổi thường xuyên trong ngày hoặc trong một giai đoạn
học tập. Các “nhóm linh hoạt” có thể được thành lập xuyên suốt các mức độ phát
triển và do học sinh chọn.

"Nhóm hợp tác":
Phân chia vai trò dựa vào kỹ năng của từng HS (v.d. người đọc, người ghi,
người báo cáo, người hỗ trợ) và hoán đổi vị trí.
Phân chia rõ ràng trách nhiệm của từng thành viên trong việc thực hiện
nhiệm vụ học.
Tạo ra cơ hội học tập độc lập.
"Nhóm hợp tác" có thể được thành lập xuyên suốt các mức độ phát triển.


1.3.3. Phân hóa về sản phẩm
Sản phẩm về cơ bản là những gì học sinh làm ra vào cuối bài học để chứng
minh họ đã làm chủ được kiến thức, kỹ năng của bài học. Căn cứ vào trình độ kỹ
năng của học sinh và chuẩn kiến thức, kỹ năng của bài học, giáo viên có thể giao
cho học sinh hoàn thành các sản phẩm như viết một báo cáo hoặc vẽ sơ đồ, biểu
đồ,… Cho phép học sinh được lựa chọn thể hiện sản phẩm cuối cùng dựa trên sở
thích, thế mạnh học tập của mình.
1.4. Các đặc điểm của một lớp học phân hoá
1.4.1. Phân loại đối tượng theo phong cách học : Đối với học sinh phổ thông
người ta tạm chia phong cách học của học sinh như sau:
a. Phong cách hăng hái
Những người thuộc loại này rất thích cái mới, thích làm thử. Khi được giao
nhiệm vụ thì hăng hái làm ngay một cách toàn tâm toàn ý, không cần quan tâm đến
việc lập kế hoạch.
b. Phong cách trầm ngâm: Những người thuộc loại này thường dè dặt, kỹ tính. Họ
thích quan sát, lắng nghe, thu thập thông tin và sàng lọc một cách cẩn thận, chậm có
quyết định, nhưng khi đã ra quyết định thì có cơ sở rất chắc chắn.
c. Phong cách lý thuyết
Những người thuộc loại này thường sống trong một thế giới đầy ý tưởng,
không bao giờ hài lòng khi chưa hiểu thấu vấn đề và bao giờ cũng giải thích ý kiến
của mình theo những nguyên lý cơ bản. Họ rất muốn biết logic của hành động,

không thích những người có tính chủ quan, mơ hồ, hành động tự do.
d. Phong cách thực dụng
Những người thuộc loại này cũng thích các ý tưởng như người có “Phong
cách lý thuyết”, như luôn muốn giải quyết vấn đề, muốn thử xem các ý tưởng ấy có
khả thi không ? kết quả đến đâu. Thích thử nghiệm nhưng không thích phân tích dài
dòng, tìm hiểu lý do một cách cặn kẽ.


Bốn loại tính cách cơ bản trên là cực đoan về phương diện lý thuyết. Còn
trên thực tế thì phần lớn mỗi người đều có ít hoặc nhiều các loại tính cách trên,
trong đó có một loại tính cách nổi trội, là tiêu biểu nhất.
1.4.2. Các đặc điểm của dạy học phân hoá
Theo Tomlinson, 1995 có 4 đặc điểm điển hình dạy và học trong một lớp học
phân hoá hiệu quả :
1.4.2.1. Dạy học các khái niệm chủ chốt và nguyên tắc cơ bản
Tất cả HS có cơ hội để khám phá và áp dụng các khái niệm chủ chốt của
môn học/bài học đang được nghiên cứu. Tất cả HS hiểu được các nguyên tắc cơ bản
cần cho việc nghiên cứu bài học. Như vậy, việc dạy học/hướng dẫn cho phép người
học phải suy nghĩ đề hiểu và sử dụng những kế hoạch hành động một cách chắc
chắn, đồng thời khuyến khích HS mở rộng và nâng cao hiểu biết của họ trong việc
áp dụng những nguyên tắc và khái niệm chủ chốt. Việc dạy học/hướng dẫn đòi hỏi
người học hiểu biết hoặc khả năng phán đoán hơn là sự ghi nhớ và nhắc lại từng
phần của thông tin. Dạy học dựa trên khái niệm và các nguyên tắc cơ bản đòi hỏi
GV cung cấp quyền học tập khác nhau. Trong các giờ học truyền thống, GV thường
yêu cầu tất cả các HS cùng làm một công việc, còn trong dạy học phân hoá, tất cả
các HS có cơ hội khám phá bài học thông qua các con đường và cách tiếp cận khác
nhau.
1.4.2.2. Tiến hành đánh giá sự sẵn sàng và tiến bộ của HS được đưa vào chương
trình học. GV không cho rằng tất cả mọi HS cần một nhiệm vụ cho từng phần
nghiên cứu, nhưng liên tục đánh giá sự sẵn sàng và quan tâm của HS, hỗ trợ khi HS

cần dạy và hướng dẫn thêm và mở rộng phát hiện của HS hoặc một nhóm HS khi
các em đã sẵn sàng để học các phần tiếp theo.
1.4.2.3. Nhóm linh hoạt luôn được sử dụng
Trong một lớp học phân hoá, HS có thể làm việc cá nhân, theo cặp hoặc theo
nhóm. Hoạt động học tập có thể dựa trên sở thích hay phong cách học hoặc theo
trình độ nhận thức hoặc kết hợp hai trong 3 ý trên. Dạy học theo nhóm cũng có thể
được dùng để giới thiệu những ý tưởng mới hay khi lập kế hoạch hoặc chia sẻ kết
quả học tập.
1.5. HS được hoạt động như nhà thám hiểm, GV hướng dẫn việc khám phá


Trong lớp học phân hoá các hoạt động khác nhau thường xảy ra cùng một
lúc, GV làm việc như là người hướng dẫn hoặc điều phối việc học nhiều hơn là
cung cấp thông tin. HS phải học cách có trách nhiệm với công việc của mình. HS
sinh là trung tâm không chỉ thể hiện việc các em làm chủ việc học của mình mà còn
tạo điều kiện để các em ngày càng độc lập trong suy nghĩ, trong lập kế hoạch và
đánh giá.
2. Tổng quan về học tập tích cực
2.1. Một số định nghĩa
Học tích cực (‘Active leaning”) là một thuật ngữ có tầm bao phủ rộng và là một
thuật ngữ được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Dưới đây là một số trích đoạn định
nghĩa về học tích cực:
- Học tích cực đặt học sinh vào trong những tình huống bắt buộc học sinh phải
đọc, phát biểu, nghe và suy nghĩ kĩ và viết.
- Học tích cực lôi cuốn học sinh tham gia vào giải quyết vấn đề, trả lời câu hỏi,
đặt câu hỏi, thảo luận, giải thích, tranh luận hoặc động não trong lớp học.
- Học tích cực là bất kì những hoạt động nào mà học sinh thực hiện trong lớp
học hơn là việc ngồi nghe bài giảng.
- Học tích cực đòi hỏi học sinh sử dụng bộ não của họ ... nghiên cứu ý tưởng,
giải quyết vấn đề, và áp dụng những gì học được vào cuộc sống.

……
2.2. Học chủ động/Học độc lập


Học chủ động/học độc lập là một hình thức/kiểu học tích cực. “Học” không

hoàn toàn giống ghi nhớ. Đó là một quá trình chủ động “tạo nghĩa” hay nói cách
khác đó là sự vận động nội tại trong não người học. Chỉ có những thông tin nào
được người học sắp xếp, cấu trúc và tổ chức mới có thể chuyển thành trí nhớ dài.
Thông tin sẽ chỉ tồn tại trong trí nhớ dài nếu nó được tái sử dụng hoặc nhắc lại một
cách thường xuyên.


Học chủ động/học độc lập là tập trung vào việc tạo cơ hội và kinh nghiệm

cần thiết cho người học để họ trở thành người học có năng lực, tự lực, có động lực
và tự học suốt đời. Học hiệu quả hơn nếu động cơ của nó là ham muốn được thành
công hơn là lo sợ bị thất bại. HS cần có trách nhiệm tối đa đối với việc học tập,
đánh giá và đạt tiến bộ.




Cách tốt nhất để phát triển khả năng học chủ động/học độc lập là thông qua

"các kỹ năng tư duy". Nhà trường không chỉ dạy cho HS học cái gì mà cần dạy cho
HS học thế nào. Điều này có nghĩa là tạo cho HS những thách thức đối với tư duy
và cho các em thời gian để tư duy về mọi lĩnh vực học tập của mình.



GV cần biết về các phong cách học tập khác nhau của người học để áp dụng

kết hợp nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học khác nhau nhằm tạo điều kiện giúp
mọi HS thành công trong học tập.
2.3. Học hợp tác
Học hợp tác là một hình thức/kiểu học tích cực chú trọng đến sự phối hợp với
những người khác. Học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để hoàn thành
công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, giúp
đỡ nhau để giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Học sinh có thể học tập dưới
các hình thức khác nhau: tập thể, nhóm nhỏ, cá nhân hay theo cặp để đạt được các
mục tiêu hoạt động.
Các yếu tố học hợp tác :
+ Quan hệ phụ thuộc tích cực : Kết quả của cả nhóm chỉ có được khi có sự hợp tác
làm việc, chia sẻ của tất cả các thành viên trong nhóm.
+ Trách nhiệm cá nhân : Mỗi cá nhân đều được phân công trách nhiệm thực hiện
một phần của công việc và tích cực làm việc để đóng góp vào kết quả chung. Tránh
tình trạng chỉ nhóm trưởng và thư kí làm việc.
+ Khuyến khích sự tương tác : Trong quá trình hợp tác cần có sự trao đổi, chia sẻ
giữa các thành viên trong nhóm để tạo thành ý kiến chung của nhóm.
+ Rèn luyện các kỹ năng xã hội: Tất cả các thành viên đều có cơ hội để rèn kĩ năng
như: lắng nghe tích cực, đặt câu hỏi, đưa thông tin phản hồi tích cực, thuyết phục, ra
quyết định…
+ Kĩ năng đánh giá: Cả nhóm HS thường xuyên rà soát công việc đang làm
“Chúng ta đang làm như thế nào?” và kết quả ra sao. HS có thể đưa ra ý kiến nhận
định đúng hoặc sai, tốt hoặc chưa tốt để góp phần hoàn thiện các hoạt động và kết
quả của nhóm.
3. Một số phương pháp dạy học tích cực:
3.1. Phương pháp dạy học theo góc:
3.1.1. Bản chất của dạy học theo góc.



Thuật ngữ tiếng Anh "Working in corners" hoặc "Working with areas" hoặc
“Coner work” được dịch là học theo góc, có thể hiểu là làm việc theo góc, làm việc
theo khu vực. Học theo góc là một phương pháp dạy học mà trong đó giáo viên tổ
chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại các vị trí cụ thể trong
không gian lớp học đảm bảo cho học sinh học sâu.
Như vậy nói đến học theo góc, người giáo viên cần tạo ra môi trường học tập
với cấu trúc được xác định cụ thể, có tính khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy học sinh
tích cực thông qua hoạt động, sự khác nhau đáng kể về nội dung và bản chất của các
hoạt động nhằm mục đích để học sinh được thực hành, khám phá và trải nghiệm.
Quá trình học được chia thành các khu vực/góc theo cách phân chia nhiệm vụ và tư
liệu học tập. Để có cái nhìn tổng thể, một cấu trúc rõ ràng sẽ được áp dụng để học
sinh có thể độc lập tìm kiếm cách thức học tập phù hợp nhằm thực hiện nhiệm vụ và
mục tiêu. Các vấn đề cần chú ý là: Các em có biết có những khu vực nào và cần làm
gì để hoàn thành nhiệm vụ? Liệu các em có cần tư liệu để tự sửa chữa kết quả thực
hiện nhiệm vụ? Liệu các em có thể chuyển sang một khu vực khác và nếu có thể thì
trong điều kiện nào?...Tất cả đều được tổ chức để tạo ra một bầu không khí nhẹ
nhàng và không ồn ào. Có thể áp dụng cách vẽ hình thể hiện “Cấu trúc cụ thể” như
một biện pháp hỗ trợ trong quá trình thực hiện.
Phương pháp dạy học theo góc là mỗi lớp học được chia ra thành các góc nhỏ.
Ở mỗi góc nhỏ người học có thể lần lượt tìm hiểu nội dung kiến thức từng phần của
bài học. Người học phải trải qua các góc để có cái nhìn tổng thể về nội dung của bài
học. Nếu có vướng mắc trong quá trình tìm hiểu nội dung bài học thì học sinh có
thể yêu cầu giáo viên giúp đỡ và hướng dẫn.
Tại mỗi góc, học sinh cần: Đọc hiểu được nhiệm vụ đặt ra, thực hiện nhiệm vụ
đặt ra, thảo luận nhóm để có kết quả chung của nhóm, trình bày kết quả của nhóm
trên bảng nhóm, giấy A0, A3, A4...
Ta nói rằng ở mỗi góc học sinh đã học theo một phong cách khác nhau. Quá
trình học tập được chia thành các khu vực (các góc) bằng cách phân chia nhiệm vụ
và tư liệu học tập nhằm đạt được cùng một kiến thức cụ thể.

Các tư liệu và nhiệm vụ học tập ở mỗi góc, giúp học sinh khám phá xây dựng
kiến thức và hình thành kỹ năng theo các cách tiếp cận khác nhau. Ví dụ để học


bằng cách trải nghiệm thì ở góc trải nghiệm cần có nhiệm vụ cụ thể, các thiết bị thí
nghiệm hóa học, hóa chất, dụng cụ, phiếu học tập …
Người học có thể độc lập lựa chọn cách thức học tập riêng trong nhiệm vụ
chung. Các hoạt động của người học có tính đa dạng cao về nội dung và bản chất.
Nhóm tại mỗi góc được hình thành là do tập hợp các cá nhân có cùng phong
cách học mà không phải là sự áp đặt của giáo viên.
Góc theo phong cách học:
Tại các góc sẽ có tư liệu và hướng dẫn nhiệm vụ giúp người học nghiên cứu
một nội dung theo các phong cách học khác nhau: Quan sát, trải nghiệm, phân tích,
áp dụng. Mỗi góc đều thể hiện sự đa dạng về phong cách học, do đó người học có
sở thích và năng lực khác nhau, nhịp độ học tập và phong cách học khác nhau đều
có thể tự tìm cách để thích ứng và thể hiện năng lực của mình. Điều này cho phép
giáo viên giải quyết vấn đề đa dạng trong nhóm.
HS hướng tới việc thực hành, khám phá và thực nghiệm tại các góc khác
nhau giúp học sâu, học thoải mái cùng một nội dung học tập.
Thường đối với một số môn Khoa học tư nhiên như Vật lí, Hóa học, Sinh
học, môn Khoa học ở tiểu học có thể thiết kế góc theo phong cách học.
Các phong cách học

Góc theo hình thức hoạt động khác nhau:
Tại các góc người học được nghiên cứu cùng một nội dung theo các hình
thức khác nhau: góc mĩ thuật, góc trải nghiệm, góc thảo luận, góc đọc…


3.1.2. Quy trình thực hiện
a) Bước 1. Chọn nội dung, địa điểm và đối tượng HS

Nội dung: Căn cứ vào đặc điểm học theo góc cần chọn nội dung bài học cho
phù hợp: Nghiên cứu cùng một nội dung theo các phong cách học khác nhau hoặc
theo các hình thức hoạt động khác nhau hoặc theo góc hỗn hợp phối hợp cả phong
cách học và hình thức hoạt động.
Tùy theo đặc điểm của môn học, của loại bài, có thể xác định điều này sao
cho tổ chức học theo góc đạt hiệu quả cao hơn các cách học khác.
Địa điểm: Không gian lớp học là một điều kiện không thể thiếu để tổ chức học
theo góc. Với không gian đủ lớn và số HS vừa phải có thể dễ dàng bố trí các góc
hơn diện tích nhỏ hơn và có nhiều HS.
Đối tượng HS: Khả năng tự định hướng của HS cũng rất quan trọng để GV
chọn thực hiện phương pháp học theo góc. Mức độ làm việc chủ động, tích cực của
HS sẽ giúp cho phương pháp này thực hiện có hiệu quả hơn.
b) Bước 2. Thiết kế kế hoạch bài học
Mục tiêu bài học: Ngoài mục tiêu cần đạt đựoc của bài học theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng cũng có thể nêu thêm mục tiêu về kĩ năng làm việc độc lập, khả năng
làm việc chủ động của HS khi thực hiện học theo góc.
Các phương pháp dạy học chủ yếu: Phương pháp học theo góc cần phối hợp
thêm một số phương pháp khác như: Phương pháp thí nghiệm, học tập hợp tác theo
nhóm, giải quyết vấn đề, phương pháp trực quan, sử dụng đa phương tiện…


Chuẩn bị: GV cần chuẩn bị thiết bị, phương tiện và đồ dùng dạy học và nhiệm
vụ cụ thể và kết quả cần đạt được ở mỗi góc tạo điều kiện để HS tiến hành các hoạt
động nhằm đạt mục tiêu dạy học.
Xác định tên mỗi góc và nhiệm vụ phù hợp. Căn cứ vào nội dung, GV cần xác
định 3- 4 góc để HS thực hiện học theo góc.
Ở mỗi góc cần có: Bảng nêu nhiệm vụ của mỗi góc, sản phảm cần có và tư
liệu thiết bị cần cho họat động của mỗi góc phù hợp theo phong cách học hoặc theo
nội dung hoạt động khác nhau. Ví dụ như dụng cụ, hóa chất,... cần thiết cho góc trải
nghiệm của môn Hóa học.

Thiết kế các nhiệm vụ và hoạt động ở mỗi góc.
Căn cứ vào nội dung cụ thể mà HS cần lĩnh hội và cách thức hoạt động để khai
thác thông tin GV cần:
Xác định số góc và tên mỗi góc.
Xác định nhiệm vụ ở mỗi góc và thời gian tối đa dành cho HS ở mỗi góc.
Xác định những thiết bị, đồ dùng, phương tiện cần thiết cho HS hoạt động.
Hướng dẫn để HS chọn góc và luân chuyển theo vòng tròn nối tiếp.
GV cần thiết kế các nhiệm vụ học tập để HS hoàn thành theo phiếu học tập
giúp HS có thể tự đọc hiểu và hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Chú ý thiết kế hoạt động để HS thực hiện chọn góc xuất phát và luân chuyển
theo các góc trong bài học theo góc.
Chúng ta chỉ có thể thiết kế lớp học theo số góc như trên nếu lớp học rất rộng
và với nội dung làm việc là cả buổi học hoặc cả ngày học.
Tuy nhiên cần đặc biệt chú ý đảm bảo tính hiệu quả, tránh hình thức mà hiệu
quả kém.
Thiết kế hoạt động HS tự đánh giá và củng cố nội dung bài học
Học theo góc chủ yếu là cá nhân và các nhóm HS hoạt động, GV là người điều
khiển, trợ giúp, điều chỉnh nên kết quả HS thu nhận được cần được tổ chức chia sẻ,
xem xét và điều chỉnh. Do đó việc tổ chức cho HS báo cáo kết quả ở mỗi góc là cần
thiết để xem xét đánh giá và hoàn thiện kiến thức, kĩ năng. HS được tạo cơ hội tự
đánh giá và đánh giá lẫn nhau.Để thực hiện điều này GV cần thiết kế và chuẩn bị
sao cho HS có thể trình bày kết quả một cách trực quan rõ ràng cho các HS khác có
thể nhìn nhận và đưa ra nhận xét.


Trên cơ sở ý kiến của HS, GV đưa ra ý kiến để trao đổi và hoàn thiện giúp HS
hiểu bài sâu sắc và đầy đủ hơn.
c) Bước 3. Tổ chức dạy học theo góc
Trên cơ sở kế hoạch bài học đã thiết kế, GV tổ chức các hoạt động cho phù
hợp với đặc điểm học theo góc.

Bố trí không gian lớp học
GV cần bố trí không gian lớp họp theo các góc học tập đã thiết kế trước khi
vào giờ học.
Mỗi góc có: Nhiệm vụ cụ thể và hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ rõ ràng kèm
theo các tư liệu, thiết bị học tập cần thiết phục vụ cho phong cách học hoặc hình
thức hoạt động khác nhau tùy thuộc vào nội dung học tập cụ thể.
Nêu nhiệm vụ bài học, giới thiệu phương pháp học theo góc và hướng dẫn HS
chọn góc xuất phát.
GV nêu nhiệm vụ hoặc vấn đề cần giải quyết của bài học và giới thiệu cho HS
phương học theo góc.
GV nêu sơ lược về nhiệm vụ ở mỗi góc, thời gian thực hiện và kết quả cần đạt,
hướng dẫn HS chọn góc xuất phát.
HS lắng nghe, tìm hiểu và quyết định chọn góc theo phong cách, theo năng lực
nhưng cũng cần cũng có sự điều chỉnh của GV.
GV hướng dẫn HS luân chuyển góc và yêu cầu báo cáo kết quả cuối tiết học.
Nếu quá nhiều HS chọn cùng góc xuất phát, GV hướng dẫn điều chỉnh để HS
điều chỉnh chọn góc xuất phát cho phù hợp.
GV cũng có thể có gợi ý để HS chọn góc. Ví dụ với HS yếu thì không nên
chọn góc áp dụng làm góc xuất phát còn với HS khá giỏi thì nên xuất phát từ góc áp
dụng, sẽ phù hợp hơn.
Với góc thực nghiệm thì HS có kĩ năng thực hành tốt nên chọn làm góc xuất
phát.
Góc quan sát và góc phân tích dành cho tất cả các đối tượng HS có thể chọn
làm góc xuất phát.
Các thỏa thuận HS cần biết là:
Mỗi một nhiệm vụ học theo góc phải được hoàn thành trong khoảng thời gian
tối đa xác định. Có thể có góc dành cho HS có tốc độ học nhanh hơn.


HS được quyền lựa chọn góc xuất phát và thứ tự chuyển góc theo một trật tự

có thể nhưng cần đảm bảo tránh tình trạng hỗn loạn gây mất thời gian. GV có thể
đưa ra sơ đồ chuyển góc để nhóm HS lựa chọn.
Hướng dẫn HS hoạt động theo các góc
Tiếp theo GV hướng dẫn hoạt động cá nhân, nhóm trong mỗi góc để hoàn
thành nhiệm vụ. ở mỗi góc, mỗi nhóm sẽ có một kết quả chung.
Chú ý ở mỗi góc, mỗi nhóm gồm tập hợp HS có cùng phong cách học, cần
bầu nhóm trưởng, thư kí, các nhóm viên. Nhóm trưởng phân công thực hiện nhiệm
vụ phù hợp theo cá nhân, theo cặp, có sự hỗ trợ giữa HS khá giỏi với HS yếu để
đảm bảo trong thời gian nhất định có thể hoàn thành nhiệm vụ để chuyển sang góc
mới.
Theo dõi và hướng dẫn trợ giúp HS tại mỗi góc
Trong quá trình HS hoạt động, GV thường xuyên theo dõi, phát hiện khó khăn
của HS để có hỗ trợ kịp thời. Thí dụ ở góc HS tiến hành thí nghiệm thường có thể
cần được theo dõi hỗ trợ về kĩ thuật thực hiện, cách quan sát và ghi thông tin. ở góc
quan sát băng hình, HS cũng cần hỗ trợ về cách quan sát, mô tả, giải thích các hiện
tượng và ghi kết quả.
Làm việc với các tư liệu và kỹ thuật đặc biệt sẽ là một thử thách, đồng thời tạo
cảm hứng cho trí tưởng tượng của các em theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ: đồ
điện, kỹ thuật sử dụng máy ảnh kỹ thuật số, xây tường gạch, làm vườn, trang điểm,
thiết kế đồ họa vi tính, làm phim hoạt hình, chơi nhạc, làm mẫu bằng đất sét hoặc
giấy bồi, đều tạo cho HS có những sản phẩm khác nhau.
Hướng dẫn HS luân chuyển góc
Sau một thời gian hoạt động, trước khi hết thời gian tối đa cho mỗi góc, GV
thông báo để nhóm HS nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ để chuẩn bị luân chuyển
góc.
HS có thể tới góc bất kì còn trống, tránh chen lấn, xô đẩy.
HS có thể chuyển góc theo chiều nhất định tạo vòng tròn luân chuyển hoặc
cũng có thể cho HS tùy chọn và trao đổi các góc giữa các nhóm HS.
HS sẽ lần lượt tới các góc (3-4 góc) để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của
GV.



GV cần theo dõi và hướng dẫn kịp thời để HS nhanh chóng ổn định và làm
việc trong góc mới.

Góc dành cho
học sinh có tốc
độ học nhanh

Đường đi của HS A :

Đường đi của HS B :

Hướng dẫn HS hoàn thành nhiệm vụ , báo cáo kết quả và đánh giá
Tại mỗi góc GV đã nêu nhiệm vụ hoặc có phiếu học tập giúp HS hoàn thành
nhiệm vụ và có bản kết quả của nhóm. Cuối bài học, mỗi nhóm HS sẽ chọn báo cáo
kết quả tại góc cuối cùng hoặc có thể treo và trình bày kết quả ở trên bảng. Điều
này có thể do và HS cùng thỏa thuận.
HS cần tập trung nghe và đưa thông tin phản hồi. GV chốt lại những điểm cần
chỉnh sửa. Các nhóm tự đánh giá kết quả của nhóm mình tại góc tương ứng và chỉnh
sửa nếu có.
GV có thể chốt ngắn gọn và đánh giá cho điểm.
GV hướng dẫn HS cách lưu giữ các thông tin đã thu thập được qua các góc và
yêu cầu HS ghi nhiệm vụ về nhà.
Ví dụ :
Góc quan sát: HS có thể quan sát mẫu vật thật hoặc quan sát hình ảnh vật, thí
nghiệm, hiện tượng…trên màn hình máy tính hoặc tivi, rút ra kiến thức cần lĩnh hội.
Góc thí nghiệm (Góc trải nghiệm): HS tiến hành thí nghiệm theo nhóm, quan
sát hiện tượng, giải thích và rút ra nhận xét cần thiết.
Góc phân tích: HS đọc tài liệu sách giáo khoa và tài liệu tham khảo để trả lời

câu hỏi và rút ra kién thức mới cần lĩnh hội.
Góc áp dụng: HS đọc bảng trợ giúp (chỉ đối với góc xuất phát) sau đó áp dụng để
giải bài tập hoặc giải quyết một vấn đề có liên quan đến thực tiễn.


d) Bước 4. Tổ chức cho HS trao đổi và đánh giá kết quả học tập (nếu cần)
3.1.3. Ưu điểm và hạn chế
Ưu điểm :
- HS được học sâu và hiệu quả bền vững : HS được tìm hiểu nội dung học tập theo
các phong cách khác nhau, theo các dạng hoạt động khác nhau, do đó, HS hiểu sâu,
kiến thức nhớ lâu.
- Tăng cường sự tham gia, nâng cao hứng thú và cảm giác thoải mái của HS : HS
được chọn góc theo sở thích và tương đối chủ động, độc lập trong việc thực hiện
các nhiệm vụ. Do đó, các em cảm thấy hứng thú và thoải mái hơn.
- Tạo được nhiều không gian cho thời điểm học tập mang tính tích cực : Các nhiệm
vụ và hình thức học tập thay đổi tại các góc tạo cho HS nhiều cơ hội khác nhau
(khám phá, thực hành, áp dụng, sáng tạo, chơi,...). Điều này cũng giúp gây hứng thú
tích cực cho HS.
- Tăng cường sự tương tác cá nhân giữa GV và HS, HS và HS; GV luôn theo dõi trợ
giúp, hướng dẫn khi HS yêu cầu. Điều đó tạo ra sự tương tác cao giữa GV và HS,
đặc biệt là HS TB, yếu. Ngoài ra HS được tạo điều kiện để hỗ trợ, hợp tác với nhau
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập.
- Đáp ứng được sự khác biệt của HS về sở thích, phong cách, trình độ và nhịp độ :
Tùy theo sở trường, năng lực , HS có thể chọn góc xuất phát và cách luân chuyển
góc phù hợp với mình. Bài tập/nhiệm vụ ở mỗi góc cũng có phiếu hỗ trợ kèm theo
để giúp HS có trình độ khác nhau có thể hoàn thành. Ngoài ra, trong một số trường
hợp cũng có những góc/khu vực dành cho HS có tốc độ học nhanh hơn.
- Trách nhiệm của HS trong quá trình học tập được tăng lên : làm việc theo góc đòi
hỏi HS phải có tính định hướng và tự điều chỉnh. Các em cũng có thể quyết định khi
nào thì các em cần nghỉ giả lao (góc tạm nghỉ).

- Có thêm cơ hội để rèn luyện kỹ năng và thái độ : ví dụ như tính táo bạo khả năng
lựa chọn, sự hợp tác giao tiếp, tự đánh giá...
Hạn chế :
- Học theo góc đòi hỏi không gian lớp học rộng với số lượng HS vừa phải.
- Cần nhiều thời gian cho hoạt động học tập.
- Không phải bài học/nội dung nào cũng áp dụng được phương pháp học theo góc.


- Đòi hỏi giáo viên phải có kinh nghiệm trong việc tổ chức, quản lý và giám sát
hoạt động học tập cũng như đánh giá được kết quả học tập của HS.
3.2.Phương pháp dạy học theo hợp đồng
3.2.1. Bản chất của dạy học theo hợp đồng.
Tên tiếng Anh "Contract Work" thực chất là làm việc hợp đồng hay còn gọi là
học theo hợp đồng, nhấn mạnh vai trò chủ thể của người học trong dạy học.
Hợp đồng là một biên bản thống nhất và khả thi giữa hai bên giáo viên và cá
nhân học sinh, theo đó có cam kết của HS sẽ hoàn thành nhiệm vụ đã chọn sau
khoảng thời gian đã định trước.
Học theo hợp đồng là một hình thức tổ chức hoạt động học tập theo đó người
học được giao một tập hợp các nhiệm vụ được miêu tả cụ thể trong một văn bản
chính quy theo dạng hợp đồng. Người học có quyền độc lập quyết định dành nhiều
hay ít thời gian cho mỗi hoạt động, hoạt động nào thực hiện trước, hoạt động nào
thực hiện sau. Như vậy có thể hiểu: học theo hợp đồng là cách tổ chức học tập,
trong đó người học làm việc theo một gói các nhiệm vụ trong một khoảng thời
gian nhất định.
Trong dạy học theo hợp đồng: Giáo viên là người nghiên cứu thiết kế các
nhiệm vụ, bài tập trong hợp đồng, tổ chức hướng dẫn HS nghiên cứu hợp đồng để
chọn nhiệm vụ cho phù hợp với năng lực của HS. HS là người nghiên cứu hợp
đồng, kí kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, nhằm đạt được mục tiêu dạy học nội
dung cụ thể.
Mỗi HS có thể lập kế hoạch thực hiện nội dung học tập cho bản thân mình:

Trong thời khoá biểu hàng tuần, người học sẽ có một khoảng thời gian nhất
định (thời gian thực hiện hợp đồng) để thực hiện các nhiệm vụ của mình một cách
tương đối độc lập. Người học sẽ là người chủ động xác định khoảng thời gian và
thứ tự của từng hoạt động trong hợp đồng cần thực hiện tức là người học có thể
quyết định nội dung nào cần nghiên cứu trước và có thể dành bao nhiêu thời gian
cho nội dung đó. Người học có thể quyết định tạo ra một môi trường làm việc cá
nhân phù hợp để đạt kết quả theo hợp đồng đã kí. Người học phải tự giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập với sự hỗ trợ của giáo viên hoặc của bạn học
khác (nếu cần).
Giáo viên có thể chắc chắn rằng mỗi HS đã kí hợp đồng tức là đã nhận một


trách nhiệm rõ ràng và sẽ hoàn thành các nhiệm vụ vào thời gian xác định theo văn
bản.
3.2.2. Quy trình thực hiện dạy học theo hợp đồng
a) Bước 1. Chọn nội dung và quy định về thời gian
Chọn nội dung: Trước hết, GV cần xác định nội dung nào của môn học có
thể được dạy học thông qua hình thức này, điều này sẽ ảnh hưởng đến số lượng các
hợp đồng phân công cho HS. Để đảm bảo đúng đặc điểm của phương pháp dạy học
theo hợp đồng, các HS phải tự quyết định được thứ tự các nhiệm vụ cần thực hiện để
hoàn thành bài tập được giao. Do vậy nhiệm vụ trong hợp đồng có thể chọn là một
bài ôn tập hoặc luyện tập là phù hợp nhất. Hoặc cũng có thể với bài học mới mà trong
đó có thể thực hiện các nhiệm vụ không theo thứ tự bắt buộc. Các nhiệm vụ được
giao cũng cần bắt đầu từ hợp đồng đơn giản đến hợp đồng với nhiệm vụ ngày càng
phức tạp hơn.
GV cần xác định nội dung của hợp đồng và phương pháp sử dụng. Với việc xác
định nội dung các nhiệm vụ và xây dựng một hệ thống tổ chức có thể khảo sát được
(thẻ, ngăn kéo, thư mục…) GV có thể để các HS xác định hầu hết phần còn lại của
hợp đồng trong giới hạn định hướng (ví dụ các nội dung môn học cần được nghiên
cứu trong tuần và số lượng bài tập cần hoàn thành theo từng môn học).

Quy định thời gian: GV phải quyết định thời gian của học theo hợp đồng. Việc
xác định thời hạn của hợp đồng theo số tiết học trên lớp là tốt nhất để giúp các HS
quản lý thời gian tốt hơn. Thời gian tối thiểu cho dạy học theo hợp đồng nên là 90
phút. Đó là do HS cần có thêm thời gian nghiên cứu và kí hợp đồng, có thời gian
GV và HS nghiệm thu hợp đồng. Ngoài ra có thể bố trí cho HS thực hiện hợp đồng
ngoài giờ học chính khóa hoặc ở nhà tùy theo nhiệm vụ cụ thể.
b) Bước 2: Thiết kế kế hoạch bài học
Sau khi đã xác định nội dung và thời gian, GV cần thiết kế kế hoạch bài học để
làm cơ sở tổ chức dạy học theo hợp đồng.
+ Xác định mục tiêu của bài: Việc xác định mục tiêu của bài cần căn cứ vào
chuẩn kiến thức kĩ năng đã quy định trong chương trình gồm kiến thức, kĩ năng,
thái độ của bài học. Tuy nhiên cũng có thể nên xác định thêm một số kĩ năng, thái
độ chung cần đạt khi thực hiện phương pháp học theo hợp đồng, thí dụ như kĩ năng
làm việc độc lập, kĩ năng tương tác (người học với người học và người học với


GV), kĩ năng đánh giá đồng đẳng và kĩ năng tự đánh giá. Những kĩ năng này rất
quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực chung của người lao động
do đổi mới phương pháp mang lại.
+ Xác định phương pháp dạy học chủ yếu: Phương pháp cơ bản là dạy và học
theo hợp đồng nhưng thường cần phải sử dụng phối hợp với các phương pháp, kĩ
thuật khác, thí dụ như sử dụng phương tiện dạy học của bộ môn, sử dụng phương
tiện dạy học hiện đại, giải quyết vấn đề, học tập hợp tác theo nhóm…để tăng cường
sự tham gia, học sâu và học thoải mái.
+ Chuẩn bị của GV và HS:
Cần chuẩn bị các tài liệu, phiếu bài tập, sách tham khảo, dụng cụ, thiết bị cần
thiết để cho hoạt động của GV và HS đạt hiệu quả. Đặc biệt là GV phải chuẩn bị
được một bản hợp đồng đủ chi tiết để HS có thể tìm hiểu dễ dàng, kí hợp đồng và
thực hiện các nhiệm vụ một cách độc lập hoặc có sự hỗ trợ của GV và HS khác.
+ Thiết kế văn bản hợp đồng

Học theo hợp đồng chỉ khả thi khi các HS có thể đọc, hiểu và thực thi các nhiêm
vụ một cách tương đối độc lập. Các tài liệu cho HS cần được chuẩn bị đầy đủ. Trước
hết, học theo hợp đồng cần chủ yếu dựa trên những nội dung sẵn có ở sách giáo khoa,
sách bài tập hoặc tài liệu có sẵn. Hợp đồng sẽ chỉ đơn giản là chỉ ra số trang và số các
nhiệm vụ, bài tập nhất định.
Ngoài ra nội dung hợp đồng còn bao gồm cả những nhiệm vụ được viết trên
những tấm thẻ hoặc những phiếu học tập riêng. GV có thể bổ sung những nhiệm vụ
mới hoặc sửa đổi những bài tập đã có cho phù hợp với yêu cầu của học theo hợp
đồng và đảm bảo mục tiêu bài học.
Nội dung văn bản hợp đồng bao gồm nội dung nhiệm vụ cần thực hiện và có
phần hướng dẫn thực hiện cũng như tự đánh giá kết quả.
+ Thiết kế các dạng bài tập, nhiệm vụ:
Một hợp đồng luôn phải đảm bảo tính đa dạng của các bài tập, nhiệm vụ.
Không phải HS nào cũng có cách học tập và các nhu cầu giống nhau. Sự đa dạng
bài tập, nhiệm vụ sẽ đảm bảo rằng trong mỗi hợp đồng, tất cả các phương pháp học
tập của mỗi HS đều được đề cập. Mặt khác, HS cũng cần được làm quen với những
bài tập không đề cập trực tiếp đến quan điểm riêng của mình. Điều này mở rộng tầm
nhìn của HS và cách thức các HS nhìn nhận vấn đề.


Trong bản hợp đồng GV có thể kết hợp các nhiệm vụ cá nhân cụ thể với sự
hướng dẫn của GV, bài tập trong nhóm nhỏ, bài tập chuyên sâu hơn, hoặc yêu cầu
cần chú ý đặc biệt đối với một số quy tắc khi làm bài.
 Thiết kế những nhiệm vụ bắt buộc và tự chọn
Một hợp đồng tốt tạo ra được sự khác biệt giữa nhiệm vụ bắt buộc và nhiệm vụ
tự chọn. Điều này cho phép GV tôn trọng nhịp độ học tập khác nhau của HS.
+ Nhiệm vụ bắt buộc: Giúp cho mọi HS đều đạt được chuẩn kiến thức và kĩ
năng của chương trình, đạt được yêu cầu của bài học và tạo điều kiện để mọi HS
đều có thể thực hiện được với sự trợ giúp hoặc không cần trợ giúp.
+ Nhiệm vụ tự chọn: Nếu GV chỉ hạn chế giao các bài tập bắt buộc GV sẽ gặp

phải nhiều vấn đề. Ví dụ: Một số HS tiếp thu nhanh sẽ hoàn thành bài tập sớm hơn
còn những HS khác sẽ thiếu thời gian.
Nhiệm vụ tự chọn giúp HS vận dụng, mở rộng, làm sâu sắc kiến thức và rèn
luyện kĩ năng có liên quan đến kiến thức đã học.
Bài tập tự chọn không nhất thiết phải là "bài tập thú vị", bài tập khó chỉ dành
cho HS khá, giỏi.
Nhiệm vụ bắt buộc và tự chọn đều phải thử thách HS. Một cách lí tưởng, tất cả
HS kể cả những HS trung bình yếu cũng nên được làm thêm những bài tập tự chọn
và không nên có trường hợp ngoại lệ nào.
 Thiết kế bài tập, nhiệm vụ học tập có tính chất giải trí
Nhiệm vụ mang tính giải trí: Tạo cơ hội để luyện tập sự cạnh tranh trong một
môi trường giải trí nhưng cũng gắn với kiến thức kĩ năng đã học. Các ví dụ như: trò
chơi ngôn ngữ hay số học, luyện tập chương trình trên máy tính, trò chơi vòng tròn,
trò chơi đoán ô chữ, ai nhanh ai đúng, lắp mảnh ghép…
Những kĩ năng và kiến thức xã hội, giáo dục môi trường… cũng là một phần
không thể thiếu trong các bài tập, giúp HS rèn kĩ năng vận dụng kiến thức, kĩ năng
của bài học vào thực tiễn.
 Thiết kế bài tập, nhiệm vụ mở và nhiệm vụ đóng
+ Nhiệm vụ đóng: Nêu rõ ràng những gì HS phải làm trong một giới hạn xác
định. Dạng bài tập này cung cấp cho những HS sợ thất bại và bảo đảm an toàn cần
thiết. Thí dụ đó có thể là dạng bài trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn.
+ Dạng bài tập mở: Thường chứa đựng một vài thử thách và khó khăn hơn.


Những bài tập mở khuyến khích HS bỏ cách suy nghĩ cũ và tìm kiếm những cách
làm mới. Đặc biệt đối với những HS có khả năng sáng tạo và khả năng xử lí vấn đề
nhanh nhạy, dạng bài tập này sẽ giúp HS đạt được mức độ tham gia cao và phát
triển tư duy bậc cao.
+ Thiết kế nhiệm vụ, bài tập cá nhân kết hợp nhiệm vụ, bài tập hợp tác theo
nhóm.

Trong hợp đồng ngoài quy định HS thực hiện theo cá nhân cũng cần có nhiệm
vụ HS có thể có yêu cầu làm vỉệc hợp tác, theo cặp, nhóm nhỏ. Một sự kết hợp khéo
léo giữa các nhiệm vụ cá nhân với bạn cùng lớp hay các nhiệm vụ theo nhóm được
xem là khá hiệu quả tổ chức làm việc theo nhóm. Tuy nhiên làm việc theo nhóm chỉ
tận dụng được phần rất nhỏ của sự khác biệt giữa các thành viên, một số HS sẽ chỉ ỉ nại
vào người khác trong khi một số em khác lại nhanh chóng thể hiện năng lực lãnh đạo
của mình.
+ Thiết kế các nhiệm vụ,bài tập độc lập và nhiệm vụ, bài tập được hướng dẫn
với mức độ hỗ trợ khác nhau.
Không phải nhiệm vụ nào cũng phải thực hiện một cách độc lập đối với tất cả
HS. HS giỏi có thể thực hiện nhiệm vụ mà không cần sự hỗ trợ nào. Nhưng HS
trung bình, yếu thì tất nhiên sẽ cần được hỗ trợ với mức độ khác nhau thì mới hoàn
thành nhiệm vụ.
Việc hỗ trợ chỉ có hiệu quả khi xuất phát từ nhu cầu của chính HS.Tuy nhiên
cần chú ý phiếu hỗ trợ không phải là đáp án mà là những chỉ dẫn cụ thể theo từng
mức độ do GV dự đoán và thiết kế cho phù hợp.
Những nhiệm vụ được hướng dẫn (thường trong những nhóm nhỏ hoặc riêng
lẻ) cũng có thể được kết hợp.
Nhiệm vụ dành cho HS không cần hỗ trợ và nhiệm vụ có các mức độ hỗ trợ
khác nhau để tạo điều kiện cho mọi HS có thể hoàn thành nhiệm vụ phù hợp với
năng lực của mình.
Thực tế dạy học đã chỉ ra rằng sự hỗ trợ chỉ hiệu quả khi thực sự HS phải có
nhu cầu và sự hỗ trợ vừa phải sẽ tạo ra được sự cố gắng động viên HS.
 Thiết kế các hoạt động dạy học
Trong kế hoạch bài học cần thiết kế các hoạt động của GV và HS trong khi thực
hiện, như kí hợp đồng, thực hiện hợp đồng, thanh lí hợp đồng.


Các hoạt động của GV và HS có thể như sau:
Họat động 1. Kí hợp đồng

Hoạt động GV

Hoạt động HS

Phương tiện

Nêu mục tiêu bài học hoặc vấn Lắng nghe
đề của bài học.
Trao cho HS hợp đồng chung đã HS nghiên cứu nội dung của
có chữ kí của GV.

hợp đồng.

GV trả lời

HS đặt câu hỏi về vấn đề còn
chưa rõ.

GV yêu cầu HS suy nghĩ chọn các HS kí hợp đồng
nhiệm vụ tự chọn, có hỗ trợ hoặc
không có hỗ trợ
Hoạt động 2. Thực hiện hợp đồng
Nếu là hợp đồng chỉ yêu cầu HS thực hiện trên lớp có thể gồm hoạt động sau
Hoạt động GV

Hoạt động HS

Phương tiện

GV hướng dẫn thực hiện hợp HS thực hiện hợp đồng

đồng.

theo nhịp độ cá nhân.

GV theo dõi và hỗ trợ.

HS có thể xin nhận hỗ trợ
từ GV hoặc HS khác.

GV có thể đưa ra trợ giúp nên HS có thể xin làm việctheo
hay không?

cặp, nhóm (nếu cần thiết)

Họat động 3. Nghiệm thu hợp đồng
Nếu là hợp đồng chỉ yêu cầu HS thực hiện trên lớp có thể gồm hoạt động sau
Hoạt động GV

Hoạt động HS

GV yêu cầu HS dừng làm việc HS dừng làm việc cá nhân và
và tự đánh giá.

tự đánh giá.

GV yêu cầu trao đổi bài chéo HS đánh giá bài của bạn khi
nhau giữa 2 nhóm để HS không GV công bố đáp án của các
biết ai là người đánh giá bài của nhiệm vụ: Có thể chấm điểm
mình và ghi vào hợp đồng bằng hoặc chỉ đánh giá đúng/ sai.


Phương tiện


nét bút khác.

HS ghi rõ họ tên vào bài làm
của bạn.

GV nhận xét, đánh giá chung

HS lắng nghe, chỉnh sửa

Hoạt động 4. Củng cố, đánh giá
Trong khi thanh lí (nghiệm thu) hợp đồng có thể thiết kế các hoạt động để HS
có thể đánh giá lẫn nhau và HS tự đánh giá kết quả các nhiệm vụ bắt buộc và nhiệm
vụ tự chọn. GV có thể đưa ra kết luận đánh giá hoàn thiện.
Tuy nhiên trong một số trường hợp, cần thiết phải củng cố khắc sâu kiến thức
hoặc kĩ năng cụ thể. GVcó thể cho thêm 1-2 bài tập để HS thực hiện trong thời gian
ngắn.
c) Bước 3. Tổ chức dạy học theo hợp đồng
GV cần giới thiệu phương pháp học theo hợp đồng, ban đầu cần tập trung vào
hình thức làm việc độc lập. Hình thức tổ chức còn tương đối mới mẻ nhưng GV và
HS có thể dần làm quen với điều đó. HS có thể làm việc độc lập và tận dụng thời
gian. Điều này làm tăng đáng kể mức độ tham gia của HS. Tuy nhiên, chỉ hình thức
tổ chức thì chưa thể đảm bảo chắc chắn có sự tham gia. Mọi thứ đều phụ thuộc vào
cách thức áp dụng phương pháp vào thực tế dạy học. Để duy trì mức độ thích hợp
của sự tham gia, thay đổi hướng tới một sự khác biệt trong phương pháp học theo
hợp đồng là điều không thể thiếu. Chỉ khi nào khả năng của cá nhân từng HS được
đề cập, các em mới có thể phát triển và tiếp tục tham gia.
 Bố trí không gian lớp học:

Trong phương pháp học theo hợp đồng, không cần thiết phải sắp xếp lại lớp
học. Các GV hoàn toàn có thể tổ chức hình thức này trong lớp học nhỏ với không
gian hạn chế, ít điều kiện di chuyển.
Tuy nhiên, phương pháp học theo hợp đồng sẽ trở nên thoải mái và chuyên sâu
hơn nếu tổ chức sắp xếp trong lớp học được điều chỉnh. Bàn học có thể được kê lại
để thu hút HS làm việc tập trung hơn trong nhóm, các góc và vị trí tạo ra thách thức
đối với HS có thể được kết hợp trong phương pháp học theo hợp đồng.
 Tổ chức kí hợp đồng nhiệm vụ học tập
GV nêu mục đích bài học, phương pháp học tập chủ yếu và trao hợp đồng cho
các HS.


Các HS nghiên cứu nội dung của hợp đồng một cách kĩ lưỡng để hiểu các
nhiệm vụ trong hợp đồng.
GV và HS trao đổi những điều còn chưa rõ trong hợp đồng.
HS quyết định chọn nhiệm vụ tự chọn trên cơ sở năng lực của mình.
HS kí vào bản hợp đồng và đánh dấu các nhiệm vụ tự chọn.
 Tổ chức, hướng dẫn HS thực hiện hợp đồng
Sau khi kí hợp đồng, HS tự lập kế hoạch để thực hiện các nhiệm vụ. Tùy thời
gian của hợp đồng, GV tổ chức cho HS có thể thực hiện ở trên lớp, ở nhà, ở thư
viện, trong phòng thí nghiệm hoặc vào mạng để hoàn thành các nhiệm vụ trong hợp
đồng.
GV yêu cầu HS thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập nhưng nếu cần vẫn có
thể nhận trợ giúp của GV và các HS khác.
Với một vài nhiệm vụ được thực hiện hợp tác thì sau khi hoàn thành nhiệm vụ
cá nhân, GV hướng dẫn để HS có thể hình thành nhóm tự phát và tự tổ chức để
hoàn thành nhiệm vụ của nhóm.
Trong quá trình HS thực hiện hợp đồng tại lớp, GV cần theo dõi và hướng dẫn
kịp thời khi HS gặp khó khăn cần hỗ trợ. GV hướng dẫn HS nhận phiếu hỗ trợ phù
hợp hoặc tăng mức hỗ trợ khi cần thiết.

Đặc biệt đối tượng HS trung bình, yếu ngoài trợ giúp của GV cần trợ giúp của
HS khá giỏi trong lớp thông qua hoạt động hợp tác cùng chia sẻ.
GV có cơ hội hướng dẫn cho HS của mình: trả lời câu hỏi, chữa lỗi, giới thiệu
ngắn gọn cho nhóm nhỏ, quy định thời gian cụ thể của từng hoạt động, quan sát và
đánh giá nội dung cần được cải thiện...
HS có thể yêu cầu được trợ giúp hoặc hệ thống sửa lỗi. GV hướng dẫn HS sử
dụng đáp án đúng cho các nhiệm vụ/ bài tập để HS tự sửa lỗi hoặc trao đổi bài để
HS sửa lỗi cho nhau.
Đối với một số hình thức bài tập nhất định, có thể xem xét đến những phương
pháp khác, ví dụ như trong nhóm các HS (có cùng hoặc không cùng trình độ) có
thể giúp nhau tìm ra và sửa các lỗi mắc phải. Học theo hợp đồng tạo cơ hội lồng
ghép những kỹ năng xã hội trong quá trình học tập. Ví dụ, khi một HS đặt tín hiệu
“cờ đỏ” trên bàn, điều đó có nghĩa là em đang cần giúp đỡ. Những HS khác cho
rằng mình có thể giúp giải quyết vấn đề của lớp học cũng có thể giơ những tín hiệu


tương tự. Tín hiệu “cờ xanh” có nghĩa là “Tôi muốn được làm việc trong hoà bình”,
theo đó các HS đó có thể tạo điều kiện cho các HS cần được hỗ trợ khai thác kiến
thức của mình.
 Tổ chức nghiệm thu hợp đồng
Trước khi kết thúc các nhiệm vụ theo thời gian quy định, GV thông báo cho
HS một khoảng thời gian nhất định ở trên lớp để họ nhanh chóng hoàn thành hợp
đồng của mình.
Nếu nhiệm vụ giao cho HS hoàn thành ở nhà, GV dành cho HS một khoảng
thời gian nhất định để hoàn thành hợp đồng và chuẩn bị nghiệm thu hợp đồng tại
lớp học.
Để nghiệm thu hợp đồng trước hết GV có thể yêu cầu HS tự đánh giá và đánh
giá đồng đẳng.
Khi hoàn thành hợp đồng, HS vẫn có thể được tham gia tích cực vào việc đánh
giá. Thay vì đánh giá chỉ dựa nhận xét của GV hoặc đánh giá theo kết quả hoạt

động, một hình thức đánh giá trên phạm vi rộng hơn, tổng hợp hơn có thể được áp
dụng như một phương pháp tăng cường sự tham gia trong các hoạt động của HS.
HS tự đánh giá kết quả của mình theo hướng dẫn của hợp đồng.
 GV có thể tổ chức cho HS đánh giá đồng đẳng.
Cơ sở của hình thức đánh giá này là bản hợp đồng, trong đó HS sẽ trình bày
những hoạt động đã hoàn thành và kết quả. Điều này thể hiện sự tiến bộ mà các em
đã đạt được và giúp phát hiện những khó khăn gặp phải. HS có thể trao đổi hợp
đồng và kết quả thực hiện để đánh giá lẫn nhau dưới sự hướng dẫn của GV. HS
đánh giá phải ghi tên vào hợp đồng của HS được đánh giá để GV có thể kiểm tra
đưa thông tin phản hồi.
 GV đánh giá và nghiệm thu hợp đồng trên cơ sở HS tự đánh giá, đánh
giá đồng đẳng.
Trên cơ sở đánh giá cá nhân và đánh giá đồng đẳng, GV có nhận xét đánh giá
riêng về từng cá nhân và kết quả thực hiện hợp đồng như thế nào.
GV có thể phát hiện liệu hợp đồng đã đủ khó hay chưa hay quá khó khiến HS
không thể hoàn thành đúng hạn.
Khi chuẩn bị cho hợp đồng tiếp theo, cần dựa trên những kết quả đánh giá của
hợp đồng trước đó.


Trên cơ sở tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng, GV có thể nghiệm thu hợp đồng
tại lớp của một số HS còn HS khác có thể sẽ được thu hợp đồng và thực hiện đánh giá
tại nhà và thông báo cho HS vào giờ sau.
3.2.3. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học theo hợp đồng
- Ưu điểm:
Dạy học theo hợp đồng là một hình thức thay thế việc giảng bài cho toàn thể
lớp học của giáo viên, đồng thời cho phép giáo viên có thể quản lý và khảo sát được
các hoạt động của mỗi HS. Với hình thức tổ chức này, giáo viên có thể sử dụng sự
khác biệt giữa các HS để tạo ra cơ hội học tập cho tất cả HS trong lớp theo trình độ,
theo nhịp độ và theo năng lực.

Bên cạnh đó dạy học theo hợp đồng còn cho phép phân hóa nhịp độ và trình
độ người học, rèn luyện khả năng làm việc độc lập của người học , tạo điều kiện
người học được hỗ trợ cá nhân mà không hỗ trợ đồng loạt, hoạt động của người học
đa dạng, phong phú hơn. Cụ thể như sau:
Cho phép phân hóa nhịp độ và trình độ của người học: Cá nhân HS được
phép tự quyết định về thứ tự thực hiện nhiệm vụ, chọn nhiệm vụ tự chọn, thời gian
thực hiện.. nên cho cho phép HS học theo nhịp độ và trình độ.
Rèn luyện khả năng làm việc độc lập của người học: HS có thể độc lập thực
hiện nhiệm vụ có hoặc không cần sự hỗ trợ của giáo viên hoặc học sinh khác.
Tạo điều kiện người học được hỗ trợ cá nhân mà không hỗ trợ đồng loạt: Sự
hỗ trợ của giáo viên qua các phiếu hỗ trợ căn cứ vào nhu cầu của người học mà
không phải mọi HS đều được hỗ trợ giống nhau. Do đó giúp phát huy được tính chủ
động sáng tạo của HS giỏi và tạo điều kiện để HS yếu được trợ giúp nhiều và thiết
thực hơn.
Hoạt động của người học đa dạng, phong phú hơn: Do hình thức bài tập
(nhiệm vụ) đa dạng phong phú và cách thức thực hiện phần lớn do người học tự
quyết định nên tạo nên sự đa dạng trong hoạt động của HS.
Trên cơ sở đó tùy thuộc vào bài học mà người dạy xây dựng nội dung học
tập theo hình thức hợp đồng có cam kết, gồm các nhiệm vụ bắt buộc (theo chuẩn
kiến thức, kỹ năng) và nhiệm vụ tự chọn (nội dung mở rộng và nâng cao) nhằm phát
huy tính sáng tạo và khả năng tự học của người học. Do đó học theo hợp đồng còn
hướng tới củng cố tính độc lập và tăng cường hợp tác trong học tập của người học,


×