MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài: “Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học cơ
sở thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” là công trình khoa học
độc lập, được nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội trong bối cảnh đổi mới
giáo dục theo Nghị quyết 29/NQ-TW.
Đề tài được kết cấu 3 chương. Nội dung đề tài đi sâu phân tích, luận giải
một cách khoa học về thực chất và những vấn đề có tính quy luật của quản lý
bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THCS; đồng thời, tiến hành khảo
sát, đánh giá đúng thực trạng và chỉ ra những yêu cầu về quản lý bồi dưỡng
năng lực dạy học cho giáo viên THCS thành phố Hà Nội trong bối cảnh đổi
mới giáo dục; trên cơ sở đó, luận án đề xuất những biện pháp cơ bản và tổ chức
thử nghiệm biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo
viên trường THCS đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Những nội dung cơ bản đó góp phần cung cấp cơ sở khoa học để các nhà
lãnh đạo, quản lý các cấp chỉ đạo tổ chức hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học
cho giáo viên THCS trên địa bàn Thủ đô đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
2. Lý do chọn đề tài luận án
GD&ĐT có vị trí quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực. Trong đó
chất lượng giáo viên ảnh tới thành tích học tập của HS …. Đội ngũ nhà giáo là
lực lượng nòng cốt thực hiện mục tiêu GD&ĐT; là người xây dựng cho học
sinh thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, tổ chức HS kiến tạo và rèn luyện
phương pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo. Khi nói về
vai trò của đội ngũ nhà giáo, tại Hội nghị giáo dục ở Úc năm 1993, các đại biểu
đã đưa ra nhận định: người giáo viên sẽ là người có trách nhiệm làm thay đổi
2
thế giới. Đảng ta cũng xác định “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng
giáo dục và được xã hội tôn vinh”.
Nghị quyết số 29/NQ-TW tại Hội nghị lần thứ 8, BCHTƯ Ðảng khóa XI
về "Ðổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế" đã khẳng định vai trò "quyết định chất lượng giáo dục"
của đội ngũ nhà giáo. Ðiều này vừa thể hiện niềm tin vừa thể hiện sự mong đợi
của Ðảng và Nhà nước đối với đội ngũ nhà giáo các cấp học trong công cuộc
đổi mới giáo dục đã và đang diễn ra.
Nhiệm vụ "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục" đang đặt lên vai đội
ngũ nhà giáo Việt Nam những yêu cầu mới với trách nhiệm lớn hơn trong dạy
học và giáo dục. Mỗi thầy giáo, cô giáo theo yêu cầu đổi mới không những là
người giỏi về kiến thức môn học mà còn phải là người có năng lực sư phạm.
“Dạy cái gì?” và “Dạy như thế nào?” là hai câu hỏi lớn thể hiện năng lực dạy
học mà mỗi người giáo viên trong nhà trường hiện đại phải đáp ứng.
Hiện nay, chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương số 29 - NQ/TW, đã tác động sâu sắc đến mọi yếu
tố, trong đó giáo viên là yếu tố đặc biệt quan trọng quyết định phần lớn thành
công của nội dung đổi mới giáo dục.
Thực trạng giáo dục hiện nay cho thấy còn nhiều bất cập với yêu cầu của
Nghị quyết 29-NQ/TW, trong đó có nguyên nhân chủ yếu từ sự bất cập về
năng lực nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên.
Trong những năm gần đây, Bộ GD&ÐT đã chỉ đạo, tổ chức nhiều đợt
tập huấn bồi dưỡng nâng cao trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp
cho giáo viên. Ðặc biệt là các nội dung đổi mới về PPDH theo thuyết kiến tạo
và đánh giá kết quả học tập; áp dụng các phương pháp và hình thức giáo dục và
dạy học tiên tiến, hiện đại (như: Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề,
3
phương pháp bàn tay nặn bột, phương pháp dạy học theo dự án, giáo dục kỹ
năng sống, giáo dục di sản, giáo dục văn hóa truyền thống, giáo dục ứng phó
với biến đổi khí hậu và thảm họa thiên tai, ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông vào dạy và học... Chương trình bồi dưỡng và nâng cao năng lực
đội ngũ nhà giáo theo những yêu cầu của Chuẩn nghề nghiệp GV và Chuẩn cán
bộ quản lý các cấp từ năm 2010, giúp nhà giáo ở cương vị công tác của mình,
thường xuyên tự học tập và rèn luyện để nâng cao mức đạt được theo các yêu
cầu của Chuẩn. Các Chuẩn đó được thể hiện cụ thể về phẩm chất đạo đức;
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; năng lực tìm hiểu môi trường và đối
tượng giáo dục; năng lực phối hợp với gia đình, cộng đồng và xã hội trong
công tác giáo dục, năng lực phát triển nghề nghiệp...
Hiện nay, tuyệt đại bộ phận giáo viên có tinh thần trách nhiệm tốt, kiên
trì, vượt khó vì sự nghiệp phát triển giáo dục, nhất là giáo viên ở vùng khó
khăn. Tuy nhiên, do nhiều khó khăn trong cuộc sống, do áp lực của công việc,
do trình độ đào tạo không đồng đều, do cơ chế quản lý hoạt động nghề nghiệp
còn bất cập,… nên có một bộ phận không nhỏ giáo viên chán nghề, chưa phấn
đấu nâng cao kiến thức và kỹ năng giảng dạy.
Hằng năm, các cơ sở giáo dục đều thực hiện hoạt động bồi dưỡng giáo
viên nhằm nâng cao trình độ, nhưng dường như chưa có chuyển biến trong
cách dạy, còn nhiều hình thức bồi dưỡng chưa phù hợp và ý thức tham gia bồi
dưỡng của giáo viên còn chưa cao. Nhiều giáo viên có thói quen dạy học cũ từ
trước và ngại đổi mới. Đây có thể xem là hạn chế lớn nhất của giáo viên phổ
thông nói chung và giáo dục trung học cơ sở nói riêng.
Theo các kết quả điều tra mới nhất, một tỉ lệ khá lớn giáo viên phổ
thông đang không đủ sức đáp ứng các yêu cầu của chương trình giáo dục hiện
hành; việc bồi dưỡng được tổ chức hằng năm cho giáo viên phổ thông lại
mang nặng tính hình thức, kém hiệu quả; tình trạng vừa thừa vừa thiếu giáo
4
viên tồn tại dai dẳng hàng chục năm qua không giải quyết được cũng khiến
công tác đào tạo và sử dụng giáo viên gặp không ít khó khăn.
Bên cạnh đó, trở ngại lớn nhất trong việc xây dựng và phát triển đội
ngũ giáo viên phổ thông là Thầy/Cô giáo ở các trường phổ thông công lập
động lực hoạt động phát triển nghề nghiệp chưa cao vì thu nhập từ lương và
phụ cấp từ ngân sách Nhà nước không đủ bảo đảm cuộc sống cho họ. Vì vậy,
nhiều giáo viên trường công, đặc biệt ở các đô thị phải dạy thêm dẫn đến tình
trạng dạy thêm tràn lan. Trong khi đó, tình trạng xuống cấp về đạo đức và văn
hóa trong xã hội gây nhiều tác động tiêu cực đến trường học. Do vậy, vị thế
xã hội của nghề thầy và người thầy bị hạ thấp trong thang giá trị xã hội. Trong
cuộc điều tra gần đây, 40-60% giáo viên phổ thông đã thẳng thắn bày tỏ ý
kiến nếu được chọn lại nghề sẽ không làm nghề dạy học. Học sinh khá, giỏi
không thi vào trường sư phạm sẽ là nguy cơ giảm dần chất lượng GV.
Trước thực trạng rất đáng lo ngại như vậy, rõ ràng cần phải tập trung
sửa đổi chính sách đối với nhà giáo và cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đồng thời làm cho nghề dạy
học trở thành một trong những lĩnh vực nghề nghiệp được xã hội thật sự coi
trọng , tạo nđộng lực phát triển ngyheef hnghieepj cho GV và có sức thu hút
đối với học sinh khá/ giỏi sau khi tốt nghiệp bậc trung học phổ thông.
Quá trình đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi sự nỗ lực của toàn xã hội. Trong
đó, đội ngũ nhà giáo có vai trò hết sức quan trọng bởi họ chính là lực lượng
trực tiếp đóng góp vào sự đổi mới này. Để nâng cao năng lực cho đội ngũ nhà
giáo, công tác bồi dưỡng phải được tiến hành thường xuyên với những biện
pháp quản lý phù hợp, hiệu quả. Nhiệm vụ đó không chỉ cấp bách trước mắt
mà còn là thể chế được Điều 63 - Luật Giáo dục quy định: “Nhà giáo có nhiệm
vụ không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao đạo đức, phẩm chất, trình độ
5
chuyên môn, nghiệp vụ và nêu gương tốt cho học sinh”. Vì thế, giáo viên
THCS nói chung và giáo viên các trường THCS thành phố Hà Nội nói riêng
phải có ý thức chủ động tham gia bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để nâng cao kiến
thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, phẩm chất đạo đức là những cấu phần
chủ yếu của năng lực nghề nghiệp nhà giáo.
Những vấn đề nêu trên là lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài: “Quản lý
bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học cơ sở thành phố Hà Nội
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” để nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề xuất các giải pháp quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học
cho giáo viên THCS thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Xác định cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên
THCS đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
3.2.2. Điều tra, khảo sát làm rõ thực trạng về quản lý hoạt động bồi
dưỡng giáo viên THCS thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
3.2.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên
THCS thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
3.2.4. Khảo nghiệm các biện pháp và Thử nghiệm 1 biện pháp quản lý
hoạt động bồi dưỡng giáo viên THCS thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả thiết khoa học
4.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở trường
THCS 4.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy
học cho giáo viên THCS thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
6
4.3.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu: Một só biện pháp quản lý bồi
dưỡng năng lực dạy học cho GV ở trường của Hiệu trưởng trường THCS
công lập thành phố Hà nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
4.3.2. Giới hạn về địa bàn: Các trường THCS công
lập ở các
quận/huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tập trung khảo sát chủ yếu ở các
quận/huyện: Đống Đa, Thanh Xuân, Hai Bà trưng, Đông Anh, Ba vì, Thường
Tín, Thạch Thất, Hà Đông.
4.3.3. Giới hạn khách thể khảo sát:
Tổng số 697 người được chia thành 2 nhóm:
- Nhóm CBQL: 232 người
- Nhóm GV trường THCS: 465 người
4.4. Giả thiết khoa học
Nếu vận dụng đồng bộ các giải pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên do tác
giả đề xuất một cách phù hợp với thực tiễn các trường THCS thành phố Hà
Nội, phù hợp yêu cầu "Đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế" sẽ góp
phần nâng cao chất lượng GV THCS, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, từ đó
nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường THCS thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận (nghiên cứu tiếp cận và phương pháp nghiên cứu)
5.1.1. Tiếp cận lí luận
Tiếp cận chức năng quản lý: Trong cách tiếp cận này, các biện pháp
quản lý được xác định tương ứng với các chức năng quản lý đó là lập kế
hoạch, tổ chức bộ máy, lãnh đạo - chỉ đạo, kiểm tra đánh giá.
Tiếp cận quản lý phát triển nguồn nhân lực: Trong cách tiếp cận này phân
tích thực tế là thực hiện thống kê và phân tích tình hình đội ngũ giáo viên hiện tại
từ đó có đánh giá đúng về thực trạng đội ngũ. Từ đánh giá này, xem xét mức độ
7
đáp ứng của đội ngũ hiện tại với nhu cầu phát triển của nhà trường.
Tiếp cận hệ thống: Theo quan điểm hệ thống tất cả các tổ chức đều là
những hệ thống và là bộ phận của hệ thống lớn hơn, có sự tác động qua lại,
chi phối hay tương tác với nhau tùy vào mối quan hệ giữa chúng và rong mỗi
nhà trường người quản lý luôn chịu tác động của nhiều yếu tố. Vì vậy, luận
án sử dụng tiếp cận hệ thống để xem xét mối quan hệ tác động qua lại giữa
GV - nhà trường, TTCM - GV, để đánh giá những yếu tố tác động đến BD
GV. Nghiên cứu BD GV ở trường THCS nhằm phát triển NLDH đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục.
Tiếp cận chuẩn: Thực chất của phương pháp tiếp cận này là dựa trên
những chuẩn GV được quy định trong các văn bản như Luật Giáo dục, Điều lệ
trường THCS, Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực giáo dục 2011 - 2020,
Chuẩn nghề nghiệp Gv…
5.1.2. Tiếp cận thực tiễn
Thực chất cách tiếp cận này là sự kết hợp giữa lý luận chung trong quản lý
giáo dục với việc nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn quản lý bồi dưỡng GV THCS
trong nước và thế giới, phân tích thực tiễn các trường THCS trên địa bàn Hà Nội
để có được những biện pháp quản lý bồi dưỡng GV phù hợp và hiệu quả.
Khảo sát, điều tra, phân tích làm rõ thực trạng hoạt động bồi dưỡng năng
lực dạy học của giáo viên THCS thành phố Hà Nội thời gian qua và trong bối
cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Mục đích: Tìm hiểu những luận cứ khoa học trong quản lý giáo dục nói
chung, quản lý bồi dưỡng GV THCS nói riêng để tìm ra những khái niệm và tư
tưởng cơ bản làm cơ sở xây dựng khung lý thuyết về quản lý bồi dưỡng GV THCS.
Các phương pháp cụ thể:
- Phân tích, tổng hợp các tài liệu về lý thuyết quản lý, quản lý giáo
8
dục, bồi dưỡng GV, quản lý bồi dưỡng GV.
-
Phân tích các lĩnh vực quản lý trong trường THCS và các yếu tố ảnh
hưởng đến việc quản lý bồi dưỡng GV THCS.
5.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Mục đích của nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn nhằm làm rõ thực
trạng về đội ngũ GV, thực trạng quản lý bồi dưỡng GV, những điều kiện cụ thể
về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý bồi dưỡng GV từ đó đề
xuất các biện pháp quản lý bồi dưỡng GV THCS.
Các PP cụ thể:
- Phương pháp quan sát: Thu thập thông tin trên cơ sở quan sát trực tiếp
hoạt động dạy học của GV, hoạt động bồi dưỡng GV, quản lý bồi dưỡng GV để
có những tài liệu thực tiễn về vấn đề này để có những kết luận khái quát về
thành công và tồn tại cùng nguyên nhân trong quản lý bồi dưỡng để có những
biện pháp quản lý, chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng GV tốt hơn.
- Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu hỏi để tiến hành điều tra. Để thông
tin mang tính khách quan, đảm bảo độ tin cậy, mang tính đại diện cho các Quận
huyện việc khảo sát được tiến hành với một số trường THCS thành phố Hà Nội.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả sử dụng hệ thống câu hỏi liên
quan đến những vấn đề trong quản lý bồi dưỡng GV để trao đổi, phỏng vấn các
đối tượng là GV, cán bộ quản lý nhà trường.
- Phương pháp chuyên gia: Được sử dụng nhằm thu thập các ý kiến của các
nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục về vấn đề quản lý bồi dưỡng GV THCS.
- Phương pháp khảo nghiệm: Sử dụng bảng hỏi cho các nhóm đối tượng:
GV, CBQL các cấp.
- Phương pháp thực nghiệm
Mục đích của phương pháp thực nghiệm nhằm thu thập những thông tin
về sự thay đổi trong quản lý bồi dưỡng GV THCS, khẳng định tính cần thiết và
tính khả thi của các biện pháp quản lý bồi dưỡng GV THCS, kiểm chứng các
giả thuyết đã nêu và có các kết luận về giải thuyết đó.
9
Hình thức thực nghiệm: Thực nghiệm các biện pháp quản lý bồi dưỡng
GV THCS tại trường THCS thành phố Hà Nội theo hình thức thực nghiệm
song hành (nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm).
5.2.3. Phương pháp thống kế toán học
Phương pháp này được sử dụng để phân tích số liệu thống kê, số liệu
khảo sát, các số liệu điều tra khảo sát được xử lý bằng các phần mềm, các công
thức toán thống kê như: trung bình cộng, số trung vị, hệ số tương quan thứ bậc
Spearman để định lượng kết quả nghiên cứu cho đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận án
6.1. Đánh giá năng lực dạy học của GV THCS thành phố Hà Nội làm cơ sở
phân loại từng nhóm giáo viên theo đặc điểm, trình độ, chất lượng, để xác định
mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương thức tổ chức bồi dưỡng năng lực dạy
học phù hợp, tức là quán triệt nguyên tắc phân hóa trong quá trình bồi dưỡng.
6.2. Xác định các biện pháp quản lý hiệu quả bồi dưỡng năng lực dạy
học cho giáo viên THCS thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
phát triển:
+ Tổ chức tự bồi dưỡng bằng các tài liệu trong đó tính hợp lý giữa lý
thuyết với kỹ năng dạy học môn học theo tiếp cận năng lực bằng hệ thống các
bài tập tình huống sư phạm.
+ Xây dựng cộng đồng phát triển nghề nghiệp trong nhà trường, trong đó
lấy tổ, nhóm chuyên môn làm đơn vị hạt nhân phát triển chương trình, tài liệu
bồi dưỡng, triển khai bồi dưỡng.
+ Nghiên cứu bài học là phương thức cơ bản kết hợp tự bồi dưỡng với
bồi dưỡng qua sinh hoạt phát triển năng lực dạy học ở tổ chuyên môn, tập thể
sư phạm nhà trường.
6.2.1. Phát triển chương trình bồi dưỡng
+ Xác định mục tiêu bồi dưỡng
10
+ Xác định nội dung bồi dưỡng
+ Xác định phương thức bồi dưỡng
+ Đánh giá chất lượng bồi dưỡng
6.2.2. Đề Xuất các chính sách phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên
và sử dụng giáo viên.
6.3. Đổi mới ứng dụng CNTT và TT trong BD NLDH cho GV.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận:
+ Xác định và phân tích các khái niệm cơ bản: Giáo viên, giáo viên
THCS, năng lực, năng lực dạy học của giáo viên, bồi dưỡng năng lực dạy học,
quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học,...có giá trị định hướng lý luận cho BD và
quản lý BD phát triển NL nghề nghiệp phổ thông.
+ Phân tích mối quan hệ giữa yêu cầu đổi mới giáo dục với hoạt động
bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho GV THCS là mô hình
quản lý BD cập nhật NL nghề nghiệp GV theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
+ Phân tích được quan hệ tự bồi dưỡng trong cộng đồng nghề nghiệp,
lấy tập thể sư phạm nhà trường và tổ chuyên môn là đơn vị cộng đồng phát
triển nghề nghiệp giáo viên.
+ Phân tích mối quan hệ giữa đánh giá năng lực dạy học và phát triển
năng lực dạy học thường xuyên; các điều kiện bảo đảm chất lượng bồi dưỡng
là những đóng góp có giá trị định lượng hoạch định biện pháp tạo động lực
phát triển liên tục năng lực nghề nghiệp GV một cách bền vững.
+ Xác định khung lý luận để phân tích kinh nghiêm thực tế về quản lý
bồi dưỡng năng lực dạy học cho GV THCS TP. Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục.
- Ý nghĩa thực tiễn:
11
+ Luận án làm rõ thực trạng năng lực dạy học của đội ngũ giáo viên
THCS và thực trạng quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THCS
thành phố Hà Nội định hướng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; chỉ rõ nguyên
nhân của thực trạng.
+ Luận án đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực
dạy học cho giáo viên THCS, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn, nhằm nâng cao
chất lượng dạy học tại các trường THCS thành phố Hà Nội.
+ Kết quả nghiên cứu của Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích về lý
luận và thực tiễn cho các trường THCS, các cấp quản lý giáo dục đào tạo nói
chung THCS nói riêng của thành phố Hà Nội trong quản lý, đánh giá, phát triển
năng lực dạy học của đội ngũ giáo viên.
8. Kết cấu của luận án
Cấu trúc luận án: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phần kết quả nghiên cứu các nội dung được trình bày trong 3 chương, kết
luận và kiến nghị, danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu của đề
tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
12
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG NĂNG
LỰC DẠY HỌC CHO GIÁO VIÊN TRUNG HỌC
1. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài
Thực tế nhiều quốc gia đã khẳng định: Bồi dưỡng giáo viên là vấn đề cơ
bản trong phát triển giáo dục. Việc tạo điều kiện để mọi người có cơ hội học tập,
học tập thường xuyên, học tập suốt đời; kịp thời bổ sung kiến thức và đổi mới
phương pháp dạy học để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội là phương
châm của các cấp quản lý giáo dục. Chính vì vậy có khá nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề giáo viên, phát triển giáo viên, quản lý giáo dục và quản lý giáo
viên. Tổng hợp và phân loại các công trình theo các hướng nghiên cứu như sau:
Hướng nghiên cứu thứ nhất: Những công trình bàn về bồi dưỡng giáo viên.
Về nội dung bồi dưỡng thường được các tác giả đề cập trong các công
trình về phát triển đội ngũ GV, giáo viên, chủ yếu là bồi dưỡng, phát triển
chuyên môn, bồi dưỡng năng lực của đội ngũ giáo viên thể hiện trong nghiên
cứu của tác giả Susan Sclafani với nghiên cứu “Teachers and trainers” [208],
trong báo cáo chuyên đề “Teacher Professional Development”[217]. Đặc biệt
với nghiên cứu của Jacques Delors với đề tài “Learning: The treasure within”,
đã đề cập đến vấn đề bồi dưỡng và phát triển chuyên môn GV trong bối cảnh
mới[202]. Các công trình này tập trung vào những vấn đề về bồi dưỡng kiến
thức, kỹ năng cho đội ngũ GV. Công trình của X.I.Kixegof, N.V.Kuzmina,
F.N.Gonobolin, O.A.Abdullina đưa ra cả một hệ thống lý luận và kinh nghiệm
vững chắc trong lĩnh vực đào tạo và bồi dưỡng nghề nghiệp cho GV. Ở Phần
Lan, trong nghiên cứu của Hannele Niemi và Ritva Jakku-Sihvonen, các tác giả
đã mô tả chi tiết và đã phân tích thuyết phục về những thay đổi quan trọng
trong cấu trúc, nội dung chương trình bồi dưỡng GV để nâng cao chất lượng
giáo dục. Ở bang Quebec (Canada), các nhà nghiên cứu đã trình bày bộ tiêu
chuẩn năng lực GV; đặt ra vấn đề đổi mới quan niệm về đào tạo, bồi dưỡng
GV; đề xuất thiết kế các chương trình BDGV [217].
13
Tóm lại: Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã đề cập tới nhiều
nội dung BD. Nội dung bồi dưỡng phải đổi mới, bổ sung và cập nhật kịp thời
tri thức khoa học của các ngành chủ chốt hoặc các ngành có liên quan đáp ứng
với tiến độ phát triển của khoa học công nghệ (điện tử, tin học...) hoặc với
những biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị, xã hội, triết học, kinh tế chính trị
học, xã hội học và các môn khoa học khác.
Nội dung bồi dưỡng kiến thức bổ trợ và phục vụ các môn tự chọn như:
tin học, ngoại ngữ, phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản và tổ chức nghiên
cứu khoa học, phong tục tập quán địa phương...
Nội dung bồi dưỡng GV cần phải tập trung BD kiến thức, kỹ năng, giá trị, thái
độ...Đây là nội dung hết sức cần thiết góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ GV.
Về hình thức bồi dưỡng, cơ quan giáo dục khu vực châu Á của
UNESCO (ROEAP) đã tổ chức một Hội nghị về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên
18 nước trong khu vực. Kết quả, Hội nghị tổng kết một số kinh nghiệm về bồi
dưỡng giáo viên như sau:
Hoạt động bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhà giáo ở các nước trên thế
giới được tổ chức độc lập như các Viện nghiên cứu, các Trung tâm bồi dưỡng
và đào tạo sư phạm tiến hành như mô hình của các nước xã hội chủ nghĩa trước
đây. Ở đa số quốc gia, người ta đã giao Trường Sư phạm có nhiệm vụ thực hiện
hoạt động bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo rất phong phú, đa dạng phù hợp với từng
đối tượng cụ thể. Trong một tác phẩm nổi tiếng “Trường trung học Pavlưts”,
V.A.Xukhômlinxki đã trình bày một cách cụ thể chiến lược BD NLDH cho GV
thông qua việc dự giờ của từng GV [189].
Thái Lan là một trong những nước có chính sách rất thiết thực về bồi
dưỡng và đào tạo lại đội ngũ giáo viên. Tất cả giáo viên đều phải tham gia
học tập đầy đủ các nội dung, chương trình về nghiệp vụ quản lý chuyên môn
theo quy định. Nhà nước đã đưa ra chương trình lớn được thực thi trong thập
kỷ vừa qua, đó là: “Chương trình bồi dưỡng giáo viên mới” để xây dựng kế
14
hoạch bồi dưỡng giáo viên trong 10 năm và chương trình trao đổi, chương
trình đào tạo trong nước.
Đối với Thái Lan, việc bồi dưỡng giáo viên được tiến hành ở các Trung
tâm học tập cộng đồng, nhằm thực hiện giáo dục cơ bản, huấn luyện kỹ năng
nghề nghiệp ngắn ngày và thông tin tư vấn cho mọi người dân trong xã hội.
Tại Philipin, công tác bồi dưỡng cho giáo viên không tổ chức trong năm
học mà tổ chức bồi dưỡng vào các khóa học hè và cũng có nhiều mô hình bồi
dưỡng theo các hình thức khác nhau: Thuyết trình, hội thảo, sinh hoạt chuyên
môn tại trường, kèm cặp, giảng dạy mẫu, thông qua mạng [37].
Ở nước Anh, bồi dưỡng GV được tiến hành thông qua chương trình phát
triển chuyên môn liên tục, thông qua mạng lưới liên trường; bồi dưỡng qua các
khóa chuyên sâu, hội thảo, hợp tác [153].
Tại Pakistan, Nhà nước đã xây dựng chương trình bồi dưỡng về sư phạm
cho đội ngũ giáo viên và quy định trong thời gian 3 tháng, cần bồi dưỡng
những nội dung gồm: giáo dục nghiệp vụ dạy học; cơ sở tâm lý giáo viên;
phương pháp nghiên cứu, đánh giá và nhận xét học sinh... đối với đội ngũ giáo
viên mới vào nghề chưa quá 2 năm.
Tại Liên Xô (cũ), các nhà nghiên cứu quản lý giáo dục (P.V.
Khuđominxki, M.I. Konđacốp) đã rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng
dạy học thông qua các biện pháp quản lý có hiệu quả. Muốn nâng cao chất
lượng dạy học phải có đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn. Họ cho rằng,
kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức
đúng đắn và hợp lý công tác quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
Ở Triều Tiên, đối với giáo viên mới vào nghề chưa quá 3 năm, có
chương trình bồi dưỡng về sư phạm do Nhà nước quy định trong 3 tháng, gồm
các nội dung như giáo dục nghiệp vụ dạy học, cơ sở tâm lí giáo dục, phương
pháp nghiên cứu, đánh giá và nhận xét học sinh. Khi bồi dưỡng giáo viên phải
chú ý xây dựng nhóm đối tượng giáo viên cùng có chung đặc điểm trong toàn
15
bộ đội ngũ giáo viên. Phân tích những yêu cầu và nội dung cần bồi dưỡng từng
nhóm cho phù hợp, góp phần nâng cao chất lượng cho từng loại đối tượng.
Một hình thức bồi dưỡng khác mà tác giả Eleonora Villegass-Reimers
(2003) nghiên cứu là thông qua một số mô hình như: Mô hình tổ chức hợp tác
giữa các trường hoặc mô hình quy mô nhỏ (trường học, lớp học…) [214].
Bàn về phương pháp bồi dưỡng giáo viên, một số tác giả cho rằng giáo
viên gọi là những người biết nắm bắt cơ hội học hỏi trong nghiên cứu "What
Makes A Good Teacher?" [222] của tác giả Marie F.Hasse. Trao đổi các hoạt
động giữa các trường với nhau, các GV với nhau đồng thời tổ chức chương
trình phát triển giáo dục chung cho các cụm trường, các vùng miền...Trong
nghiên cứu "Teacher's Professional development - Eueope in Internasional
comparison"[217], của nhóm nghiên cứu từ Đại học Twente, Hà Lan. Các quốc
gia Châu Âu đã thay đổi chính sách cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy
của GV bằng cách tạo điều kiện tốt nhất cho giáo viên và HS, không ngừng đào
tạo, bồi dưỡng và phát triển GV chuyên nghiệp, nhấn mạnh sự cần thiết phải
cung cấp cơ hội cho việc bồi dưỡng và phát triển chuyên môn GV cần được
thực hiện liên tục. N.M.Iacôplep bàn về “Phương pháp và kỹ thuật lên lớp
trong trường phổ thông” [139], hay “Tự đào tạo để dạy học” của Patrice Pelpel
đã đưa ra những yêu cầu cụ thể về kiến thức, kỹ năng , kỹ xảo đối với GV phổ
thông và các PP thực hiện [144].
Tóm lại: Chương trình bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ bao gồm nội
dung, hình thức, phương pháp giảng dạy mới, đánh giá xếp loại học sinh, trình
độ nhận thức, ý thức nghề nghiệp...
Những kết quả nghiên cứu trên đây có giá trị tốt khi áp dụng vào những
quốc gia có điều kiện phù hợp. Việc áp dụng những kết quả đó vào thực tiễn
của Việt Nam vấn còn là vấn đề cần nghiên cứu và phát triển cho phù hợp.
Hướng nghiên cứu thứ hai: Những công trình bàn về quản lý bồi dưỡng
giáo viên.
16
Về nội dung quản lý bồi dưỡng GV, một số tác giả đã quan tâm nghiên
cứu, tuy nhiên số công trình nghiên cứu liên quan đến về vấn đề này không
nhiều, nội dung quản lý bồi dưỡng được cập nhật ở các mức độ khác nhau.
Kế hoạch bồi dưỡng GV được đề cập trong Kết luận Hội nghị của Ủy ban
Châu Âu về phát triển kỹ năng nghề nghiệp theo cách đánh giá học tập “VET
teacher professional development in a policy learning perspective” [146] đã đề
cao vai trò của cá nhân trong hoạt động bồi dưỡng. Thông qua kế hoạch bồi
dưỡng nhằm nâng cao trình độ của mỗi GV, kế hoạch học tập bồi dưỡng của
GV phải được đồng nhất với kế hoạch phát triển của nhà trường và của xã hội.
Về công tác quản lý bồi dưỡng: Vai trò của lãnh đạo trong quản lý hoạt
động bồi dưỡng có ảnh hưởng quan trọng vào thành tích học tập, bồi dưỡng của
GV. Nghiên cứu “Teaching in focus”[226] của tổ chức OECD đã khẳng định
lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng hiệu quả là tạo ra một môi trường thuận
lợi, môi trường giá trị, tạo tâm lý cho GV có động cơ tự học, tự bồi dưỡng, tự
kiểm soát hoạt động bồi dưỡng của bản thân.
Thẩm định, kiểm tra, đánh giá và phản hồi thông tin cũng được quan tâm
nghiên cứu. Tuy nhiên việc thẩm định, đánh giá hoạt động bồi dưỡng là vấn đề
khó khăn đối với các quốc gia đặc biệt là việc xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu
quả bồi dưỡng GV thông qua hoạt động trong nghiên cứu “Supporting the
Teaching Professions for Better Learning Outcomes” [212]. Nghiên cứu cũng
khẳng định, để cải thiện và nâng cao chất lượng GV cần đảm bảo rằng tất cả
các GV đều nhận được thông tin phản hồi, để từ đó điều chỉnh và cụ thể hóa kế
hoạch học tập, bồi dưỡng của mình.
Vấn đề bồi dưỡng đã được đưa thành chính sách của nhà nước, có các quy
định cụ thể về việc tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ
và chuẩn hóa trình độ đào tạo cho giáo viên. Theo Hannele Niemi và Ritva
Jkku-Sihvonen, hệ thống GD Phần Lan - có thành tích cao nhất trong kì thi
PISA là do đã quyết định nâng chuẩn trình độ GV phổ thông lên trình độ thạc
sỹ và mọi GV có nghĩa vụ và quyền hạn phải không ngừng học tập, phát triển
17
chuyên môn. Luật nhà trường của bang Brandenburg, Cộng hòa Liên bang Đức
[46] quy định rõ GV phải có nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng, thường xuyên cập
nhật kiến thức và đưa vào những biện pháp đào tạo nâng cao NL chuyên môn.
Theo V.A Xukhomlinski [189], Việc lập kế hoạch bồi dưỡng là một khâu
vô cùng quan trọng do vậy trong mỗi nhà trường cần lập kế hoạch cụ thể và chi
tiết. Trong thời điểm tổ chức bồi dưỡng thì các nhà nghiên cứu thì cho rằng
công tác bồi dưỡng GV không những tổ chức theo chu kì mà phải được BD
thường xuyên, quanh năm [189]. Các nhà nghiên cứu ở Philipphin lại cho rằng
thời điểm BD tùy thuộc vào mô hình BD. Mô hình BD tại trường phổ thông thì
diễn ra suốt cả năm học; mô hình phân tầng thời gian BD kéo dài kì nghỉ hè và
đầu năm học mới; Mô hình theo cụm BD theo đợt; Mô hình học tập từ xa diễn
ra thường xuyên và tùy theo sự lựa chọn của mỗi cá nhân [37]. Tại Bang
Califoria, Mỹ đối với GV tập sự phải tham dự BD bắt buộc 2 năm, thời điểm
tham dự BD tùy từng GV lựa chọn căn cứ trên năng lực thực hiện so với bộ
chuẩn chất lượng của chương trình hỗ trợ nghề nghiệp cho GV tập sự [38].
Nhiều nước trên thế giới luôn quan tâm đến lực lượng tham gia bồi dưỡng.
Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, trưởng bộ môn, giáo viên có kinh nghiệm trong
nhà trường sẽ là lực lượng nòng cốt tham gia trong quá trình kèm cặp, giúp đỡ
đồng nghiệp [189]. GV có kinh nghiệm, có trình độ nghề nghiệp cao hướng dẫn
tư vấn cho GV mới cũng được thấy rõ ở các nước Anh, Hoa Kì, Thái Lan [54].
Sau quá trình BD nhiều nước đã có các hình thức đánh giá kết quả bồi
dưỡng. Ở Anh - Viết chuyên đề; xây dựng kĩ năng giảng dạy, biên soạn và
thuyết trình. Các sản phẩm này sẽ được đánh giá căn cứ theo Chuẩn giáo viên
[99]; Ở Bang California, với mỗi chương trình bồi dưỡng GV 5 ngày thì GV
được đánh giá ít nhất 4 lần. Tuy nhiên, ở đây Chuẩn nghề nghiệp GV không
phải là cơ sở để đánh giá GV [54]. Các nước Anh, Thái Lan cũng rất quan tâm
đến sử dụng những GV có kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao
để hướng dẫn, tư vấn cho các GV mới [54].
18
Tóm lại: Những công trình nghiên cứu ở ngoài nước khá phong phú, đa
dạng, đề cập khá sâu sắc những chủ trương, biện pháp cần áp dụng trong việc
phát triển đội ngũ GV. Tuy nhiên, những nghiên cứu về bồi dưỡng, quản lý bồi
dưỡng GV còn ít. Một số công trình nghiên cứu về quản lý bồi dưỡng GV mới
chỉ tập trung vào việc cá nhân hóa hoạt động này như việc lập kế hoạch bồi
dưỡng của GV, thẩm định, đánh giá và phản hồi.... Trong đó, chưa có công
trình nào trực tiếp bàn về đề tài “Quản lý hoạt động bồi dưỡng GV trung học cơ
sở theo phát triển năng lực dạy học ” nói chung, ở Việt Nam nói riêng. Những
công trình đó là tài liệu cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng một cách sáng
tạo trong điều kiện của Việt nam.
2. Những công trình nghiên cứu ở Việt Nam liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam phát triển đội ngũ GV nói chung và công tác BD ĐNGV nói
riêng có tầm quan trọng chiến lược quyết định chất lượng giáo dục. Hiện này,
toàn ngành giáo dục đang tiếp tục thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông, vấn đề nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên càng trở nên cấp
bách. Có thực hiện tốt điều này thì chất lượng giáo viên mới được nâng lên.
Những năm gần đây, có khá nhiều công trình nghiên cứu về đội ngũ nhà giáo,
về phát triển đội ngũ nhà giáo của các nhà khoa học trong nước có thể chia
thành các hướng nghiên cứu như sau:
Hướng nghiên cứu thứ nhất: Những công trình bàn về bồi dưỡng giáo viên.
Về nội dung bồi dưỡng, luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm và
hướng đến nội dung là phát triển và nâng cao năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ
giáo viên, thể hiện trong "Cẩm nang nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ
giáo viên"[9] của các tác giả Đặng Quốc Bảo, Đỗ Quốc Anh, Đinh Thị Kim
Thoa; ngoài ra còn có các công trình của tác giả Trần Kiểm[111], Đinh Quang
Báo[13], các công trình này nghiên cứu phát triển đội ngũ theo 3 hướng: 1)
Nghiên cứu phát triển đội ngũ giáo viên dưới góc độ phát triển nguồn nhân lực;
2) Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; 3)
19
nghiên cứu đề xuất hệ thống các giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ giáo
viên trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, các công
trình trên hầu hết vẫn còn để lại khoảng trống nghiên cứu về quản lý hoạt động
bồi dưỡng năng lực dạy học của giáo viên từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận
năng lực thực hiện trong đổi mới giáo dục Việt Nam trong thời kì hội nhập
quốc tế và xu thế toàn cầu hóa.
Những nghiên cứu về hoạt động bồi dưỡng giáo viên cũng có nhiều công
trình đề cập. Các công trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này như: “Đào tạo và
bồi dưỡng giáo viên” của tác giả Lê Trần Lâm, “Về nghiệp vụ sư phạm cho sinh
viên” của tác giả Nguyễn Quang Uẩn. Tiêu biểu là cuốn “Vấn đề giáo viên Những nghiên cứu lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Bá Hoành (2006)[86], đã
dành phần lớn nội dung nói về công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở Việt Nam.
Một số tác giả như: Nguyễn Đức Vũ đăng trên Kỷ yếu Hội thảo kỷ niệm
60 năm ngành Sư phạm Việt Nam, Bộ GD&ĐT - Hà Nội tháng 10 năm 2006;
“Phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên phổ thông qua nghiên cứu bài
học” của tác giả Đặng Thị Hồng Đoan (T/c Giáo dục số 268, 8/2011)[53];
“Phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên phổ thông qua nghiên cứu bài
học” - Hội thảo khoa học quốc tế do trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức
tháng 12/2009; BD NLDH cho GV đã được các nhà nghiên cứu giáo dục và lý
luận dạy học quan tâm như: Trương Đại Đức [62], Nguyễn Tiến Đạt[51], Trần
Khánh Đức [60], Phạm Minh Hạc[78], Trần Bá Hoành[87], Các tác giả có
nhiều cách tiếp cận khác nhau về NL và NL nghề trong quá trình đào tạo và BD
GV. Tác giả Trần Khánh Đức[59] đã đề xuất một số biện pháp mới cho công
tác đào tạo và BD GV đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tác giả Nguyễn Thu
Hà (2002)[76] đã nêu một số vấn đề cơ bản có liên quan đến đào tạo BD GV
tiểu học xuất phát từ thực tiễn. Từ năm 2011 trở lại đây còn nhiều đề tài nghiên
cứu về BD NLDH cho các đối tượng GV như tác giả Hồng Hà với đề tài ‘Bồi
dưỡng giáo viên đáp ứng yêu cầu dạy học phân hóa ở trường trung học phổ
20
thông”[75], Đỗ Thế Hưng, Nguyễn Văn Hạnh (2013) - học tập trải nghiệm
trong đào tạo kỹ thuật đáp ứng chuẩn nghề nghiệp [98], Vũ Xuân Hùng (2012)
[106], Nguyễn sỹ Thư (2012)[183]. Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên
các báo và các hội thảo khoa học nghiên cứu về công tác BD GV và tổ chức
BD GV … kể đến tác giả Cao Tuấn Anh[1], Vũ Ngọc Anh[2], Nguyễn Hữu
Dung[48], Chử Xuân Dũng[49], Phạm Ngọc Hải[81], Vũ Hạnh[84], Trần Diên
Hiển [85], Nguyễn Dương Hoàng [91]…các luận án: “ Quản lý bồi dưỡng năng
lực dạy học cho giáo viên ở trường trung học phổ thông theo chuẩn nghề
nghiệp” của tác giả Trần Thị Hải Yến (2015), các tác giả Phạm Văn Sơn,
Nguyễn Thị Tuyết (2015), Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lí giáo dục theo tiếp cận năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục. Bài viết bàn về mục tiêu, nội dung và hình thức đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ nhà giáo và CBQLGD theo tiếp cận năng lực được đăng trên Kỷ yếu Hội
thảo khoa học cấp quốc gia do Trường ĐHSP Hà Nội, Bộ GD&ĐT tổ chức
chủ đề: Đào tạo đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục trong bối cảnh
đổi mới giáo dục (195). Công trình nghiên cứu “Quản lý hoạt động tổ chuyên
môn theo hướng phát triển năng lực dạy học của giáo viên trung học trong bối
cảnh đổi mới giáo dục” của tác giả Ngô Thị Phương Thảo (2016).
Tóm lại: Nội dung bồi dưỡng GV đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên
cứu. Tuy nhiên, các tác giả tập trung nghiên cứu và áp dụng đối với giáo viên
phổ thông. Các công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung bồi dưỡng GV
THCS rất ít, nội dung chủ yếu là bồi dưỡng chuyên môn (kiến thức, kỹ năng),
bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học. Đó cũng là những nội dung hết sức cần thiết
trong bồi dưỡng GV. Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong điều kiện hiện nay nội
dung đó chưa đủ để người GV hoàn thành tốt nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục THCS, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Về hình thức bồi dưỡng, thực hiện việc bồi dưỡng (học tập thường xuyên)
cần có nhiều hình thức, đa dạng, phù hợp với điều kiện và khả năng tài chính
21
của địa phương. Có thể nêu một số tác giả có công trình nghiên cứu theo hướng
này là: Trần Khánh Đức[61], Nguyễn Thanh Bình[15], Claude Allegre[44], Lê
Ngọc Hùng[94].
Ngoài những hình thức bồi dưỡng được gọi là “truyền thống” như bồi
dưỡng tập trung, bồi dưỡng không tập trung, bồi dưỡng tại chỗ, bồi dưỡng từ
xa....Một số tác giả đã quan tâm đến hoạt động tự đào tạo, tự bồi dưỡng và coi
đây là “chiến lược của phát triển giáo dục Việt Nam”, nội dung này được phản
ánh trong các công trình nghiên cứu của tác giả Đặng Quốc Bảo [8], Phậm Đỗ
Nhật Tiến [167]. Có nhiều tác giả như Nguyễn Minh Đường[65], Vũ Quốc
Chung[37], Trần Bá Hoành [93] đã đưa ra nhiều hình thức tổ chức BD. Tác giả
Phan Thị Lạc[113] đã đề xuất hình thức BD qua kênh truyền hình, xác định
thời gian, kênh phát sóng chương trình khá phù hợp và khả thi. Tác giả Trần Bá
Hoành khẳng định việc BD ở các trường là vấn đề then chốt để nâng cao chất
lượng BD [93] . Nhiều tác giả đã khẳng định mỗi GV tự mình tích cực tham gia
công tác đào tạo BD thì sẽ thu được kết quả tốt. Đồng thời hình thức sinh hoạt
chuyên môn trong mỗi nhà trường là hình thức BDGV hiệu quả [84]. Hiện nay
hình thức BD trực tuyến được đề cao và cho là phù hợp với xu thế phát triển
của xã hội đã được nêu trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quang Giao[68],
Nguyễn Minh Tuấn[188]. Tác giả Nguyễn Hữu Độ trong nghiên cứu đã kết
luận: BD và phát triển NL chuyên môn cho GV thông qua mô hình nghiên cứu
bài học sẽ khả thi hơn so với các hình thức BD truyền thống khác. Hình thức
BD phải linh hoạt, có lúc phải BD tập thể, có lúc cần tách theo TCM, có lúc lại
BD cho một số ít người[104]. Nói chung, các tác giả đã đề xuất nhiều hình thức
BD khác nhau nhằm lựa chọn được hình thức BD phù hợp cho mọi đối tượng
GV để công tác BD GV đạt hiệu quả cao. Đặc biệt hình thức BD tại tổ chuyên
môn như dự giờ trao đổi về tiết dạy là vấn đề chúng tôi bám sát để tiếp tục triển
khai nghiên cứu ứng dụng trong nhà trường THCS hiện nay.
22
Về phương pháp bồi dưỡng, đây cũng là một trong những vấn đề được
nhiều tác giả quan tâm trong bồi dưỡng giáo viên, giảng viên, được đề cập
trong các công trình [30]; [58]; [46]; [50], [66]. Ngoài việc đổi mới phương
pháp đào tạo, bồi dưỡng, phương pháp bồi dưỡng hiệu quả hiện nay là phát huy
nội lực, được đề cập trong nghiên cứu [109]; [9]. Tác giả Nguyễn Hữu Dũng đã
nêu ra trong nghiên cứu các PP cụ thể và khẳng định việc lựa chọn PP nào phải
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ người học; lĩnh vực được đào tạo và
mục tiêu học tập; Năng lực của giảng viên[48]. Tác giả Phạm Đức Bách đưa ra
PP BD NLDH cho GV một cách hiệu quả thông qua trao đổi trong SHCM[3],
hay học tập trải nghiệm[98].
Tóm lại: Nhìn chung, các tác giả đều hướng về đổi mới phương pháp
trong đó phát huy nội lực của cá nhân GV là phương pháp tiến bộ được nhiều
tác giả đã đề cập. Tuy nhiên, do mục đích khác nhau nên những nghiên cứu BD
thống nhất qua tổ chuyên môn chưa đề cập sâu rộng, chưa thể hiện tính thống.
Do vậy, vấn đề PP BD GV cần được nghiên cứu nhiều hơn, đặc biệt tiếp cận
năng lực nghề nghiệp cần được quán triệt trong phát triển ĐNGV nói chung và
quản lý BD GV nói riêng.
Hướng nghiên cứu thứ hai: Những công trình bàn về quản lý bồi dưỡng
giáo viên.
Hoạt động BD và BD NLDH cho GV ở trong nước luôn được coi trọng.
Năm 2011 Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư 30/2011/TT-BGDĐT ngày 8
tháng 8 năm 2011 về chương trình BDTX GV, chương trình được ban hành
kèm theo thông tư này đã xác định cụ thể mục đích, đối tượng, nội dung
chương trình BDGV THPT[36]. Trong quá trình triển khai, Bộ GD&ĐT đã có
bổ sung Quy chế BDTX về hình thức, tài liệu, kinh phí, kế hoạch, đánh giá và
công nhận kết quả BDTX trong Thông tư 26/2012/TT-BGDĐT ngày 10 tháng
7 năm 2012 [25] thay cho quy chế BDTX theo chu kì trước đây. Bộ GD&ĐT
nêu rõ người GV phải có nhiệm vụ học tập, BD suốt đời để nâng cao NLDH.
23
Công tác quản lý bồi dưỡng GV đã được một số tác giả đề cập trong các
đề tài về phát triển đội ngũ GV. Tác giả Bùi Văn Quân và Nguyễn Ngọc Cầu
với đề tài "Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển đội ngũ giáo
viên" [89] đã đề cập đến 3 cách tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển đội ngũ
giáo viên. Trong nghiên cứu này tác giả nhấn mạnh "Hiện nay có rất nhiều cách
tiếp cận khác nhau, việc lựa chọn cách tiếp cận nào là do ý thức lý luận và kết
quả phân tích thực tiễn giáo dục của nhà nghiên cứu hay nhà quản lý quyết
định"[89]. Những biện pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên được thể hiện trong
các công trình nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên như [121]; [131].
Các biện pháp bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng GV được đề cập trong một số
công trình về phát triển đội ngũ GV các trường THPT...... Cùng hướng nghiên cứu
trên còn có các công trình [110], [79], [4]. Ngoài ra còn có các nghiên cứu của tác
giả Nguyễn Hữu Lam; "Bồi dưỡng, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục trong thời kì hội nhập"[149] của tác giả Thân Văn Quân...
Tóm lại: Các biện pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên đã được nhiều tác giả
đưa ra trong các đề tài nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên. Nhìn chung,
các biện pháp đều phù hợp với điều kiện, đối tượng và nội dung nghiên cứu
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Tuy nhiên, các biện pháp đào tạo,
bồi dưỡng trong các nghiên cứu trên đây mới chỉ dừng lại ở nội dung, hình
thức, phương pháp bồi dưỡng, vấn đề quản lý bồi dưỡng chưa được các tác giả
quan tâm khai thác. Theo chúng tôi, đây là vấn đề hết sức cần thiết cần phải tiếp
tục nghiên cứu.
Về vai trò của bồi dưỡng, quản lý bồi dưỡng, từ việc nghiên cứu những
kinh nghiệm của thế giới về bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng giáo viên trên thế
giới đến nghiên cứu thực tiễn Việt Nam, một số tác giả đã nhận định: việc bồi
dưỡng giáo viên là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển giáo
dục, tạo điều kiện cho đội ngũ GV nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm và những hiểu biết xã hội để sẵn sàng ứng phó với những
24
thay đổi của nền kinh tế - xã hội, vấn đề này được đề cập trong nghiên cứu
"Kinh nghiệm một số nước trên thế giới về bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng
giáo viên"[136] của tác giả Lục Thị Nga; tác giả Đinh Quang Báo với đề tài
“Một số giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên”[12]. “Việc nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao về nhận thức, về vai trò, vị trí của người
GV trong sự nghiệp cách mạng hiện tại và tương lai của nhà trường, của đất
nước, người GV luôn chú ý đến mọi hoạt động của bản thân mình” [7] .
Cùng hướng nghiên cứu trên còn có nhiều bài viết của các nhà khoa học,
các cán bộ nghiên cứu được đăng trên các tạp chí khoa học như: [1], [72].
Tóm lại: Vai trò của hoạt động bồi dưỡng giáo viên, GV được nhiều tác
giả đề cập trong nhiều công trình khoa học khác nhau đã một lần nữa khẳng
định hoạt động bồi dưỡng giáo viên, giảng viên là hoạt động không thể thiếu
trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào. Tuy nhiên, các nghiên cứu đề cập chủ
yếu về vai trò của hoạt động bồi dưỡng giáo viên mà chưa chú ý đến nghiên
cứu và khẳng định vai trò của việc quản lý hoạt động này. Kết quả nghiên cứu
của những đề tài trên đây chỉ có giá trị khoa học để làm tài liệu tham khảo, kế
thừa và phát triển trong việc nghiên cứu đề tài quản lý bồi dưỡng GV.
Nội dung quản lý bồi dưỡng giáo viên: Những công trình của các tác giả
có liên quan đến nội dung quản lý bồi dưỡng giáo viên có thể nói là rất ít. Gần
đây, đề tài “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải cách công tác đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên phổ thông” của tác giả Nguyễn Thị Bình [16] đã đề cập đến
giải pháp “Đổi mới phương thức hoạt động bồi dưỡng”, theo tác giả hoạt động
bồi dưỡng phải được quản lý từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh, huyện, trường
học. Trong các cấp quản lý đó thì cấp Trung ương có vai trò đề xuất chủ
trương, hoạch định chính sách, chiến lược, kiểm tra, đánh giá, các cấp tỉnh,
huyện là cấp trung gian, cấp trường là cấp quản lý thao tác. Với cách tiếp cận
hệ thống trong nghiên cứu, tác giả đã đề cao vai trò của chủ thể quản lý, việc
phân cấp quản lý bồi dưỡng giáo viên ở phổ thông.
25
Tóm lại: Có thể khẳng định, hiện nay các nghiên cứu về nội dung quản lý
bồi dưỡng giáo viên còn rất ít. Một số đề tài đã đề cập nhưng mới chỉ ở mức độ
hẹp, chưa sâu, chưa đầy đủ, nội dung quản lý hoạt động này còn mờ nhạt.
3. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố và những vấn đề tồn tại luận án tập trung giải quyết
Tổng quan các công trình nghiên cứu ở ngoài nước cũng như ở trong nước
có liên quan đến đề tài luận án cho thấy:
Nói chung, các công trình, bài viết trên đều tập trung làm rõ thực trạng
cũng như đề xuất giải pháp để đổi mới công tác bồi dưỡng giáo viên nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong giáo dục. Tuy nhiên, hầu
hết các nghiên cứu chưa đi sâu tìm giải pháp cụ thể về bồi dưỡng và quản lý hoạt
động bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THCS, đặc biệt là nội dung,
phương thức bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên đáp
ứng đổi mới giáo dục phổ thông trung học hiện nay.Vì vậy, đề tài luận án cần phải
nghiên cứu để xác định được mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức
bồi dưỡng phù hợp, lấy tự bồi dưỡng làm chính, kết hợp hoạt động nghiên cứu
khoa học với BD trong cộng đồng nghề nghiệp, trong đó lấy tổ bộ môn làm hạt
nhân, tổ chức đánh giá thường xuyên theo Chuẩn nghề nghiệp để liên tục thu nhận
thông tin phản hồi về sự phát triển nghề nghiệp của GV để điều chỉnh hoàn thiện
dần, trong đó lấy tự đánh giá của giáo viên làm cốt lõi. Đó là những nội dung
nghiên cứu được chú trọng trong đề tài luận án của tác giả.
Đối với thành phố Hà Nội, sau khi hợp nhất Hà Nội và Hà Tây, đã dẫn
đến sự chênh lệch về trình độ của đội ngũ giáo viên các trường THCS. Cũng
như hầu hết các địa phương trong cả nước, Hà Nội phải đối phó với việc phải
tăng nhanh số lượng giáo viên để đáp ứng cho sự nghiệp giáo dục của thành
phố trong bối cảnh tăng nhanh đô thị hóa bằng nhiều giải pháp tình thế, như:
giáo viên hợp đồng, tuyển dụng trái chuyên môn, tuyển dụng những người chưa
qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm hoặc là cho nợ chuẩn chuyên môn... Tất