Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bộ đội BIÊN PHÒNG TỈNH hà GIANG vận ĐỘNG QUẦN CHÚNG PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội ở KHU vực BIÊN GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.81 KB, 68 trang )

3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ đội Biên phòng (BĐBP) là lực lượng vũ trang cách mạng của
Đảng, Nhà nước; là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm
nòng cốt, chuyên trách trong quản lý, bảo vệ biên giới (BVBG) quốc gia. Để
thực hiện nhiệm vụ quản lý, BVBG quốc gia, BĐBP phải thường xuyên xây
dựng khu vực biên giới (KVBG) vững mạnh về mọi mặt: Chính trị, kinh tế xã hội (KT-XH), Quốc phòng - An ninh (QP-AN), góp phần quản lý, bảo vệ
vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới (ANBG) quốc gia.
Vận động quần chúng (VĐQC) là biện pháp công tác biên phòng cơ
bản của BĐBP; có vị trí rất quan trọng làm cơ sở, nền tảng cho các biện
pháp công tác khác trong quản lý, BVBG quốc gia. Thực tiễn công tác quản
lý, BVBG của BĐBP đã chứng minh rằng, ở đâu KT-XH phát triển thì ở đó
quần chúng nhân dân sẽ tích cực, tự giác tham gia có hiệu quả các phong
trào quản lý, BVBG quốc gia.
Trong những năm qua, BĐBP tỉnh Hà Giang đã tiến hành nhiều hoạt
động nhằm phát triển KT-XH ở KVBG, trong đó đã làm tốt công tác VĐQC
phát triển KT-XH, mang lại những kết quả nhất định, góp phần nâng cao đời
sống nhân dân ở KVBG. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng còn
những hạn chế nhất định dẫn đến hiệu quả chưa cao. Những hạn chế đó do
nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó một nguyên nhân cơ bản là chưa
phát huy hết vai trò của quần chúng nhân dân trong phát triển KT-XH.
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến công tác VĐQC phát triển
KT-XH của BĐBP đã có một số tác giả nghiên cứu dưới các góc độ khác
nhau. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống
về công tác VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG của BĐBP tỉnh Hà Giang
dưới góc độ khoa học biên phòng, chuyên ngành Quản lý biên giới. Vì vậy,


4



việc nghiên cứu đề tài "Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang vận động quần
chúng phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới ", có ý nghĩa cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nâng cao hiệu quả công tác VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG của
BĐBP tỉnh Hà Giang.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về BĐBP tiến hành VĐQC phát triển KTXH ở KVBG.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng BĐBP tỉnh Hà Giang tiến hành
VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác
VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG của BĐBP tỉnh Hà Giang.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Công tác Vận động quần chúng phát triển KT-XH ở KVBG của BĐBP.
- Phạm vi nghiên cứu:
Công tác Vận động quần chúng phát triển KT-XH ở KVBG của
BĐBP tỉnh Hà Giang từ năm 2002 đến năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác quần
chúng và phát triển KT-XH ở KVBG, quá trình nghiên cứu sử dụng các
phương pháp cụ thể như: Phân tích và tổng hợp; phân loại và hệ thống hoá;
nghiên cứu lịch sử; khảo sát, điều tra; các phương pháp dự báo khoa học và
phương pháp chuyên gia.
6. Cấu trúc luận văn



5

Luận văn cấu trúc gồm: Mở đầu, 3 chương, kết luận, kiến nghị, tài
liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN
CHÚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI
CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN
CHÚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI CỦA BỘ
ĐỘI BIÊN PHÒNG

1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Vận động quần chúng
Vận động quần chúng của Bộ đội Biên phòng là biện pháp công
tác biên phòng cơ bản, thường xuyên, có tính chiến lược của Bộ
đội Biên phòng, dựa vào chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tình hình nhiệm vụ của địa
phương để tiến hành tuyên truyền, giáo dục, tổ chức hướng dẫn
quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ biên giới, vùng biển của Tổ
quốc [22, tr.1161].
Công tác VĐQC bao gồm những nội dung chủ yếu là: tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao giác ngộ chính trị, cảnh giác cách mạng cho quần chúng
ở KVBG; tham gia xây dựng CSCT xã, phường vững mạnh toàn diện; củng
cố phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, tổ chức hướng dẫn quần
chúng nhân dân BVBG; tăng cường quan hệ hữu nghị với nhân dân nước
láng giềng; quan hệ đoàn kết quân dân, vận động nhân dân chấp hành pháp
luật, chống âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, tố giác tội phạm và
phát triển KT-XH.



6

Công tác VĐQC được tiến hành trên cơ sở chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước; chủ trương, chính sách lớn của địa phương. Công
tác VĐQC được tiến hành thường xuyên với nội dung được xác định trong
quyết tâm, kế hoạch BVBG của BĐBP. Tiến hành công tác VĐQC nhằm tuyên
truyền, giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho quần chúng tin tưởng
vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, xây
dựng phong trào cách mạng tự giác trong quần chúng làm cho quần chúng hiểu
và tích cực tham gia cùng BĐBP trong quản lý, BVBG quốc gia.
1.1.1.2. Phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới
Phát triển KT-XH ở KVBG là tổng thể các chủ trương, biện pháp của
cấp uỷ, chính quyền địa phương trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành,
các cấp và quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ phát triển KT-XH ở KVBG.
Phát triển KT-XH ở KVBG là một tiêu chí đánh giá sự phát triển toàn
diện của KVBG. Bởi vì, đánh giá sự phát triển ở KVBG không chỉ căn cứ
vào tăng trưởng đơn thuần của kinh tế, mà đi liền với nó là sự đảm bảo
những mục tiêu, chính sách phát triển KT-XH ở KVBG.
Phát triển KT-XH ở KVBG cũng nhằm mục đích, phục vụ cho lợi ích
cho nhân dân ở KVBG. Trên cơ sở đó, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cũng như văn hoá, giáo dục, y tế và công bằng xã hội ở KVBG.
1.1.1.3. Vận động quần chúng phát triển kinh tế - xã hội ở khu
vực biên giới của Bộ đội Biên phòng
Vận động quần chúng phát triển KT-XH ở KVBG của BĐBP là hoạt
động của cán bộ, chiến sĩ BĐBP tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn và tổ
chức quần chúng phát triển KT-XH ở KVBG trên cơ sở đường lối, chính



7

sách của Đảng; chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ; chủ trương công tác của
địa phương và hướng dẫn của các ngành chuyên môn.
Vận động quần chúng phát triển KT-XH ở KVBG là hình thức vận
động theo chuyên đề, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ BĐBP các cấp phải nắm vững
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và của địa
phương; có trình độ năng lực về phát triển KT-XH. Qua đó, tiến hành
VĐQC nhằm mục đích nâng cao trình độ hiểu biết về kiến thức khoa học kỹ thuật cho quần chúng nhân dân, từng bước cải thiện dân sinh, góp phần
làm chuyển biến tình hình KT-XH trong phạm vi KVBG, tạo cơ sở vật chất
tăng cường khả năng, tiềm lực bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia. Vì vậy,
công tác VĐQC phát triển KT-XH là công việc do cán bộ, chiến sĩ BĐBP
tiến hành, trong đó lực lượng nòng cốt, chuyên trách là cán bộ, chiến sĩ làm
công tác VĐQC.
Công tác VĐQC phát triển KT-XH của BĐBP phải xác định quần chúng
nhân dân ở trong phạm vi KVBG là đối tượng để tuyên truyền, vận động.
Xây dựng và phát triển KT-XH ở KVBG là bộ phận hợp thành quan
trọng. Đây là công việc to lớn và lâu dài; là chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước. Đây cũng là trách nhiệm của BĐBP mà trực tiếp là lực lượng làm
công tác VĐQC.
1.1.2. Vị trí, vai trò của công tác vận động quần chúng phát triển
kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới của Bộ đội Biên phòng
Công tác VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG là một trong những
nhiệm vụ chính trị quan trọng của BĐBP nhằm xây dựng thế trận lòng dân,
xây dựng KVBG vững mạnh, bảo vệ vững chắc chủ quyền, ANBG quốc gia.
Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ quản lý, BVBG quốc gia, BĐBP còn phải
thường xuyên giúp đỡ đồng bào các dân tộc phát triển KT-XH, từng bước
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào ở KVBG. Thực hiện tốt



8

những nội dung trên là tăng thêm “sức đề kháng” tại chỗ, bảo vệ vững chắc
chủ quyền, ANBG quốc gia.
Công tác VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG của BĐBP là một nội
dung trong công tác VĐQC bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia của BĐBP,
nhằm làm cho quần chúng nhân dân hiểu rõ và nắm vững chủ trương, đường
lối của Đảng; chính sách và pháp luật của Nhà nước về phát triển KT-XH.
Từ đó, xây dựng cho quần chúng nhân dân niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước; khơi dậy lòng tự hào, tích cực tham gia phát triển
KT-XH ở KVBG, góp phần xây dựng KVBG vững mạnh toàn diện và phát
triển KT-XH đất nước.
Bộ đội Biên phòng VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG là những công
việc cụ thể trong chiến lược xây dựng thế trận lòng dân, xây dựng thế trận
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh
đó, thực hiện tốt công tác VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG còn mang
nhiều ý nghĩa to lớn về chính trị, KT-XH và QP-AN trong sự phát triển
chung của đất nước; góp phần cải thiện tình hình KT-XH ở KVBG.
Trong buổi lễ thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang (nay là
BĐBP), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng huấn thị: “Lực lượng của dân rất
lớn, việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận
khéo thì việc gì cũng thành công”.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn nhiệm vụ trong tình hình mới đòi hỏi
BĐBP phải thực hiện tốt hơn nữa công tác VĐQC phát triển KT-XH ở
KVBG, góp phần đưa đồng bào miền núi thu hẹp khoảng cách với miền
xuôi; thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh”.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG TÁC
QUẦN CHÚNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI



9

1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
quần chúng
* Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân
Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhận thức rõ vai
trò to lớn của quần chúng nhân dân; Đảng luôn tin tưởng vào sức mạnh, tài
năng, ý chí sáng tạo, tự lực, tự cường của nhân dân. Đảng biết dựa vào dân
trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách; thực hiện
nghiêm việc kiểm tra, giám sát, lấy ý kiến của dân trong việc sửa đổi chủ
trương, chính sách.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X khẳng định: "Đổi
mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới"
[15, tr 211].
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan
trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân,
xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố
mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khoá của thành công.
Xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vì nhân dân phục
vụ. Đây là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
* Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết
thực của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất về quyền lợi với
nghĩa vụ công dân
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải
phóng đất nước cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay,
dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhân dân ta cũng một lòng, một dạ đi theo

Đảng. Điều đó cho thấy, mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều xuất phát


10

từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tập hợp được đông đảo quần
chúng, đó chính là thành công và cũng là động lực thúc đẩy phong trào cách
mạng của Đảng. Quần chúng nhận thấy rõ việc tin và đi theo Đảng mới là
con đường duy nhất để giải phóng mình và đem lại lợi ích thiết thực cho
chính mình.
Mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng là yếu tố quyết định đến sự tồn
tại và phát triển của Đảng. Lợi ích của quần chúng cũng chính là lợi ích và
mục tiêu phấn đấu của Đảng. Trong mọi hoạt động của mình, Đảng luôn dựa
vào quần chúng; mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng có thực
hiện thành công hay không đều phải qua sự trải nghiệm thực tế mà hơn ai
hết quần chúng nhân dân là người thực hiện. Do vậy, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng
của quần chúng.
* Các hình thức tập hợp quần chúng phải đa dạng
Đảng liên hệ với quần chúng không chỉ thông qua chủ trương, đường
lối mà còn qua các tổ chức quần chúng. Đảng gắn bó được với quần chúng
phải thông qua các tổ chức quần chúng, quần chúng muốn thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng phải được hoạt động trong các tổ chức thì mới phát
huy sức mạnh, các tổ chức quần chúng là chiếc cầu nối giữa Đảng với quần
chúng nhân dân.
Do vậy, cần phải phát triển các hình thức tập hợp quần chúng một
cách đa dạng do các đoàn thể chính trị làm nòng cốt để tập hợp nhằm đáp
ứng nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho quần chúng. Việc thành lập các
tổ chức quần chúng là đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời
sống của nhân dân, hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà. Các tổ chức

quần chúng được thành lập phải trên nguyên tắc tự nguyện, tự giác, tránh gò
ép thái quá, quy mô tổ chức vừa hay nhỏ tuỳ theo đặc điểm từng nơi, từng


11

lĩnh vực hoạt động mà tổ chức cho phù hợp.
* Công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể
Công tác quần chúng được tiến hành bằng sức mạnh tổng hợp của
Đảng, chính quyền và các đoàn thể theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần
chúng thể hiện bằng việc thường xuyên nắm bắt tình hình tư tưởng và đời
sống của quần chúng nhân dân, kịp thời giải quyết những vấn đề của quần
chúng đặt ra bằng việc định ra các chủ trương, chính sách cụ thể. Phân công
cán bộ phụ trách công tác quần chúng, thực hiện chế độ kiểm tra, chỉ đạo
các cơ quan, đoàn thể và thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng về công tác quần chúng.
Nhà nước quản lý là thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng
bằng pháp luật, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của đông đảo quần chúng
nhân dân. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội phải thường
xuyên trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của
nhân dân để phản ánh với Nhà nước và chính quyền địa phương. Đồng thời,
trực tiếp VĐQC thực hiện nghiêm mọi chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Trong hệ thống CSTC ở nước ta, các tổ chức quần chúng giữ một vai
trò hết sức to lớn. Đó là nơi tập hợp đông đảo quần chúng tham gia các hoạt
động, người lao động được tập hợp vào các hoạt động quản lý ở nhiều mức
độ khác nhau. Công tác quần chúng không chỉ là trách nhiệm của các đoàn
thể mà còn là trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân khác nhau dưới sự lãnh

đạo của Đảng. Vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên phải làm tốt công tác VĐQC
theo chức năng của mình.


12

1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh
tế - xã hội
Để phát triển KT-XH ở KVBG và từng bước hoà nhập với cả nước,
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương lớn về phát triển KT-XH ở vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, cụ thể là:
Thứ nhất, chuyển mạnh nền kinh tế từ sản xuất tự cung, tự cấp sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế
Đảng ta xác định vấn đề mấu chốt để chuyển kinh tế từ sản xuất tự
cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cả cơ cấu ngành kinh tế kết hợp với cơ cấu các thành phần kinh tế và các
vùng kinh tế; phát triển phù hợp với từng vùng, hình thành các vùng sản
xuất hàng hoá chuyên canh, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ dựa trên
cơ sở có sự tác động của Nhà nước, của các cấp, các ngành và cả nước
ngoài.
Cùng với việc phát triển lực lượng sản xuất phải đẩy mạnh quá trình
đa dạng hoá hình thức sở hữu trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các thành phần
kinh tế. Khuyến khích kinh tế hộ gia đình, kinh tế hợp tác xã phải được đổi
mới, kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Đồng thời, tạo môi trường
thuận lợi để các thành phần kinh tế khác đầu tư khai thác tiềm năng thế
mạnh của từng vùng.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hóa
Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở KVBG theo hướng công nghiệp hoá,

hiện đại hóa cần phải thực hiện tốt các nội dung sau:
- Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế


13

Trong xây dựng cơ cấu kinh tế, xây dựng cơ cấu sản xuất hợp lý là
bước ngoặt quan trọng trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế tự cung, tự
cấp sang nền kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ khả năng thực tế của KVBG, trong những năm trước mắt cũng
như lâu dài, các ngành nông, lâm, ngư nghiệp cần phát triển mạnh. Trong
đó, phải tận dụng triệt để những điều kiện sẵn có về đất đai, về giống mới
để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Đặc biệt, việc bố trí sản xuất và tìm
thị trường cho một số ngành kinh tế mũi nhọn, thế mạnh trên cơ sở
chuyên canh tạo thành vùng hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường trong
nước và xuất khẩu.
- Đưa tiến bộ kỹ thuật mới vào phát triển KT-XH ở KVBG
Nhanh chóng đưa khoa học, công nghệ mới vào phát triển KT-XH
ở KVBG. Vì, sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp có trở thành hàng hoá hay
không phụ thuộc chủ yếu vào khoa học, công nghệ. Bên cạnh đó, đây là
cơ sở quyết định việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật ngày càng phát
triển ở KVBG.
Thực hiện đưa tiến bộ khoa học đến KVBG đang được Đảng, Nhà
nước đặc biệt quan tâm. Trên thực tế, việc chuyển kinh tế KVBG sang kinh
tế hàng hoá, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là đã đặt vùng này trong tổng thể phát triển của cả nước. Đây là
vấn đề quan trọng để khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng hiệu quả của từng
địa phương.
Thứ ba, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, nhất là đối với các nước
láng giềng có chung đường biên giới

Phát triển khu kinh tế cửa khẩu, mở rộng giao lưu buôn bán qua biên
giới, khai thác tối đa lợi thế các cửa khẩu hiện có, nâng cấp một số cửa
khẩu. Xây dựng và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu trở thành cầu nối


14

giữa các địa phương trong nước với các nước ASEAN, Trung Quốc và các
nước khác trên thế giới.
Tập trung đầu tư và phát triển ngành công nghiệp khai thác khoáng
sản qui mô vừa và nhỏ, công nghiệp chế biến, cơ khí sửa chữa, vật liệu xây
dựng, ưu tiên thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp. Phát triển các
ngành nghề truyền thống như dệt, mây tre đan, chạm khắc gỗ mỹ nghệ, mộc
dân dụng, nhằm tạo việc làm, tăng sản phẩm hàng hoá, tăng thu nhập cho
nhân dân ở KVBG.
Thứ tư, chú trọng phong trào xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, văn
hóa và giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc
Một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân
lao động, không phân biệt dân tộc, tôn giáo. Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh
mọi người từ miền xuôi đến miền núi; từ người Kinh đến đồng bào dân tộc
thiểu số đều có quyền sống bình đẳng, ấm no, hạnh phúc. Người đã chỉ rõ:
"Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay
Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em
ruột thịt, chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ có nhau" [ tr.301].
Hiện nay ở KVBG, nhất là vùng sâu, vùng xa, đời sống của đồng bào
còn nhiều khó khăn, đói nghèo còn diện rộng, khoảng cách về mức sống
giữa miền núi và miền xuôi có xu hướng ngày càng lớn. Tình trạng đó đã
đặt ra yêu cầu bức thiết về nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc
trong những năm tới. Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: "Chăm lo đời sống vật

chất và tinh thần cho đồng bào, xoá đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc,
đặc biệt quan tâm tới vùng gặp nhiều khó khăn" [14, tr.127].


15

1.2.3. Bộ đội Biên phòng vận dụng quan điểm của Đảng, Nhà
nước vào vận động quần chúng phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực
biên giới
Một là, xây dựng và BVBG là một nhiệm vụ cách mạng quan trọng;
là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ
đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân và sức mạnh tổng hợp tại chỗ, BĐBP làm nòng cốt, có sự chăm lo hỗ
trợ của cả nước
Quần chúng nhân dân có vai trò hết sức to lớn trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung và trong quản lý, BVBG quốc gia nói riêng.
Bộ đội Biên phòng là lực lượng thường xuyên công tác nơi biên giới, hải
đảo với nhiệm vụ nặng nề; lực lượng, phương tiện thiếu so với biên chế, xa
sự chỉ huy, chỉ đạo. Mặt khác, quá trình thực hiện nhiệm vụ luôn phải đối
mặt với những diễn biến phức tạp của xã hội, các thế lực thù địch không
ngừng tiến hành hoạt động chống phá với những âm mưu, thủ đoạn ngày
càng quyết liệt; hoạt động của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội ngày càng
gia tăng. Trước thực tế trên, việc quản lý, BVBG của BĐBP phải phát huy
hết sức mạnh tổng hợp của các ngành, các lực lượng dưới sự chỉ đạo của cấp
uỷ, chính quyền các cấp. Đồng thời, phải dựa vào quần chúng nhân dân, đặc
biệt là nhân dân các dân tộc ở KVBG.
Hai là, công tác VĐQC phát triển KT-XH của BĐBP vừa phục vụ
nhiệm vụ chính trị của lực lượng vừa phục vụ công cuộc đổi mới của đất
nước, phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển KT-XH ở KVBG, phục vụ

quyền và lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân
Xây dựng và phát triển KT-XH là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của cả
nước, KT-XH phát triển là điều kiện quan trọng để hạn chế nảy sinh tội phạm,
đời sống mọi mặt được nâng lên làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng, tự


16

giác tham gia công tác xã hội, tham gia cùng BĐBP quản lý, BVBG quốc gia.
Vì vậy, phải giáo dục, tổ chức, hướng dẫn quần chúng tham gia quản lý, BVBG
quốc gia; chấp hành nghiêm các hiệp ước, hiệp định, quy chế biên giới. Phải kết
hợp chặt chẽ phong trào quần chúng tham gia quản lý, BVBG với các phong
trào của địa phương. Vận động nhân dân chấp hành nghiêm chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các chủ trương, chính sách của
địa phương, hăng hái tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xoá đói giảm
nghèo góp phần làm giàu cho gia đình và cho xã hội.
Ba là, công tác VĐQC phát triển KT-XH là nhiệm vụ chính trị quan
trọng của các cấp trong BĐBP, đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất
của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo, điều hành của chỉ huy các cấp
Đây là nội dung xác định cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp trong
BĐBP đối với công tác VĐQC phát triển KT-XH. Thực tiễn công tác, yêu
cầu nhiệm vụ công tác VĐQC phát triển KT-XH của BĐBP luôn diễn ra
trong môi trường khó khăn, phức tạp, đối tượng tuyên truyền đa dạng, nội
dung tuyên truyền phong phú. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất
từ Bộ Tư lệnh BĐBP đến các đơn vị nhằm nâng cao hiệu quả công tác.
Đồng thời, phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của cấp uỷ, chỉ huy
các đơn vị cơ sở trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác VĐQC phát triển KTXH, xây dựng lực lượng chuyên trách vững mạnh đảm bảo hoàn thành tốt
nhiệm vụ quản lý, BVBG nói chung và VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG
nói riêng.
Bốn là, công tác VĐQC phát triển KT-XH của BĐBP phải được

thường xuyên nghiên cứu đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp cho
phù hợp với sự phát triển của đất nước và diễn biến tình hình trên các tuyến
biên giới. Trong đó, trọng tâm hàng đầu là đổi mới về hình thức, phương


17

pháp VĐQC, tổ chức hướng dẫn quần chúng, tác phong và nghệ thuật lãnh
đạo, chỉ huy, tổ chức thực hiện của chỉ huy các cấp BĐBP
Xuất phát từ âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch; xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và
trong nước đang diễn ra hết sức phức tạp đòi hỏi công tác VĐQC phải luôn
có sự đổi mới cho phù hợp. Phải quán triệt và thực hiện đầy đủ các chỉ thị và
nghị quyết của Đảng và Nhà nước về công tác VĐQC, bám sát sự chỉ đạo
của cơ quan nghiệp vụ cấp trên; thường xuyên nắm chắc các yếu tố, tình
hình có liên quan để có nội dung, hình thức, phương pháp VĐQC cho phù
hợp. Mặt khác, phải nâng cao trình độ năng lực, tác phong công tác của cán
bộ, chiến sĩ làm công tác VĐQC, đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
uỷ, chỉ huy biên phòng các cấp và tăng cường quan hệ với cấp uỷ, chính
quyền địa phương, các cơ quan, ban, ngành, các lực lượng ở KVBG để tổ
chức VĐQC mang lại kết quả cao.
1.3. BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI

1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng và yêu cầu của
công tác vận động quần chúng phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới
1.3.1.1. Chức năng, nhiệm vụ
Nghị quyết số 11/NQ-TW, ngày 08/8/1995 của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng BĐBP trong tình hình mới và
pháp lệnh BĐBP đã xác định BĐBP có chức năng, nhiệm vụ sau:

Bộ đội Biên phòng là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng và
Nhà nước; là thành phần của quân đội nhân dân Việt Nam, làm
nòng cốt chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia theo nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
Nghị quyết cũng xác định nhiệm vụ của BĐBP trong tình hình mới là:


18

Liên hệ chặt chẽ với quần chúng, dựa vào quần chúng để thực
hiện nhiệm vụ, đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân vùng
biên giới tăng cường đoàn kết dân tộc, thực hiện các chủ trương
và chương trình kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước; tích cực
xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế
trận biên phòng nhân dân vững mạnh gắn với thế trận quốc phòng
toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trên vùng biên giới.
Như vậy, nhiệm vụ VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG là một trong
những nhiệm vụ chính trị quan trọng mà BĐBP phải tiến hành. Để công tác
VĐQC phát triển KT-XH có hiệu quả, BĐBP phải tiến hành đồng bộ các
biện pháp công tác, trong đó biện pháp VĐQC giữ vai trò quan trọng không
thể thiếu được.
1.3.1.2. Yêu cầu
Để công tác VĐQC phát triển KT-XH có hiệu quả, BĐBP phải thực
hiện tốt các yêu cầu sau:
- Một là, VĐQC phát triển KT-XH phải thực hiện đúng quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và gắn
với nhiệm vụ chính trị của địa phương
Quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là
những định hướng lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Cho nên, yêu cầu này đòi hỏi trong quá

trình VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG của BĐBP phải quán triệt sâu sắc
quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các
Chỉ thị, Nghị quyết của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ; các chỉ thị của Đảng uỷ BĐBP
về việc “ Bộ đội Biên phòng tiến hành Vận động quần chúng phát triển kinh
tế - xã hội ở khu vực biên giới”.


19

Vì vậy, để thực hiện tốt các yêu cầu này, các đơn vị cơ sở của BĐBP
phải làm tốt công tác giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, nhất là đội
ngũ cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm công tác VĐQC. Làm tốt công tác tham
mưu cho địa phương phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các cấp, các ngành
thường xuyên tuyên truyền, giáo dục sâu rộng cho quần chúng nhân dân các
dân tộc ở KVBG chấp hành tốt quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, nhận thức rõ trách nhiệm và nghĩa vụ tạo nên
sức mạnh tổng hợp để VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG, góp phần thực
hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng trong thời kỳ mới.
Hai là, phải kết hợp giữa tham gia xây dựng, củng cố CSCT vững
mạnh với phát triển KT-XH, củng cố QP-AN ở KVBG
Đây là yêu cầu hết sức quan trọng nhằm xây dựng KVBG vững mạnh
toàn diện. Bởi vì, một địa bàn dân cư nói chung, KVBG nói riêng được xem
là vững mạnh phải trên cơ sở “kinh tế - xã hội phát triển, chính trị ổn định,
quốc phòng, an ninh vững chắc”. Vì vậy, BĐBP phải quán triệt sâu sắc yêu
cầu này, đồng thời thấy rõ trách nhiệm của mình trong thực hiện nhiệm vụ
quản lý, BVBG và tham gia xây dựng, củng cố CSCT, phát triển KT-XH ở
KVBG. Nếu BĐBP tiến hành VĐQC phát triển KT-XH có hiệu quả các
chương trình, dự án của Nhà nước và của địa phương sẽ là cơ sở để củng cố
CSCT, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc
phòng, phát triển quan hệ đối ngoại…đó cũng là nội dung thiết thực để xây

dựng biên giới lòng dân, BVBG bằng sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị, góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch, đấu tranh với các loại đối tượng ở KVBG, bảo vệ vững chắc
chủ quyền, ANBG quốc gia.
Ba là, tích cực, chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong thực hiện các nội
dung, phương pháp VĐQC phát triển KT-XH


20

Yêu cầu này thể hiện tính tích cực, chủ động, linh hoạt, sáng tạo của
lực lượng VĐQC ở địa bàn KVBG. Vì vậy, đòi hỏi các đơn vị BĐBP phải
tích cực chủ động nắm tình hình các mặt chính trị, KT-XH…nhằm sớm phát
hiện những vấn đề nảy sinh ở KVBG. Trên cơ sở đó, làm tham mưu cho cấp
uỷ, chính quyền địa phương, đề xuất các biện pháp, kế hoạch với những nội
dung, phương pháp phù hợp với từng địa bàn, đối tượng cụ thể và phối hợp
cùng các ban ngành tổ chức thực hiện.
Tích cực, chủ động còn được thể hiện trong tuyên truyền, VĐQC thực
hiện quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
cũng như các chính sách lớn của địa phương. Kịp thời làm tham mưu cho
địa phương đưa nội dung phát triển KT-XH vào nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo
của cấp uỷ và kế hoạch tổ chức thực hiện của chính quyền địa phương.
Trong quá trình VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG phải tuỳ thuộc vào
tình hình cụ thể để vận dụng các nội dung, biện pháp cho phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể và tâm lý của đồng bào các dân tộc ở KVBG.
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các ban ngành
của địa phương trong VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG
Phát triển KT-XH ở KVBG là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân, của cả hệ thống chính trị. Vì vậy, phải xây dựng tốt mối quan hệ phối
hợp, hiệp đồng, gắn bó giữa BĐBP với Đảng bộ, chính quyền, nhân dân địa

phương và các lực lượng, các ban ngành đoàn thể nhằm tạo ra sức mạnh
tổng hợp trong VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG.
Để thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi các đơn vị BĐBP phải tham mưu cho
cấp uỷ, chính quyền địa phương đề ra chủ trương, xây dựng kế hoạch và chỉ
đạo, lãnh đạo các ban ngành, các lực lượng ở KVBG nhận thức rõ yêu cầu,
nhiệm vụ công tác VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG trong tình hình mới.


21

Quá trình thực hiện kế hoạch cần phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương, nhằm phát huy cao
nhất sức mạnh của các lực lượng, các ban ngành. Làm tốt công việc tổ chức
phối hợp, hiệp đồng sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, ban
ngành trong VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG.
1.3.2. Nội dung, hình thức và phương pháp vận động quần chúng
phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới của Bộ đội Biên phòng
1.3.3.1. Nội dung
Công tác VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG có vị trí rất quan trọng,
là một nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa chiến lược và là động lực thúc đẩy sự
phát triển nền kinh tế quốc dân ở KVBG, tạo nền tảng, sức mạnh xây dựng
nền biên phòng toàn dân để bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia. Vận động
quần chúng phát triển KT-XH ở KVBG phải triển khai trên nhiều lĩnh vực
như: phát triển kinh tế, văn hoá - thông tin, giáo dục - đào tạo, y tế. Vì vậy,
phải căn cứ vào tình hình và điều kiện cụ thể của từng đơn vị và đặc điểm
từng vùng để lựa chọn nội dung cho phù hợp. Vận động quần chúng phát
triển KT-XH tập trung vào những nội dung cụ thể sau:
- Tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương trong việc nghiên cứu
đề xuất, xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án phát triển KTXH
Để thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH có hiệu quả đòi hỏi cấp uỷ,

chính quyền địa phương phải nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện các
chương trình, dự án phát triển KT-XH. Đây là vấn đề quan trọng trong định
hướng phát triển KT-XH ở KVBG. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện các
chương trình, dự án là công việc có tính khoa học, thực tiễn cao, giúp cho
quá trình thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Vì vậy, trong quá trình
VĐQC phát triển KT-XH, các đồn biên phòng phải làm tốt vai trò tham


22

mưu, đề xuất và giúp địa phương tổ chức thực hiện tốt các chương trình, dự
án phát triển KT-XH.
Công tác VĐQC phải thường xuyên nắm chắc tình hình địa bàn về
mọi mặt để tham mưu trong việc nghiên cứu, xây dựng các chương trình, dự
án phát triển KT-XH phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương mang lại
hiệu quả thiết thực. Trong quá trình phát triển KT-XH, cán bộ, chiến sĩ
BĐBP còn phải tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương xác định
được các nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn phát triển KT-XH ở địa
phương, tránh tư tưởng nóng vội, không hiệu quả. Đồng thời, tham mưu cho
địa phương thành lập ban chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát
việc thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH ở KVBG.
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành địa phương trong việc
tham gia phát triển KT-XH ở KVBG
Vận động quần chúng phát triển KT-XH là một nhiệm vụ quan
trọng có liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều ngành, nhiều cấp. Vì vậy,
quá trình thực hiện phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành địa
phương mới tạo nên được sức mạnh tổng hợp trong quá trình VĐQC phát
triển KT-XH ở KVBG.
Trong quá trình thực hiện công tác VĐQC phát triển KT-XH ở
KVBG, cán bộ, chiến sĩ BĐBP phải cùng với các cơ quan, ban ngành địa

phương ký kết, thực hiện các chương trình phối hợp và cùng nhau xây dựng
các chương trình phối hợp phát triển KT-XH. Mặt khác, BĐBP phải phối
hợp với địa phương để tổ chức thực hiện tốt các chương trình, dự án phát
triển KT-XH ở KVBG.
- Tổ chức tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho quần chúng
nhân dân về thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH ở KVBG


23

Ở KVBG do nhiều nguyên nhân nên trình độ dân trí nói chung, nhận
thức về phát triển KT-XH của quần chúng nói riêng còn nhiều hạn chế.
Trong khi đó, quần chúng nhân dân lại là người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
phát triển KT-XH. Vì vậy, phải tuyên truyền nâng cao trình độ mọi mặt nói
chung, nhận thức về phát triển KT-XH nói riêng để họ hiểu và thực hiện có
hiệu quả.
Để quần chúng nhân dân hiểu và thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển
KT-XH ở KVBG, đòi hỏi BĐBP các cấp phải tổ chức tuyên truyền, giáo
dục cho quần chúng nhân dân về những chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước và địa phương về phát triển KT-XH ở KVBG. Tuyên truyền,
vận động quần chúng nhân dân biết và thực hiện tốt các chương trình, dự
án phát triển KT-XH ở KVBG.
1.3.3.2. Hình thức
Trên cơ sở các hình thức VĐQC tham gia quản lý, BVBG quốc gia,
BĐBP khi VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG thường áp dụng các hình thức
sau:
Vận động quần chúng thường xuyên
Là hình thức vận động được tiến hành liên tục về thời gian và không
có sự phân biệt, phân chia đối tượng vận động để thu hút được nhiều người,
thuộc mọi thành phần lứa tuổi tham gia phát triển KT-XH.

Hình thức này được áp dụng trong các trường hợp: Vận động quần
chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các chỉ
thị, nghị quyết của cấp uỷ, chính quyền địa phương và các dự án về phát
triển KT-XH.
Vận động quần chúng đột xuất


24

Là hình thức vận động được tiến hành khi có những nội dung, nhiệm
vụ đột xuất nổi lên trong từng thời điểm nhất định ở địa phương để phát
triển KT-XH.
Hình thức này được áp dụng ở những địa bàn trọng điểm, phong trào
yếu kém, diễn biến tình hình trong KVBG phức tạp. Đây là hình thức quan
trọng được tiến hành để tháo gỡ, giải quyết, tổ chức thực hiện một dự án,
một chương trình phát triển KT-XH trong một thời gian, không gian nhất
định. Việc tiến hành VĐQC đột xuất do lực lượng chuyên trách thực hiện là
chủ yếu, nhằm nhanh chóng tổ chức thực hiện đáp ứng với yêu cầu nhiệm
vụ đặt ra.
Yêu cầu khi tổ chức thực hiện phải đúng chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phải khẩn trương kịp thời, kết hợp
chặt chẽ với các lực lượng để tổ chức thực hiện.
1.3.3.3. Phương pháp
Phương pháp VĐQC là cách thức, biện pháp tiến hành trong quá
trình VĐQC nhân dân. Do đó, công tác VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG
của BĐBP thường sử dụng các phương pháp sau:
Vận động quần chúng rộng rãi
Vận động quần chúng rộng rãi là phương pháp vận động dựa trên cơ
sở một thành phần xã hội có cùng huyết thống, đặc điểm tâm lý, tập quán
riêng hay một tập thể có tổ chức như một gia đình, một dòng họ, một thôn,

bản, một đoàn thể...để tuyên truyền, giải thích nhằm vận động đông đảo
quần chúng nhân dân phát triển KT-XH.
Vận động quần chúng riêng lẻ (cá biệt)
Là phương pháp vận động dựa trên quan điểm lịch sử, cụ thể đối với
mỗi cá nhân quần chúng nhằm mục đích giáo dục, giác ngộ, đưa họ vào


25

những hoạt động phục vụ cho việc VĐQC rộng rãi hoặc để giải quyết
những yêu cầu mà công tác phát triển KT-XH đặt ra.
Khi tiến hành công tác VĐQC phát triển KT-XH ở KVBG dù là tiến
hành theo phương pháp VĐQC rộng rãi hay riêng lẻ cũng phải tiến hành
theo các bước sau:
Điều tra, nghiên cứu, nắm vững tình hình về đối tượng cần tuyên
truyền, vận động. Đối tượng tuyên truyền, vận động phát triển KT-XH ở
KVBG là nhân dân các xã biên giới. Mục đích là tìm hiểu đầy đủ về tình
hình đối tượng cần tuyên truyền, vận động để đề ra chủ trương, kế hoạch,
biện pháp vận động phù hợp. Đây là bước đầu tiên làm cơ sở cho việc thực
hiện các bước tiếp theo.
Nội dung của bước này bao gồm: điều tra về trình độ nhận thức,
phong tục tập quán, điều kiện sinh hoạt, tâm tư tình cảm, ý thức trách nhiệm
của công dân đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia nói
chung và công tác phát triển KT-XH nói riêng.
Tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng. Đây là bước giữ vai trò
đặc biệt quan trọng của công tác VĐQC. Thông qua tuyên truyền, giáo dục,
quần chúng sẽ đổi mới và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia nói chung và phát triển KT-XH
nói riêng. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Muốn có phong trào
quần chúng phải đưa trình độ quần chúng từ thấp đến cao, từ giác ngộ cách

mạng đến hành động cách mạng". Phải "đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh".
Tổ chức quần chúng. Trên cơ sở nội dung tuyên truyền, giáo dục
quần chúng sẽ phát huy được sức mạnh cộng đồng khi được tổ chức, chỉ
đạo chặt chẽ, hành động thống nhất vì mục tiêu chung.


26

Huấn luyện và hướng dẫn quần chúng cách thức vận động. Đây là
bước tập dượt cho quần chúng biết cách giải quyết các vụ việc; biết cách xử
trí khi có các tình huống phát sinh trong quá trình VĐQC phát triển KTXH. Vì vậy, cần làm tốt những vấn đề sau:
Xác định các mục tiêu, yêu cầu cần giải quyết trong phát triển
KT-XH.
Nghiên cứu các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; các
chỉ thị của địa phương. Từ đó, xác định hình thức, phương pháp hướng dẫn
quần chúng, hành động tham gia phát triển KT-XH.
Nghiên cứu khả năng của quần chúng để sử dụng quần chúng cho
phù hợp nhằm đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đặt ra.
Phải có kế hoạch cụ thể, triển khai hướng dẫn các chương trình, dự
án tỷ mỉ từng bước, đi sát, động viên, hướng dẫn quần chúng hành động và
uốn nắn những sai sót kịp thời.
Hướng dẫn quần chúng hành động phải đi từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp.


27

Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG PHÁT

TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI CỦA
BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH HÀ GIANG
2.1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CÓ LIÊN QUAN

2.1.1. Địa hình, thời tiết
Hà Giang là tỉnh miền núi biên giới phía Bắc của Tổ quốc có 270 km
đường biên giới, phía Bắc giáp với tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung
Quốc); phía Tây giáp tỉnh Lào Cai; phía Đông giáp với tỉnh Cao Bằng; phía
Nam giáp với tỉnh Tuyên Quang.
Tỉnh Hà Giang có cấu trúc địa lý rất phức tạp, dọc biên giới chủ yếu
là núi cao, khe sâu, vách đứng, có nhiều sông, suối chia cắt. Trong đó,
KVBG được chia thành phía Tây và Bắc, phía Bắc chủ yếu là núi đá. Do
vậy, diện tích canh tác, sản xuất của nhân dân ít, chỉ thuận lợi cho việc chăn
nuôi và trồng cây công nghiệp; khu vực phía Tây chủ yếu là đồi núi đất,


×