2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG BỀN
VỮNG Ở TỈNH HẢI DƯƠNG HIỆN NAY
10
1.1.
Lý luận chung về phát triển nông nghiệp theo hướng
bền vững ở tỉnh Hải Dương
1.2.
10
Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng bền
vững ở tỉnh Hải Dương thời gian qua
25
Chương 2: QUAN ĐIỂM BẢN CƠ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG BỀN
VỮNG Ở TỈNH HẢI DƯƠNG TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1.
48
Một số quan điểm cơ bản chỉ đạo phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững ở tỉnh Hải Dương trong
2.2.
thời gian tới
Những giải pháp chủ yếu phát triển nông nghiệp theo
48
hướng bền vững ở tỉnh Hải Dương trong thời gian tới
54
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
82
83
87
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc
phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh
thái của đất nước. Do đó, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, coi đó không chỉ là nhiệm vụ kinh tế
mà còn là nhiệm vụ chính trị - xã hội có ý nghĩa chiến lược cả trước mắt và
lâu dài.
Tại Đại hội X, Đảng ta xác định: “Hiện nay và trong những năm tới, vấn
đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng.
Phải luôn coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn,
hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển
nhanh và bền vững” [18, tr.190-191]. Từ chỗ “Hướng tới”, đến nay Đảng ta chủ
trương phát triển “Nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền
vững” [20, tr.195]. Đây là chủ trương của Đại hội XI, hoàn toàn phù hợp với xu
thế phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên thế giới, đồng thời đáp ứng yêu
cầu thay đổi cơ bản toàn diện đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội nông
thôn, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền
núi, giữa phát triển công nghiệp và phát triển nông nghiệp ở nước ta hiện nay.
Hải Dương là một tỉnh ở trung tâm đồng bằng sông Hồng, nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh, có nhiều tiềm năng và lợi thế về phát triển nền nông
nghiệp theo hướng bền vững. Hơn 25 năm đổi mới cùng đất nước, bên cạnh
những thành tựu đạt được, thực tiễn cũng đang đặt ra cho tỉnh rất nhiều thách
thức khi xây dựng một nền nông nghiệp theo hướng bền vững. Hoạt động sản
xuất nông nghiệp vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào tự nhiên. Giá trị gia tăng của
sản phẩm nông nghiệp còn thấp; ruộng đất ở nông thôn bị chia nhỏ, manh mún;
4
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức trong sản xuất nông nghiệp
còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, không phù hợp với yêu cầu
của sản xuất hàng hóa lớn, tập trung; sản xuất chưa gắn với tiêu thụ, dễ đổ vỡ khi
có biến động về giá. Vai trò của Nhà nước trong liên kết “Bốn nhà” chưa rõ,
thiếu cơ chế điều hành một cách hiệu quả. Quá trình cơ giới hóa nông nghiệp và
việc áp dụng các quy trình kỹ thuật tiên tiến còn chậm; hầu hết các khâu sản xuất
ở nông nghiệp đều là thủ công, dẫn đến năng suất lao động nông nghiệp thấp.
Công nghiệp tác động vào nông, lâm, ngư nghiệp còn yếu. Việc sử dụng phân
hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất kích thích sinh trưởng một cách
tùy tiện, có dấu hiệu vượt quá giới hạn cho phép của môi trường sinh thái, dẫn
đến thoái hóa đất, ô nhiễm nguồn nước và gây hại cho sức khỏe con người. Tốc
độ đô thị hóa nông thôn làm cho quỹ đất sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm
dần ảnh hưởng tới an ninh lương thực của tỉnh.v.v.. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề
lý luận về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, đánh giá đúng điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động và thực trạng để có những quan điểm,
giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Hải Dương
hiện nay là vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với mong muốn
đóng góp vào quá trình đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển nông nghiệp
theo hướng bền vững ở tỉnh Hải Dương hiện nay” để làm luận văn cao học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp trên thế giới là vấn đề
không mới. Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam nói chung và Hải Dương nói
riêng khái niệm phát triển bền vững và đặc biệt là phát triển theo hướng bền
vững trong nông nghiệp lại là những vấn đề mới. Qua tìm hiểu ở phạm vi cả
lý luận và thực tiễn, vấn đề phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở
nước ta đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở mức độ và góc độ tiếp
5
cận khác nhau, dưới các hình thức như: Đề tài khoa học các cấp, sách chuyên
khảo, các bài báo trên các tạp chí.v.v...
* Các sách tham khảo và chuyên khảo
Đến nay, đã có nhiều cuốn sách viết về phát triển theo hướng bền
vững trong nông nghiệp đã được xuất bản. Tiêu biểu có các cuốn sau:
“Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam, thực trạng và giải
pháp” của Trần Xuân Châu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003;
“Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Xuân Thảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004;
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn Việt
Nam -con đường và bước đi” của GS.TS Nguyễn Kế Tuấn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004;
“Ngành nông nghiệp trong phát triển bền vững ở Việt Nam” của
Nguyễn Từ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004;
“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam- Hôm nay và mai sau”
của Đặng Kim Sơn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008;
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ lý luận
đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” của Tiến sĩ Phạm Ngọc Dũng, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2011; v.v...
Những công trình khoa học trên đã đề cập một cách tương đối khái
quát về xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp theo hướng bền vững.
Nhưng vì nhiều lý do khác nhau, các công trình trên chỉ mới đề cập đến một
khía cạnh của vấn đề.
Trong công trình nghiên cứu của GS.TS Nguyễn Kế Tuấn thì phát
triển nông nghiệp theo hướng bền vững được tác giả tiếp cận chủ yếu dưới
góc độ đánh giá tác động của việc phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền
vững đối với nền kinh tế . Trong công trình của Nguyễn Xuân Thảo thì phát
triển theo hướng bền vững trong nông nghiệp được tác giả tiếp cận chủ yếu
trên góc độ chính sách của Nhà nước đối với từng ngành, từng địa phương cụ
6
thể. Trong công trình nghiên cứu của Nguyễn Từ thì phát triển nông nghiệp
theo hướng bền vững được tác giả tiếp cận dưới góc độ của vai trò nông
nghiệp trong xu thế phát triển bền vững. Còn trong công trình nghiên cứu của
tiến sĩ Phạm Ngọc Dũng thì phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
được tác giả tiếp cận dưới vai trò quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp để xây dựng một nền nông nghiệp sản
xuất hàng hoá lớn, hiệu quả trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học công
nghệ tiên tiến. Ngược lại, trong công trình nghiên cứu của Đặng Kim Sơn thì
phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững lại được tiếp cận ở góc độ an
ninh lương thực quốc gia và phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn...Giải pháp mà các tác giả đưa ra, trong nhận thức đã giúp cho tác giả
luận văn tiếp cận nhiều thông tin bổ ích, nhiều lập luận khoa học về một số
vấn đề liên quan tới sự phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Tuy
nhiên, do phạm vi nghiên cứu rộng nên các tác giả chưa có điều kiện đi sâu
nghiên cứu, phân tích những đặc điểm trực tiếp tác động đến quá trình phát
triển riêng lĩnh vực nông nghiệp của một tỉnh. Hệ thống giải pháp mà các tác
giả đưa ra mang tính tổng thể nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn của cả nước và của vùng. Trong khi đó, phát
triển nông nghiệp theo hướng bền vững chưa được chú ý đúng mức trong
nghiên cứu.
* Các luận án, luận văn nghiên cứu về lĩnh vực nông nghiệp
Có một số sách sau: Luận án tiến sĩ kinh tế “Phát triển kinh tế
hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn đồng bằng sông Hồng”của Bùi Văn Can, trường đại học Kinh
tế quốc dân, 2001; Luận án Tiến sĩ “Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở vùng lãnh thổ đồng bằng Sông Hồng - thực trạng và giải pháp ”
của Phạm Ngọc Dũng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002;
Luận văn thạc sĩ kinh tế “Phát triển ngành nông nghiệp hàng hóa ở Lạng
7
Sơn” của Nguyễn Thanh Hảo, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002; Luận văn
thạc sĩ kinh tế “Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam, thực trạng
và giải pháp” của Đặng Thị Tố Tâm, Đại học khoa học xã hội & nhân
văn, 2010; Luận văn thạc sĩ kinh tế “Vai trò của phát triển nông nghiệp
trong bảo đảm hậu cần tại chỗ cho khu vực phòng thủ tỉnh Hà Nam hiện
nay” của Vũ Văn Khầu, Học viện Chính trị, 2010.... Các đề tài trên trực
tiếp đề cập một cách cơ bản cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông
nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Trong hệ thống giải pháp mà các tác giả đưa ra, có đề cập tới giải pháp
phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Song do nghiên cứu sự phát
triển của nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
chung hoặc ở phạm vi một vùng kinh tế, nên có giải pháp đưa ra chưa thật
phù hợp với phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững.
* Các bài viết đăng trên các tạp chí đề cập đến sự phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững
Tiêu biểu như: Công nghệ sinh học và vấn đề phát triển nông nghiệp của
Việt Nam, GS.TS. Bùi Chí Bửu, Tạp chí Cộng sản, số 791, 9- 2008. Phát triển
bền vững nông nghiệp, nông thôn và nông dân, PGS.TS. Nguyễn Sinh Cúc, Tạp
chí lý luận chính trị, số 10, 2009. Thúc đẩy sự phát triển khoa học - công nghệ
phục vụ nông nghiệp, nông thôn, TS. Nguyễn Thanh Hà, Tạp chí Cộng sản, số
801, 7 - 2009. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển
nông nghiệp Việt Nam hiện nay, PGS.TS. Vũ Đình Hòe, Tạp chí lý luận chính
trị, số 12, 2008. Khuyến nông “Chìa khóa vàng” của nông dân trên con đường
hội nhập, Đinh Phi Hổ, Tạp chí Cộng sản, chuyên đề cơ sở, số 15, 3 - 2008.
Nông nghiệp Việt Nam sau 4 năm thực hiện cam kết WTO, TS. Chu Tiến Quang,
Tạp chí Cộng sản, số 824, 6 - 2011. Phát triển và khai thác hợp lý lực lượng sản
xuất nông nghiệp nước ta, GS.TS. Hồ Văn Vĩnh, Tạp chí lý luận chính trị, số 9,
2008. Giảm nghèo là yêu cầu tất yếu của phát triển bền vững nông thôn Việt
Nam, Nguyễn Thanh Thủy,Tạp chí Nghiên cứu phát triển bền vững, số 3, 2007.
8
Trong các công trình khoa học, bài viết trên của các tác giả nghiên cứu
về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững với nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Đóng góp khoa học của các công trình, các bài viết này vào sự phát
triển nền nông nghiệp là bổ ích. Tuy nhiên, trước những biến đổi của nền kinh
tế và những vấn đề mới đặt ra cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc và tổng quát về
phát triển nền nông nghiệp vừa bảo đảm sự tăng trưởng ổn định, vững chắc
vừa đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái đối
với quốc gia nói chung và từng địa phương nói riêng. Đó là việc phát triển
nền nông nghiệp theo hướng bền vững và đang được coi là một trong
những tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia, cũng như của từng địa phương. Tuy nhiên, ở phạm vi địa phương,
theo nhận biết của tác giả, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ
thống vấn đề phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở một tỉnh như
Hải Dương dưới góc độ kinh tế chính trị. Do đó, đề tài tác giả lựa chọn
không trùng với các công trình nghiên cứu khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp theo
hướng bền vững ở tỉnh Hải Dương, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải
pháp nhằm tiếp tục phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở Tỉnh trong
thời gian tới.
* Nhiệm vụ
Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp
theo hướng bền vững dưới góc độ kinh tế chính trị.
Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở
tỉnh Hải Dương.
9
Đề xuất các quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững ở tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Hải Dương.
* Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu sự phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững ở địa bàn tỉnh Hải Dương.
Về thời gian: Luận văn tập trung phân tích, nghiên cứu, khảo sát số
liệu, tư liệu từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Vận dụng hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam và thực tiễn phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở nước ta.
Tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu về phát triển nông
nghiệp, nông thôn; phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững của các
tác giả trong nước, để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của tỉnh Hải Dương.
Đồng thời, dựa vào các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê kinh tế của Ủy
ban nhân dân, Cục Thống kê, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh
Hải Dương đã được công bố từ năm 2000 đến nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật, đề tài sử dụng phương
pháp trừu tượng hóa khoa học kết hợp với một số phương pháp khác như:
thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn và chuyên gia để
giải quyết nhiệm vụ đặt ra.
10
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở một địa phương, tỉnh
Hải Dương.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy môn học kinh tế chính trị Mác- Lênin, làm tài liệu
tham khảo để các địa phương xây dựng chủ trương, biện pháp phát triển
nông nghiệp theo hướng bền vững.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 2 chương (4 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Ở TỈNH HẢI DƯƠNG HIỆN NAY
1.1. Lý luận chung về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
ở tỉnh Hải Dương
1.1.1. Quan niệm, nội dung và tiêu chí về phát triển nông nghiệp
theo hướng bền vững
* Quan niệm phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
Quan niệm về phát triển bền vững
Quan niệm phát triển bền vững xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX, khi cuộc cách mạng
khoa học công nghệ đã bùng nổ, chất lượng cuộc sống của xã hội loài người đã
có bước tiến bộ rõ rệt do khoa học công nghệ và năng suất lao động mang lại.
Của cải được nhân loại tạo ra ngày càng nhiều và phong phú về chủng loại đã
phần nào thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người, đã đưa đến
sự phát triển nhanh của nền văn minh nhân loại. Song cũng chính từ sự phát triển
ấy đã làm nẩy sinh một số vấn đề ngày càng nổi cộm như tăng trưởng dân số quá
nhanh, tiêu dùng một cách quá mức của cải, tài nguyên, năng lượng, thiên tai
bão, lũ, ô nhiễm và sự cố môi trường ngày càng gia tăng đã làm ảnh hưởng đến
sự phát triển của xã hội, gây trở ngại đối với phát triển kinh tế và làm giảm sút
chất lượng sống của con người.
Đứng trước áp lực của thực tế khắc nghiệt, con người không còn cách lựa
chọn nào khác là phải xem xét lại những hành vi ứng xử của mình với thiên nhiên,
phương sách phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình phát triển của mình. Cách lựa
chọn duy nhất đó là con đường phát triển có sự kết hợp cả về kinh tế, văn hóa, xã
hội và bảo vệ môi trường; đó chính là con đường đảm bảo tái sản xuất xã hội bền
vững, hay nói cách khác đó chính là sự phát triển bền vững.
Phát triển bền vững, cho đến nay có nhiều quan niệm khác nhau, sau
đây là một số quan niệm của khoa học môi trường bàn về phát triển bền vững:
12
Ủy ban quốc tế về phát triển và môi trường (1987) đã đưa ra định
nghĩa: Phát triển bền vững là một quá trình của sự thay đổi, trong đó, việc
khai thác và sử dụng tài nguyên, hướng đầu tư, hướng phát triển của công
nghệ và kỹ thuật và sự thay đổi về tổ chức là thống nhất, làm tăng khả năng
đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của con người [37, tr.15].
Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển tổ chức ở Rio
de Janerio (Braxin) năm 1992 đã đưa ra khái niệm vắn tắt về phát triển bền vững
và được sử dụng một cách chính thức trên quy mô quốc tế đó là: "Phát triển bền
vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại mà không gây
trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau” [37, tr.16].
Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở
Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 đã bổ sung và hoàn chỉnh khái
niệm về phát triển bền vững: "Phát triển bền vững là quá trình phát triển có
sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển, gồm:
phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng nhu
cầu và đời sống con người hiện tại, nhưng không làm tổn hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”[6, tr.3]. Như vậy, phát triển bền
vững là sự phát triển trong mối liên hệ gắn kết chặt chẽ thực hiện ba nhóm
mục tiêu lớn: mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội, mục tiêu môi trường. Trong
đó sự phát triển kinh tế là nguồn gốc, là động lực; sự phát triển xã hội là mục
tiêu và sự phát triển môi trường là điều kiện của phát triển bền vững. Theo đó,
phát triển bền vững gồm ba nội dung cơ bản, đó là:
Bền vững về kinh tế: đòi hỏi phải kết hợp hài hòa giữa mục tiêu tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, cân đối tốc độ tăng trưởng kinh
tế với việc sử dụng các điều kiện nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học,
công nghệ, đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ sạch.
Bền vững về xã hội: là phải xây dựng một xã hội trong đó nền kinh tế
tăng trưởng nhanh và ổn định phải đi đôi với dân chủ, công bằng và tiến bộ xã
13
hội, trong đó giáo dục, đào tạo, y tế và phúc lợi xã hội phải được chăm lo đầy
đủ và toàn diện cho mọi đối tượng trong xã hội.
Bền vững về tài nguyên và môi trường: là các dạng tài nguyên thiên
nhiên tái tạo được phải được sử dụng trong phạm vi chịu tải của chúng nhằm
khôi phục được cả về số lượng và chất lượng, các dạng tài nguyên không tái
tạo phải được sử dụng tiết kiệm và hợp lý nhất. Môi trường tự nhiên (không
khí, đất, nước, cảnh quan thiên nhiên...) nhìn chung không bị các hoạt động
của con người làm ô nhiễm, suy thoái và tổn hại. Các nguồn phế thải từ công
nghiệp và sinh hoạt được xử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh môi trường được bảo
đảm, con người được sống trong môi trường sạch.
Như vậy, phát triển bền vững có nội dung lớn và phong phú, không chỉ
hàm nghĩa phát triển kinh tế bền vững mà còn bao hàm nội dung phát triển xã
hội bền vững và gắn kết chặt chẽ với bảo vệ môi trường sinh thái. Trong mỗi
nội dung có những thành tố riêng nhưng chúng luôn thống nhất biện chứng và
quan hệ hữu cơ với nhau tạo nên sự phát triển bền vững. Việc quán triệt và
nhận thức đúng đắn nội hàm của phát triển bền vững là phương pháp luận tốt
khi thực hiện phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh hiện nay.
Quan niệm về nông nghiệp và phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
Quan niệm về nông nghiệp:
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp, bao gồm trồng trọt và chăn nuôi. Trong trồng
trọt được phân ra: trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn
quả, cây thức ăn cho chăn nuôi, cây dược liệu... thoả mãn nhu cầu lương thực cho
con người, thức ăn cho gia súc, gia cầm và nguyên liệu cho công nghiệp. Chăn
nuôi bao gồm: chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi ong, nuôi tằm... thoả mãn nhu cầu
dinh dưỡng trong khẩu phần ăn hàng ngày của con người, nguyên liệu cho công
nghiệp và một phần quan trọng khác đáp ứng nhu cầu mặc, dược liệu để làm
thuốc chữa bệnh, sức kéo, để đáp ứng nhu cầu sản xuất và vận tải... cũng đều do
nông nghiệp đáp ứng. Các ngành trên lại có thể phân thành những ngành nhỏ hơn
(phân ngành), chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trồng trọt cung cấp thức
14
ăn cho chăn nuôi và làm cho chăn nuôi phát triển. Ngược lại chăn nuôi cung cấp
phân bón, sức kéo để tăng sức sản xuất, kết hợp với trồng trọt tạo ra nền nông
nghiệp bền vững. Đó chính là hai bộ phận căn bản của nền nông nghiệp theo
nghĩa hẹp.
Nông nghiệp theo nghĩa rộng, là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá
trình sinh học bao gồm cả trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp (trồng và khai
thác bảo vệ tài nguyên rừng), ngư nghiệp (đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản).
Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm tất cả những ngành sản xuất có đối tượng
tác động là những cây trồng, vật nuôi gắn liền tất yếu với tự nhiên; có thời gian
sản xuất bằng thời gian lao động cộng với thời gian phát triển của cây trồng, vật
nuôi dưới tác động của điều kiện tự nhiên. Quan niệm về nông nghiệp theo cách
hiểu này có tác dụng làm cho sản xuất nông nghiệp không bị phát triển một cách
hạn hẹp, phiến diện. Nhờ đó, nhiều tiềm năng, lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt
đới ở nước ta mới được đầu tư khai thác, sử dụng có hiệu quả. Trong phạm vi
luận văn, tác giả bàn tới phát triển nông nghiệp theo nghĩa rộng.
Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững.
Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững mới bắt đầu được quan
tâm trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX, với nhiều quan niệm khác nhau:
Theo Ban cố vấn kỹ thuật thuộc nhóm chuyên gia quốc tế về nghiên cứu
nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (TAC/CGIRC) định nghĩa: Nông nghiệp bền
vững phải bao hàm sự quản lý thành công tài nguyên thiên nhiên nhằm thỏa
mãn nhu cầu của con người đồng thời cải tiến chất lượng môi trường và gìn gữi
được tài nguyên thiên nhiên [32,tr.12].
Tổ chức về môi trường sinh thái thế giới (WCED) đưa ra định nghĩa:
Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn được các nhu cầu của thế hệ
hiện nay mà không làm giảm khả năng ấy đối với các thế hệ mai sau [32,tr.13].
Ở nước ta, vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững là một trong
những nội dung được đề cập ở Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày
17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ về "Định hướng chiến lược phát triển
15
bền vững ở Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) chỉ rõ:
"Phát triển nông nghiệp bền vững là quá trình sản xuất ngày càng nhiều
hàng hóa theo yêu cầu của thị trường, phải đảm bảo vệ sinh, an toàn thực
phẩm, bảo tồn và phát triển được các nguồn tài nguyên: Đất, nước, không
khí, rừng và đa dạng sinh học” [6, tr.10].
Với cách tiếp cận trên, có thể đưa ra quan niệm về phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững ở tỉnh Hải Dương như sau:
Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở tỉnh Hải Dương là quá
trình Đảng bộ, chính quyền, các cơ quan, ban ngành chức năng, các thành
phần kinh tế và nhân dân nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan,
đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước vào thực tiễn nền
nông nghiệp địa phương nhằm đảm bảo nông nghiệp tăng trưởng nhanh, ổn
định, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, giải quyết tốt các vấn
đề xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái trên cơ cở thỏa mãn các nhu cầu
của con người trong hiện tại và không làm ảnh hưởng đến thế hệ mai sau.
Với quan niệm trên có thể hiểu phát triển nông nghiệp theo hướng bền
vững ở tỉnh Hải Dương là việc Đảng bộ, Chính quyền, các cơ quan ban ngành
chức năng và nhân dân tỉnh sử dụng các công cụ, chính sách, biện pháp tác
động vào quá trình sản xuất nông nghiệp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế
liên tục, ổn định, đạt hiệu quả cao, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhân
dân góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng
nông thôn mới có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao; gắn với việc
bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống. Như vậy, phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững ở tỉnh Hải Dương là sự kết hợp hài hòa của ba
mặt: Bảo đảm phát triển kinh tế cao và ổn định gắn với giải quyết có hiệu quả
các vấn đề về mặt xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
* Nội dung và tiêu chí về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
Nội dung phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững:
16
Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững là nội dung quan trọng trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Để xác định
chính xác nội dung phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững cần phải căn cứ
vào nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong Nghị
quyết Trung ương 5 khóa IX về "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn thời kỳ 2001 - 2010”; vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2006 - 2010 của Đại hội X, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của
Đại hội XI và căn cứ vào Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam
(Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam), cũng như đặc điểm riêng có của từng
địa phương. Vận dụng vào điều kiện thực tế ở tỉnh Hải Dương, nội dung phát triển
nông nghiệp theo hướng bền vững được xác định cụ thể như sau:
Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững về mặt kinh tế: Là xây
dựng cơ cấu nông nghiệp hợp lý, sử dụng tối ưu các nguồn lực, nâng cao
sức cạnh tranh của hàng nông sản, thực phẩm cả về chất l ượng và vệ sinh
an toàn. Giữ vững an ninh lương thực và tăng trưởng kinh tế thông qua việc
tăng năng suất và sản lượng. Đồng thời, phát triển nông nghiệp theo hướng
bền vững còn phải gắn liền với việc duy trì tăng trưởng kinh tế liên tục và
ổn định trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, chế biến
nông sản, nhất là công nghệ sinh học; sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên và cải thiện môi trường; thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô
hình tiêu dùng theo hướng sạch hơn và thân thiện với môi trường; thực
hiện quá trình phát triển nông nghiệp sạch và an toàn.
Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững về mặt xã hội: Là quá trình
phát triển nông nghiệp đi đôi với tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm đói nghèo,
hạn chế thất nghiệp, giảm thiểu các tệ nạn và bất công xã hội cũng như cải thiện
và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; bảo vệ duy
trì và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa
nhân loại. Đồng thời phải đảm bảo cho mọi người có cơ hội lựa chọn và có năng
17
lực tham gia vào quá trình phát triển, cùng được hưởng lợi từ quá trình phát triển
đó.
Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững về mặt môi trường: Là quá
trình phát triển nông nghiệp phải tính toán kỹ tác động qua lại giữa con người
và thiên nhiên sao cho sự phát triển nông nghiệp nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống con người trong khuôn khổ đảm bảo cân bằng các hệ sinh thái. Trước hết là việc xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi
trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác, sử dụng và tái tạo tài
nguyên đất, nước, sinh vật... hợp lý, bảo tồn đa dạng sinh học.
Tiêu chí phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững:
Một là, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng liên tục, ổn định và hiệu quả.
Tăng trưởng là mục tiêu theo đuổi của tất cả các ngành trong nền kinh tế
quốc dân. Bất cứ một ngành nào, một lĩnh vực nào nếu không có sự tăng trưởng
sẽ gây trở ngại đối với tiến trình phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế, nhất là
những nước thuần nông như nước ta nói chung và ở tỉnh Hải Dương nói riêng.
Đối với ngành sản xuất nông nghiệp, việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng
có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi ngành nông nghiệp là ngành cung cấp toàn bộ
lương thực - thực phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng thiết yếu hằng ngày của
con người, cung cấp nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp chế biến. Ngày
nay, do sự gia tăng dân số và tiêu dùng, nếu ngành nông nghiệp không có sự tăng
trưởng thì sẽ đẩy toàn bộ xã hội vào tình trạng thiếu lương thực. Đối với nền nông
nghiệp truyền thống, tốc độ tăng trưởng rất thấp, không ổn định, đôi khi còn
không có sự tăng trưởng do ảnh hưởng của các yếu tố thời tiết, thiên tai; mặt khác,
năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao, chi phí đầu vào lớn. Việc
tiếp tục duy trì nền nông nghiệp truyền thống sẽ kéo lùi sự phát triển của toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, tăng trưởng liên tục, ổn định, hiệu quả là một tiêu
chí cơ bản của phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững.
18
Hai là, giải quyết có hiệu quả các vấn đề về mặt xã hội trong khu vực
nông nghiệp, nông thôn
Tuyên bố tại Hội nghị Rio de Ranerio đã khẳng định: Xóa bỏ nghèo nàn là
yêu cầu không thể thiếu của phát triển bền vững. Đây là một đỉnh của tam giác
phát triển theo hướng bền vững: Kinh tế, xã hội, môi trường. Do vậy, có rất nhiều
vấn đề xã hội trong khu vực nông thôn cần giải quyết, như nghèo đói, thất nghiệp,
sự phân hóa giàu nghèo...Trên thực tế hiện nay, tình trạng nghèo đói tồn tại chủ
yếu ở vùng nông thôn. Chiếm phần lớn trong số những người thuộc diện nghèo
đói là những người tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đối với nền
nông nghiệp truyền thống lạc hậu, tốc độ tăng trưởng thấp rất khó có thể giải
quyết được vấn đề đói nghèo. Trong khi đó, việc phát triển một nền nông nghiệp
theo hướng bền vững sẽ đảm bảo được các mục tiêu tăng trưởng ổn định và hiệu
quả. Thực hiện các mục tiêu trên sẽ là cơ sở giải quyết vấn đề thất nghiệp trong
khu vực nông thôn. Khi các mục tiêu trên được thực hiện sẽ là cơ sở, tiền đề vật
chất góp phần thúc đẩy nhanh quá trình xóa đói giảm nghèo.
Ba là, phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững là phát triển nền
nông nghiệp sinh thái.
Trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, thì nông nghiệp là
ngành liên quan trực tiếp tới các điều kiện tài nguyên thiên nhiên và môi
trường sinh thái.
Nền nông nghiệp truyền thống là nền nông nghiệp lạc hậu, trình độ kỹ
thuật kém, phương thức canh tác thủ công, độc canh, khai thác, sử dụng bừa bãi
tài nguyên đất, tài nguyên nước. Điều đó đã làm cho môi trường thiên nhiên bị
tàn phá nghiêm trọng, tất cả đều do sự khai thác quá mức của con người. Hậu
quả của những vấn đề trên sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của những người
lao động trong nông nghiệp và cư dân nông thôn, họ có nguy cơ rơi vào tình
trạng "Nghèo đi tương đối”. Đứng trước những vấn đề đó, nhận thức về phát
triển bền vững nền nông nghiệp theo hướng nền nông nghiệp sinh thái có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Tập trung vào ba nội dung sau:
19
Thứ nhất, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên hiện có để
thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, trong khai thác tài nguyên thiên nhiên
vào sản xuất nông nghiệp phải có quy hoạch, kế hoạch khoa học.
Thứ hai, giữ gìn và bảo tồn chất lượng tài nguyên thiên nhiên cho
các thế hệ mai sau. Do đó, ngay trong hiện tại, việc khai thác và sử dụng các
nguồn tài nguyên ngoài việc thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ hiện tại phải tính
đến lợi ích của các thế hệ tương lai.
Thứ ba, ngăn chặn ô nhiễm, lạm dụng hóa chất trong sản xuất nông nghiệp.
Trên cơ sở đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến vào sản xuất nhằm tạo ra những sản phẩm sạch, có chất lượng cao.
Những tiêu chí nêu trên là cơ sở cho việc đánh giá toàn diện sự phát triển
nông nghiệp theo hướng bền vững. Tuy nhiên, trong quá trình xem xét, đánh giá
cần có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển để vận
dụng những tiêu chí này cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển, từng trường
hợp cụ thể với những yêu cầu khác nhau, ở những địa phương khác nhau, khu
vực và từng vùng khác nhau.
1.1.2. Sự cần thiết phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở
tỉnh Hải Dương hiện nay
Thứ nhất, xuất phát từ vị trí, vai trò của phát triển nông nghiệp theo
hướng bền vững đối với kinh tế - xã hội ở tỉnh Hải Dương
Một là, nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, cung cấp những
sản phẩm cần thiết đó là lương thực, thực phẩm thỏa mãn nhu cầu hàng đầu của
con người là nhu cầu ăn, mà không có ngành nào có thể thay thế được; phát triển
nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hải Dương sẽ bảo đảm an ninh lương thực,
đồng thời là nhân tố ổn định kinh tế, chính trị và xã hội trên địa bàn tỉnh.
Hải Dương là tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội tương đối nhanh
so với cả nước. Sau hơn 25 năm đổi mới cùng đất nước, Hải Dương đã tạo ra
cho mình một diệm mạo mới, với sắc thái mới; kinh tế luôn đạt mức tăng
trưởng cao. Giai đoạn 2001 - 2005, nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân là
20
10,8%/năm; giai đoạn 2006 -2010 tăng trưởng bình quân là 9,8%/năm. Quy mô
kinh tế của tỉnh được tăng lên, tổng sản phẩm năm 2010 gấp 2,3 lần so với năm
2005. Thu nhập GDP bình quân đầu người đạt 17,9 triệu đồng, tương đương 964
USD [15, tr.12]. Dân số toàn tỉnh theo số liệu điều tra năm 2009 là 1.703.492
người; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của toàn tỉnh năm 2010 là 0,96% [15, tr.21]. Quy
mô, tốc độ tăng tăng dân số và mức sống của nhân dân trong tỉnh ngày một nâng
cao đang là những nhân tố làm cho nhu cầu về lương thực, thực phẩm ngày càng
tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Nếu không bảo đảm an ninh lương
thực thì khó có sự ổn định về chính trị và xã hội trên địa bàn. Điều kiện tiên quyết
để phát triển và nâng cao đời sống nhân dân là phát triển nông nghiệp theo hướng
bền vững đảm bảo cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm cho nhân dân.
Hai là, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững tạo ra việc làm,
tăng thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn.
Ở Hải Dương hiện nay, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính đóng
góp vào nền kinh tế và ổn định đời sống nhân dân trong tỉnh. Dân số sống ở khu
vực nông thôn Hải Dương là 1.378.562 người (chiếm 80,93%) với gần 364.275
hộ nông dân. Theo đó, số người làm việc thường xuyên trong ngành nông
nghiệp chiếm tỷ lệ lớn. Vì vậy, hiện nay phần lớn việc làm và thu nhập của
người lao động ở Hải Dương vẫn phụ thuộc vào ngành nông nghiệp. Do đó, sự
phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững góp phần tạo ra nhiều việc làm cho
người lao động trong các hoạt động công nghiệp, dịch vụ phục vụ nông nghiệp
như cơ khí, hóa chất, chế biến nông sản. Điều đó khẳng định, phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững ngày càng có vai trò to lớn trong tạo việc làm, tăng
thu nhập cho dân cư, góp phần quan trọng bảo đảm ổn định chính trị - xã hội trên
địa bàn tỉnh.
Ba là, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hải Dương có
vai trò quan trọng cung cấp các yếu tố đầu vào cho ngành công nghiệp và
thúc đẩy các ngành khác phát triển.
21
Hải Dương là tỉnh có tốc độ phát triển công nghiệp nhanh. Ngành
công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn (45,4%) trong tổng sản phẩm quốc nội của
tỉnh. Tính đến 2011, toàn tỉnh có 18 khu công nghiệp, 34 cụm công nghiệp.
Quy mô và tốc độ phát triển của công nghiệp là nhân tố làm tăng nhu cầu đầu
vào về nguồn nguyên liệu có nguồn gốc từ nông nghiệp. Để đáp ứng nhu cầu
đó, đòi hỏi nông nghiệp Hải Dương phải phát triển các ngành sản xuất nguyên
liệu đầu vào của công nghiệp. Sự phát triển đó không phải bằng ý chí chủ quan
mà phải trên cơ sở đánh giá một cách khoa học, toàn diện các nhân tố, nguồn
lực của ngành nông nghiệp để đạt hiệu quả kinh tế cao gắn với các vấn đề xã
hội và môi trường. Mặt khác, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững,
nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua từ khu vực nông
thôn và do đó sẽ làm tăng cầu về sản phẩm công nghiệp, thúc đẩy quan hệ trao
đổi giữa nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh phát triển.
Bốn là, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hải Dương có ý
nghĩa quan trọng trong việc cải tạo và bảo vệ môi trường tự nhiên.
Đối tượng sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi gắn liền với đất
đai, nguồn nước, thời tiết, khí hậu... và luôn tiềm ẩn những yếu tố gây ô
nhiễm môi trường cao do sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật không đúng
quy trình, xử lý chất thải và vệ sinh chuồng trại không hợp vệ sinh...
Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững đòi hỏi phải có một
chiến lược phát triển nông nghiệp đúng đắn, khai thác lợi thế tiềm năng
nông nghiệp từng vùng và kết hợp nhiều loại nông sản, tránh sử dụng quá
mức các loại hóa chất, tiến tới một nền nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp
sinh thái, góp phần tạo nên một hệ sinh thái hoàn chỉnh, đảm bảo sự phát
triển cân bằng giữa các vùng, góp phần vào việc bảo vệ môi trường, môi
sinh. Do đó, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hải Dương sẽ
khắc phục được những tác động xấu tới môi trường tự nhiên, tạo ra các sản
phẩm sạch có chất lượng cao cho xã hội.
22
Năm là, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững sẽ tạo điều kiện
để củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh.
V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Muốn phòng thủ phải có một đội quân kiên
cường, một hậu phương vững chắc, mà muốn có hậu phương kiên cường
vững mạnh thì trước hết phải tổ chức thật vững chắc công tác lương thực”
[33, tr.423]. Nông nghiệp không chỉ có vai trò quan trọng đối với đời sống
kinh tế - xã hội nói chung mà còn có vai trò lớn đối với sự nghiệp củng cố
quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang.
Hải Dương có vị trí địa lý thuận lợi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía
Bắc và trục tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hệ
thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt thuận lợi. Hải Dương là cửa ngõ
phía Đông của Thủ đô Hà Nội, có vị trí địa quân sự, quốc phòng đặc biệt quan
trọng. Vì thế trong củng cố quốc phòng, việc quan trọng hàng đầu là phải
chuẩn bị đáp ứng cũng như dự trữ được lương thực, thực phẩm, hậu cần cho
hoạt động vũ trang. Thực trạng yếu kém, khuyết điểm trong qúa trình phát
triển kinh tế thời gian qua là nguyên nhân cơ bản cản trở phát triển kinh tế
- xã hội và chưa đáp ứng được yêu cầu củng cố quốc phòng trên địa bàn
tỉnh. Đất nông nghiệp đang bị thu hẹp, khai thác sử dụng tùy tiện. Vì thế
phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững đang đặt ra rất cấp bách, chỉ
có như vậy mới tạo sự tăng trưởng kinh tế ổn định và tạo được điều kiện
thuận lợi cho xây dựng sức mạnh khu vực phòng thủ, củng cố quốc phòng
trên địa bàn tỉnh cũng như đảm bảo nhu cầu tại chỗ cho hoạt động của các
lực lượng vũ trang. Mặt khác, phát triển nông nghiệp theo hướng bền
vững bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong tỉnh không
ngừng được cải thiện, củng cố được lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
với chính quyền các cấp và lực lượng vũ trang nhân dân trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, củng cố được thế trận lòng
dân tạo lên sức mạnh chính trị tinh thần to lớn, là nền tảng để củng cố
quốc phòng trên địa bàn tỉnh.
23
Thứ hai, xuất phát từ quá trình đô thị hóa tác động đến vấn đề an ninh
lương thực của tỉnh, đòi hỏi phải phát triển nông nghiệp theo hướng bền
vững.
Hải Dương là tỉnh đang có tốc độ đô thị hóa nhanh. Năm 2000 đất đô
thị của Hải Dương là 849,86 ha, chiếm 7,66% diện tích tự nhiên toàn tỉnh;
năm 2005 tăng lên là 1.633,31 ha, đến năm 2011 là 2.012,53 ha. Cũng từ năm
2000 đến nay, tỉnh đã phê duyệt quy hoạch và triển khai thực hiện 24 khu đô
thị mới, khu dân cư mới với tổng diện tích gần 900 ha; quy hoạch 12 khu
công nghiệp với tổng diện tích là 1.579 ha và 20 cụm công nghiệp với tổng
diện tích là 705 ha. Đến nay, toàn tỉnh có 18 khu công nghiệp với diện tích
là 3.733 ha, 34 cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 1000 ha. Đô thị hóa
diễn ra mạnh mẽ đã làm cho bộ mặt Hải Dương thay đổi góp phần đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Nhưng chính quá
trình đô thị hóa lại đặt ra những thách thức lớn về vấn đề lương thực; do từ
năm 2005 đến nay đã có hàng ngàn ha đất được chuyển đổi mục đích sử
dụng để xây dựng các khu đô thị mới, khu công nghiệp, làm cho diện tích
đất sản xuất nông nghiệp của tỉnh ngày càng giảm. Năm 2005 diện tích đất
nông nghiệp là 109.315 ha, đến năm 2010 chỉ còn 101.667 ha, giảm 7.648
ha. Điều đó đòi hỏi phải giữ vững và sử dụng có hiệu quả diện tích đất nông
nghiệp còn lại, theo đó phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững càng có
ý nghĩa với bảo đảm an ninh lương thực cho địa phương.
1.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở
tỉnh Hải Dương thời gian qua
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến sự phát triển
nông nghiệp theo hướng bền vững ở Hải Dương
* Đặc điểm về điều kiện tự nhiên
Về vị trí địa lý: Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, tiếp giáp
với 6 tỉnh: Phía Bắc và đông Bắc giáp Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh; phía
nam giáp Thái Bình; phía tây giáp Hưng Yên và phía đông giáp Hải Phòng.
24
Là tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và trục tam giác tăng
trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Trên địa bàn, có các tuyến đường
bộ, đường sắt quan trọng của quốc gia chạy qua, với chất lượng tốt như đường 5A,
18A, đường 183. Với vị trí này, Hải Dương rất thuận lợi trong giao lưu, trao đổi
thương mại với Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và các tỉnh khác cũng như giao
lưu với nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế của tỉnh.
Về khí hậu: Hải Dương nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, với khí hậu ôn
hòa, ít chịu ảnh hưởng của thiên tai; có 4 mùa rõ rệt. Giờ nắng trung bình hàng
năm là 1.600 - 1.700 giờ; lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.300 - 1.700mm; độ
ẩm không khí trung bình là 85 - 87%. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,30C.
Nhìn chung, khí hậu của tỉnh Hải Dương thuận lợi cho sự phát triển hệ sinh
thái động, thực vật cũng như các hoạt động sản xuất nông nghiệp bao gồm cây
lương thực, thực phẩm và cây ăn quả. Đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển
một nền nông nghiệp theo hướng bền vững.
Về tài nguyên đất: Hải Dương có 166.220 ha diện tích đất tự nhiên,
với hai nhóm chính là đất đồi núi và đất đồng bằng.
Đất đồi núi, diện tích 18.320 ha, bằng 11% diện tích đất tự nhiên, nằm
gọn ở phía Đông Bắc của tỉnh, gồm thị xã Chí Linh và huyện Kinh Môn. Đây
là vùng đồi núi thấp, nhóm đất này nghèo dinh dưỡng, tầng đất mỏng, độ phì
thấp, tưới tiêu tự chảy bằng hồ đập nước, chủ yếu phù hợp trồng các loại cây
lấy gỗ, cây ăn quả như vải thiều, dứa, cây công nghiệp như lạc, chè và phát
triển kinh tế trang trại quy mô lớn.
Đất đồng bằng, nằm ở phía Nam của tỉnh, gồm các huyện còn lại, diện tích
147.900 ha, chiếm 89% diện tích đất tự nhiên trong tỉnh, chủ yếu là đất phù sa do
hai hệ thống sông Thái Bình và sông Hồng tạo lên; đất đai bằng phẳng, màu mỡ,
tầng lớp canh tác dày, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến thịt trung bình; chủ động
tưới tiêu bằng động lực, thuận lợi cho thâm canh tăng vụ, ngoài sản xuất lúa còn
trồng rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày và sản xuất được nhiều vụ trong năm.
Như vậy, đất nông nghiệp ở Hải Dương thích ứng với nhiều loại cây
trồng cho phép bố trí cây trồng theo phương thức đa dạng hóa sinh học, nhất là
25
khả năng phát triển các cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả có hiệu quả kinh
tế cao. Đây là vùng đất lý tưởng để phát triển một nền nông nghiệp theo hướng
bền vững, khai thác lợi thế của vùng, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Về tài nguyên nước: Ở Hải Dương với hai nguồn nước ngầm và nguồn
nước mặt.
Nguồn nước ngầm của tỉnh có trữ lượng khá phong phú, lượng nước
ngầm tại các giếng khoan có thể khai thác từ 30 - 50 m3/ngày đêm. Nguồn
nước mặt, gắn với hệ thống sông ngòi khá dày đặc, với nhiều sông lớn: sông
Thái Bình, sông Hồng, sông Luộc, các sông trục Bắc Hưng Hải chiều dài 500
km và trên 2000 km sông ngòi nội đồng, tổng lượng dòng chảy qua tỉnh hàng
năm trên 1 tỷ m3. Tuy nhiên, nước phân bố không đều, lượng dòng chảy về
mùa hạ lớn (70 - 80%) chịu tác động của lũ thượng nguồn, nước có nhiều phù
sa, dâng nhanh, phải đầu tư nhiều cho công trình đê, kè cống mới tránh được lũ
lụt, vỡ đê. Về mùa cạn từ tháng 10 năm trước đến tháng 5 năm sau, lượng nước
trên các sông chỉ còn 20 - 30% lượng nước cả năm. Tình trạng thiếu nước trong
mùa khô gây không ít khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và giao thông đường
thủy, phải đầu tư lớn để nạo vét, khơi dòng. Chất lượng nguồn nước mặt đang
có biểu hiện nhiễm bẩn: Khu công nghiệp Việt Trì đã sử dụng nước sông Hồng
200.000m3/ngày đêm, thải ra sông trên 100.000 m3. Khu công nghiệp Thái
Nguyên sử dụng nước sông Cầu 260.000 m3/ngày đêm, thải ra sông 192.000
m3/ngày đêm. Khu công nghiệp Sài Đồng, Phố Nối đổ vào hệ thống thủy nông
Bắc Hưng Hải. Trong chất thải đều có chứa sắt, một số kim loại nặng khác và
các chất gây bẩn cần được xử lý triệt để[48, tr.9].
Nguồn nước phong phú tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng yêu cầu cho
phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững của tỉnh. Song cũng đặt ra nhiều
vấn đề phải xử lý trong sản xuất về nguồn nước, về an toàn thực phẩm.
Với vị trí địa - kinh tế và địa - chính trị thuận lợi, nằm giữa vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ, Hải Dương có nhiều tiềm năng đóng góp vào phát triển
kinh tế vùng đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là cho phát triển vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ. Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho Hải Dương phát triển
26
nông nghiệp; vấn đề đặt ra hiện nay là để đánh thức, khơi dậy những tiềm năng
to lớn mà điều kiện tự nhiên đã ưu đãi cho Hải Dương cần phải phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững.
* Đặc điểm về kinh tế- xã hội
Về dân số và nguồn lực lao động
Theo số liệu thống kê điều tra dân số năm 2009, dân số Hải Dương
hơn 1.703.492 người; tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn (1.378.562
người, chiếm 80,93%). Hiện nay, Hải Dương có nguồn lao động dồi dào, lực
lượng lao động trong độ tuổi có 1.097.967 người (chiếm 64,45%), trong đó
lao động nông thôn có 579.219 người (chiếm 52,7%). Lực lượng lao động
hùng hậu sẵn sàng tham gia vào phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền
vững của tỉnh.
Về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn
Sau khi tách tỉnh tháng 1/1997, Hải Dương đã quan tâm coi trọng phát
triển toàn diện kinh tế, văn hóa - xã hội. Với quan điểm: “Phát triển kết cấu hạ
tầng phải đi trước một bước, phải có sự quan tâm đầu tư đúng mực”, và cùng với
vị trí địa - kinh tế khá thuận lợi, đến nay Hải Dương đã có hệ thống kết cấu hạ
tầng phát triển khá đồng bộ. Hệ thống giao thông gồm: 3 tuyến đường sắt, 6
tuyến quốc lộ, 13 tuyến tỉnh lộ, tổng chiều dài 256,9 km; các tuyến đường huyện
có chiều dài 356,6 km và 7.070 km đường giao thông nông thôn [46, tr.12]. Hệ
thống giao thông kết nối với các tỉnh, thành phố trong khu vực kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ, đảm bảo cho Hải Dương có đủ khả năng giao lưu kinh tế mạnh
mẽ, rộng khắp với các tỉnh, thành phố trong vùng Đồng bằng Sông Hồng, với cả
nước cũng như giao lưu kinh tế với quốc tế. Hệ thống thủy lợi cung cấp nước
cho sản xuất và đời sống với 32 trạm bơm, 1.248 km kênh, mương, hệ thống
thủy nông đảm bảo tưới tiêu trên 82,3% diện tích cây trồng [46, tr.10]. Hệ thống
điện và lưới điện khá hoàn chỉnh, đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật cung cấp điện an
toàn và chất lượng ổn định, phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Mạng
lưới bưu chính viễn thông đã thực hiện phủ sóng trên phạm vi toàn tỉnh; 100%