Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư qua thực tiễn trên địa bàn thị xã phúc yên, tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 108 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH KIU OANH

PHáP LUậT Về QUảN Lý CHấT THảI RắN KHU DÂN CƯ
QUA THựC TIễN TRÊN ĐịA BàN THị Xã PHúC YÊN,
TỉNH VĩNH PHúC

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH KIU OANH

PHáP LUậT Về QUảN Lý CHấT THảI RắN KHU DÂN CƯ
QUA THựC TIễN TRÊN ĐịA BàN THị Xã PHúC YÊN,
TỉNH VĩNH PHúC
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN QUANG TUYN

H NI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Kiều Oanh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng, hình ảnh
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN KHU DÂN CƢ
VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN KHU DÂN CƢ .........8
1.1.

LÝ LUẬN VỀ CHẤT THẢI RẮN KHU DÂN CƯ .....................................8


1.1.1.

Khái niệm chất thải .......................................................................................8

1.1.2.

Khái niệm chất thải rắn ...............................................................................13

1.1.3.

Phân loại chất thải rắn .................................................................................17

1.1.4.

Vai trò của việc quản lý chất thải rắn đối với cuộc sống con người ...........18

1.2.

LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN KHU DÂN CƯ ................20

1.2.1.

Khái niệm và nguyên tắc quản lý chất thải rắn khu dân cư ........................20

1.2.2.

Hệ thống cơ quan quản lý chất thải rắn khu dân cư ....................................24

1.2.3.


Hiện trạng công tác quản lý chất thải rắn khu dân cư tại Việt Nam và kinh
nghiệm quản lý chất thải rắn khu dân cư của một số quốc gia trên thế giới......25

1.3.

LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN KHU DÂN CƯ ......29

1.3.1.

Sự cần thiết của việc quản lý chất thải rắn khu dân cư bằng pháp luật ...............29

1.3.2.

Khái niệm pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư ...........................31

1.3.3.

Nội dung điều chỉnh của pháp luật quản lý chất thải rắn khu dân cư .................33

1.3.4.

Vai trò của pháp luật quản lý chất thải rắn khu dân cư ...............................35

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI
RẮN KHU DÂN CƢ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THỊ XÃ
PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC ...........................................................38
2.1.

NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN KHU DÂN CƯ ....38


2.1.1.

Nội dung quy định về tổ chức, hoạt động của các cơ quan quản lý chất
thải rắn khu dân cư ......................................................................................38


2.1.2.

Nội dung quy định đối với chủ thể phát sinh chất thải rắn khu dân cư .............40

2.1.3.

Nội dung quy định về thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường khu
dân cư ...........................................................................................................45

2.1.4.

Nội dung quy định về tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý
chất thải rắn khu dân cư ..............................................................................49

2.1.5.

Nội dung quy định tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng từ chất thải
rắn khu dân cư .............................................................................................49

2.1.6.

Nội dung quy định về xử lý chất thải rắn khu dân cư .................................51


2.1.7.

Nội dung các quy định về quản lý nhà nước đối với chất thải rắn khu
dân cư trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt ...............................................54

2.1.8.

Nội dung quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong quản
lý chất thải rắn khu dân cư ..........................................................................56

2.2.

THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI
RẮN KHU DÂN CƯ TẠI THỊ XÃ PHÚC YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC....61

2.2.1.

Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị xã Phúc Yên ảnh hưởng
đến việc thi hành pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư ................61

2.2.2.

Thực tiễn thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư trên
địa bàn thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc ...................................................65

Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI
RẮN KHU DÂN CƢ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ PHÚC YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC..............74
3.1.


GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI
RẮN KHU DÂN CƯ TỪ THỰC TIỄN TẠI THỊ XÃ PHÚC YÊN - TỈNH
VĨNH PHÚC.................................................................................................74

3.1.1.

Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn khu
dân cư từ thực tiễn tại thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc ...........................74

3.1.2.

Giải pháp hoàn thiện ...................................................................................77

3.2.

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN KHU DÂN CƯ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ
XÃ PHÚC YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC .......................................................83

3.2.1.

Phát huy vai trò của cộng đồng dân cư trong thực thi pháp luật về quản
lý chất thải rắn khu dân cư ..........................................................................83


3.2.2.

Xác lập cơ chế xã hội hóa, khuyến khích người dân, doanh nghiệp đầu
tư, chung tay cùng với Nhà nước thực thi pháp luật về quản lý chất
thải rắn khu dân cư ......................................................................................84


3.2.3.

Tuyên truyền, phổ biến kinh nghiệm của một số nước về khuyến khích
cộng đồng tham gia vận chuyển, thu gom, xử lý nước thải và vận dụng
sáng tạo vào thực tiễn cụ thể của thị xã Phúc Yên ......................................85

KẾT LUẬN ..............................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................96


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BVMT

Bảo vệ môi trường

CTNH

Chất thải nguy hại

CTR

Chất thải rắn

CTRNH

Chất thải rắn nguy hại

CTRTT


Chất thải rắn thông thường

UBND

Ủy ban nhân dân

VSMT

Vệ sinh môi trường


DANH MỤC BẢNG, HÌNH ẢNH

Số hiệu

Tên bảng, hình ảnh

Bảng 2.1: Phương tiện thu gom, vận chuyển rác trên địa bàn Thị
xã Phúc Yên

Trang
72

Hình ảnh 2.1. Rác được tập kết ngay giữa khu dân cư

68

Hình ảnh 2.2. Rác được tập kết dọc bờ ruộng

69


Hình ảnh 2.3. Rác được tập kết dọc bờ ao, bờ mương

69

Hình ảnh 2.4. Rác sau các buổi họp chợ

69

Hình ảnh 2.5. Rác được thu gom từ các hộ gia đình (Rác tổng hợp)

69

Hình ảnh 2.6. Hộ gia đình tự xử lý rác thải sau vườn nhà

70

Hình ảnh 2.7. Khu xử lý rác thải tại xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên

71

Hình ảnh 3.1. Tháp xử lý rác thải để trồng rau

92

Hình ảnh 3.2. Tháp xử lý rác thải để trồng cây cảnh

92



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu

Tên sơ đồ

Sơ đồ 3.1. Sơ đồ công nghệ xử lý rác thải của Mỹ - Canada
Sơ đồ 3.2.

Sơ đồ dây chuyền công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt
của CHLB Đức

Sơ đồ 3.3. Công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt Trung Quốc

Trang
89
90
91


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Hiện nay, bảo vệ môi trường trở thành thách thức lớn của nhân loại khi
mà biến đổi khí hậu đang đe dọa đến cuộc sống con người trên trái đất. Việt Nam là
một quốc gia đang phát triển. Để thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”, nước ta đang đẩy mạnh công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với việc ra đời các khu công nghiệp, khu
kinh tế, khu công nghệ cao; các khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn, hệ thống cơ
sở kỹ thuật hạ tầng v.v làm thay đổi bộ mặt đất nước theo hướng văn minh, hiện
đại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa mang lại, nước ta đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về môi
trường - hậu quả hoặc mặt trái của quá trình này mang lại - đe dọa sự phát triển bền
vững như các con sông ở Hà Nội đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, hiện tượng cá chết
hàng loại ở 04 tỉnh miền Trung gồm Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên - Huế; sự kiện ô nhiễm sông Thị Vải (tỉnh Đồng Nai) mà thủ phạm là việc xả
thải của Công ty VEDAN gây ra; vấn đề xử lý rác thải sinh hoạt, rác thải công
nghiệp v.v. Điều này đặt ra yêu cầu phải bảo vệ môi trường, lồng ghép vấn đề bảo
vệ môi trường trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức sâu sắc tầm
quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (trong đó có chính sách, pháp
luật về xử lý chất thải rắn trong khu dân cư). Pháp luật về bảo vệ môi trường đã có
những đóng góp quan trọng vào sự phát triển bền vững của đất nước; tạo cơ sở pháp
lý cho công tác quản lý nhà nước về môi trường; ý thức chấp hành pháp luật trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân ngày một nâng cao v.v. Song nếu
đánh giá một cách khách quan thì việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường nói
chung và các quy định về quản lý chất thải rắn trong khu dân cư nói riêng còn tồn
tại không ít hạn chế, yếu kém mà điển hình là chế tài xử lý vi phạm pháp luật về thu

1


gom, phân loại, xử lý và tái chế loại chất thải này chưa đủ sức răn đe, giáo dục
người vi phạm; dường như vẫn còn thiếu, chưa đồng bộ các quy định về điều kiện
vật chất đảm bảo cho việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường… Hơn nữa, Luật
bảo vệ môi trường năm 2014 được ban hành có những sửa đổi, bổ sung về quản lý
chất thải rắn trong khu dân cư và đang được các cấp, các ngành triển khai thực hiện.
Với ý nghĩa đó, việc tìm hiểu các quy định về quản lý chất thải rắn trong khu dân cư
đặt trong mối quan hệ tham chiếu với Luật bảo vệ môi trường năm 2014 là cần
thiết, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi trong đời sống thực tiễn.
1.2. Thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc là một đô thị trẻ nằm ở vị trí sát Thủ

đô Hà Nội, có đường Quốc lộ số 2 đi qua nên có nhiều tiềm năng để phát triển kinh
tế - xã hội. Trong những năm qua tốc độ phát triển của Thị xã Phúc Yên luôn đứng
ở tốp đầu của Tỉnh Vĩnh Phúc đã làm thay đổi bộ mặt đời sống của người dân nơi
đây. Kinh tế phát triển cộng với việc dân số tăng nhanh (tăng dân số cơ hội và sinh
học) đã hình thành các khu dân cư mới hoặc mở rộng, chia tách khu dân cư; nhiều
phường được thành lập trên cơ sở các xã. Tuy nhiên, cơ chế quản lý, tác phong làm
việc và nhận thức của người dân ở các phường mới thành lập chưa thay đổi để theo
kịp với yêu cầu của quản lý đô thị. Ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ môi
trường của người dân còn nhiều hạn chế mà điển hình là hành vi vứt rác thải bừa
bãi, không theo đúng quy định; việc quản lý rác thải rắn trong khu dân cư chủ yếu
mới dừng lại ở việc thu gom, chôn lấp mà chưa giải quyết được việc phân loại, xử
lý và tái chế với dây chuyền công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường. Hậu quả
là các bãi rác thải sinh hoạt hình thành tự phát, thiếu tập trung và không có hệ thống
xử lý đã gây ô nhiễm nghiêm trọng đến đời sống của người dân (đặc biệt là người
dân sống gần khu vực bãi rác thải) khiến nhân dân hết sức lo lắng, bất bình. Thực
trạng đáng buồn này có một phần nguyên nhân từ hệ thống pháp luật về quản lý
chất thải rắn trong khu dân cư còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp và đồng bộ cũng
như hiệu quả thực thi thấp. Để đưa ra các giải pháp khắc phục thì cần phải có sự
nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện lĩnh vực pháp luật này trên
phương diện lý luận và thực tiễn.

2


Với những lý do cơ bản trên đây, em lựa chọn đề tài “Pháp luật về quản lý
chất thải rắn khu dân cư qua thực tiễn trên địa bàn thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư là đề tài nhận được sự quan
tâm tìm hiểu của giới luật học nước ta. Thời gian vừa qua đã có nhiều công trình

khoa học liên quan đến vấn đề này được công bố mà tiêu biểu phải kể đến một số
công trình nghiên cứu sau đây: i) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “Luật
Môi trường”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội - 2006; ii) Viện Khoa học Công nghệ
và Môi trường, Bài giảng quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại, Trường Đại
học Công nghiệp TP.Hồ Chí Minh; iii) Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách
khoa học công nghệ, Kinh tế chất thải đô thị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội - 2003; iv) Nguyễn Văn Phương: Pháp luật môi trường về hoạt động nhập
khẩu phế liệu ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội - 2007; v) Lê Kim Nguyệt, Một cơ chế phù hợp cho quản lý chất thải nguy
hại ở Việt Nam đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tháng 11 năm 2002; vi) TS.
Nguyễn Văn Phương, Chất thải và quy định quản lý chất thải, được đăng trên Tạp
chí Luật học số 4 năm 2003; vii) TS. Nguyễn Văn Phương, Một số vấn đề về khái
niệm chất thải, được đăng trên Tạp chí Luật học số 10 năm 2006; viii) Trường đại
học Luật Hà Nội (2008), Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải, đề tài nghiên
cứu khoa học cấp trường, trường Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Văn Phương (chủ
nhiệm); ix) Hoàng Thị Tuyết, Thi hành pháp luật quản lý rác thải trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
-2014 v.v. Các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra những khái niệm, đánh giá,
bình luận liên quan tới các quy định của pháp luật về quản lý rác thải, chất thải nói
chung trên phạm vi cả nước theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường (Luật
BVMT) năm 2005 và các văn bản pháp luật liên quan khác; Tuy nhiên, những bài
viết này mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá hay gợi mở một vài khía cạnh của pháp
luật quản lý chất thải nói chung, quản lý rác thải nói riêng trên phạm vi cả nước và

3


chưa có công trình nào đưa ra các đánh giá cụ thể, chi tiết và toàn diện về việc thi
hành pháp luật quản lý chất thải rắn khu dân cư trên địa bàn Thị Xã Phúc Yên, Tỉnh
Vĩnh Phúc, đặc biệt là các đánh giá, bình luận liên quan tới quy định về vấn đề này

trong Luật BVMT năm 2014 vừa mới ban hành. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài
“Pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư qua thực tiễn trên địa bàn thị xã
Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc” với mong muốn hoàn thiện “khoảng trống” khoa học
pháp lý nêu trên, đồng thời mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của
mình vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật
về việc quản lý chất thải rắn trên địa bàn Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn là đưa ra các giải pháp góp phần
hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư và nâng cao hiệu quả thi
hành qua thực tiễn trên địa bàn Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về quản lý chất thải
rắn trong khu dân cư qua việc phân tích, làm rõ nội dung và bản chất của các vấn
đề cụ thể sau:
Một là, phân tích khái niệm và đặc điểm của chất thải; chất thải rắn; chất thải
rắn trong khu dân cư và quản lý chất thải rắn trong khu dân cư.
Hai là, lý giải sự cần thiết của việc quản lý chất thải rắn trong khu dân cư; ý
nghĩa của việc quản lý chất thải rắn trong khu dân cư.
Ba là, phân tích các phương thức quản lý chất thải rắn trong khu dân cư.
Bốn là, tìm hiểu khái niệm và đặc điểm của pháp luật về quản lý chất thải rắn
trong khu dân cư; lý giải cơ sở của việc ra đời pháp luật về quản lý chất thải rắn
trong khu dân cư.
Năm là, đề cập cấu trúc của pháp luật về quản lý chất thải rắn trong khu dân cư.

4



Thứ hai, đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý chất thải rắn trong khu dân cư
và thực tiễn thi hành trên địa bàn Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc.
Thứ ba, đưa ra định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về
quản lý chất thải rắn trong khu dân cư và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn
của Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào các vấn đề cụ thể sau đây:
- Quan điểm, đường lối của Đảng về bảo vệ môi trường nói chung và quản lý
chất thải rắn khu dân cư nói riêng trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới và hội nhập quốc tế.
- Các quy định của pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư.
- Thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư trên địa
bàn Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc.
- Các quan điểm khoa học, trường phái lý thuyết về chất thải rắn khu dân cư
và quản lý chất thải rắn khu dân cư …
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một bản luận văn thạc sĩ luật học, luận văn giới hạn
phạm vi nghiên cứu trong một số vấn đề cụ thể sau:
- Phạm vi về nội dung: Luận văn đi sâu phân tích, tìm hiểu các quy định của
Luật bảo vệ môi trường năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành về quản lý
chất thải rắn khu dân cư.
- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật
về quản lý chất thải rắn khu dân cư trên địa bàn Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin.


5


- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích được sử dụng khi tìm hiểu khái niệm, đặc điểm của
chất thải; chất thải rắn; chất thải rắn khu dân cư và khái niệm, đặc điểm của pháp
luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư …
ii) Phương pháp bình luận được sử dụng khi nghiên cứu thực trạng pháp luật
về quản lý chất thải rắn khu dân cư.
iii) Phương pháp đánh giá được sử dụng khi nghiên cứu thực tiễn thi hành
pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư trên địa bàn Thị xã Phúc Yên, Tỉnh
Vĩnh Phúc.
iv) Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi đề cập định hướng hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư từ thực
tiễn của Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc.
v) Phương pháp lập luận logic được sử dụng khi nghiên cứu đề xuất các giải
pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quản lý chất
thải rắn khu dân cư từ thực tiễn của Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc v.v.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở tham chiếu với Luật bảo vệ môi trường năm 2014, luận văn đã có
một số đóng góp nhất định. Những đóng góp này được khu trú vào một số vấn đề cụ
thể sau:
- Luận văn hệ thống hóa và góp phần bổ sung cơ sở lý luận về quản lý chất
thải rắn khu dân cư và pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư ở Việt Nam.
- Luận văn đã phân tích, bình luận nội dung các quy định của pháp luật về
quản lý chất thải rắn khu dân cư và đưa ra những đánh giá về hiệu quả thi hành qua
thực tiễn của Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc.
- Luận văn đề xuất định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư ở Việt Nam qua thực
tiễn của Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc.

Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan tâm tìm hiểu về lĩnh
vực pháp luật này.

6


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Bảng từ viết tắt, Danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 Chương, cụ thể là:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý chất thải rắn khu dân cư và
pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý chất thải rắn khu dân cư và thực
tiễn thi hành trên địa bàn Thị xã Phúc Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc.
- Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý chất
thải rắn khu dân cư và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn của Thị xã Phúc Yên,
Tỉnh Vĩnh Phúc.

7


Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN KHU DÂN CƢ
VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN KHU DÂN CƢ
1.1. LÝ LUẬN VỀ CHẤT THẢI RẮN KHU DÂN CƯ
1.1.1. Khái niệm chất thải
“Chất thải” là một khái niệm được sử dụng phổ biến trong các quy phạm
pháp luật về môi trường. Để có thể hiểu rõ được nội hàm của khái niệm này, chúng
ta có thể tìm hiểu theo các góc độ sau đây:
Thứ nhất, dưới góc độ ngôn ngữ học. Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung
tâm Từ Điển học Vietlex, Nxb Đà Nẵng năm 2006 thì “chất thải” được định nghĩa

là “rác là các vật bị bỏ đi sau một quá trình sử dụng nói chung”. Theo cách hiểu
của khái niệm này, chất thải bao gồm rác là những thứ vụn vặt bị vất bỏ vương vãi,
làm bẩn và đồ vật không có giá trị, không có tác dụng nên không được giữ lại. Mặc
dù, mang tính chất liệt kê nhưng khái niệm đã đưa ra hai tiêu chí để phân biệt chất
thải với vật chất tồn tại dưới dạng khác; bao gồm: Một là, chất thải tồn tại dưới
dạng vật chất; Hai là, chất thải là các vật chất (đồ vật) không có giá trị, không có tác
dụng và không bị chiếm hữu, sử dụng nữa. Tuy nhiên, khái niệm này mới chỉ dừng
lại ở việc liệt kê và xác định chất thải sinh ra trong sinh hoạt mà chưa khái quát tất
cả các loại chất thải được sản sinh trong những hoạt động khác nhau của con người
như sản xuất - kinh doanh, dịch vụ v.v. Khái niệm này cũng không đưa ra đối tượng
quyết định về giá trị, tác dụng của đồ vật và quyết định không chiếm hữu, không sử
dụng đồ vật nữa. Giá trị của một đồ vật đối với chủ sở hữu và đối với xã hội có thể
không thống nhất. Do đó, không có cơ sở chính xác cho việc đánh giá một vật chất
có phải là chất thải hay không.
Từ điển Môi trường Anh - Việt và Việt Anh định nghĩa “chất thải (waste) là
bất kỳ chất gì, rắn, lỏng hoặc khí mà cơ thể hoặc hệ thống sinh ra nó không còn sử
dụng được nữa và cần có biện pháp thải bỏ”. Khái niệm này đã đưa ra ba yếu tố để
phân biệt chất thải, đó là: i) Chất thải là vật chất tồn tại dưới các dạng rắn, lỏng, khí;

8


ii) Vật chất đó không còn giá trị sử dụng đối với cơ thể và hệ thống sinh ra nó; iii)
Phải có biện pháp thải bỏ đối với vật chất đó. Khái niệm này có ưu điểm là đưa ra
các dạng tồn tại chủ yếu của chất thải và tiêu chí để xác định một chất trở thành chất
thải. Tiêu chí mà định nghĩa đưa ra dựa trên nhu cầu sử dụng của “hệ thống sinh ra
vật chất đó”. Khi hệ thống đó “không còn sử dụng được nữa và cần có biện pháp
thải bỏ” thì vật chất đó trở thành chất thải. Yếu tố “không còn sử dụng được nữa”
có thể do ý chí của chủ sở hữu vật chất đó không có ý định tiếp tục sử dụng hoặc do
đặc thù của hoạt động sản sinh ra vật chất nên chủ sở hữu không có khả năng tiếp

tục sử dụng. Đây là các hình thức từ bỏ vật chất mang tính chủ động và từ bỏ vật
chất mang tính chất bị động.
Thứ hai, dưới góc độ luật học. Khái niệm chất thải hiện diện trong pháp luật
quốc tế về môi trường, được đề cập tại Công ước Basel. Điều 2 khoản 1 Công ước
Basel định nghĩa “Chất thải là chất hoặc các đồ vật mà người ta tiêu hủy, có ý định
tiêu hủy hoặc phải tiêu hủy theo quy định của pháp luật quốc gia”. Theo đó, yếu tố
quyết định để xác định một vật chất hoặc đồ vật có phải là chất thải hay không phụ
thuộc vào việc vật chất hoặc đồ vật đó có bị chủ sở hữu “tiêu hủy, có ý định tiêu hủy
hoặc phải tiêu hủy” hay không. Khái niệm “tiêu hủy” được cụ thể hóa tại Phụ lục IV
của Công ước Basel. Phụ lục này phân biệt các quá trình tiêu hủy nhằm tận dụng lại,
tái chế, trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng lại (mục B) với quá trình tiêu hủy không
nhằm mục đích trên (mục A). Được hiểu là “tiêu hủy hoặc có ý định tiêu hủy” khi
chủ sở hữu hợp pháp thực hiện hoặc thông qua hành vi của mình thể hiện mong muốn
thực hiện một trong những biện pháp được quy định tại Phụ lục IV của Công ước.
Khi pháp luật quốc gia quy định, chủ sở hữu vật chất hoặc đồ vật đó là chất thải, vì
lúc này nó thỏa mãn điều kiện “phải tiêu hủy theo quy định của pháp luật quốc gia”.
Với quy định của Phụ lục IV của Công ước Basel, một vật chất là chất thải không phụ
thuộc vào mục đích cụ thể của quá trình tiêu hủy. Như vậy, giá trị sử dụng còn lại,
khả năng tái chế, tái sử dụng của vật chất hoặc đồ vật không có ý nghĩa trong việc xác
định một vật chất là chất thải.
Khái niệm chất thải còn được đề cập trong pháp luật của các Khối liên kết

9


kinh tế - chính trị, ví dụ: Liên minh Châu Âu (EU). Điều 1 Nghị định số 259/94 của
EU về vận chuyển chất thải ngày 01/2/1993, có hiệu lực ngày 06/05/1994 (sau đây
gọi là Nghị định số 259/93 của EU) định nghĩa: “Chất thải có nghĩa là bất kỳ chất
hoặc vật nào nằm trong danh mục phân loại tại Phụ lục I mà người giữ chúng thải
bỏ, có ý định hoặc được yêu cầu thải bỏ”. Theo định nghĩa này, một vật chất sẽ là

chất thải khi chủ sở hữu hoặc người chiếm giữ hợp pháp vật chất đó không có ý
định sử dụng hoặc không được tiếp tục sử dụng theo yêu cầu của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Như vậy, giá trị sử dụng về mặt xã hội của vật chất đó không là một
tiêu chí để xác định một vật chất là chất thải hay không.
Tại Việt Nam, Khoản 10 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 (Luật
BVMT năm 2005) định nghĩa chất thải như sau: “Chất thải là vật chất ở thể rắn,
lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác”. Theo
định nghĩa trên, các vật chất được coi là chất thải khi người chủ sở hữu thải ra trong
các hoạt động khác nhau. Quy định này đã được sửa đổi tại Khoản 12 Điều 3 Luật
BVMT năm 2014, theo đó “Chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác”. Quy định mới này đã bỏ cụm từ “ở
thể rắn, lỏng, khí” trong quy định tại Khoản 10, Điều 3 Luật BVMT năm 2005.
Điều này có nghĩa là, Luật BVMT năm 2014 đã mở rộng phạm vi các loại chất thải
hơn so với quy định của Luật BVMT năm 2005. Bởi lẽ, chất thải không nhất thiết
phải tồn tại ở một dạng vật chất bất kì nào trong ba dạng là rắn, lỏng hoặc khí, mà
chỉ cần điều kiện duy nhất là “được thải ra” từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ, sinh hoạt hoặc bất kì hoạt động nào khác. Yếu tố “được thải ra” ở đây được hiểu
theo các cách hiểu sau:
Một là, chủ sở hữu chủ động từ bỏ ý định sử dụng vật chất đó vào bất cứ mục
đích nào. Điều này có nghĩa là một chất tồn tại dưới dạng chất thải hay không phụ
thuộc vào ý chí của người chủ sở hữu vật chất đó. Khi chủ sở hữu từ bỏ ý định khai
thác giá trị, công dụng của vật chất thì nó trở thành chất thải, không phụ thuộc vào
giá trị sử dụng thực tế đối với xã hội, đối với người khác và đối với chu trình hoạt
động khác của con người.

10


Hai là, do đặc thù hoạt động của mình, chủ sở hữu phải thải bỏ vật chất và
hoạt động thải bỏ này không phụ thuộc vào ý chí của họ. Hoạt động thải bỏ này

mang tính chất bị động đối với chủ sở hữu cũng như đối với các đối tượng khác, kể
cả Nhà nước. Ví dụ: hoạt động đốt nhiên liệu tất yếu sẽ sản sinh khí thải, không phụ
thuộc vào việc người đốt nhiên liệu có mong muốn hay không. Việc đánh giá trên
thực tế đối với hành vi “từ bỏ ý định khai thác giá trị, công dụng” của chủ sở hữu
phải được xem xét một cách cụ thể đối với từng trường hợp. Khi chủ sở hữu “từ bỏ
ý định khai thác giá trị, công dụng” của một vật chất nhưng ngay sau đó xuất hiện
nhu cầu sử dụng vật chất đó với mục đích khác hoặc cũng với mục đích trước đó thì
vật chất đó không là chất thải. Ví dụ như những đồ vật cũ mà người chủ sở hữu
không còn nhu cầu sử dụng, không có “ý định khai thác giá trị, công dụng” của nó
nhưng chủ sở hữu ngay sau khi từ bỏ bán cho người khác sử dụng với tư cách là
hàng cũ (hàng second-hand) thì vật chất này không phải là chất thải [19]. Trong
trường hợp chủ sở hữu từ bỏ ý định khai thác giá trị, công dụng của một vật chất và
để sử dụng được vật chất đó thì con người phải thực hiện những biện pháp như phân
loại, tái chế… Vật chất đó sẽ tồn tại dưới dạng chất thải kể từ khi chủ sở hữu “thải
ra” cho tới khi con người hoàn thành hoạt động phân loại, tái chế… với mức độ có
thể sử dụng được và đưa nó vào sử dụng trên thực tế. Ví dụ, chất rắn của một doanh
nghiệp cơ khí được thải ra từ hoạt động sản xuất có thể là hỗn hợp của nhiều loại
vật chất, trong đó chủ yếu là sắt thép. Sắt thép trong hỗn hợp này là chất thải cho tới
khi nó được phân loại riêng, làm sạch để có thể đủ điều kiện trở thành nguyên liệu
của một chu trình sản xuất khác và biểu hiện thực tế sẽ đưa nó vào sử dụng. Các
phần còn lại của quá trình phân loại này có thể là chất thải khi nó được sử dụng một
cách hữu ích cho hoạt động của con người hoặc cũng có thể là nguyên liệu cho nền
kinh tế khi nó được sử dụng trên thực tế.
Như vậy, vật chất sẽ tồn tại dưới dạng chất thải kể từ khi nó bị thải ra cho tới
khi nó được phân loại, tái chế đủ điều kiện để đưa vào khai thác, sử dụng và trên
thực tế có những biểu hiện của quá trình sử dụng nó cho những mục đích khác
nhau. Các hoạt động sản sinh chất thải được liệt kê trong khái niệm bao gồm tất cả

11



các hoạt động khác nhau của con người, từ hoạt động sản xuất, hoạt động dịch vụ,
sinh hoạt và các hoạt động khác như du lịch, nghiên cứu khoa học, y tế… Theo cách
định nghĩa thông thường, vật chất được thải ra trong quá trình thực hiện những hoạt
động nêu trên với tư cách là một chỉnh thể hoặc trong từng giai đoạn, từng đối
tượng thực hiện hoạt động đó đều trở thành chất thải. Lượng chất thải của một hoạt
động bao gồm tất cả chất thải được sản sinh trong các giai đoạn của từng đối tượng
thực hiện hoạt động đó. Ví dụ, hoạt động du lịch, lượng chất thải được sản sinh của
một khu, một điểm du lịch là tổng lượng chất thải được sản sinh của các đối tượng
tham gia hoạt động du lịch. Ngược lại, nếu xem xét một cách cụ thể các chu trình
sản xuất trên thực tế thì cách hiểu trên có thể chưa hoàn toàn chính xác. Một chu
trình sản xuất có thể bao gồm nhiều công đoạn. Trong từng công đoạn, chủ sở hữu
có thể thải bỏ những vật chất khác nhau và không phải lúc nào những vật chất được
thải ra của các công đoạn này cũng là chất thải của chu trình sản xuất. Một chất thải
được sản sinh ra ở một công đoạn có thể là chất thải của chu trình sản xuất này
nhưng cũng có thể là nguyên liệu, nhiên liệu hoặc vật liệu của công đoạn khác hoặc
là sản phẩm phụ của chu trình sản xuất khác. Trong trường hợp, một vật chất được
thải ra ở công đoạn sản xuất này được sử dụng làm nguyên liệu, nhiên liệu hoặc vật
liệu cho công đoạn khác của chu trình sản xuất thì nó không phải là chất thải của
hoạt động sản xuất đó. Trong trường hợp chất thải không được sử dụng vào bất cứ
công đoạn nào của chính chu trình sản xuất thì nó là chất thải của từng hoạt động
sản xuất. Việc đánh giá một vật chất trong từng công đoạn hoặc trong chu trình sản
xuất có phải là sản phẩm phụ của chu trình sản xuất hay không phụ thuộc vào mục
đích của chu trình sản xuất đó. Hơn nữa, việc đánh giá vật chất có phải là chất thải
hay không còn phải căn cứ vào mục đích của chu trình sản xuất và mục đích của
từng công đoạn của chu trình sản xuất. Do tính chất và mục đích khác nhau giữa các
hoạt động của con người, vật chất có thể không có giá trị sử dụng cho chu trình hoạt
động này nên nó tồn tại dưới dạng chất thải nhưng lại có thể hữu ích cho một chu
trình hoạt động khác của chính đối tượng đó hoặc đối tượng khác. Khi vật chất được
thải ra trở thành vật hữu ích và được đưa vào sử dụng dưới dạng đồ vật, nguyên


12


liệu, nhiên liệu hoặc vật liệu thì sẽ không còn là chất thải nữa. Như vậy, vật chất sẽ
tồn tại dưới dạng chất thải kể từ khi nó bị thải ra cho tới khi có người đưa nó vào
khai thác, sử dụng [19]. Thông qua việc phân tích khái niệm chất thải được định
nghĩa tại Khoản 12, Điều 3 Luật BVMT năm 2014 chúng ta thấy rằng, vật chất là
chất thải hay không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu của vật chất đó, trừ trường
hợp chất thải được sản sinh do đặc thù của chu trình hoạt động, được thải ra một cách
bị động không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu cũng như các đối tượng khác, kể
cả Nhà nước. Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể đưa ra khái niệm chất thải
như sau: “Chất thải là vật chất tồn tại dưới dạng rắn, lỏng, khí hoặc các dạng khác
được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác
hoặc phải từ bỏ theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Để cụ thể
hóa khái niệm này cũng cần có sự giải thích về nội dung của thuật ngữ “được thải
ra”, “phải từ bỏ” và liệt kê những hành vi được nhìn nhận là thực hiện hoạt động
“thải ra” và những trường hợp cơ quan nhà nước có thể quyết định buộc chủ sở hữu
phải “loại bỏ”.
1.1.2. Khái niệm chất thải rắn
1.1.2.1. Định nghĩa chất thải rắn
Chất thải rắn (CTR) là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong đời sống
xã hội. Theo nghĩa thông thường, chất thải rắn được hiểu là tất cả các chất thải phát
sinh do các hoạt động của con người và động vật tồn tại ở dạng rắn, được thải bỏ
khi không còn hữu dụng hay khi không muốn sử dụng nữa.
Chất thải rắn có nguồn gốc hình thành:
- Từ các khu dân cư (khi dân cư đô thị và khu dân cư nông thôn).
- Từ các trung tâm thương mại.
- Từ các công sở, trường học, công trình công cộng.
- Từ các dịch vụ, sân bay.

- Từ các hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ du lịch.
- Từ các hoạt động đầu tư xây dựng.
- Từ các cơ sở y tế, từ các hoạt động nghiên cứu khoa học, thí nghiệm, thăm quan.

13


- Từ hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối
v.v.. Chất thải rắn sinh hoạt (hay còn được gọi là rác thải sinh hoạt) sinh ra từ mọi
người và mọi nơi: Gia đình, trường học, chợ, nơi mua bán hàng hóa, nơi công cộng,
nơi vui chơi giải trí, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất kinh doanh, bến xe, bến đò,...
Tuy nhiên, trong các văn bản quy phạm pháp luật thì thuật ngữ này chưa
được giải thích rõ về khái niệm. Chỉ đến khi Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày
09/04/2007 của Chính phủ quy định về quản lý chất thải rắn ra đời thì khái niệm
chất thải rắn mới được đề cập cụ thể. Theo khoản 2 và 3 của Nghị định này thì chất
thải rắn được hiểu như sau:
2. Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn, được thải ra từ quá trình sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. Chất thải
rắn bao gồm chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại.
Chất thải rắn phát thải trong sinh hoạt cá nhân, hộ gia đình, nơi
công cộng được gọi chung là chất thải rắn sinh hoạt. Chất thải rắn phát
thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề, kinh doanh, dịch vụ
hoặc các hoạt động khác được gọi chung là chất thải rắn công nghiệp.
3. Chất thải rắn nguy hại là chất thải rắn chứa các chất hoặc hợp
chất có một trong những đặc tính: phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn,
dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc các đặc tính nguy hại khác [6].
Để phù hợp với thực tiễn quản lý chất thải rắn trong điều kiện hội nhập quốc
tế, Nghị định 38/2015/NĐ-CP ngày 24//4/2015 của Chính phủ quy định về quản lý
chất thải và phế liệu đã sửa đổi, bổ sung quy định về chất thải, cụ thể như sau:
1. Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn hoặc sệt (còn gọi là bùn thải)

được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt
động khác.
2. Chất thải thông thường là chất thải không thuộc danh mục chất
thải nguy hại hoặc thuộc danh mục chất thải nguy hại nhưng có yếu tố
nguy hại dưới ngưỡng chất thải nguy hại.
3. Chất thải rắn sinh hoạt (còn gọi là rác sinh hoạt) là chất thải rắn
phát sinh trong sinh hoạt thường ngày của con người [9, Điều 3].

14


Như vậy, Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ quy
định về quản lý chất thải và phế liệu đã sửa đổi quy định về chất thải theo hướng rút
gọn và dễ hiểu mà không liệt kê danh mục các chất thải, bởi việc liệt kê các chất
thải cụ thể sẽ không hết và khó đầy đủ. Hơn nữa, Nghị định này còn ghi nhận thêm
một dạng tồn tại nữa của chất thải rắn là dạng sệt (hay còn gọi là bùn thải).
1.1.2.2. Đặc điểm của chất thải rắn
Căn cứ vào khái niệm về chất thải rắn được đề cập trên đây, theo tác giả thì
chất thải rắn có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chất thải rắn mang đầy đủ những đặc trưng của chất thải; bởi lẽ,
chất thải rắn là một dạng cụ thể của chất thải.
Theo quy định tại khoản 12 Điều 3 Luật BVMT năm 2014 thì “Chất thải là
vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động
khác”. Như vậy, để được coi là chất thải phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Tồn tại dưới dạng vật chất (thể rắn, lỏng, khí), đồng nghĩa rằng những thứ
tồn tại dưới dạng phi vật chất đều không được xem là chất thải.
- Vật chất đó bị chủ sở hữu thải bỏ dù theo ý muốn chủ quan hay khách quan
(bị buộc phải thải bỏ).
- Về nguồn gốc phát sinh, chất thải có nguồn gốc phát sinh từ các hoạt động
của con người như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt và các hoạt động khác.

Thứ hai, chất thải rắn phải là chất thải và tồn tại ở thể rắn hoặc sệt (không ở
thể khí và không hòa tan được).
Thứ ba, chất thải rắn có thể gây tác động nguy hại cho môi trường và (hoặc)
sức khỏe con người. Chất thải rắn gồm: Chất thải rắn thông thường và chất thải rắn
nguy hại.
Ngoài các đặc tính của chất thải rắn thông thường, chất thải rắn nguy hại
(CTNH) còn có chứa một trong các đặc tính gây nguy hại sau:
- Yếu tố độc hại: chất thải rắn nguy hại chứa yếu tố độc hại là chất thải mà
bản thân chúng có chất độc hoặc chứa các thành phần mà khi tiếp xúc với các thành
phần khác của môi trường sẽ sản sinh ra khí độc, gây ô nhiễm môi trường [41].

15


- Chất phóng xạ: chất thải rắn nguy hại có đặc tính này thường được sản sinh
từ nơi khai thác chất phóng xạ, trung tâm nghiên cứu nguyên tử, các nhà máy điện
nguyên tử, các vụ thử hạt nhân, các cơ sở sử dụng đồng vị phóng xạ trong nông
nghiệp, công nghiệp và y tế [41].
- Dễ cháy: chất thải rắn nguy hại ở dạng lỏng có nhiệt độ bắt cháy thấp hơn
60oC; dạng rắn có khả năng tự bốc cháy hoặc phát lửa do bị ma sát, hấp thụ độ ẩm, do
thay đổi hóa học tự phát trong các điều kiện bình thường; dạng khí nén có thể cháy.
Đặc tính này sẽ gây ra hỏa hoạn, bỏng, làm ô nhiễm không khí và nguồn nước [41].
- Dễ nổ: các chất thải rắn nguy hại ở thể rắn hoặc lỏng có thể nổ do kết quả
của phản ứng hóa học khi tiếp xúc với lửa hoặc do bị va đập, có thể gây tổn thương
da, bỏng, phá hủy công trình và thậm chí gây tử vong [41].
- Dễ ăn mòn: chất thải rắn nguy hại chứa các chất dễ ăn mòn là các chất thực
hiện phản ứng oxi hóa khử rất mạnh với các nguyên liệu kim loại hoặc chứa kim
loại. Việc ăn mòn có thể gây cháy da, ảnh hưởng đến phổi và mắt, gây hư hại vật
liệu công trình [41].
- Dễ lây nhiễm: chất thải rắn nguy hại có đặc tính này có chứa các vi khuẩn

xấu hoạt động mạnh, nếu không được quản lý chặt chẽ, không đảm bảo trong thu
gom, lưu giữ, vận chuyển, xử lý thì khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho
các vi khuẩn này hoạt động lan ra và rộng hơn, gây hậu quả rất nghiêm trọng, ảnh
hưởng đến môi trường và sức khỏe cộng đồng [41].
Như vậy, bản thân các chất thải rắn nguy hại có chứa các yếu tố có đặc tính
gây hại nên khi bị xả thải bừa bãi vào môi trường thường tạo ra các phản ứng (dẫn
đến các hiện tượng cháy, nổ, ăn mòn,…) phá hủy kết cấu mối trường và hệ sinh thái
(làm thay đổi tính chất môi trường, làm thay đổi số lượng và chất lượng, thành phần
môi trường) khiến cho môi trường bị ô nhiễm trầm trọng, hàm lượng các chất độc
hại có trong môi trường càng lớn thì khả năng gây ra các loại bệnh (thông qua
đường hô hấp, tiêu hóa, qua da) cho con người càng cao. Chất thải nguy hại có thể
phát sinh trong sinh hoạt hàng ngày như pin, bình ắc quy, hoá chất, thuốc trừ sâu,
bom đạn, rác thải y tế, rác thải điện tử...

16


×