Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Phát triển năng lực nhận thức giá trị đạo đức trong các tác phẩm Văn học thông qua dạy học (NCKH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.1 KB, 94 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này, trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng
cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS Đinh Thị Kim Thoa, Th. S Hồ Thu Hà – GV hướng
dẫn đã giúp đỡ, hướng dẫn tận tình cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện
bài nghiên cứu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới các thầy cô trong khoa Sư phạm,
khoa Khoa học Giáo dục của trường Đại học Giáo dục, trường Đại học khoa học xã
hội và nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội đã hướng dẫn giảng dạy em trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô
và HS trường THPT Nguyễn Trãi- Ba Đình, đặc biệt là lớp 11A9 đã giúp đỡ tôi
trong quá trình khảo sát và thực nghiệm tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2017
Tác giả khóa luận

Quách Thị Huyền

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt
THPT
GD- ĐT
HS
PPDH
GV
QTDH
THCS


SGK
GQVĐ
PPĐV

Viết đầy đủ
Trung học phổ thông
Giáo dục đào tạo
Học sinh
Phương pháp dạy học
Giáo viên
Qúa trình dạy học
Trung học cơ sở
Sách giáo khoa
Giải quyết vấn đề
Phương pháp đóng vai

2


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Danh mục Bảng
Bảng
Bảng 3.1 Mức độ cảm nhận của HS về tác phẩm văn chương
Bảng 3.2 Mức độ áp dụng PPDH trong giờ học môn Ngữ văn
Bảng 3.3 Bảng thống kê kết quả dạy thực nghiệm
Bảng 3.4: Kết quả dạy thực nghiệm đối chứng
Bảng 3.5 Tổng hợp so sánh kết quả bài thực nghiệm và bài đối chứng

Trang
66

67
73
74
75

Danh mục biểu đồ
Biểu đồ
Biểu đồ 3.1: Biểu đồ kết quả dạy thực nghiệm
Biểu đồ 3.2: Biểu đồ kết quả dạy thực nghiệm đối chứng
Biểu đồ 3.3: Biểu đồ so sánh kết quả dạy thực nghiệm và đối chứng

Trang
73
74
75

3


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những tư tưởng đổi mới GD & ĐT hiện nay là tăng cường giáo dục đạo
đức cho học sinh được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản
của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật giáo dục 2005 đã xác định: “ Mục tiêu của giáo dục

phổ thông là giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị
cho HS tiếp tục học lên hoặc hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc” ( Điều 23- Luật giáo dục 2005). Chính vì thế mà việc giáo dục về đạo đức
cho các em học sinh là điều rất cần thiết trong xã hội hiện nay.
Từ xa xưa đến nay, ông cha ta luôn đặt chữ “ lễ”, “ nghĩa” lên hàng đầu. “ Tiên học
lễ, hậu học văn” , thực tế cho thấy thầy Chu Văn An đã cảm hóa được học trò bằng chính
đạo đức của mình và người học trò đã vì chữ nghĩa với thầy mà làm việc nghĩa cho đến
muôn đời sau vẫn còn lưu truyền mãi mãi. Thế nhưng, thực tế cho thấy do đặc điểm xã
hội ngày nay, hội nhập kinh tế ngoài mặt tích cực nó còn làm phát sinh những vấn đề mà
chúng ta cần quan tâm. Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, hội nhập kinh tế quốc tế đưa
vào nước ta những sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, reo rắc lối sống tự do, làm xói mòn
những giá trị đạo đức, thuần phong mĩ tục của dân tộc. Hiện nay một số bộ phận thanh
thiếu niên có dấu hiệu xa sút nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch
lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng đồng, thiếu niềm tin vào cuộc sống, không có tính tự
chủ và bị lôi kéo vào những việc xấu. Hiện nay trong nhà trường, số học sinh vi phạm đạo
đức có chiều hướng gia tăng, tình trạng học sinh vi phạm nội quy nhà trường trong giáo
dục, vi phạm pháp luật như tham gia vào các tệ nạn xã hội,… diễn ra rất phổ biến hiện
nay. Đây là một điều đáng báo động của học sinh hiện nay nếu như không có những biện
pháp giáo dục phù hợp thì các em học sinh sẽ không có những nhận thức đúng đắn đối
với những hành vi của mình có khả năng chúng sẽ vi phạm pháp luật, nếu không được
giáo dục tốt thì hậu quả rất nghiêm trọng.
Trong xã hội phong kiến xưa, môn văn chiếm vị trí quan trọng trong đạo học, đó là
môn thi duy nhất để các sĩ tử khẳng định mình trong các khoa thi. Đã có nhiều người rất

5


thành đạt trên con đường văn chương như Đại thi hào Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Lê Qúy

Đôn… Trong xã hội hiện nay văn chương không còn là môn học duy nhất nhưng vẫn
đóng vai trò quan trọng vì nó sẽ giúp học trò hiểu thêm về văn hóa, con người, lịch sử tồn
tại và phát triển của nhân loại. Các tác phẩm được chọn và giảng dạy trong chương trình
đều là những tin hhoa văn hóa, văn học tái hiện bức tranh cuộc sống, lao động, đấu
tranh… của cha anh như một thước phim sinh động, chuẩn xác mà không khô khan, tẻ
nhạt. Qua các tiết học văn, các thầy cô bồi đáp cho học sinh tình yêu quê hương đất nước,
niềm tự hào dân tộc, nhận thức về cuộc sống , cách làm người, cách chia sẻ, biết yêu
thương, đau xót cho những thống khổ của con người.
Nhìn lại thực trạng dạy học văn hiện nay ở trường THPT, trong một thời gian dài,
chúng ta có phần lơi lỏng với vấn đề đảm bảo chất lượng dạy học. Dễ nhận ra vấn đề phát
huy năng lực nhận thức của học sinh chưa được quan tâm một cách đúng mức. Lâu nay,
bản thân HS chưa được đặt vào đúng vị trí vốn có và cần có trong quá trình nhận thức
những giá trị trong các tác phẩm văn học mà chỉ được coi là những đối tượng tiếp thu của
GV. Nhiệm vụ chủ yếu của người học là nghe và chép những gì GV đã khám phá, phân
tích trên tác phẩm, sau đó đến lớp trình diễn lại những gì mà mình khám phá và phâm tích
được. Chính vì vậy, vai trò quan tọng của người đã trở nên thụ động, lệ thuộc vào GV.
Điều đó dẫn tới hậu quả HS chán học văn, thấy việc học văn là vô bổ, học văn chỉ mang
tính chất đối phó, và chất lượng bộ môn văn vì thế không đạt hiệu quả như mong muốn.
Giờ học văn rất là quan trọng, song không phải ai cũng nhận ra và biết trân trọng.
Học văn tốt chính là chìa khóa vàng để đạt tới thành công, giúp người học sử dụng thạo
thạo tiếng mẹ đẻ, vì năng lực viết ngày càng cần thiết cho cuộc sống của mỗi người. Bởi
trên thực tế, ngành nào, lĩnh vực nào cũng đòi hỏi người đọc thông viết thạo, hay từ các
văn bản, thủ tục hành chính đến lĩnh vực kinh tế, chính trị xã hội, bài luận tốt nghiệp. Đó
chính là điều kiện để rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử, đồng thời bồi đắp lí tưởng thẩm
mĩ trong văn học. Văn học vừa là môn học cơ sở giúp HS học tốt các môn khác, vừa là
môn học giúp giáo dục tư tưởng, tình cảm con người, là môn học làm đẹp tâm hồn. Nhất
là trong xã hội bận rộn và ồn ào như ngày nay, nhịp sống tất bật, hối hả đôi khi làm chúng
ta quên đi những giá trị sống đích thực để làm người. Đọc một bài thơ, hay lắng nghe một

6



bài văn, chiêm nghiệm và sống chậm để trân trọng từng giây phút đẹp đẽ trôi qua trong
cuộc đời.
Vì những lí do trên, có thể thấy việc “ phát triển năng lực nhận thức giá trị đạo
đức trong các tác phẩm văn học thông qua dạy học” là điều rất cần thiết, giúp nâng cao
việc dạy học văn trong nhà trường THPT, đồng thời giúp các em HS nhận thức được
những giá trị tốt đẹp trong các tác phẩm văn học.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài “ Phát triển năng lực nhận thức giá trị đạo đức trong các tác phẩm văn
học thông qua dạy học”, tôi muốn đưa ra thực trạng nhận thức giá trị đạo đức trong các
tác phẩm văn học thông qua dạy học, để từ đó đưa ra những phương pháp dạy học giúp
các em HS nhận thức được những giá trị đạo đức và có những hành vi đúng với những
chuẩn mực đạo đức.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Câu 1: Thực trạng nhận thức giá trị đạo đức trong tác phẩm văn học thông qua dạy
học của học sinh THPT hiện nay như thế nào?
Câu 2: Phương pháp dạy học như thế nào để phát triển năng lực nhận thức giá trị
đạo đức trong tác phẩm văn học thông qua dạy học cho học sinh?
4. Giả thuyết nghiên cứu
Thực trạng nhận thức giá trị đạo đức trong các tác phẩm văn học thông qua dạy
học của HS chưa được tốt, các em HS chưa nắm được những giá trị đạo đức trong các tác
phẩm văn học.
Dựa theo kinh nghiệm của các phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp
dạy học hiện đại, chúng tôi đưa ra những phương pháp dạy học tích cực như: phương
pháp dạy học trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp đóng vai, phương
pháp tổ chức trò chơi…để phát huy được năng lực nhận thức giá trị đạo đức cho các em
HS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá được thực trạng nhận thức giá trị đạo đức trong các tác phẩm văn học

thông qua dạy học của HS.
- Thiết kế giáo án với những phương pháp dạy học để phát triển năng lực nhận
thức giá trị đạo đức trong các tác phẩm văn học thông qua dạy học cho HS THPT.

7


6. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
6.1 Khách thể nghiên cứu
- Quá trình dạy học môn Văn
6.2 Đối tượng nghiên cứu
- Thực hiện đề tài “ Phát triển năng lực nhận thức giá trị đạo đức trong các tác
phẩm văn học thông qua dạy học”, chúng tôi tập trung tới đối tượng khảo sát là HS.
7. Phạm vi nghiên cứu
- Do điều kiện thời gian có hạn, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu của
mình trong việc phát triển năng lực nhận thức giá trị đạo đức trong các tác phẩm văn học
thông qua dạy học qua giờ thực hành môn Ngữ văn. Phạm vi mà chúng tôi tiến hành khảo
sát là 1 lớp với 40 HS trường THPT Nguyễn Trãi- Ba Đình. Trong khoảng thời gian
nghiên cứu từ 01/03/2017 đến 10/04/2017. Dạy thử nghiệm trên bài “ Tôi yêu em” của
Puskin.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1 Phương pháp nghiên cứu lí luận
Trong quá trình nghiên cứu có tổng hợp những công trình, bài viết của các nhà lí
luận và nghiên cứu về vấn đề nhận thức các giá trị trong văn học, tổng hợp những giáo
trình về phương pháp dạy học các tác phẩm văn học, giáo trình lí luận về văn học… để
nghiên cứu, thu thập, phân tích và tham khảo nhằm bổ sung cho bài nghiên cứu của mình.
8.2 Phương pháp xử lý số liệu
- Phương pháp này được dùng để thống kê kết quả khảo sát và thực nghiệm. Từ đó
xác định tỉ lệ đạt được của bài thực nghiệm.
8.3 Phương pháp bảng hỏi

- Được sử dụng để thu thập thông tin thực tế về quá trình dạy học các tác phẩm văn
học thông qua dạy học đang diễn ra ở trường THPT Nguyễn Trãi- Ba Đình.
8.4 Phương pháp thực nghiệm
- Trong đề tài này, do mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, việc thực hiện sẽ được tổ
chức trong dạy học thực nghiệm giáo án, đề xuất trong sự đối chứng với các giáo án thông
thường để kiểm nghiệm khả năng ứng dụng và tính hiệu quả của phương pháp dạy học
phát triển năng lực nhận thức giá trị đạo đức trong tác phẩm văn học cho các em HS vào
quá trình giảng dạy môn Ngữ văn.
- Kết quả thực nghiệm là cơ sở để đánh giá mức độ hiệu quả của bài học.

8


9. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của bài khóa luận được triển khai theo ba chương;
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Phương pháp dạy học và tổ chức nghiên cứu
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

9


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Trong những năm cuối thế kỉ 20, vấn đề giá trị và định hướng về các giá trị đang
ngày càng được nhiều nước quan tâm và nghiên cứu như: Ba Lan, Liên Xô, Nhật Bản,
Hungary,… Các công trình nghiên cứu đã đề cập tới nhiều vấn đề của giá trị như nội dung
gồm: giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị thẩm mỹ.
Đạo đức và giáo dục đạo đức là một vấn đề được nghiên cứu từ xa xưa. Nhà triết

học cổ Hy Lạp Platon đề cao giáo dục “ chân, thiện, mỹ” trong nghiên cứu Triết học.
Aristote đã nói đến đức dục trong ba mặt: Thể, Đức, Trí. Đặc biệt Khổng Tử đã đưa ra
những chuẩn mực cần có của người quân tử phải sống theo chữ “ Nhân” và tôn thờ chữ
“Lễ”, giữ kỉ cương thật tự của luật gia, phép nước.
Các quan niệm về đạo đức, về thiện, về ác lần lượt xuất hiện trong các tác phẩm
của Ph. Ănghen, Hêghen, Phơbach, Kant. Hêghen quan niệm “ác” là những dục vọng xấu
xa của con người như “lòng tham lam”, “sự thèm muốn”. Phơbach coi “cái thiện tuyệt
đối” là tình yêu đồng loại. Đặc biệt Kant đã cho ra đời hẳn một học thuyết về đạo đức,
được gọi là “ Đạo đức Kant”.
N.A. Lyapin, A.G. Côvalép, Liđya và Bôgiôvic (1962), trong cuốn “ cơ sở tâm lý
học của đức dục” đã trình bày các thành phần của đạo đức gồm “thói quen đạo đức”, “tình
cảm đạo đức”, “quan điểm- khái niệm đạo đức” như là những thành phần tạo nên “niềm
tin” – cốt lõi của vấn đề hình thành và giáo dục đạo đức.
Ở Việt Nam, “đạo đức” từ lâu đã trở thành tiêu chí đánh giá về tư tưởng, lối sống
của con người và xã hội. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn hóa coi tư tưởng,
lối sống mà cụ thể là việc định hướng giá trị đạo đức rất quan trọng trong việc xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghiên cứu về các giá trị đạo đức, nguồn gốc hình thành giá trị đạo đức Việt Nam
được Trần Văn Giàu, Vũ Khiêu, Trần Văn Khuê, Huỳnh Khái Vinh,… trình bày trong các
công trình nghiên cứu của mình.
Những bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như Triết học, Tâm lí học, Giáo dục
đã nêu lên nhiều quan điểm, ý kiến phân tích vấn đề giá trị đạo đức của HS hiện nay. Như
trong bài “những suy nghĩ về sự thay đổi thang giá trị đạo đức trong sự nghiệp- công
nghiệp hóa ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Trần Hoàng Hảo đã nêu lên những nguyên nhân
dẫn đến sự biến động phức tạp trong giá trị đạo đức ở nước ta.

10


Khi nói tới việc dạy học các tác phẩm văn chương, chúng ta cũng đang đề cập tới

những hoạt động cảm thụ nghệ thuật, cảm nhận những giá trị trong tác phẩm. Đây là hoạt
động độc đáo và kì diệu của quá trình thưởng thức và tiếp nhận nghệ thuật, Nhờ nó mà
người đọc văn, học văn có thể “ lấy hồn ta để hiểu hồn người” ( Hoài Thanh).
Nước ta theo truyền thống yêu chuộng thơ văn của dân tộc, từ lâu đã chú trọng tới
việc bồi dưỡng, trau dồi năng lực cảm nhận trong việc dạy học các tác phẩm văn chương.
Chúng ta có thể kể nhiều tên tuổi của các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình và nhà giáo
qua từng thời kỳ đã có những kiến giải sâu sắc, bổ ích cho việc phát triển năng lực cảm
nhận các giá trị trong tác phẩm. Trải qua một nghìn năm dưới chế độ phong kiến, các nhà
văn, nhà nho xưa rất quan tâm tới năng lực rung động và cảm xúc của HS dù việc dạy học
văn có những quy định chặt chẽ và giáo điều.
Đến thời nhà trường Pháp- Việt, khi môn văn trở thành một môn học quan trọng,
được soi rọi bởi những kiến thức của triết học, mỹ học, lí luận văn học, thì vấn đề cảm
nhận về văn học đã có cơ sở văn học tương đối vững vàng. Người giáo viên dạy học tác
phẩm văn chương vào thời kì đó đã nhận ra mối quan hệ gắn bó, hôc trợ hỗ tương giữa
cảm và hiểu, tức là kết hợp giữa lí trí và tình cảm ( Đặng Thai Mai). Tuy rằng phương
pháp dạy học văn lúc đó còn phôi thai, nhưng thông qua việc dạy học văn, các nhà sư
phạm đã dựa vào một quy trình khá hợp lí và có tính khoa học để giúp người đọc nắm bắt
được những ý tưởng và giá trị nghệ thuật do nhà văn sáng tạo (Dương Quảng Hàm).
Đến cách mạng tháng 8 (1945) thành công, nhà trường dân chủ và nhân dân ra đời.
việc dạy học văn đã thoát khỏi hạn chế của lối áp đặt lệ thuộc vào chính sách thuộc địa của
ngoại bang. Từ đây, chúng ta từng bước xây dựng một chương trình văn học và cách dạy
học tiến bộ. Trong thời kì đầu nền giáo dục mới, tiếp thu kinh nghiệm, hiểu biết, sáng tạo,
người học văn đã nhậ ra phương hướng tìm hiểu, phân tích bài văn dựa trên đặc trưng nội
dung và nghệ thuật, dù còn những vấp váp. Khi cuộc kháng chiến thắng lợi, chúng ta có cơ
hội tiếp xúc với nguồn tài liệu mới liên quan tới dạy học văn. Chính vì thế, dần dần việc
dạy học văn được đặt trên nền tảng khoa học và sư phạm tương đối vững chắc, hợp lí.
Trong bối cảnh đó, bộ môn “Phương pháp dạy học văn” hình thành, tạo cơ sở cho
việc giảng dạy tác phẩm văn chương đi theo quỹ đạo của một môn học vừa là nghệ thuật,
lại vừa là khoa học. Từ đó, việc dạy học văn đã chú trọng nhiều tới các trạng thái cảm
xúc, rung động, nhập thân và nắm kiến thức. Ở giai đoạn này, nhờ kinh nghiệm và sự


11


hướng dẫn của các nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu qua các tài liệu đã xuất bản, người
GV văn học có được những hiểu biết cần thiết làm cơ sở cho việc giảng dạy bộ môn.
Dẫu sao, phần lớn nguồn kiến thức khoa học về hoạt động dạy học văn nói đó vẫn
là tài liệu dịch của nước ngoài, chủ yếu là của Liên Xô. Có thể kể tới “ Cảm thụ văn học
của học sinh” của O.L. Nhikiphôrôva (1959), “Cảm thụ nghệ thuật) của B.X. Mailax
(1971) và một số công trình liên quan đến vấn đề cảm thụ của những nhà lí luận tên tuổi
như Khravchenco, Lakovson,…
Do điều kiện lịch sử, dễ thấy một thời gian dài, người dạy học văn bị gò bó trong
lối dạy học theo kiểu lệ thuộc vào sách hướng dẫn và các tài liệu tham khảo. Mặt khác, do
bị hạn chế bởi quan điểm học thuật của một thời trước đổi mới, cho nên những mối quan
hệ mật thiết trong tiến trình dạy văn (cảm và hểu, nội dung và hình thức) chưa được xử lí,
chưa được giải quyết thấu đáo và thiếu sự kết hợp hài hòa.
Thời kì tiến hành công cuộc đổi mới, nhờ những thông tin được cập nhật từ bên
ngoài, chúng ta biết tơi trào lưu phê bình mới, Lí thuyết hệ thống- cấu trúc, đặc biệt là lí
thuyết tiếp nhận xuất hiện ở phương Tây từ đầu những năm 60 của thế kỉ 20. Chúng ta
nhận ra sự thay đổi quan điểm học thuật trên thế giới, từ đó soi vào công việc dạy học văn
để thấy những mặt yếu cần khắc phục. Đến thời kì này, do có hiểu biết sâu về cấu trúc tác
phẩm văn học và nhờ nắm rõ vai trò của tiếp nhận nghệ thuật, chúng ta đã hướng tới việc
đề cập yếu tố cảm xúc, rung động trong dạy học văn bằng lí luận khoa học đầy đủ, đúng
đắn. Nhờ có những tài liệ dịch từ nước ngoài đăng tải trên các tập san thông tin khoa học
và các tạp chí mà một số nhà nghiên cứu lí luận, sư phạm đã chú ý đi sâu vào lĩnh vực
hoạt động cảm nhận văn học.
Có thể kể tới các bài viết của Trần Đình Sử, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Thanh
Hùng, Nguyễn Lai… Trước đó, do ý thức rõ vai trò của hiện tượng cảm thụ nghệ thuật.
Năm 1983, Phan Trọng Luận cho xuất bản chuyên luận đầu tiên là “Cảm thụ văn
học và giảng dạy văn học”. Chuyên luận này đã trở thành một gợi ý, hướng sự quan tâm

đến một vấn đề lí luận thú vị và bổ ích cho người nghiên cứu khoa học liên hợp, ứng
dụng, vừa kết hợp lí luận với khảo sát thực tiễn, vừa tiếp cận được những thông tin hiện
đại về tiếp nhận văn chương, Phan Trọng Luận đã cung cấp được một số hiểu biết khoa
học về tính đặc thù của cảm thụ văn chương, tính chủ quan, khách quan, sáng tạo của tiếp
nhận và những khái quát về đặc điểm cũng như tiêu chí phát triển văn học ở bạn đọc…

12


Đó cũng là những tiền đề cho việc đổi mới phương pháp dạy học văn theo hướng coi HS
là bạn đọc, là chủ thể sáng tạo.
Đến khi cuộc đổi mới tiến triển, nhờ đổi mới tư duy lí luận, đây là giai đoạn việc đổi
mới việc dyaj học văn đang được tiến hành rất sâu rộng. Vấn đề dạy học văn theo đúng đặc
trưng môn học được lí giải sâu sắc qua các tài liệu bồi dưỡng cũng như sách tham khảo cho
GV. Vấn đề cảm thụ nghệ thuật trong quá trình dạy học văn được đặt vào trọng tâm chú ý.
Có thể kể tới những đóng góp của Nguyễn Duy Bình “ Dạy văn là dạy cái hay cái đẹp”,
Nguyễn Đức Nam “Hiểu văn”, Hoàng Ngọc Hiến “Dạy văn, học văn”…
Khi dạy học văn phải biết cách huy động năng lực cảm nhận của người đọc, cách
dạy học văn do đó mà sẽ có nhiều thay đổi căn bản. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến
đặc trưng của văn chương, nêu ra yêu cầu của dạy văn là hướng tới sự rung cảm, cảm xúc
thì cũng có xu hướng thoát li khỏi những yêu cầu khác của giờ văn, đặt tọng tâm của dạy
văn vào quỹ đạo khơi gợi cảm xúc rung động. Thực tiễn dạy học văn cho chúng ta thấy
cách dạy văn chưa có phương pháp phù hợp và điều chỉnh cho phù hợp và cần có sự
chuyển biến mạnh mẽ hơn trong quan điểm dạy học văn.
Sau chặng đường 20 năm cải cách dạy học văn, có thể thấy ảnh hưởng sâu sắc của
một loạt các tài liệu hướng dẫn, các sách tham khảo dạy văn được ấn hành rộng rãi. Có
thể kể đến những công trình như “Phương pháp dạy văn học ở trường phổ thông” của
V.A.Nhikôxki , “Dẫn luận nghiên cứu văn học” của G.N.Pospelov, đặc biệt là cuốn giáo
trình của Liên Xô “Phương pháp luận dạy văn học” do Z.La.Rez…
Ngoài những chuyên luận, những công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học,

về giáo dục đạo đức cho HS, đó là các bài báo trên các tạp chí, các công trình nghiên cứu
khoa học, khóa luận tốt nghiệp.
Trường THPT Sông Công- Thái Nguyên với “ Giáo dục đạo đức học sinh thông
qua giờ dạy học văn” (Phạm Thị Cẩm Anh), văn học là một môn không thể thiếu trong
nhà trường, có thể dạy học văn thành công thông qua việc giúp HS học tốt môn văn, đồng
thời giáo dục tư tưởng, tình cảm con người và làm đẹp tâm hồn con người.
Một bài báo khác đăng trên báo tuổi trẻ, , Trịnh Viết Hà thực hiện, “Năm học
2013- 2014: Dạy học phát triển năng lực” ngày 05/09/2013. Điều chỉnh nội dung dạy học
theo hướng phát triển năng lực của HS, rèn luyện cho HS năng lực vận dụng kiến thức
nhằm giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tiễn.

13


“ Dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS qua một số tác phẩm truyện lớp
12 chương trình chuẩn”, Năm 2005, của Nguyễn Hữu Đinh.
“Những biện pháp phát huy năng lực cảm thụ văn học của HS trong dạy học
truyện ngắn của Nam Cao”, Năm 2007, của Đồng Thị Thuận.
“Phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ cho HS lớp 11 qua giờ thực hành tiếng
việt”, Năm 2015, của Nguyễn Văn Thắng.
“Phát triển năng lực tưởng tượng sáng tạo cho HS lớp 11 trong dạy học thơ mới
giai đoạn 1930- 1945” Năm 2016, Vi Thị Thúy.
1.2. Những vấn đề lý luận về giá trị đạo đức

1.2.1. Đạo đức
Từ trước đến nay, khái niệm đạo đức đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều
ngành khoa học về con người như Triết học, Tâm lí học, Đạo đức học, Giáo dục học…
Đạo đức theo nghĩa gốc trong tiếng La tinh là “mos”- lề thói, có nghĩa là nói đến
những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữu nguời và nguời trong sự
giao tiếp với nhau hàng ngày.

Theo từ điển tiếng Việt định nghĩa về đạo đức: “ Đạo đức là đạo lí và đức hạnh, lẽ
tốt nên theo của con người: ăn ở phải có đạo đức”
Theo quan điểm của Ph.Ăngghen, ông đã đưa ra một học thuyết về đạo đức. Ông
khẳng định: “ Xét cho đến cùng mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là
sản phẩm của tình hình kinh tế lúc bấy giờ”. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang tính
giai cấp, mỗi giai cấp đều có đạo đức riêng, phản ánh những quan hệ thực tiễn đang làm
cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế mà trong đó, người ta tiến
hành sản suất và trao đổi. [9,tr.174]. Theo ông, cho đến nay “không có đạo đức nào là
chân chính cả, nếu nói theo ý nghĩa tuyệt đối cuối cùng” của nó. Tuy nhiên ông cho rằng
đối với đạo đức cũng như đối với tất cả các ngành tri thức khác nhau của nhân loại, nói
chung người ta thấy có một sự tiến bộ và đó là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Và “ thứ
đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai,
tức là đạo đức vô sản, là thứ đạo đưc có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn
của một sự tồn tại lâu dài”.[9, tr.175]
Trong các học thuyết về đạo đức có một, có học thuyết chỉ có giá trị thúc đẩy tiến
bộ xã hội ở một thời điểm nhất định nào đó, nhưng cũng có những học thuyết đạo đức có
thể có giá trị lâu dài đối với sự phát triển xã hội.

14


Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện thái độ đánh giá quan hệ giữa lợi
ích của bản thân với lợi ích của người khác và xã hội. [9, tr.174 – 175]
Đạo đức tồn tại trong hành vi đạo đức: “Hành vi đạo đức là hành động tự giác,
được thúc đẩy bởi động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức”.
Dưới góc nhìn của Triết học, Triết học Mac- Lênin định nghĩa: “Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm
điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan
hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống
và sức mạnh của dư luận xã hội” [8, tr196]. Những hình thái của ý thức xã hội bao gồm ý

thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức mỹ, ý thức tôn
giáo và triết học.
Hình thái ý thức đạo đức là thành phần cốt lõi, là một trong những hình thái ý thức
ra đời rất sớm trong lịch sử, ngay cả xã hội nguyên thủy. Hình thái ý thức đạo đức bao
gồm toàn bộ những quan niệm , trí thức và các trạng thái cảm xúc tâm lí chung của các
cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương, tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng,
lòng tự trọng,… và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân
với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
Đạo đức bị quy định, bị chi phối bởi tồn tại xã hội, và cũng góp phần làm thay đổi
xã hội. Đấy chính là tính biện chứng của giá trị đạo đức, theo cách tiếp cận của triết học.
Quan niệm phổ thông: “ Đạo đức là những phép tắc, căn cứ vào chế độ kinh tế, chế
độ chính trị mà đặt ra, quy định quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội cốt
để bảo vệ chế độ kinh tế, chế độ xã hội”.
Đạo đức bao gồm những chức năng sau:
Thứ nhất, chức năng điều chỉnh hành vi: sự điều chỉnh hành vi được thực hiện
bằng hai hình thức chủ yếu . Một là, thông qua dư luận xã hội, ca ngợi, khuyến khích cái
thiện, cái tốt, lên án, phê phán cái ác, cái xấu. Nghĩa là giáo dục phụ thuộc vào sức mạnh
và tính đúng đắn của dư luận. Hai là, bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi
của mình theo những chuẩn mực đạo đức xã hội. Cách thức điều chỉnh này phụ thuộc vào
việc giáo dục, giác ngộ của chủ thể đạo đức. [9, tr.175- 176]
Thứ hai, chức năng giáo dục: được thực hiện thông qua sự giáo dục của xã hội và
sự tự giáo dục của mỗi cá nhân. Giáo dục đạo đức là quá trình tuyên truyền những tư
tưởng, những chuẩn mực đạo đức xã hội, quá trình biến những chuẩn này thành thước đo

15


đánh giá, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân nhằm đạt tới một sự phù hợp giữa hành vi
cá nhân với lợi ích xã hội.[9, tr.177]
Thứ ba, chức năng nhận thức: hoạt động nhận thức bao gồm hai trình độ là tình

cảm và tư tưởng đạo đức, kinh nghiệm và lí luận đạo đức. Thông qua quá trình nhận thức
cũng như hoạt động thực tiễn, chủ thể đạo đưc phân tích , đánh giá, lựa chọn các tư tưởng
đạo đức và các chuẩn mực đạo đức trong xã hội để chứng minh lí giải các tư tưởng đạo
đức và các chuẩn mực đạo đức. [9, tr.179]
Vai trò của đạo đức:
Đạo đức có vai trò quan trọng trong cuộc sống cá nhân và xã hội. Khi đánh giá vai
trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là “cái gốc”, là nền tảng của người
cách mạng. Người so sánh: “Cũng như song thì có nguồn mới có nước, không có nguồn
thì song cạn. Cây phải là gốc, không có gốc thì cây héo”.
Đạo đức có vai trò giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc, nâng cao phẩm giá của
cá nhân, giữ gìn và bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của xã hội. Đạo đức giúp cá nhân có sự lựa
chọn, cân nhắc và điều chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội và mang lại sự an
bình cho chính lương tâm của mình.
Đạo đức còn thực hiện các nhiệm vụ chi phối các mối quan hệ xã hội. Đạo đức còn
vạch ra những yêu cầu, tiêu chuẩn, nguyên tắc đạo đức phù hợp với những giá trị tốt đẹp,
nhân cách mới của xã hội để cá nhân lựa chọn, định hướng, điều chỉnh hành vi ứng xử
của mình trong quan hệ xã hội. Mặt khác, đạo đức còn có nhiệm vụ đấu tranh, phê phán,
chống lại những khuynh hướng của đạo đức lạc hậu, không lành mạnh, cản trở cá nhân và
xã hội vươn lên những giá trị văn minh, nhân bản.
1.2.2. Giá trị đạo đức
Trong những năm gần đây, “giá trị đạo đức” là thuật ngữ xuất hiện với tần suất lớn
trên các sách báo và tạp chí. Tuy nhiên chúng ta thường ít bàn đến giá trị đạo đức với tư
cách một khái niệm khoa học. Để nhận diện các giá trị đạo đức cụ thể một cách khách
quan, khoa học nhất thiết phải dực trên quan niệm thống nhất về “ giá trị đạo đức”.
Giá trị là phạm trù được bàn đến và sử dụng từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng, bắt
đầu bằng quan niệm lợi ích của các nhà triết học cổ đại, như Xôcrát, Platôn, tiếp tục được
phát triển ở thời kỳ trung cổ và cận đại.
Ở Việt Nam , vấn đề giá trị mới được quan tâm từ khoảng những năm 80 của thế kỉ
XX. Theo nhận xét của tác giả Hồ Sĩ Qúy, hầu hết các nhà nghiên cứu đầu ngành của


16


khoa học xã hội đều ít nhiều đã tham gia bàn luận về giá trị, giá trị văn hóa, giá trị đạo
đức. Có thể kể đến một số têt tuổi tiêu biểu cho những bàn luận này như: Trần Đình
Hượu, Trần Quốc Vượng, Trần Văn Giàu, Phan Huy Lê,…. Tuy nhiên, nhìn chung các
học giả Việt Nam mới chỉ tập trung làm rõ các giá trị đạo đức cụ thể trong đạo đức truyền
thống hoặc đạo đức mới, chứ chưa bàn đến giá trị đạo đức với tư cách một khái niệm.
Theo tác giả Mai Xuân Hợi, “giá trị đạo đức là những cái được con người lựa chọn
và đánh giá như việc làm có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng
tình và dư luận biểu dương”. Quan niệm này mới chỉ bàn đến giá trị đạo đức từ phương
diện lựa chọn, đánh giá của con người, tức là phương diện chủ quan của giá trị đạo đức.
Theo tác giả Ngô Toàn, “giá trị đạo đức là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lí
tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi con người”. Quan niệm
này không đề cập đến mặt chủ quan của giá trị đạo đức, đồng nhất giá trị đạo đức với đạo đức.
Gía trị đạo đức, nhìn từ góc độ cấu thành hệ thống các giá trị tinh thần của đời
sống xã hội, là một hình thái của giá trị tinh thần, có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau
với các giá trị khoa học, giá trị thẩm mỹ, giá trị chính trị…
Về bản chất, có thể khái quát lên những nội dung chính về giá trị đạo đức:
Thứ nhất, Giá trị đạo đức mang tính xã hội. Nói đến giá trị là giá trị xã hội, mang
tính xã hội, ngay cả những giá trị riêng biệt ( của sự vật, hiện tượng) hay giá trị cá nhân
đều được quy chiều bởi cái chung, bởi sự thừa nhận, đánh giá của xã hội. Giá trị đạo đức
cũng không nằm ngoài đặc điểm chung đó. Vì vậy, trong đời sống đạo đức từ cổ chí kim,
dù ở phương Đông hay phương Tây thì vẫn tìm thấy sự tương đồng của những giá trị đạo
đức cơ bản, như yêu lao động, trung thực, nhân ái…
Thứ hai, giá trị đạo đức có tính lịch sử cụ thê. Mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử,
trên cơ sở những điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể, xã hội lại có những yêu cầu riêng về lợi
ích và sự tiến bộ xã hội, do đó, giá trị đạo đức cũng có tính lịch sử cụ thể. Hơn nữa, với
tính cách một hình thái của ý thức xã hội, ý thức đạo đức có cơ sở trực tiếp là các điều
kiện tồn tại xã hội. Ph.Ăngghen viết: “ Chúng ta khẳng định rằng xét cho cùng mọi học

thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế- xã hội lúc
bấy giờ” và “ từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những
quan niệm đạo đức biến đổi đến mức thậm chí đối lập nhau”.
Thứ ba, giá trị đạo đức là sự bộc lộ thái độ của cá nhân, nhóm xã hội, tập đoàn xã
hội về lợi ích. Trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội, các giá trị đạo

17


đức xuất hiện với tư cách sự nhìn nhận, đánh giá của cá nhân, cộng đồng trước những
quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi ứng xử. Sự nhìn nhận, đánh giá này chịu sự
chi phối trực tiếp của lợi ích và giá trị đạo đức mang tính chủ quan.
Thứ tư, giá trị đạo đức gắn với hoạt động thực tiễn của con người, định hướng cho
hành động của con người. Một mặt, các giá trị được hình thành, tồn tại, biến đổi trên cơ
sở hoạt động thực tiễn của con người. Chính trong thực tiễn và chỉ có thông qua thực tiễn,
các giá trị vật chất và tinh thần mới xuất hiện, biến đổi. Mặt khác, giá trị, đến lượt nó lại
giữ vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn của con người.
Thứ năm, giá trị đạo đức trừu tượng nhưng có thể nhận thức và noi theo, thực hiên
được. Gía trị đạo đức không phải là cái chúng ta có thể dễ dàng nhận thức, càng không
phải là cái bằng trực quan mà hiểu nhưng như thế không có nghĩa nó là cái không thể
nhân thức. Mỗi cá nhân hoàn toàn có thể thực hiện hóa giá trị đó thông qua những cách
ứng xử vị tha, nhân nghĩa trong quan hệ của họ với người khác và với xã hội.
Giá trị đạo đức là một quan niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng và phức tạp. Về cấu
trúc, giá trị đạo đức được xem xét với hai yếu tố là bản thân các quan niệm, chuẩn mực,
nguyên tắc, hành vi ứng xử của con người và ý nghĩa tích cực đối với con người, với đời
sống xã hội của những quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi ứng xử đó.
Xem xét tính lợi ích, bình diện cá nhân, giá trị đạo đức được định nghĩa là “ những
cái được con người lựa chọn và đánh giá như một việc làm có ý nghĩa tích cực đối với đời
sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương”.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu giá trị đạo đức là toàn bộ những quan niệm

về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc… và các chuẩn mực, quy tắc
ứng xử được con người đánh giá, lựa chọn, cũng như ý nghĩa tích cực của những quan
niệm, chuẩn mực, quy tắc, ứng xử đó đối với con người và đời sống xã hội…

1.2.3. Mối liên quan giữa giá trị đạo đức với các hành vi đạo đức
Hành vi đạo đức là hành động tự giác, được thúc đẩy bởi động cơ có ý nghĩa về mặt đạo
đức. Hành vi đạo đức thường được biểu hiện trong các đối nhân xử thế, trong lối sống, phong
cách, trong lời ăn tiếng nói. Hành vi được coi là đạo đức còn phụ thuộc vào nền văn hóa. Nền
văn hóa khác nhau sẽ có những chuẩn mực hành vi đạo đức khác nhau. [9,tr.180]
Giữa giá trị đạo đức với các hành vi đạo đức có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
+ Tác động của giá trị đạo đức đến hành vi đạo đức: giá trị đạo đức là nền tảng để
thực hiện những hành vi đạo đức, trong xã hội các cá nhân thực hiện một hành vi đạo đức

18


hợp lí không phải vì những quy định ràng buộc mà hoàn toàn xuất phát từ những giá trị
đạo đức, từ những giá trị đạo đức con người sẽ có những hành vi sao cho thật phù hợp với
những chuẩn mực. Giá trị đạo đức có sự tác động mạnh mẽ đến những hành vi đạo đức,
những người có ý thức đạo đức cao trong mọi trường hợp sẽ luôn tuân thủ những hành vi
chuẩn mực trong xã hội, dù họ có vi phạm cũng sẽ có ý thức ăn năn, hối cả, sửa chữa lỗi
lầm. Ngược lại, đối với những người có ý thức đạo đức thấp thì sự tuân thủ những hành vi
đạo đức cũng sẽ không cao, dễ có những hành vi vi phạm vào những giá trị đạo đức.
+ Tác động của hành vi đạo đức tới giá trị đạo đức: trong một số những trường hợp
muốn định hướng đạo đức được thực hiện một các phổ biến trong xã hội thì cần phải thông
qua những hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức sẽ giữ gìn và phát huy được những giá trị đạo
đức của cộng đồng, xã hội, sẽ ngăn chặn được sự xuống cấp của đạo đức, từ những hành vi
đạo đức chúng ta sẽ đưa ra được những giá trị đạo đức phù hợp trong xã hội hiện nay.
Ngày nay, giáo dục đạo đức đối với các em HS là một vấn đề rất là quan trọng,
những người am hiểu nhiều về giá trị đạo đức chưa chắc đã có những hành vi đúng đắn và

ngược lại những người có hành vi đạo đức đúng chuẩn mực chưa chắc đã có nhiều am
hiểu về đạo đức. Chính vì vậy mà cần dung hòa giữa hai yếu tố đó là đạo đức và hành vi
đạo đức. Trong việc giáo dục đạo đức cho HS cần giáo dục hành vi đạo đức, hành vi đạo
đức đấy cần phù hợp với chuẩn mực đạo đức mà xã hội yêu cầu.
1.3. Những vấn đề lý luận về nhận thức
1.3.1 Khái niệm nhận thức
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lí con người ( đời sống,
tình cảm, ý chí). Nó là tiền đề của hai mặt kia và đồng thời có quan hệ chặt chẽ với chúng
và ác hiện tượng tâm lí khác.
Hoạt động nhận thức là hoạt động phải ánh sự vật, hiện tượng trong thế giới khác
quan. Có thể nói, nhờ có hoạt động nhận thức mà con người làm chủ được tự nhiên, làm
chủ được xã hội và làm chủ được chính bản thân mình. Đây là hoạt động tâm lí xuất hiện
đầu tiên trong đời sống tâm lí của con người và nó là cơ sở, nền tảng để hình thành các
hoạt động tâm lí khác như: tình cảm, ý chí, nhân cách…
Việc nhận thức của con người về thế giới khách quan diễn ra từ mức độ thấp đến
mức độ cao, từ đơn giản đến phức tạp.

19


+ Mức độ thấp là nhận thức cảm tính, bao gồm cảm giác và tri giác, trong đó con
người mới chỉ phản ánh những thuộc tính bên ngoài, những cái đang tác động trực tiếp
đến các cơ quan cảm giác tương ứng của con người.
+ Mức độ cao hơn là nhận thức lí tính, bao gồm tư duy và tưởng tượng, trong đó
con người phản ánh được các thuộc tính bản chất bên trong, những mối liên hệ và quan hệ
có tính quy luật của các sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung
cho nhau, chi phối lẫn nhau. Chúng là cơ sở cho mọi hoạt động tâm lí của con người.
1.3.1.1. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là một quá trình tâm lí, là sự phản ánh những thuộc tính bên

ngoài của sựu vật và hiện tượng thông qua tri giác của các giác quan.
Giai đoạn nhận thức cảm tính là giai đoạn nhận thức đầu tiên, là mức độ nhận thức
thấp nhất của con người. Nhận thức cảm tính mới chỉ phản ánh được những thuộc tính bề
ngoài của sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động đến chúng ta. Trong nhận
thức cảm tính có hai mức độ là cảm giác và tri giác.
Cảm giác là một quá tình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự
vật, hiện tượng tỏng hiện thực khác quan hoặc trạng thái bên trong của cơ thể khi chúng
đang tực tiếp tác động vào các cơ quan cảm giác tương ứng của con người.
Cảm giác bên ngoài là những cảm giác do nguồn kích thích từ bên ngoài cơ thể
gây ra . Để tiếp nhận nguồn kích thích từ bên ngoài cơ thể, con người phải nhờ vào hoạt
động của các cơ quan cảm giác. Con người có năm cơ quan cảm giác và ứng với chúng là
năm loại cảm giác bên ngoài.
Cảm giác bên ngoài bao gồm: thị giác cho chúng ta biết những thuộc tính về hình
dạng, màu sắc kích thước, vị thí, độ sáng… của đối tượng, thính giác là loại cảm giác cho
ta biết những thuộc tính về âm thanh, âm sắc của đối tượng, khứu giác cho ta biết những
thuộc tính về mùi của đối tượng, vị giác cho ta biết những loại thuộc tính về vị của đối
tượng ( ngọt, chua, mặn, đắng…), xúc giác là loại cảm giác cho ta biết những thuộc tính
về nhiệt độ ( nóng, lạnh), độ rắn ( cứng, mềm)…
Cảm giác bên trong là những cảm giác do nguồn kích thích từ bên trong cơ thể gây
ra: cảm giác thăng bằng, cảm giác vận động.

20


Trên đây là hai nhóm cảm giác bao gồm một số loại cảm giác thông thường ở con
người. Các cảm giác này không phải độc lập với nhau mà luôn tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau tạo ra sự phong phú, đa dạng về sự cảm nhận của con người.
Cảm giác của con người diễn ra theo những quy luật riêng. Hiểu và vận dụng được
những quy luật này trong hoạt động thực tiễn và cuộc sống là điều cần thiết với mỗi
chúng ta. Các quy luật của cảm giác gồm: quy luật về ngưỡng cảm giác, quy luật về sự

thích ứng của cảm giác, quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác, quy luật bù trừ,
quy luật quán tính…
Tri giác là một quá trình tâm lí nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc
tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan khi chúng đang trực tiếp
tác động vào cơ quan cảm giác tương ứng của chúng ta. Dựa theo cơ quan phân tích có
vai trò chủ yếu nhất khi tri giác, người ta chia thành các loại tri giác: tri giác nhìn, tri giác
nghe, tri giác ngửi…
Tri giác bao gồm các quy luật cơ bản: quy luật về tính đối tượng của tri giác, quy
luật về tính lựa chọn của tri giác, tổng giác, ảo ảnh tri giác,…
Trên đây là một số kiến thức tâm lí cơ bản liên quan đến nhận thức cảm tính.
1.3.1.2. Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao hơn, bao gồm tư duy và tưởng tượng,
trong đó con người phản ánh được các thuộc tính bản chất bên trong, những mối liên hệ
và quan hệ có tính quy luật của các sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan.
Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bên trong về bản
chất, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong hiện
thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Tư duy là một mức độ nhận thức mới về chất so với nhận thức cảm tính. Nó không
phản ánh những cái bên ngoài mà phản ánh những thuộc tính bên trong, thuộc tính bản
chất, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong hiện
thực khách quan. Qúa trình này mang tính gián tiếp và khái quát, nảy sinh trên cơ sở hoạt
động thực tiễn.
Tư duy chỉ nảy sinh khi gặp hoàn cảnh, những tình huống mà bằng vốn hiểu biết
cũ, những phương pháp hành động cũ đã có, con người không đủ để giải quyết, để nhận
thức, con người phải vượt qua khỏi những phạm vi hiểu biết cũ để tìm cái mới.

21


Trong hoạt động tư duy con người phải thực hiện các thao tác: phân tích và tổng

hợp, so sánh, trừu tượng hóa và khái quát hóa, cụ thể hóa…
Tưởng tượng là một quá tình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có trong
kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những biểu tượng mới trên cơ sở những
hình ảnh, biểu tượng đã có.
Như vậy, tưởng tượng phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm cá
nhân, tức là phản ánh những cái mới đối với cá nhân đó, bằng các biểu tượng. Biểu tượng
vừa có tính cá thể, vừa có tính khái quát. Biểu tượng thường không rõ rệt như hình ảnh tri
giác mà nó thường xuất hiên jnhuwngx nét cơ bản, chủ yếu của đối tượng, còn những nét
khác thì mờ nhạt.
Tưởng tượng cũng phản ánh hiện thực khách quan vì để tạo ra những cái mới, con
người phải dung chất liệu là những hình ảnh cũ, biểu tượng cũ, tài liệu cũ thu được từ
hiện thực khác quan qua quá trình nhận thức cảm tính.
Hoạt động nhận thức là một trong những hoạt động tâm lí cơ bản, đóng vai
trò quan tọng, là tiền đề để có các hoạt động tâm lí khác ( xúc cảm- tình cảm, ý
chí, hành động)….
1.3.2 Các giá trị trong văn học
Giá trị văn học là sản phẩm kết tinh từ quá trình văn học, đáp ứng những nhu cầu
khác nhau của cuộc sống con người, tác động sâu sắc tới cuộc sống và con người. Dưới
đây sẽ nói về ba giá trị cơ bản của văn học.
1.3.2.1 Giá trị nhận thức
Chức năng nhận thức thể hiện ở vai trò phản ánh hiện thực của văn học. Nó có thể
đem đến cho người học một thế giới tri thức mênh mông về đời sống vật chất và đời sống
tinh thần của nhân loại từ xưa đến nay, về vẻ đẹp thiên nhiên ở nước mình và trên khắp
thế giới.
Tác phẩm văn học là kết quả của quá trình nhà văn khám phá, lí giải hiện thực đời
sống rồi chuyển hóa những hiểu biết đó vào nội dung tác phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu
nhận thức của con người. Văn học chính là một phương tiện có khả năng phá vỡ giới hạn
tồn tại trong không gian và thời gian thực tế của mỗi cá nhân, đồng thời đem lại cho họ
khả năng sống cuộc sống của nhiều người khác, sống ở nhiều thời đại, sống ở nhiều xứ
sở. Như vậy, giá trị nhận thức là khả năng của văn học có thể đáp ứng được yêu cầu của


22


con người muốn hiểu biết rõ hơn, sâu hơn cuộc sống xung quanh và chính bản thân mình,
từ đó tác động vào cuộc sống có hiện quả hơn.
Trước hết, văn học có thể mang tới cho người học những nhận thức mới mẻ và sau
rộng về nhiều mặt của cuộc sống trong những khoảng thời gian trong những khoảng thời
gian và không gian khác nhau. Những tác phẩm của một thời đã xa xưa như: Truyện Kiều,
Hoàng Lê nhất thống chí, Chiến tranh và hòa bình… có thể đưa con người trở về với quá
khứ của dân tộc và nhân loại, khi đó “ văn học là tiếng nói của các thời đại, là cuộc đối
thoại chứa chan tình nghĩa giữa người xưa và người nay” ( Nguyễn Khánh Toàn). Những
tác phẩm của thời hiện đại như: Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù,… mở ra trong mắt người
đọc bao hiểu biết phong phú về cuộc sống trên đất nước mình với nhiều lĩnh vực khác
nhau. Có những tác phẩm dẫn người đọc tới những miền đất xa lạ trên thế giới: Tam quốc
diễn nghĩa, Số phận con người, Chiếc lá cuối cùng…. Đó chính là quá trình nhận thức
cuộc sống của văn học.
Thông qua cuộc sống và hình ảnh của nhiều người khác nhau được trình bày trong
các tác phẩm cụ thể, văn học còn giúp cho mỗi người đọc hiểu được bản chất của con
người nói chung, đâu là mục đích tồn tại, đâu là tư tưởng tình cảm khát vọng và sức mạnh
của con người…. Đồng thời chính từ cuộc đời của người khác, mỗi người đọc có thể liên
hệ, so sánh, đối chiếu để hiểu chính bản thân mình hơn với tư cách là một con người cá
nhân. Đó chính là quá trình tự nhận thức mà văn học mang tới cho mỗi người.
1.3.2.2 Giá trị giáo dục
Giá trị nhận thức luôn là tiền đề của giá trị giáo dục. Không có nhận thức đúng đắn
thì văn học không thể giáo dục được con người. Giá trị giáo dục làm sâu sắc thêm giá trị
nhận thức của văn học đối với đời sống, bởi vì người ta nhận thức không phải để nhận
thức mà nhận thức để hành động . Con người không chỉ có nhu cầu hiểu biết mà còn có
nhu cầu hướng thiện, con người luôn khao khát một cuộc sống tốt lành, chan hòa tình yêu
thương giữa người với người, mặt khác trong khi phản ánh hiện thực, dù trực tiếp hay

gián tiếp bao giờ nhà văn cũng bộc lộ một thái độ tư tưởng- tình cảm, một sự nhận xét,
đánh giá của mình,… tất cả đều ít nhiều tác động đến người đọc và đó là giáo dục.
Giá trị giáo dục của văn học trước hết biểu hiện ở khả năng đem đến cho con người
những bài học quý giá về lẽ sống để họ tự rèn luyện bản thân mình ngày một tốt đẹp hơn.
Về tư tưởng, văn học hình thành cho người đọc một lí tưởng tiến bộ, giúp cho họ có thái

23


độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Về tình cảm, văn học giúp con người biết yêu
ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng
hơn. Về đạo đức, văn học nâng đỡ cho nhân cách của con người phát triển, giúp cho họ
biết phân biệt phải- trái, tốt- xấu, đúng- sai, có quan hệ tốt đẹp và gắn bó cuộc sống của cá
nhân mình với cuộc sống của mọi người. Tóm lại, giá trị giáo dục là khả năng của văn
học có thể thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, tình cảm của con người theo chiều hướng tích
cực, tốt đẹp, tiến bộ, đồng thòi làm cho con người ngày càng hoàn thiện về đạo đức.
Đặc trưng giáo dục của văn học hoàn toàn khác với những nguyên tắc áp đặt của
luật pháp hay những lời giáo huấn trực tiếp trong những bài giảng đạo đức, bởi văn học
giáo dục con người bằng con đường từ cảm xúc tới nhận thức, bằng cái thật, cái đúng, cái
đẹp của những hình tượng sinh động đầy sức thuyết phục. Có lẽ vì thế tác dụng giáo dục
của văn học không phải nagy lập tức mà dần dần, thấm sâu nhưng rất lâu bền, nó gợi
những cảm nghĩ sâu xa về con người và cuộc đời, nó gián tiếp đưa ra những bài học,
những đề nghị về cách sống. Như vậy, văn học chính là một phương tiện hiệu nghiệm để
tạo nên ở con người tất cả những gì mang tính nhân đạo chân chính. Với khả năng ấy, văn
học không chỉ góp phần hoàn thiện bản thân con người, mà còn hướng họ tới những hành
động cụ thể, thiết thực, vì một cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn.
1.3.2.3 Giá trị thẩm mỹ
Giá trị nhận thức và giá trị giáo dục của văn học chỉ có thể phát huy một cách tích
cực nhất, có hiệu quả cao nhất khi gắn với một giá trị tạo nên đặc trưng của văn học, đó là
giá trị thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ là khả năng của văn học có thể phát hiện và miêu tả

những vẻ đẹp của cuộc sống một cách sinh động, giúp con người cảm nhận được và biết
rung động một cách tinh tế, sâu sắc trước những vẻ đẹp đó.
Giá trị thẩm mỹ của văn học diễn ra trên một phạm vi hết sức rộng lớn, phong phú.
Văn học mang đến cho con người những vẻ đẹp muôn hình, muôn vẻ của cuộc đời: vẻ
đẹp trong thiên nhiên, trong cảnh vật của đất nước, vẻ đẹp của những cảnh đời cụ thể
trong cuộc sống hàng ngày, vẻ đẹp hào hung của chiến trận. Đặc biệt, văn học đi sâu miêu
tả vẻ đẹp của con người từ hình thể bên ngoài đến những diễn biến sâu xa của tư tưởngtình cảm và những hành động gây ấn tượng thật khó quên với mọi người.
Cái đẹp của văn học không chỉ thể hiện ở nội dung mà cả ở hình thức, chỉ như thế
văn học mới có tác dụng sâu sắc trong việc thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người.

24


Hình thức đẹp là những thủ pháp làm cho hình tượng văn học trở nên sinh động, hấp dẫn,
nghệ thuật kết cấu tác phẩm một cách chặt chẽ, hợp lí, nghệ thuật sử dụng ngôn từ một
cách điêu luyện…Với tất cả những nội dung trên, có thể nhận thấy, văn học làm cho con
người thêm mến yêu cuộc sống, thêm khao khát hướng tới những gì đẹp đẽ, tốt lành.

1.4. Những vấn đề lý luận về phát triển năng lực
1.4.1 Năng lực là gì?
Khái niệm năng lực (competency) có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Competentia”.
Ngày nay khái niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Năng lực được hiểu
như sự thành thạo, khả năng thực hiện của cá nhân đối với một công việc.
Theo quan điểm của những nhà tâm lí học, “ Năng lực” là tổng hợp các đặc điểm,
thuộc tính tâm lí của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất
địnhnhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Theo đó, năng lực được chi thành
các dạng khác nhau như năng lực chung và năng lực chuyên môn.
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) thì năng lực có thể được hiểu theo hai nghĩa:
- Chỉ một khả năng, điều kiện tự nhiên có sẵn để thực hiện một hoạt động nào đó.
Ở đây năng lực là một khả năng có thực, được bộc lộ ra thông qua thông qua việc thành

thạo một hoặc một số kĩ năng nào đó của người học.
- Là một phẩm chất tâm sinh lí tạo cho con người có khả năng để hoàn thành một
hoạt động nào đó có chất lượng cao.
Có thể hiểu nghĩa thứ hai, năng lực là một cái gì đó sẵn có ở dạng tiềm năng của
người học có thể giúp họ giải quyết những tình huống có thực trong cuộc sống.
Khái niệm năng lực còn được dùng là đối tượng của tâm lí, giáo dục học. Năng lực
là một thuộc tính tâm lí phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như như tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm .
Trong lĩnh vực sư phạm, năng lực còn được hiểu là: khả năng thực hiện có trách
nhiệm và hiệu quả có hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong những tình huống
khác nhau thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp , xã hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kĩ
năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động.
Năng lực sư phạm là năng lực thực hiện các quy phạm bao gồm năng lực dạy học
và năng lực giáo dục. Đây là những năng lực rất quan trọng để thực hiện hiệu quả quá
trình giáo dục.

25


×