Tải bản đầy đủ (.doc) (227 trang)

Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 227 trang )

3

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên
cứu của riêng tơi. Các số liệu, kết luận trình bày
trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ
ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Bùi Bạch Đằng


4

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Chương 1

1.1.
1.2.
Chương 2
2.1.
2.2.
2.3.
2.4.


Chương 3
3.1.
3.2.

YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ CHỦ TRƯƠNG
CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA
DÂN TỘC (1998 - 2014)
Yêu cầu khách quan phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Chủ trương của Đảng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
(1998 - 2014)
ĐẢNG CHỈ ĐẠO PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA
DÂN TỘC (1998 - 2014)
Chỉ đạo phát huy truyền thống yêu nước vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội
Chỉ đạo phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới
Chỉ đạo phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người
Việt Nam
Chỉ đạo bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
Nhận xét q trình Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc (1998 - 2014)
Kinh nghiệm đúc kết từ quá trình Đảng lãnh đạo phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc (1998 - 2014)

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
ĐƯỢC CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


5
11

33
33
46
69
69
86
96
102
114
114
134
164
166
167
183


5

MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Việt Nam có nền văn hóa lâu đời và đậm đà bản sắc dân tộc, giàu tinh
hoa và giá trị cổ truyền. Quá trình hội nhập quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội để
xây dựng và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang phải đối
mặt với không ít những thách thức từ bên ngoài, nhất là tư tưởng, lối sống
ngoại lai, nguy cơ đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước, mà một trong
những nguy cơ là làm mất dần bản sắc văn hóa, phá vỡ những giá trị truyền

thống của dân tộc, làm băng hoại những giá trị, truyền thống tốt đẹp làm nên
tinh hoa, cốt cách và bản lĩnh của con người Việt Nam.
Đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014” được tiếp cận và nghiên cứu dưới góc độ
khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận án tập trung làm rõ yêu cầu khách quan, chủ trương và sự chỉ đạo
của Đảng về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014;
trên cơ sở đó, đưa ra những đánh giá, nhận xét về hoạt động lãnh đạo của
Đảng, và đúc rút một số kinh nghiệm chủ yếu.
Những vấn đề luận giải trong luận án được dựa trên cơ sở lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời,
kế thừa có chọn lọc những nội dung và phương pháp nghiên cứu của các
cơng trình đã được cơng bố có liên quan đến đề tài. Đề tài là một cơng
trình khoa học độc lập, khơng có sự trùng lặp với các cơng trình khoa học
đã được cơng bố.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần mà loài người sáng tạo
ra nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển của mình trong quá trình lịch


6

sử. Văn hóa là cội nguồn trực tiếp của sự phát triển xã hội, có vị trí trung
tâm và đóng vai trị điều tiết xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của nhân loại nói
chung và của từng quốc gia, dân tộc nói riêng; là sự kết tinh những giá trị tốt
đẹp nhất trong quan hệ giữa con người với con người, con người với tự
nhiên và xã hội. Đó là trình độ nhân bản đích thực của con người, được đo
bằng giá trị phổ quát: Chân, thiện, mỹ.

Bản sắc văn hóa dân tộc là phần tinh túy thấm sâu trong tâm hồn, cốt
cách, bản lĩnh của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc khơng chỉ biểu hiện ở
bề ngồi mà cịn ẩn sâu bên trong, là “cái hồn” của một nền văn hóa. Phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc chẳng những làm tăng lịng tự tơn dân tộc mà cịn là
cách tốt nhất nhằm khơi dậy năng lực nội sinh để phát triển đất nước.
Trong các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhân dân ta đã xây dựng nên một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, trong đó chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập dân tộc, tự lực, tự cường,
tinh thần đoàn kết là nền tảng cốt lõi, được vun đắp suốt chiều dài lịch sử
dựng nước và giữ nước. Sức mạnh bản sắc văn hóa đã góp phần to lớn để dân
tộc Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống
nhất Tổ quốc, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, cục diện thế giới diễn biến nhanh chóng,
quan hệ quốc tế có sự điều chỉnh sâu sắc, hội nhập giữa các quốc gia, dân tộc
ngày càng sâu rộng. Vị trí, vai trị của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế xã hội ngày càng nổi bật; ảnh hưởng của văn hóa ngày càng rộng rãi và sâu
sắc. Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đã trở thành chủ đề nóng hổi được quan
tâm rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới, các quốc gia, dân tộc đều đề ra và
thực thi chiến lược phát triển văn hóa, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.
Tuy nhiên, q trình đó cũng dễ dẫn đến hệ lụy mà dân tộc này có thể bị hòa


7

tan, hay trở thành cái bóng của dân tộc khác, tức là đánh mất bản sắc dân tộc,
đánh mất sức mạnh tiềm tàng vốn có của chính dân tộc mình.
Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
địi hỏi cần phát huy khả năng và trí tuệ ở mỗi con người Việt Nam, sự
đồng thuận, đoàn kết vươn lên của toàn xã hội. Bên cạnh những thời cơ và

thuận lợi, đất nước cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức
lớn: Sự hồi nghi, dao động về con đường lên chủ nghĩa xã hội; tệ sùng bái
nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, sự suy thối về đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Những thách
thức đó đang làm suy giảm sức mạnh nội sinh của dân tộc trong quá trình
xây dựng đất nước.
Nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ
năm 1998 đến năm 2014, nhằm đánh giá những thành tựu, chỉ ra những hạn
chế, bất cập; làm rõ nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế, bước đầu
rút ra một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng xây dựng nền văn hóa và
phát triển con người Việt Nam là việc làm cần thiết. Nghiên cứu đề tài này
khơng chỉ góp phần vào việc tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn q
trình lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ đổi mới, mà còn
là cơ sở để kiểm nghiệm tính đúng đắn trong chủ trương của Đảng, khắc phục
những nhận thức sai lệch về vị trí, vai trị của bản sắc văn hóa dân tộc trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, bảo đảm nền văn hóa Việt Nam
“hội nhập” mà khơng “hịa tan”, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014” làm luận
án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.


8

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu
Luận án làm sáng rõ quá trình Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014; từ đó, đúc kết một số kinh nghiệm để vận
dụng vào thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới.

*Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, làm rõ yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế.
Trình bày có hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014.
Đánh giá ưu, khuyết điểm trong hoạt động lãnh đạo phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc của Đảng từ năm 1998 đến năm 2014, chỉ rõ nguyên nhân,
bước đầu rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chủ trương và quá trình Đảng chỉ đạo phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc ở những nội dung cơ bản: Phát huy tinh thần yêu
nước; tinh thần đoàn kết dân tộc; Phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của
con người Việt Nam và di sản văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới.
Về thời gian nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm
2014. Năm 1998, là năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa VIII họp Hội


9

nghị lần thứ năm, bàn thảo và ban hành Nghị quyết Về xây dựng, phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Năm 2014, là năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XI họp Hội nghị lần thứ chín, đánh

giá, tổng kết, bàn thảo và ban hành Nghị quyết Về xây dựng văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, để
bảo đảm tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có đề cập một
số nội dung về bản sắc văn hóa dân tộc trước và sau mốc thời gian nói trên.
Về không gian nghiên cứu
Nghiên cứu phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên phạm vi quốc gia Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
* Cơ sở thực tiễn
Luận án được thực hiện trên cơ sở thực tiễn hoạt động lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa việt Nam, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, dựa trên số liệu báo cáo tổng kết của Đảng,
Nhà nước và kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học có liên quan
đã được công bố.
*Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và
liên ngành, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lơgíc;
ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia,...
6. Những đóng góp mới của luận án
Hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát huy bản sắc văn hóa dân tộc từ năm 1998 đến năm 2014.


10

Đưa ra những nhận định, đánh giá ưu, khuyết điểm trong hoạt động lãnh
đạo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng từ năm 1998 đến năm 2014.

Đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng về phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc những năm 1998 - 2014 để có thể vận dụng trong lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn trong giai đoạn mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp thêm luận cứ khoa học cho việc xác
định hệ thống quan điểm, chủ trương và giải pháp lãnh đạo phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc trong sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
* Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
và tuyên truyền, giáo dục những nội dung liên quan đến văn hóa ở các học
viện, nhà trường trên phạm vi cả nước.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, tổng quan vấn đề nghiên cứu, 3 chương (8 tiết),
kết luận, danh mục các cơng trình nghiên cứu của tác giả, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


11

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi liên quan đến đề tài
1.1. Các cơng trình nghiên cứu về văn minh, văn
hóa, bản sắc văn hóa
Văn hóa, bản sắc văn hóa được thể hiện một cách sinh động đời sống
xã hội, đặc điểm tâm lý, giá trị truyền thống của mỗi dân tộc, có ý nghĩa quan
trọng trong việc hoạch định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì thế, vấn đề này
luôn được tập trung nghiên cứu trên nhiều góc độ, phạm vi khác nhau.
Tác giả Carmelle begin trong bài viết: “Bảo tồn các nền văn minh

của Cananda và mối quan hệ của các nhà hoạt động văn hóa trong việc
bảo tồn và phổ biến văn hóa” [27], đã khái qt q trình hình thành
chính sách “đa văn hóa” và cơng nhận những ảnh hưởng chính trị ngày
càng tăng của các dân tộc thiểu số. Với chính sách về chủ nghĩa đa văn
hóa, Bộ Di sản văn hóa Canada và Văn phịng chủ nghĩa “đa văn hóa” đã
tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu về văn hóa truyền thống, đặc biệt là
giải pháp bảo tồn nền văn hóa phi vật chất. Trong hệ thống các giải
pháp, tác giả nhấn mạnh “cần đẩy mạnh nghiên cứu văn hóa truyền
thống, chú trọng công tác đào tạo và sự hỗ trợ của các nhà khảo cổ học”
là giải pháp quan trọng hàng đầu.
UNESCO, “Giá trị đặc trưng của di sản văn hóa nói chung và văn hóa phi
vật chất nói riêng của các dân tộc thiểu số” [163], nhận định: Di sản văn hóa của
các tộc người thiểu số ở Việt Nam được hình thành từ yếu tố địa lý, kinh tế, chính
trị - xã hội, được người dân tiếp nhận từ tổ tiên, được hình thành trong lịch sử,
được bồi đắp một cách liên tục, kế thừa, không đứt đoạn, lớp mới hòa vào lớp cũ,
bổ sung, làm phong phú, chứ khơng có sự đối lập. Di sản văn hóa của các dân tộc
thiểu số bao gồm: Ngôn ngữ, nghề nghiệp, phương thức sản xuất, trang phục
truyền thống… đang đối diện với q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước
sự xâm nhập của văn hóa phương Tây. Để giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa


12

của các dân tộc thiểu số cần phải có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước với chính
sách phù hợp, khoa học và đầu tư thích đáng, nhưng trước hết, cơng tác này phải
do chính bản thân các dân tộc đó ý thức và thực hiện.
Tác giả Scar salemink trong bài viết: “Sự bảo tồn văn hóa và biểu hiện
văn hóa” [122], đã tập trung phân tích văn hóa truyền thống và văn hóa tồn
cầu, khả năng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Dựa trên các cơng trình
nghiên cứu của Eric Hobsbam và Terence Ranger (1983), sự “phát minh ra

truyền thống” (invention oftradition), “tạo dựng nên truyền thống”
(construction of tradition). Tác giả chỉ ra nguyên tắc, mối quan hệ giữa văn
hố và truyền thống. Vì thế, khi nghiên cứu xem xét, đánh giá nền văn hoá
phải gắn với thời điểm lịch sử, cụ thể và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội,
đồng thời cần đặc biệt quan tâm đến sự quá độ giữa các chính sách hiện tại và
tương lai có thể ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Cuốn sách của Roland Breton, Geographie des civilisation. Presses
Universitaire de France. Paris 1987 [193], với cách tiếp cận theo chuỗi giá trị,
thuộc tính của văn hóa, tác giả đã chỉ ra cơng năng, tác dụng của văn hóa đối
với cuộc sống con người và q trình tiến hóa của nhân loại, khẳng định bản
sắc văn hóa là một thuộc tính cơ bản, một bộ phận quan trọng, cốt lõi của văn
hóa, đi sâu phân tích luận giải sự giống và khác nhau giữa văn minh, văn hóa,
bản sắc văn hóa, đồng thời phê phán những quan điểm, quan niệm đồng nhất
giữa các phạm trù trên.
Tiếp cận dưới góc độ giá trị về văn hóa, bản sắc văn hóa, các tác giả:
Echác Dôn, Giá trị cuộc sống và giá trị văn hóa [64]; V.Khajus Uolter, “Tự
do - thị trường tự do về giá trị con người” [181]; Martin Wolf, Châu Á trong
cơn lốc tồn cầu hóa: Vì một sự điều tiết ở cấp toàn cầu [101]; Samuen
Hungtinhtơn, Sự va chạm của các nền văn minh [123]; Bjaznova, Tồn cầu
hóa các giá trị dân tộc [26]. Điều đáng chú ý ở đây, các tác giả đã phân tích
q trình phát triển của xã hội phương Tây hiện đại dưới góc độ văn hoá,


13

bản sắc văn hoá, chỉ ra thực trạng chênh lệch quá xa không chỉ ở các nước
nghèo, chậm và đang phát triển mà còn diễn ra ở các nước phát triển. Đó là
tình trạng áp bức bóc lột, bất cơng, phân hóa giàu nghèo, tàn phá và hủy
hoại mơi trường... và nhận định: “Cần tiến hành cuộc cách mạng tinh thần”
trong q trình tồn cầu hóa và “Sự va chạm của các nền văn minh” là tất

yếu. Trên cơ sở đó, các học giả đề xuất một số giải pháp, trong đó nhấn
mạnh: Cần xây dựng xã hội hài hịa hơn, rời khỏi “xã hội tiêu dùng” để
chuyển sang “xã hội có ý nghĩa hơn”, nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc
của dân tộc mình. Đó là nhu cầu văn hóa tinh thần sâu sắc, đích thực đang
nảy sinh trong tâm lý xã hội của các nước phương Tây.
1.2. Các cơng trình nghiên cứu văn hóa truyền thống, đời sống văn
hóa, văn hóa tín ngưỡng
Tác giả Lesopold cadiere, Về văn hóa và tín ngưỡng truyền thống
người Việt [91], đã dày cơng nghiên cứu nguồn gốc, tín ngưỡng của người
Việt (tín ngưỡng tơn giáo, tín ngưỡng dân gian, phong tục tập quán của người
Việt), khẳng định: Một dân tộc đã biết tiếp nhận vô vàn yếu tố Trung Hoa, bị
áp đặt hoặc thu nạp một cách tự nguyện, để dựng lên một thế giới của riêng
mình, và giữ gìn bản sắc độc đáo của mình. Theo tác giả, người Việt rất thơng
minh, đức hạnh, kiên trì, kiên nhẫn vượt qua những khó khăn, nhọc nhằn
nhưng rất lạc quan. Những phẩm chất đó góp phần tạo nên những giá trị, bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Tác giả Chong Sun - mok, “The Image of Man in the Korean Tra ditional
Culture” viết: “Trong tư duy truyền thống Hàn Quốc sự căng thẳng hoặc sự
xung đột lợi ích được tạo ra bởi sự băng hoại của các quan hệ nhân văn” [187,
tr.22]. Quan niệm này đã dẫn đến khuynh hướng không phân biệt được “cái tôi”
với những người khác, giá trị văn hóa truyền thống với giá trị xã hội nhân văn.
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của xã hội công nghiệp đối với văn hóa, tác
giả Kin Kyong - dong, “The Social Impack of undus - trializafion and the


14

Task for the Future, Seoul 1979 và “Souack change and Societal Develop
mennt in Korea since 1945” Seoul 1985 [189]. Dịch là “Ảnh hưởng xã hội
của cơng nghiệp hóa và nhiệm vụ cho tương lai” và “Sự thay đổi xã hội và sự

phát triển xã hội Hàn Quốc từ năm 1945”, trình bày quan điểm và những
nguyên tắc quan trọng nhất của tổ chức xã hội văn hóa truyền thống Hàn
Quốc. Với 7 nguyên tắc: Chủ nghĩa độc đoán cấp bậc; Chủ nghĩa tập thể; Chủ
nghĩa cha truyền con nối; Chủ nghĩa nhân cách; Chủ nghĩa nghi thức đạo đức;
Khung lưỡng phân của tư duy; Sự không tương xứng của lý tưởng hiện thực.
Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến lý tưởng đạo đức - nền tảng của sự
phát triển văn hóa con người, gia đình và xã hội, yếu tố góp phần tạo dựng
nên bản sắc văn hóa dân tộc.
Tác giả Suriya ratanakul trong bài viết: “Các dân tộc thiểu số, giáo
dục và bản sắc văn hóa” [126], đã khái qt sự hình thành văn hóa gia đình
truyền thống ở Thái Lan. Là quốc gia - Bán đảo vàng (Golden Peninsula),
nằm trong vùng Đông Nam Á, là láng giềng của Campuchia, Lào và
Malaysia, với 58 triệu người nói tiếng Thái và khoảng 600.000 người thuộc
các dân tộc thiểu số. Q trình hội nhập, văn hóa truyền thống, sinh hoạt
cộng đồng lâu đời, phong tục tập quán, tinh thần đồn kết và lối sống tập
thể khơng cịn gắn chặt với những quy tắc xã hội. Văn hoá của các dân tộc
miền núi cũng bị tác động bởi những giá trị phát sinh từ các cơ cấu kinh tế
mới do các chương trình phát triển tạo ra, sự giao lưu tiếp biến cũng làm
mất dần đi những giá trị văn hoá cộng đồng, phá vỡ những giá trị truyền
thống gia đình. Vì thế, tác giả đưa ra những giải pháp, trong đó: Cần đẩy
mạnh giáo dục truyền thống, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, bản
sắc văn hóa, nhất là văn hóa dân tộc thiểu số, đồng thời mở rộng giao lưu,
tiếp biến có chọn lọc những tinh hóa văn hóa thế giới.
Bàn về giá trị văn hóa truyền thống, tác giả Estebant Tagannon trong
bài viết: “Các cộng đồng văn hóa bản địa ở Philippin: Một cái nhìn lịch sử


15

về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của các cộng đồng người này”

[65], phân tích sự cần thiết phải giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống,
nhất là giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số và di sản văn hóa tại nước
Cộng hòa Philippin. Là một quốc gia đa dân tộc, trong đó dân tộc thiểu số
chiếm khoảng 2,5 triệu người theo đạo Hồi, chủ yếu cư trú ở những đảo:
Mindanao, Jolo, Sulu, Palawan và khoảng 5 triệu người không theo đạo Hồi,
phân bố khắp các nơi, đông nhất là người Igorot ở miền Bắc Luzon. Để bảo
tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, các di sản văn hóa thì
chính sách và luật pháp có vai trị quyết định. Vì thế, cần đặt dưới sự bảo hộ
của Nhà nước, tăng cường giáo dục khoa học kỹ thuật, văn hoá nghệ thuật,
là giải pháp quan trọng hàng đầu mà tác giả đề xuất.
Luận bàn về giải pháp bảo tồn giá trị văn hóa phi vật thể, tác giả Jing
Fang Shen trong bài viết: “Những bảo đảm về phương diện pháp lý và tổ chức
đối với việc bảo tồn các nền văn hóa dân tộc thiểu số ở Trung Quốc” [83],
khái quát những định chế tự trị được quy định trong luật pháp, bảo đảm cho
sự bình đẳng của các dân tộc là vấn đề có tính ngun tắc. Theo tác giả, những
định chế đó có thể tạo ra một bối cảnh xã hội cần thiết để thể hiện những nền
văn hoá khác nhau. Đồng thời, cung cấp sự bảo đảm về pháp lý và hành chính
cho cơng tác bảo vệ di sản văn hoá, huy động những yếu tố tích cực để tạo sự
phồn vinh cho các nền văn hoá khác nhau. Tác giả đề xuất những giải pháp về
pháp lý cho việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá của các dân tộc thiểu số
như: Sử dụng ngơn ngữ riêng của mình trong các sách giáo khoa và trong việc
dạy học khi đa số học sinh thuộc thành phần dân tộc thiểu số và khi điều kiện
cho phép; truyền bá và phát huy văn hoá và nghệ thuật bằng các phương tiện
truyền thông (truyền thanh, phim ảnh, truyền hình, báo chí và các xuất bản
phẩm); sưu tầm, dịch và xuất bản các tác phẩm văn học; bảo vệ các danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, các cơng trình kiến trúc, các di sản văn hố của các
dân tộc thiểu số.


16


Với cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ
phong tục, truyền thống, tín ngưỡng văn hóa, những qui tắc, thuộc tính bên
trong của văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc, xu thế tiếp biến của các nền văn
hóa, văn minh trong quá trình hội nhập quốc tế, vai trị quan trọng của văn
hóa, bản sắc văn hóa dân tộc. Những yếu tố tác động từ các giá trị phát sinh
đến văn hóa truyền thống và ảnh hưởng của nó đến bản sắc văn hóa của các
dân tộc. Q trình hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu đạt được, vấn
đề đặt ra là cần phải giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một yêu cầu cấp bách, nhiệm vụ quan
trọng góp phần thúc đẩy q trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc.
2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài
2.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu chung về văn hoá và bản sắc
văn hoá Việt Nam
Xây dựng và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một chủ trương lớn,
nhất quán của Đảng, Nhà nước, có vị trí đặc biệt quan trọng, là động lực chủ
yếu và là một trong ba “trụ cột” để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Vì
thế, các vấn đề về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, dưới
các góc độ và trên nhiều bình diện khác nhau:
Tác giả Phùng Hữu Phú với cơng trình khoa học: “Định hướng phát
triển văn hóa - sức mạnh nội sinh của dân tộc trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế” [117]. Trên cơ sở nhận xét tổng quan về tình
hình xây dựng, phát triển văn hóa 1998 - 2014, tác giả đề xuất và kiến nghị
cần tăng cường bồi đắp, phát huy nguồn lực nội sinh của dân tộc, tạo thành
sức mạnh tổng hợp to lớn để phát triển bền vững, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại và trở thành nước công nghiệp hiện đại theo
định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỳ XXI, hình thành trong thực tiễn



17

đời sống hệ giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; phát huy phẩm chất, năng lực
làm chủ của các thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa; xác lập hệ giá trị Việt Nam trong hệ giá trị chung của
nhân loại. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020, tầm nhìn 2030 là: “Xây dựng mơi
trường văn hóa lành mạnh; khắc phục, tiến tới đẩy lùi các tiêu cực, tệ nạn
văn hoá - xã hội; Tăng cường tiềm năng văn hóa quốc gia; tập trung phát
triển nguồn lực con người; Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; cải
thiện chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam” [117, tr.27].
Tác giả Phạm Duy Đức trong cuốn sách: Thành tựu trong xây dựng và
phát triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi mới (1986 - 2010) [59], đã khái quát
những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam
giai đoạn 1986 - 2010. Tác giả nhận định, những tác động và chỉ ra những
thành tựu phát triển văn hóa, trong đó: “Văn hóa xã hội có tiến bộ trên nhiều
mặt, việc gắn kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, đời
sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện” [59, tr.34].
Nghiên cứu của Trần Ngọc Thêm, “Tổng quan những bài học lý luận
và thực tiễn trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa từ đổi mới đến
nay” [135], khái qt q trình xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ
đổi mới, đánh giá những thành tựu và hạn chế trong xây dựng, phát triển văn
hóa trên phương diện lý luận và thực tiễn; chú trọng phát huy những giá trị
đạo đức của con người Việt Nam.
Cuốn sách của tác giả Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống
của dân tộc Việt Nam [67], đã trình bày những hệ thống giá trị đạo đức của
con người Việt Nam, đó là sự kết tinh những phẩm chất tốt đẹp nhất mà
dân tộc Việt Nam đã tạo ra trong lịch sử, có sự tiếp thu những tinh hoa văn
hóa nhân loại. Với 11 chương, trong đó tác giả dành 8 chương luận bàn về

những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam. Tác giả khẳng định:
“Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ


18

cổ đại đến hiện đại…. Yêu nước đã trở thành một triết lý xã hội và nhân
sinh của người Việt Nam” [67, tr.100 - 101].
Tác giả Phan Ngọc trong cuốn sách: Bản sắc văn hóa Việt Nam [110],
đã cung cấp một số khái niệm và cách tiếp cận nghiên cứu bản sắc văn hóa
Việt Nam, những yêu cầu bất biến của tâm thức Việt Nam là Tổ quốc - Làng
xã, Thân phận và Diện mạo với những nét tiêu biểu của văn hóa Việt Nam.
Cuốn sách của tác giả Mai Thị Q: Tồn cầu hóa và vấn đề kế thừa
một số giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện
nay [119], đã nhận định: Tồn cầu hoá, một mặt đem lại cho tất cả các nước,
nhất là các nước chậm và đang phát triển những cơ hội lớn; mặt khác, nó
cũng đặt ra những thách thức, phá vỡ những giá trị truyền thống. Việt Nam
là một quốc gia có bề dày lịch sử lâu đời và đã trải qua nhiều biến động
thăng trầm của lịch sử, tồn tại trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, ln
phải chống lại những kẻ ngoại xâm tàn bạo, có tiềm lực quân sự rất mạnh.
Để tồn tại và phát triển, dân tộc Việt Nam luôn chủ động khơi dậy và phát
huy sức mạnh nội sinh, phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc đã
được hun đúc trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Quá trình tồn
cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng chứa đựng nguy cơ đe dọa những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khơng ít những sản phẩm văn hố, những
tư tưởng, lối sống sùng ngoại đang có nguy cơ làm băng hoại những giá trị
văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, tác giả đề xuất giải
pháp cần chú trọng giữ gìn, kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt
đẹp, chủ động tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại phù hợp với
xu thế chung của thời đại.

Tác giả Vũ Như Khơi trong cuốn sách: Văn hóa giữ nước Việt Nam Những giá trị đặc trưng [89], trình bày những giá trị đặc trưng nhất của văn
hóa giữ nước Việt Nam. Trong hệ thống những giá trị văn hóa ấy thì lịng u
nước là giá trị tiêu biểu nhất, chi phối và định hướng phát triển các giá trị


19

khác. Nền tảng và biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước là tinh thần tự tôn, tự
lập tự cường. Những giá trị đặc trưng văn hóa giữ nước là cội nguồn của
chiến thắng, là sức sống trường tồn của dân tộc, mang tính vĩnh hằng. Tác giả
khẳng định: “Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội hiện nay là yêu quê hương, đất
nước, yêu đồng bào, yêu những thành quả chiến đấu và lao động xây dựng
của các thế hệ ông cha, yêu chế độ cùng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa,
u mối tình đồn kết, gắn bó giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa,
các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ toàn thế giới” [89, tr.230].
Nghiên cứu về bảo tồn di sản văn hóa, tác giả Trần Văn Khê với cơng
trình: “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật chất của các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam” [84], trình bày dưới dạng câu hỏi, theo một trật tự lơgíc (tại
sao phải bảo tồn? bảo tồn bằng cách nào? Bảo tồn cái gì?). Theo tác giả, di
sản là một thành tố tối quan trọng của bản sắc văn hoá các tộc người thiểu số
ở Việt Nam, có một giá trị nghệ thuật khơng thể phủ nhận. Nó là một kho
tàng văn hóa chẳng những đối với các dân tộc thiểu số mà cịn đối với Việt
Nam và tồn thể nhân loại, là một đối tượng quan trọng cho các cơng trình
nghiên cứu so sánh trong lĩnh vực âm nhạc tộc người, vũ điệu và các loại hình
nghệ thuật khác. Để bảo tồn di sản văn hóa phi vật chất của các dân tộc thiểu
số, tác giả đề xuất 2 cách bảo tồn (thụ động và chủ động). Bảo tồn một cách
thụ động bao gồm việc ghi lại bằng các phương tiện nghe nhìn tất cả các khía
cạnh của di sản văn hố của một tộc người và gìn giữ các tư liệu đó trong các
kho lưu trữ của các viện bảo tàng. Bảo tồn chủ động không những bao gồm
việc sưu tầm các tài liệu về di sản văn hố mà cịn nhằm phổ biến các tác phẩm

được chọn lựa vì sự lý thú hoặc độc đáo của chúng; truyền lại cho các thế hệ trẻ
các tri thức và cách thực hành âm nhạc, múa hay sân khấu truyền thống; tìm
kiếm các điều kiện thuận lợi để cho một số phong cách âm nhạc, sân khấu và
múa, có được một vị trí trong xã hội hiện đại. Để giữ gìn và phát huy các di sản
văn hóa, tác giả cũng kiến nghị 5 giải pháp, trong đó “Hành động bảo tồn,


20

truyền bá và tăng cường sinh lực cho di sản phi vật chất của các tộc người thiểu
số chỉ có hiệu quả nếu họ được quyền bảo tồn tiếng mẹ đẻ, nếp sống, phong tục
và tín ngưỡng của họ và nếu giáo dục ở các cấp tiểu học và trung học được
quan tâm đến các nhu cầu của họ” [84, tr.85 - 88].
Cơng trình nghiên cứu của Tơ Ngọc Thanh: “Văn hóa phi vật chất của
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam: Vai trị, địa vị của nó, trách nhiệm của chúng
ta và giải pháp” [129], đã nhận định: Văn hóa của các dân tộc thiểu số nói
chung và văn hóa phi vật chất của họ nói riêng đang đối mặt với nguy cơ suy
yếu dần do nhiều nguyên nhân như: Sự kiện chiến tranh kéo dài nhiều thập
niên đã gây trở ngại cho việc thực hiện các hoạt động văn hoá truyền thống của
các dân tộc thiểu số. Mặc dù Chính phủ Việt Nam ln ln cổ vũ cho việc bảo
tồn và phát huy văn hoá dân tộc thiểu số, nhưng một số cán bộ địa phương đã
chấp hành chính sách này một cách miễn cưỡng. Q trình cơng nghiệp hố và
đơ thị hố tạo ra những điều không thuận lợi cho việc bảo tồn, tăng cường sinh
lực và thực hiện các hoạt động văn hoá vốn bắt nguồn từ một xã hội nông
nghiệp truyền thống và một chế độ cộng đồng làng xã. Khuynh hướng “vọng
ngoại” không phân biệt giữa “văn minh” và “văn hoá”, khiến cho một bộ phận
dân cư, cả dân tộc đa số lẫn dân tộc thiểu số, đặc biệt là thế hệ trẻ, xem văn hố
dân tộc là cái gì lạc hậu và lỗi thời. Tác giả đề xuất kiến nghị: Chính phủ Việt
Nam nên sớm đưa ra kết luận về chương trình quốc gia “Danh mục tổng quát
di sản văn hoá của các dân tộc Việt Nam” do Ủy ban Quốc gia thập niên phát

triển văn hoá đề nghị. Với sự chấp thuận của Chính phủ, chương trình này sẽ
trở thành một công tác do Nhà nước quản lý và sẽ do chính quyền địa phương
trong cả nước thực hiện. Để làm rõ tầm quan trọng và tính cấp bách của
chương trình này, Chính phủ nên giao cho Bộ Văn hố - Thông tin và Bộ Giáo
dục và Đào tạo đứng ra tổ chức những cuộc hội thảo với sự tham gia của các
nhà lãnh đạo ở cấp tỉnh và huyện, đặc biệt là các phó chủ tịch phụ trách những
vấn đề văn hoá - xã hội [129, tr.93 - 95].


21

Tác giả Nguyễn Quang Ngọc, Đặng Ngọc Hà với bài viết: “Thực trạng
phát huy một số giá trị văn hóa đặc trưng, bền vững Việt Nam” [112], đã chỉ
ra những giá trị truyền thống, bền vững của dân tộc, của con người Việt Nam
là: Chủ nghĩa yêu nước; ý thức độc lập dân tộc, chống xâm lăng; tinh thần
cộng đồng; tinh thần lạc quan, nhân nghĩa; tinh thần cần cù... Q trình tồn
cầu hóa, hội nhập quốc tế đã tạo ra những cơ hội để Việt Nam phát triển, tiếp
thu tinh hoa văn hóa, văn minh của thế giới, đồng thời cũng có khơng ít
những tác động tiêu cực đến giá trị bền vững của văn hóa dân tộc và nhân
cách con người Việt Nam. Tác giả đề xuất những giải pháp để phát huy
những giá trị văn hóa đặc trưng, bền vững của dân tộc, của con người Việt
Nam trong bối cảnh mới. Trọng tâm là xác định các giá trị cốt lõi, hạt nhân
của truyền thống văn hóa và hệ các giá trị đi kèm trong thời kỳ hiện nay; làm
sáng rõ tiêu chí của các giá trị chuẩn mực để đánh giá văn hóa, con người
Việt Nam. Hồn thiện chiến lược phát triển văn hóa, phát triển con người
trong giai đoạn mới, xây dựng và hoàn thiện các thể chế văn hóa.
Tác giả Phạm Thanh Hà trong cuốn sách: Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt
Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay [69], đã nhận định: Q trình tồn
cầu hóa là xu thế phát triển tất yếu khách quan của xã hội, tác động mạnh
mẽ đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của tất cả các quốc gia, dân tộc

trên thế giới. Toàn cầu hóa đang làm thay đổi sâu sắc, từ nhận thức đến
hoạt động thực tiễn của tất cả các nước trên mọi lĩnh vực, trong phạm vi
từng quốc gia cũng như trong quan hệ quốc tế. Tồn cầu hóa mở ra nhiều
cơ hội phát triển, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các
nước, nhất là đối với các nước đang phát triển. Một trong những thách thức
mà tồn cầu hóa đặt ra là sự phai nhạt, mai một bản sắc dân tộc. Hội nhập
mà bị hoà tan, hợp tác mà bị lệ thuộc chẳng khác nào tự đánh mất chính
mình. Một dân tộc một khi trở thành cái bóng và phụ thuộc vào dân tộc
khác thì sẽ khơng thể có độc lập, tự do và phát triển ổn định. Giải pháp mà


22

tác giả đề xuất là: Cần giữ vững độc lập, tự chủ và có những phương thức
xử lý phù hợp để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Về mối quan hệ giữa bản sắc văn hóa với sự phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, tác giả Lê Quang Thiêm trong cuốn sách: Văn hóa
với sự phát triển của xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa
[136], khẳng định: Văn hóa bao hàm nội dung sâu rộng và phong phú, là
biểu hiện trình độ nhân bản đích thực của con người, được đo bằng bộ giá
trị phổ quát: Chân, thiện, mỹ. Các sản phẩm vật chất và tinh thần, các quan
hệ giữa con người và con người, mỗi nhân cách mang diện mạo văn hóa
đều là thể hiện của cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Văn hóa nằm trong sự phát
triển, tiến hóa của con người và xã hội lồi người. Văn hóa gắn liền với
phát triển những mặt tốt đẹp, những giá trị cao cả, sự hoàn thiện của con
người và xã hội. Sẽ có phát triển mà khơng lâu bền, có tăng trưởng mà
khơng phát triển, nếu khơng đặt văn hóa ở đúng vị trí là động lực, hệ điều
tiết xã hội và mục tiêu của phát triển. Tác giả khẳng định:
Chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, mục tiêu tiến bộ của lồi người. Cơng
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội có thể cịn lâu dài, ở những mức độ cao thấp

khác nhau, nhưng bản chất, định tính của nó là tốt đẹp, khả thi và ưu việt.
Trong quá trình này, văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực, đồng thời là
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Bản chất của văn hóa phù hợp với bản chất
chủ nghĩa xã hội. Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội chưa có tiền lệ, vì vậy
phải cần đến bản lĩnh, kiên trì, sáng tạo, cần đến trí tuệ, cần phát huy cao độ
bản chất văn hóa đích thực với những thuộc tính cơ bản của nó. Văn hóa vì
vậy gắn bó bản chất và là điều kiện cho phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa [136, tr.72].
Tác giả Đỗ Văn Trường trong bài viết: “Giữ gìn, phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống dân tộc trong q trình hội nhập quốc tế hiện nay dưới
ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng” [161], chỉ ra: Hội nhập quốc tế về


23

văn hóa là cơ hội để giao lưu, tiếp biến với các nền văn hố trên thế giới, góp
phần tạo ra một diện mạo mới để phát triển kinh tế - xã hội. Q trình đó
khơng chỉ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, mà còn chứa đựng những
nguy cơ phá vỡ và làm băng hoại những giá trị văn hố truyền thống đã được
cha ơng ta gây dựng qua hàng ngàn năm lịch sử. Để giữ gìn và phát huy hiệu
quả các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong quá trình hội nhập. Tác giả
đưa ra 4 giải pháp, trong đó: Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc phải thơng qua việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần phong
phú, lành mạnh là giải pháp quan trọng hàng đầu, đóng vai trị quyết định.
Tác giả Nguyễn Vĩnh Thắng trong bài viết: “Xây dựng và phát triển
văn hóa Bộ đội cụ Hồ hiện nay” [132], xác định: Nội dung phát triển văn hóa
“Bộ đội Cụ Hồ” trước hết phải trung thành với Đảng, đó là sự kiên định nền
tảng tư tưởng lý luận của Đảng (chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh); kiên định và thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới đất nước mà

Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo; khẳng định vai trò và sự lãnh đạo của
Đảng; đấu tranh phê phán những quan điểm hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với xã hội. Trung với nước là phải thực hiện tốt mọi chủ
trương, chính sách đổi mới của Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa với tinh thần “thượng tôn pháp luật”, chấp hành nghiêm Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, thực hiện tốt nghĩa vụ và
trách nhiệm công dân. Hiếu với dân là phải thường xuyên gắn bó máu thịt với
nhân dân. Giải pháp đưa ra, cần tiếp tục chăm lo xây dựng mơi trường văn
hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú ở đơn vị cơ sở quân đội, làm cơ sở cho
việc xây dựng và phát triển văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”.
Nghiên cứu về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hố truyền thống, tác
giả Ngơ Đức Thịnh trong bài viết: “Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá
trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập” [141], đưa ra khái niệm


24

và cách tiếp cận hệ giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa. Với 7 giá trị mang tính
tổng qt nhất của dân tộc Việt Nam là: Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng
tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Quá trình chuyển biến xã hội đang
diễn ra trong bối cảnh hội nhập, tồn cầu hố mạnh mẽ, đây là thách thức
lớn và cũng là cơ hội để Việt Nam chuyển mình, vươn lên trong xu hướng
chung của thế giới hiện đại. Trong bối cảnh đó, hệ giá trị văn hố Việt Nam
đã và đang diễn ra dưới các hình thức, sắc thái, mức độ khác nhau. Sự
chuyển đổi từ hệ giá trị truyền thống sang hệ giá trị hiện đại như: thay đổi
cấu trúc, nội dung, hình thức. Ví dụ khái niệm “trung”, “hiếu” tuy hình
thức cũ, nhưng nội dung mới, từ “trung với vua” đến “trung với nước”, từ
“hiếu với cha mẹ” nay rộng hơn là “hiếu với dân”, các giá trị “cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng, vơ tư” tuy hình thức cũ nhưng cũng đã mang nội
dung mới. Sự mất dần các hệ giá trị truyền thống lỗi thời và hình thành các

hệ giá trị văn hố mới. Vấn đề đặt ra trong bảo tồn văn hoá truyền thống
hay các giá trị văn hoá truyền thống phải trên nguyên tắc phát triển, vì mục
tiêu phát triển. Tức là, cái gì trong kho tàng giá trị truyền thống đóng vai
trị động lực thúc đẩy phát triển thì chúng ta bảo tồn, phát huy, cịn cái nào
cản trở, kìm hãm sự phát triển thì cần hạn chế và dần loại trừ.
Luận bàn về sự cần thiết phải xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, các tác giả: Phạm Văn Đồng, Văn hóa và đổi mới
[58]; Hồ Sỹ Vịnh, Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới [178]; Nguyễn
Phú Trọng, “Định hướng xã hội chủ nghĩa là văn hóa” [158], tiếp cận với
nhiều chiều cạnh khác nhau, nhưng có một điểm chung là đều thống nhất
khẳng định sự cần thiết phải xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Các cơng trình trên khẳng định mục tiêu, tầm quan trọng
của văn hoá, bản sắc văn hoá trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”, khẳng định
quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà


25

bản sắc dân tộc của Đảng. Giải pháp đưa ra là phải đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân, kiên trì, sáng tạo trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy cao độ bản chất văn hóa đích thực với
những thuộc tính cơ bản của nó. Phát triển nền văn hóa của dân tộc phải gắn
chặt với điều kiện của đất nước và những giá trị cao đẹp của con người Việt
Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Bá Thâm, Bản sắc văn hóa dân tộc [133], cuốn sách tập trung
làm rõ quan niệm về bản chất, đặc trưng, vai trò của văn hóa, bản sắc văn hóa
dân tộc; cơ hội và thử thách của văn hóa trong thời kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế; nghiên cứu một số khía cạnh bản sắc văn hóa của tư duy triết
học Việt Nam.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn hóa, bản sắc văn hóa với phát

triển kinh tế - xã hội, các tác giả: Hoàng Vinh, Một số vấn đề lý luận văn
hóa thời kỳ đổi mới [173]; Vũ Khiêu, “Nội sinh và ngoại sinh trong giao
lưu văn hóa ngày nay” [86]; Đỗ Huy, “Những giá trị truyền thống Việt
Nam trước thách thức tồn cầu hóa” [79]; Nguyễn Khoa Điềm, “Nghĩ về
văn hóa và con người Việt Nam trước chặng đường mới” [55]; Lại Văn
Toàn, Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường [149].
Nguyễn Ngọc Quyến, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vấn đề bảo
tồn bản sắc văn hóa dân tộc” [120]. Các cơng trình khoa học trên đã tập
trung phân tích làm rõ khái niệm, bản chất, cấu trúc, chức năng, nội dung
của văn hóa; mối quan hệ giữa văn hóa, bản sắc văn hóa với phát triển kinh
tế - xã hội, văn hóa với các vấn đề về chính trị, đạo đức, pháp luật. Đồng
thời luận giải, làm rõ nguồn gốc và nội hàm của bản sắc văn hố, vai trị,
giá trị của bản sắc văn hóa trong q trình phát triển, những yêu cầu đặt ra
cần phát huy bản sắc văn hóa trong q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc
tế. Vì vậy, cần phải tiếp cận nội hàm của khái niệm bản sắc văn hoá như
một chỉnh thể với ba chiều cạnh: Bản sắc văn hố là trình độ phát triển của


26

con người, phát triển xã hội - tiếp cận từ góc độ lịch sử; bản sắc văn hố là
những giá trị tinh thần, giá trị vật chất do con người sáng tạo ra - tiếp cận
từ góc độ giá trị; bản sắc văn hoá là những năng lực, phẩm chất của con
người - tiếp cận từ góc độ nhân cách.
2.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối
với phát huy bản sắc văn hoá Việt Nam
Tác giả Nguyễn Danh Tiên trong cuốn sách: Đảng lãnh đạo xây dựng
và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới [148], trình bày có hệ thống, bổ
sung, làm rõ sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về phương hướng chung
xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong công cuộc đổi mới; làm nổi bật sự

lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống
lành mạnh; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; phát huy tinh thần
yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, truyền thống quí báu của dân tộc, hình
thành hệ giá trị chuẩn mực xã hội mới, phù hợp với truyền thống, bản sắc
dân tộc và yêu cầu của thời đại. Tác giả khẳng định:
Kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di
sản văn hóa, nghệ thuật của dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn
hóa và danh lam thắng cảnh của đất nước. Kế thừa và phát huy truyền thống
đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các
dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam; đấu tranh
chống sự xâm nhập của các loại văn hóa độc hại, những khuynh hướng sùng
ngoại, lai căng, mất gốc. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo
lý, coi thường các giá trị nhân văn [148, tr.95].
Trên cơ sở chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng, tác giả rút ra kinh
nghiệm: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đi đơi với khơng ngừng
giao lưu, tiếp biến văn hóa tồn nhân loại là vấn đề cốt lõi để phát huy bản sắc
văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới “Kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc và thời
đại trong phát triển văn hóa là một vấn đề mang tính ngun tắc và có tầm


27

chiến lược” [148, tr.260]. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chính
là phát huy nguồn lực nội sinh quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, nhấn
mạnh bản sắc dân tộc khơng có nghĩa là bài ngoại, trái lại phải tiếp thu có
chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới, làm cho những giá trị đó hòa quyện
với bản sắc dân tộc.
Đánh giá thành tựu về xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới - Một nội dung cốt lõi trong bản sắc văn hóa dân tộc, Ban Tun
giáo Trung ương với cơng trình khoa học: “Nhìn lại việc thực hiện 10

nhiệm vụ của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII sau 15 năm 1998 2013)” [10], đã tổng kết, đánh giá toàn diện trên 10 nhiệm vụ sau 15 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), chỉ ra thành tựu về xây
dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
Bản sắc văn hóa quân sự Việt Nam, một nội dung quan trọng của bản
sắc văn hóa dân tộc. Tác giả Văn Đức Thanh với bài viết: “Về bản sắc dân
tộc của văn hóa quân sự Việt Nam” [131], khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa quân sự Việt Nam là những tinh hoa mang
tính riêng, bền vững và tiêu biểu nảy sinh từ bản thân lĩnh vực tổ chức và hoạt
động quân sự giữ nước của dân tộc, được hình thành từ hoàn cảnh lịch sử,
điều kiện và phương thức sinh tồn cơ bản nhất của dân tộc, được trao truyền
và không ngừng vun đắp qua các thời đại lịch sử, tiêu biểu cho diện mạo văn
hóa quân sự đặc trưng, trở thành di sản văn hóa quân sự cũng như nền văn
hóa Việt Nam qua các thời đại [131, tr.79].
Văn hoá quân sự được thể hiện trong các di sản lý luận quân sự tiến
bộ, từ những tư tưởng quân sự có ý nghĩa phổ qt tồn nhân loại đến
những kinh nghiệm hoạt động quân sự mang tính sáng tạo và nhân văn độc
đáo ở các quốc gia dân tộc giàu truyền thống tổ chức và hoạt động quân sự.
Văn hố qn sự cịn hàm chứa trong các giá trị văn hố vật thể với tính


×