Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 105 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

INH HI NINH

QUYềN Và NGHĩA Vụ PHáP Lý CủA NGƯờI Bị BUộC TộI
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2017


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

INH HI NINH

QUYềN Và NGHĩA Vụ PHáP Lý CủA NGƯờI Bị BUộC TộI
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS PHNG TH VC

H NI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

ĐINH HẢI NINH


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ............................................................................................ 9
1.1.

Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa

vụ pháp lý của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự. .................. 9

1.1.1.

Khái niệm quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
trong tố tụng hình sự ........................................................................... 9

1.1.2.

Cơ sở của việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị
buộc tội trong tố tụng hình sự ........................................................... 15

1.1.3.

Ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị
buộc tội trong tố tụng hình sự............................................................. 16

1.2.

Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong Luật
pháp quốc tế..................................................................................... 18

1.3.

Sơ lược quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ ........ 21

1.3.2.

Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong giai đoạn

1945 – 1988 ....................................................................................... 21

1.3.3.

Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam năm 1988 ..................................................... 25

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI................................................................... 32


2.1.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về quyền
và nghĩa vụ của người bị buộc tội .................................................. 33

2.1.1.

Các quyền và nghĩa vụ chung của người bị buộc tội ........................ 33

2.1.2.

Quyền và nghĩa vụ của người bị bắt ................................................. 36

2.1.3.

Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ .......................................... 38

2.1.4.


Quyền và nghĩa vụ của bị can ........................................................... 42

2.1.5.

Quyền và nghĩa vụ của bị cáo ........................................................... 50

2.2.

Thực trạng áp dụng quy định pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của người bị buộc tội ................................................................. 55

2.3.

Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân khó khăn hạn
chế trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về
quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội ...................................... 65

2.3.1.

Những khó khăn, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật tố
tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội ................... 65

2.3.2.

Nguyên nhân khó khăn hạn chế trong quá trình áp dụng pháp
luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội ..... 67

Chương 3: BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI VÀ

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI ................. 71
3.1.

Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về
quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội ...................................... 71

3.2.

Một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ pháp lý
của người bị buộc tội....................................................................... 82

3.2.1.

Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật ................................ 82

3.2.2.

Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của người bị buộc tội ..................................................... 85

KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Tiếng Việt


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CHXHCN

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

CQĐT

Cơ quan điều tra

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Toà án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1. Số lượng người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến năm 2015

56

Bảng 3.2. Số lượng bị can VKS huỷ quyết định khởi tố trên địa
bàn thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến năm 2015

59

Bảng 3.3. Số lượng bị can CQĐT đình chỉ điều tra vì không phạm
tội/ Số bị can VKS đình chỉ vì không có tội/Số bị cáo
Toà án sơ thẩm tuyên không phạm tội

60



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 được Quốc hội Khoá
XIII thông qua ngày 28/11/2013 và đã có hiệu lực ngày 01/01/2014. Có thể
nói Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân, là sự kết tinh của
tinh thần dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ đổi mới. Một trong những
dấu son đáng chú ý nhất của Hiến pháp năm 2013 là việc đã ghi nhận quyền
con người, cùng với quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Có thể nói,
quyền con người và bảo đảm quyền con người luôn là một trong những vấn
đề được Thế giới nói chung và nhà nước Việt Nam nói riêng quan tâm hoàn
thiện, đặc biệt là quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự.
Hoạt động tố tụng hình sự là nơi quyền lực nhà nước được thể hiện rõ
ràng nhất thông qua các biện pháp cưỡng chế hình sự; cũng chính là nơi
quyền con người dễ bị xâm hại nhất. Vì lý do đó, Hiến pháp năm 2013 đã quy
định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật” [37, Điều 31]. Trong pháp luật hình sự quốc tế, thuật ngữ người bị
buộc tội là một khái niệm đã tồn tại từ lâu, nhưng đây là lần đầu tiên thuật
ngữ này được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam. Nói như vậy không có
nghĩa là thuật ngữ người bị buộc tội là hoàn toàn mới trong pháp luật tố tụng
hình sự nước ta, bởi nội hàm của thuật ngữ này đã được thể hiện rất nhiều qua
các chế định về người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, vẫn
chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu một cách cụ thể,
đầy đủ và chính xác thuật ngữ người bị buộc tội, làm rõ người bị buộc tội là
những chủ thể nào, quyền và nghĩa vụ của họ ra sao.

1



Thêm vào đó, trong quá trình hội nhập, một trong những định hướng
quan trọng của các Nghị quyết của Đảng trong giai đoạn hiện nay là một mặt
phải kế thừa truyền thống, giữ vững và bảo vệ chủ quyền quốc gia đồng thời
phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là. “Về quyền và nghĩa vụ pháp lý
của người bị buộc tội, luật pháp quốc tế tồn tại những chuẩn mực cơ bản liên
quan đến việc bảo vệ quyền con người như: các quyền an toàn thân thể, danh
dự, nhân phẩm… của cá nhân khi họ bị tước tự do (bị áp dụng biện pháp
ngăn chặn); quyền được xét xử công bằng. Về cơ bản, các quyền này được
ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966)
(ICCPR – mà Việt Nam là thành viên từ năm 1982), trong các Bình luận
chung của cơ quan giám sát Công ước này, cũng như trong một số hướng
dẫn, nguyên tắc đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận liên quan.” [9, tr.12].
Việc bảo vệ quyền của những người yếu thế trong tố tụng hình sự là xu
hướng phổ biến của thế giới.
Để đáp ứng nhu cầu cải cách nền tư pháp, đáp ứng xu hướng bảo vệ
quyền con người trong luật pháp quốc tế, cần có một nghiên cứu về quyền và
nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy
nhiên, có thể thấy chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
và sâu sắc về người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam với quy mô là
một đề tài độc lập, chuyên biệt. Vậy, việc nghiên cứu chế định người bị buộc
tội để làm rõ những vấn đề trên có ý nghĩa quan trọng và cần thiết. Chính vì lý
do đó, tôi chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố
Hà Nội)” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ luật học của mình – với hy vọng có
thể góp phần làm sáng tỏ hơn chế định người bị buộc tội, góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng nhu cầu cải cách
tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ đổi mới của đất nước.


2


2. Tình hình nghiên cứu
Chế định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội là một chế
định quan trọng, có liên quan chặt chẽ và mật thiết với nhiều chế định khác
trong luật tố tụng hình sự.
Trước hết, chế định này được ghi nhận trong hầu hết trong luật tố tụng
hình sự của các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, từ khi BLTTHS năm 1988 ra
đời, nội hàm của chế định này cũng được ghi nhận một cách khá đầy đủ thông
qua các chế định quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
các trường hợp bắt người.
Người bị buộc tội được coi là chủ thể chính trong tố tụng hình sự, là
những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ rất dễ bị xâm phạm bởi
các chủ thể quyền lực nhà nước. Chính vì vậy nên đã có rất nhiều công trình
khoa học quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền của những người này. Có thể kể
đến: cuốn sách Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 1999 của Luật sư, PGS.TS Phạm Hồng Hải [17]; cuốn
sách Về bảo đảm quyền, lợi ích hợp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 của TS. Trần
Quang Tiệp [46].
Bên cạnh đó, có rất nhiều khía cạnh có liên quan đến quyền của người
bị buộc tội được đề cập đến trong các công trình khoa học khác như: Luận
văn thạc sĩ luật học Địa vị pháp lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự của Th.S Đoàn Thị Phương Thảo, 2012 [43]; Luận án tiến sĩ
luật học Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự Việt Nam của T.S Lại Văn Trình, 2010 [48]; Luận văn tiến sĩ luật
học Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam của T.S Nguyễn
Quang Hiền, 2008 [19]; Luận văn tiến sĩ luật học Đảm bảo quyền con người trong
hoạt động tư pháp ở Việt Nam của T.S Nguyễn Huy Hoàng, 2005 [21]; Đề tài


3


nghiên cứu khoa học Cấp ĐHQG Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ
quyền con người, chủ trì PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, 2011 [9]
Ngoài ra, vấn đề quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội còn
được đề cập ở các mức độ khác nhau trong các bài viết của một số tác giả
khác như: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự của
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật
(2007) [8]; Bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội của tác giả Nguyễn
Quang Hiền, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 1/2010 [20]; Quyền kháng
cáo của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam - thực trạng và các
giải pháp đảm bảo của tác giả Hồ Sỹ Sơn, Tạp chí Toà án nhân dân, số
6/2010 [40]; Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong pháp luật
tố tụng hình sự quốc tế của tác giả Lại Văn Trình, tạp chí Toà án nhân dân, số
11/2010 [47]; Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự và một số đề xuất về
hoàn thiện pháp luật của tác giả Hồ Sỹ Sơn, tạp chí Luật học, số 01/2011 [41];
Bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự của tác giả Đinh
Thế Hưng, Tạp chí Nghề Luật, Số 6/2010 [23]; Trực tiếp ghi nhận quyền im
lặng cho người bị buộc tội trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Lê
Huỳnh Tấn Duy, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 3/2015 [11]; Bảo đảm quyền con
người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện Kiểm
sát của tác giả Nguyễn Hữu Hậu, Tạp chí Kiểm sát, số 12/2015 [18]…
Tiếp đến, chế định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội còn
được đề cập, phân tích trong một số Giáo trình và sách tham khảo như: Giáo
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, 2001 do TS.
Nguyễn Ngọc Chí chủ biên [7]; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, 2010 của Trường Đại học Luật Hà Nội do PSG.TS
Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên [50]; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Học viện cảnh sát nhân dân, 2005 của Bộ môn pháp luật, Học viện

4


Cảnh sát nhân dân do TS. Khổng Văn Hà chủ biên [22]; Sách chuyên khảo
Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, Nxb. ĐHQG
TP.HCM, 2010 do TS Võ Thị Kim Oanh chủ biên [29]...
Tuy nhiên hiện nay các công trình nghiên cứu chỉ chủ yếu chú trọng đến
vấn đề quyền bào chữa hoặc nghiên cứu quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị
cáo, địa vị pháp lý của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà ít quan tâm đến toàn
bộ người bị buộc tội; đặc biệt là chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách tổng thể cả quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội ở cấp độ luận
văn thạc sĩ. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý luận – thực tiễn xung quanh chế định
quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội cũng đòi hỏi cần phải được tiếp
tục nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn: Kế thừa một cách có chọn lọc kết
quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố, tác giả hướng
tới mục đích muốn làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về
quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội theo BLTTHS hiện hành, chỉ
ra những bất cấp còn tồn tại khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị
buộc tội ở nước ta hiện nay. Qua đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng trong thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo phát huy tối đa
tính dân chủ, chính xác, khách quan, toàn diện trong hoạt động TTHS, đảm
bảo xu hướng bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong luật pháp quốc tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: Với mục đích nghiên cứu như
trên, tác giả tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
a. Làm rõ khái niệm người bị buộc tội, khái niệm quyền và nghĩa vụ
pháp lý của người bị buộc tội.

b. Tìm hiểu sơ lược các quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội theo
luật pháp quốc tế.

5


c. Tìm hiểu sơ lược quy định pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ về
quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội.
d. Đi sâu vào phân tích các quy định của BLTTHS Việt Nam hiện hành
về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội.
e. Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
người bị buộc tội trên địa bàn thành phố Hà Nội trong khoảng thời gian
2011 – 2015.
f. Đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo quyền của người bị
buộc tội trong tố tụng hình sự; hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự; nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn có đối tượng nghiên
cứu là quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trên địa bàn thành phố
Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2011 – 2015. Người bị buộc tội trong
luận văn là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu thực tiễn
pháp luật và áp dụng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong khoảng thời gian 2011 – 2015. Luận văn
nghiên cứu là các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong thời kỳ từ năm
1945 – 1988, thời kỳ pháp luật tố tụng hình sự năm 1988 – 2003, thời kỳ pháp
luật tố tụng hình sự năm 2003 đến nay và pháp luật tố tụng hình sự năm 2015.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật, về xây dựng nhà nước pháp

quyền, về cải cách tư pháp và quyền con người.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là tác giả nghiên cứu đề tài dựa trên các số

6


liệu liên quan đến quá trình điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử các cơ quan tiến
hành tố tụng tại thành phố Hà Nội. Ngoài ra, tác giả còn tự nghiên cứu các hồ
sơ vụ án để làm cơ sở đề xuất các giải pháp.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phân tích, tổng hợp, lịch
sử, so sánh, thống kê... Ngoài ra tác giả cũng khảo sát thực tiễn tố tụng và
tham khảo ý kiến chuyên gia để làm rõ các vấn đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận về người bị buộc
tội, quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam hiện hành và qua các thời kỳ.
Luận văn đã đi vào phân tích quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị
buộc tội theo quy định BLTTHS Việt Nam hiện hành.
Luận văn đã chỉ ra được các vấn đề, những khó khăn, vướng mắc trong
việc thực thi pháp luật bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong pháp luật tố
tụng hình sự hiện hành.
Luận văn đã chỉ ra những điểm mới của BLTTHS Việt Nam năm 2015
về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội.
Luận văn đã đưa ra được các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật, nâng cao chất lượng áp dụng các quy định của BLTTHS, góp phần
bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học cấp độ thạc sĩ về quyền và
nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự. Luận văn đi sâu
nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội;

phân tích thực trạng, chỉ ra khó khăn và đề xuất các giải pháp để nâng cao
hiệu quả của việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội.
Luận văn đã đóng góp một phần vào việc giải quyết về mặt khoa học
các khái niệm về người bị buộc tội, quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội.

7


Đồng thời, luận văn là một tài liệu có giá trị tham khảo cho những người làm
công tác nghiên cứu, trong hoạt động lập pháp cũng như thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu còn tham
khảo, Luận văn gồm 03 chương với 8 mục.
Chương 1: Một số vấn đề chung về quyền và nghĩa vụ pháp lý của
người bị buộc tội trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội.
Chương 3: Những khó khăn, hạn chế và một số kiến nghị nhằm nâng
cao việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người
bị buộc tội.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ PHÁP LÝ
CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa
vụ pháp lý của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự

1.1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
trong tố tụng hình sự
Chúng ta đang trên con đường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Một nhà nước mà quyền
con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và luôn được Nhà
nước bảo vệ. Có thể nói, quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả
xâm phạm, nó tồn tại trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong
lĩnh vực tố tụng hình sự - nơi mà quyền con người dễ bị xâm hại nhất. Chính vì
lý do đó, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng và ghi nhận các quyền và nghĩa vụ
của những người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các BLTTHS năm
1988, BLTTHS năm 2003 và mới đây nhất là BLTTHS năm 2015.
Trước hết, theo nghĩa phổ thông, quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội
công nhận cho được hưởng, được làm của mỗi chủ thể. Theo nghĩa pháp lý,
quyền là khả năng được tự do lựa chọn hành động, khả năng này do Hiến pháp
và pháp luật ghi nhận. Chủ thể có quyền thực hiện hoặc không thực hiện,
không có giá trị bắt buộc. Còn nghĩa vụ là điều mà pháp luật hoặc xã hội bắt
buộc mỗi chủ thể phải làm, nghĩa vụ không phải là khả năng lựa chọn mà là sự
bắt buộc thực hiện. Các quyền và nghĩa vụ này được pháp luật bảo vệ cũng như
có các biện pháp cưỡng chế nếu chủ thể pháp luật không thực hiện hoặc vi
phạm. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 đã ghi nhận: “Quyền
công dân không tách rời nghĩa vụ công dân” [37, Điều 15]. Tổng hợp các
quyền và nghĩa vụ pháp lý tạo nên địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật.

9


Trước khi đưa ra khái niệm cụ thể về quyền và nghĩa vụ pháp lý của
người bị buộc tội, ta cũng cần phải hiểu thế nào là người bị buộc tội. Thuật
ngữ người bị buộc tội lần đầu tiên xuất hiện trong Hiến pháp nước CHXHCN
Việt Nam năm 2013: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi

được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật” [37, Điều 31]. Pháp luật tố tụng hình sự các nước cũng có
nhiều cách hiểu khác nhau về phạm vi người bị buộc tội.
Như pháp luật TTHS Đan Mạch, ở Đan Mạch, ngay sau khi một tội
phạm được thực hiện, cơ quan điều tra có trách nhiệm phải tiến hành các hoạt
động điều tra ban đầu. “Việc điều tra hoàn tất, khi tổng hợp được những chứng
cứ ban đầu để xác định một người tình nghi đã thực hiện tội phạm, thì các cơ
quan điều tra và công tối quyết định buộc tội người này.” [29; tr73]. Trong
TTHS Đan Mạch tồn tại khái niệm người bị tình nghi trong vụ án để dành cho
những đối tượng trước khi bị khởi tố. Có thể thấy, việc buộc tội trong TTHS
Đan Mạch được tiến hành cùng với việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tức là chỉ
có bị can, bị cáo mới là người bị buộc tội theo luật TTHS Đan Mạch.
Pháp luật tố tụng Liên bang Nga có những đặc điểm gần với pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam nhất. Qua việc nghiên cứu BLTTHS của Liên bang
Nga tại Mục 7 quy định về các chủ thể tham gia tố tụng hình sự bên bào chữa
chúng ta thấy quy định về người bị tình nghi và bị can, bị cáo. Theo những
quy định tại Luật này thì người bị tình nghi được chỉ dẫn ra là tương đối rộng,
bao gồm cả người bị bắt và người bị tạm giữ trong pháp luật Việt Nam. Luật
TTHS Liên Bang Nga cũng cho nhóm người này có rất nhiều quyền như
quyền từ chối khai báo, quyền bào chữa, quyền gặp gỡ riêng và bí mật với
người bào chữa. Có thể thấy, người bị buộc tội trong TTHS Liên bang Nga
bao gồm cả những người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Ở Việt Nam thuật ngữ người bị buộc tội là thuật ngữ mới, chưa có

10


trong BLTTHS năm 2003. BLTTHS 2003 cũng chỉ mới chỉ ghi nhận quyền
và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Điều này có thể cho rằng, theo BLTTHS 2003, người bị buộc tội bao gồm

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, trong thực tế, khi một người bị
bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo lệnh truy nã thì có nghĩa
là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã có các căn cứ để
buộc tội những người này, đồng thời họ cũng là những người yếu thế, dễ bị
tổn thương trong TTHS. Chính vì vậy, cần phải coi cả người bị bắt là một
trong những loại người bị buộc tội. Thêm vào đó, trong BLTTHS năm 2015,
thuật ngữ người bị buộc tội đã được diễn giải như sau: “Người bị buộc
tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” [38,Điều 4]. Người
bị buộc tội là người bị tình nghi phạm tội đang trong quá trình giải quyết vụ
án, đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cưỡng chế của
tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách quan vụ án. Những người này
có thể là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và theo qui định của
pháp luật họ chưa bị coi là người phạm tội mà mới chỉ là người bị tình nghi
phạm tội. Vậy để làm rõ khái niệm người bị buộc tội, trước hết, ta cần đi vào
tìm hiểu các khái niệm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
- Người bị bắt: Cả BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003 đều
không coi người bị bắt là người tham gia tố tụng. Chính bởi thế, cả hai bộ luật
này đểu không có khái niệm người bị bắt mà chỉ liệt kê những trường hợp bắt
người, đó là: BLTTHS năm 1988 quy định người bị bắt trong những trường
hợp sau: người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; BLTTHS năm 2003 quy định
người bị bắt trong những trường hợp sau: người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết
định truy nã.

11


Đến khi BLTTHS năm 2015 ra đời, đã coi người bị bắt là một trong
những chủ thể người tham gia tố tụng (khoản 4 Điều 55). BLTTHS năm 2015

cũng đã liệt kê những trường hợp người bị bắt là: người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã và bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Tuy nhiên, cả BLTTHS năm 2015 cũng chưa chính thức có sự định
nghĩa thuật ngữ người bị bắt, có chăng cũng chỉ là định nghĩa theo phương
pháp liệt kê, chưa thực sự có một định nghĩa khoa học, đầy đủ nội hàm của
khái niệm người bị bắt. Hiện nay trong các sách báo, tạp chí hay các công
trình nghiên cứu khoa học cũng rất ít đưa ra định nghĩa khoa học về người bị
bắt, do vậy cần có sự định nghĩa cụ thể hơn về người bị bắt để làm rõ hơn nội
hàm của khái niệm này. Cụ thể, tác giả xin đưa ra định nghĩa về người bị bắt
như sau: Người bị bắt trong tố tụng hình sự là người bị tình nghi là tội phạm
và với họ cần áp dụng biện pháp ngăn chặn và cách ly ngay lập tức để họ
không thể tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn.
- Người bị tạm giữ: BLTTHS năm 1988 lần đầu tiên đưa ra định
nghĩa “Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang và đối với họ đã có quyết định tạm giữ, nhưng chưa bị
khởi tố” [34, Điều 38]. BLTTHS năm 1988 là văn bản pháp lý đầu tiên định
nghĩa thế nào là“người bị tạm giữ”. Trước đó, nhà làm luật không hề đề cập
đến việc định nghĩa thế nào là người bị tạm giữ mặc dù trong các văn bản
pháp luật vẫn đề cập đến vấn đề này. Kế thừa và phát triển những quy định
của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã quy định: “Người bị tạm
giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị
bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với
họ đã có quyết định tạm giữ” [36, Điều 48].
Đến BLTTHS năm 2015 tiếp tục quy định: “Người bị tạm giữ là người

12


bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang,

bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với
họ đã có quyết định tạm giữ” [38, Điều 59]. So với BLTTHS năm 2003, khái
niệm này về cơ bản không có gì khác, có chăng chỉ là khác về cách phân loại
người bị bắt và người bị giữ.
Ngoài ra, theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015,
người bị tạm giữ còn được định nghĩa là người đang bị quản lý tại cơ sở giam
giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của BLTTHS
(khoản 1, Điều 3).
Tuy nhiên, các khái niệm nêu trên về người bị tạm giữ cũng chỉ được
định nghĩa theo phương pháp liệt kê, chưa có định nghĩa khoa học mang đầy
đủ nội hàm vấn đề. Cụ thể là: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự là người
bị tình nghi là tội phạm và với họ cần cách ly với xã hội trong một thời gian
cần thiết nhằm ngăn chặn việc họ tiếp tục phạm tội, cản trở điều tra và xác
định sự liên quan của người đó đối với tội phạm.
- Bị can: Thuật ngữ bị can được sử dụng lần đầu tiên trong Sắc lệnh số
13 ngày 21/0/1946 về tổ chức tòa án và các ngạch thẩm phán. Tuy nhiên trong
Sắc lệnh chỉ đề cập đến bị can như là can phạm hay người bị Tòa án xét xử
chứ không hề định nghĩa rõ ràng người như thế nào thì được gọi là bị can.
Phải đến khi BLTTHS năm 1988 ra đời, thuật ngữ pháp lý về bị can mới
chính thức được ghi nhận. Theo quy định của BLTTHS năm 1988: “Bị can là
người đã bị khởi tố về hình sự” [34, Điều 34]. Kế thừa BLTTHS năm 1988,
BLTTHS năm 2003 tiếp tục ghi nhận: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình
sự” [36, Điều 49].
Khái niệm bị can trong BLTTHS năm 2015 có điểm mới so với các Bộ
luật trước đây, đó là việc ghi nhận bị can là pháp nhân như sau: “Bị can là
người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là

13



pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân theo quy định của Bộ luật này” [38, Điều 60]. Như vậy là theo những
định nghĩa này của Bộ luật thì một pháp nhân có thể bị khởi tố về hình sự khi
có đủ căn cứ xác định pháp nhân đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Một người
được coi là bị can khi và chỉ khi người đó bị khởi tố hình sự.
- Bị cáo: Thuật ngữ bị cáo là thuật ngữ đã xuất hiện từ rất lâu, ngay từ
khi nhà nước CHXHCN Việt Nam ra đời. Trong Sắc lệnh số 33C do Chủ tịch
Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành ngày 13/9/1945 đã
chính thức đề cập tới thuật ngữ bị cáo, theo đó tại Điều V quy định: “Bị cáo
có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho”. Tuy nhiên phải
đến năm 1974 trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự
kèm theo Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của TAND tối cao mới đưa
ra định nghĩa pháp lý về bị cáo: “Bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình
sự trước tòa án nhân dân”. Sau đó, trong BLTTHS năm 1988 và BLTTHS
năm 2003 định nghĩa bị cáo đã được ghi nhận, theo đó cả hai bộ luật đều định
nghĩa “Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”.
Tại BLTTHS năm 2015, tương tự như thuật ngữ bị can, với việc bổ
sung thêm trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân nên khái niệm bị cáo được
điều chỉnh như sau: “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện
thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ
luật này” [38, Điều 61].
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể đi đến khái niệm:
Người bị buộc tội là người bị các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ căn
cứ nghi ngờ họ thực hiện hành vi phạm tội và với họ đã bị bắt, tạm giữ, khởi
tố bị can hoặc bị Toà án đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội là tổng hợp các quyền

14



và nghĩa vụ của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được Nhà nước
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Đó là các việc mà người bị buộc tội
phải làm hoặc được làm và những việc mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải
làm với họ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự.
1.1.2. Cơ sở của việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người
bị buộc tội trong tố tụng hình sự
Cơ sở của việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc
tội trong tố tụng hình sự bắt nguồn từ việc bảo đảm thực hiện quyền con
người. Hiện nay, quyền con người là một trong những vấn đề được quốc tế
quan tâm và bảo vệ. Trong mỗi quốc gia, quyền con người lại có những giới
hạn và được bảo đảm theo những cách khác nhau. Trong nhà nước CHXHCN
Việt Nam, quyền con người luôn được nhà nước tôn trọng và bảo vệ. Không
những vậy, không chỉ quyền con người, nhà nước ta đã và đang hoàn thiện
quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Quyền và
nghĩa vụ của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng được quy
định dựa trên những cơ sở của Hiến pháp và pháp luật về quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân.
Việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội còn dựa
trên những quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người đã được cả thế giới công
nhận. Đó là sự tự do, sự công bằng, sự bình đẳng cho tất cả mọi người, ai
cũng có quyền được đối xử trong tình bằng hữu như tại Điều 1, Tuyên ngôn
thế giới về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người sinh ra tự do và
bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với
nhau trong tình bác ái”.
Việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội còn có cơ

15



sở là các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS như: bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự; bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật; bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể; bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân; Bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân; bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự; tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được bảo đảm; bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của
Tòa án; bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự; bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
Cuối cùng việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc
tội còn bắt nguồn từ yêu cầu trong hoạt động tố tụng hình sự, phải có sự quy
định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội để làm cơ sở bảo vệ
quyền của người bị buộc tội, tránh sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng. Đồng thời việc quy định rõ quyền và nghĩa vụ
của người bị buộc tội sẽ làm căn cứ để công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử được thuận lợi, kịp thời xử lý mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người
bị buộc tội trong tố tụng hình sự
Ý nghĩa về mặt lý luận: Chế định người bị buộc tội là chế định xuyên
suốt toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, chính vì vậy, việc quy định quyền và
nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận
bởi nó sẽ làm cơ sở cho việc nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
những người này. Từ đó có thể đánh giá, nhìn nhận những điểm tích cực,
những hạn chế của các quy định pháp luật. Căn cứ vào những đánh giá, nhìn


16


nhận đó, các nhà làm luật có thể tìm ra các biện pháp để hoàn thiện pháp luật,
áp dụng pháp luật, đảm bảo tính ứng dụng trong thực tiễn của pháp luật.
Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý
của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi
trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc
khi quyền của những người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không
được bảo đảm. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước mà
còn gây ra tâm lý không tin tưởng vào pháp luật của người dân.
Thêm vào đó, việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong thực tế còn là việc đảm bảo cam kết về thực
thi quyền con người theo các Điều ước Quốc tế hiện nay.
Không chỉ có vậy, việc xác lập quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị
buộc tội còn tránh sự xâm hại từ phía các cơ quan tố tụng, góp phần định
hướng và chỉ đạo cho những người thực thi pháp luật, tránh những sai sót, vi
phạm quyền con người, đảm bảo sự khách quan, thận trọng trong việc nhận
thức vụ án hình sự một cách khoa học, không làm oan người vô tội, không
làm bỏ lọt tội phạm.
Ngoài ra việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
còn có ý nghĩa trong ngăn chặn kịp thời tội phạm, phòng ngừa tội phạm. Đây
là một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tố tụng hình sự, bởi vì người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tuy chưa bị coi là có tội nhưng họ có thể là
người đã thực hiện hành vi phạm tội, nếu không có những biện pháp ngăn
chặn thì rất có thể hậu quả tiêu cực cho xã hội vẫn sẽ tiếp tục tiếp diễn. Việc
ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm còn có ý nghĩa tạo lòng tin trong nhân dân
về một Nhà nước pháp quyền, nơi pháp luật luôn tồn tại và công minh.
Ý nghĩa chính trị xã hội: Việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý
của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự có ý nghĩa trong việc bảo đảm


17


quyền con người. Quyền con người được thể hiện chủ yếu thông qua việc nhà
nước quy định các quyền này trong Hiến pháp và pháp luật, vì vậy, hoạt động
lập pháp của Nhà nước có tính quyết định trong việc bảo đảm thực hiện quyền
con người. Nhất là trong lĩnh vực tố tụng hình sự, nơi mà quyền con người dễ
bị xâm phạm nhất, việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội có
ý nghĩa vô cùng quan trong bởi quy định quyền của người bị buộc tội cũng
chính là quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, tạo ra sự bình đẳng trong quá trình tố tụng.
Ý nghĩa pháp lý: Việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người
bị buộc tội trong tố tụng hình sự là cơ sở cho hoạt động tố tụng đúng pháp
luật; đảm bảo hoạt động tố tụng nhanh chóng, khách quan. Quy định các thủ
tục tố tụng hình sự không chỉ để xác định chính xác, khách quan sự thật vụ án,
mà còn đảm bảo cho người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ các quyền,
cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ. Việc quy
định đầy đủ, chặt chẽ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội sẽ
hạn chế đến mức thấp nhất việc lạm dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp
khẩn cấp tạm thời đối với người bị buộc tội.
1.2. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong Luật
pháp quốc tế
Luật pháp quốc tế cũng có những chuẩn mực cơ bản liên quan đến
quyền của người bị buộc tội. Đó là: Quyền tự do và an toàn cá nhân, không
bị bắt, giam, giữ trái pháp luật, không bị tra tấn, dùng nhục hình trong tố
tụng hình sự; Quyền được thông báo kịp thời lý do bị buộc tội và chứng cứ
chống lại họ bằng ngôn ngữ mà họ biết; Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa; Quyền thu thập chứng cứ, quyền kiểm tra chứng cứ và đối
chất với nhân chứng chống lại mình; Quyền được có người phiên dịch miễn

phí v.v… “Về cơ bản, các quyền này được ghi nhận trong Công ước quốc tế

18


×