Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHUYỂN DỊCH cơ cấu NGÀNH TRONG CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa KHU vực MIỀN núi TỈNH THANH hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.55 KB, 94 trang )

2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới là một trong
những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Việc
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm phát huy
tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, thu hẹp và
tiến tới xoá đói, giảm nghèo. Cơ cấu kinh tế bao gồm: Cơ cấu ngành, cơ cấu
thành phần và cơ cấu vùng kinh tế. Trong đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành được coi là nội dung cơ bản, quan trọng hàng đầu trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khu vực miền núi Thanh Hoá có vị trí, vai trò rất quan trọng trong tiến
trình phát triển kinh tế của tỉnh. Với dân số 854,3 nghìn người, diện tích gần
80.000 km2, miền núi Thanh Hoá là địa bàn chiến lược cả về kinh tế - xã hội và
quốc phòng - an ninh của cả nước nói chung, của tỉnh Thanh nói riêng.
Những năm vừa qua, nhờ có các chính sách hỗ trợ phát triển, khu vực
miền núi Thanh Hoá nhận được sự quan tâm thường xuyên của Tỉnh và Trung
ương. Nhiều chính sách, chương trình đã được thực hiện nhằm đưa miền núi
Thanh Hoá phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các
dân tộc miền núi. Về cơ bản, kinh tế - xã hội trong khu vực có sự thay đổi tích
cực trên tất cả các lĩnh vực: Hệ thống chính trị ổn định và ngày càng được hoàn
thiện; kinh tế có bước phát triển khá; văn hoá, giáo dục, y tế đáp ứng được yêu
cầu phát triển; an ninh – quốc phòng được giữ vững.
Tuy nhiên, so với các khu vực khác trong tỉnh, sự phát triển của khu
vực miền núi Thanh Hoá vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của khu
vực. Cho đến nay cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế ngành nói riêng của khu
vực còn chưa hợp lý. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế vẫn trong tình trạng thấp kém;



3
sản xuất còn mang tính tự cung, tự cấp; chưa có quy hoạch trong khai thác tài nguyên
thiên nhiên; tình trạng du canh du cư vẫn còn xảy ra; nghèo đói, thiếu nước, mù chữ,
v.v... vẫn tồn tại, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Vì vậy, để kinh tế các huyện khu vực miền núi Thanh Hoá phát triển
phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong đó, vấn đề có tính chất
quyết định là xây dựng được một cơ cấu kinh tế ngành phù hợp. Xuất phát từ
lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong
công nghiệp hoá, hiện đại hoá khu vực miền núi Thanh Hoá hiện nay” làm
đối tượng nghiên cứu của luận văn Thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã có nhiều công trình được công
bố trên các góc độ tiếp cận khác nhau:
* Góc độ chung có các công trình
Đề tài, “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam - Thông tin
chung” của PGS.TS Bùi Tất Thắng, nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm
2009. Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành, những tiêu chí đánh giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, đề
tài đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời
kỳ thực hiện chính sách đổi mới kinh tế. Trong đó, bao gồm cả quá trình
chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành và trong nội bộ các ngành. Phân tích, khái
quát tác động của những nhân tố mới cả trên thế giới và trong nước đối với xu
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới.
Bài báo,“Bàn về cải tiến cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam” của PGS.TS
Ngô Doãn Vịnh - Viện Chiến lược phát triển, tạp chí Kinh tế và Dự báo số
tháng 1 – 2010. Bài báo đưa ra quan niệm về cải tiến cơ cấu kinh tế, theo đó cải
tiến cơ cấu kinh tế là một quá trình nhằm phát huy được lợi thế so sánh của đất
nước, tạo ra khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả lớn và đảm bảo yêu cầu



4

bền vững cho toàn bộ quá trình phát triển. Chủ thể chủ yếu và trực tiếp của việc
cải tiến cơ cấu kinh tế là nhà nước và doanh nghiệp. Muốn cải tiến thành công
thì nhà nước và doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị chu đáo. Tác giả cũng chỉ rõ
tình trạng cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong hệ thống kinh tế thế giới. Đồng
thời, khái quát những lợi thế so sánh chủ yếu và khả năng cải tiến cơ cấu kinh tế
của Việt Nam.
Bài báo “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - thực trạng và những vấn đề
đặt ra” của TS Trần Anh Phương, Tạp chí Cộng sản, số 1(169), năm 2009.
Bài báo khẳng định chuyển dịch cơ cấu kinh tế là con đường nhanh chóng
đưa nước ta ra khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển. Khái quát nội dung
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khái quát lại toàn bộ kết quả chuyển dịch cơ cấu
kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới. Đồng thời, tác giả chỉ rõ những mâu thuẫn
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và kiến nghị năm giải pháp đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước trong thời kỳ mới.
Bài báo,“Cơ cấu ngành kinh tế: mục tiêu, tiến độ và cảnh báo”, của
tác giả Đào Ngọc Lâm, Tạp chí Cộng sản, số 16 năm 2005. Trong bài báo, tác
giả đã tập trung nghiên cứu về cơ cấu kinh tế ngành, quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành thời kỳ đổi mới. Khái quát tính tất yếu, quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những mục tiêu đặt
ra trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và chỉ tiêu cụ thể đối với các ngành
kinh tế. Đồng thời, làm nổi bật mối quan hệ tương hỗ giữa những mục tiêu đặt
ra, tiến độ của việc hoàn thành các mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế. Phân tích khả năng đạt được mục tiêu trong thực tiễn. Chỉ ra những
vấn đề cảnh báo đối với các ngành trong quá trình chuyển dịch chung, chỉ rõ
những yêu cầu đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nhằm đạt
được mục tiêu.



5
* Dưới góc độ kinh nghiệm của các địa phương có các công trình
Bài báo, “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Thái Nguyên theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của tác giả Phan Ngọc Mai Hương, tạp
chí Kinh tế và Dự báo số 5, năm 2006. Bài báo đã tập trung trình bày về thực
trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, phân tích những ưu, khuyết điểm của
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ sở
phân tích thực trạng, tác giả đưa ra bốn quan điểm có tính chất định hướng
quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Thái Nguyên. Các định
hướng đề cập đến cơ sở và những yêu cầu thực hiện nhằm đảm bảo quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đúng hướng, đạt được những mục tiêu đã
định. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp chủ yếu để thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm hướng tới việc thực hiện thắng
lợi mục tiêu đặt ra đến 2020.
Bài báo,“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Gia
Lai” của tác giả Hải Thu, tạp chí Ngoại thương, số 34 năm 2004. Bài báo chỉ
rõ, Gia Lai là một tỉnh miền núi, có điều kiện tự nhiên, khí hậu rất thuận lợi
cho việc phát triển nông, lâm nghiệp. Đây cũng là lĩnh vực chiếm tỷ trọng chủ
yếu trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Trên cơ sở khái quát thành tựu, hạn chế
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tác giả
khẳng định vai trò của ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn Gia Lai
trong việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Qua đó đã làm
thay đổi tập quán canh tác lạc hậu của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc
thiểu số; chuyển từ sản xuất lúa rẫy theo phương thức phát đốt, chọc tỉa, sử
dụng các giống truyền thống năng suất thấp sang phương thức đầu tư thâm
canh các giống cây nông nghiệp, công nghiệp, cây ăn quả có năng suất, giá trị
kinh tế cao. Một số vùng sản xuất tập trung, chuyên canh quy mô lớn đã hình
thành và phát triển. Số lượng đàn gia súc, gia cầm cũng ngày một tăng. Trên



6
cơ sở đó, tác giả chỉ rõ những định hướng nhằm tiếp tục đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn mới: Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ khuyến nông; tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, sử
dụng giống mới công nghệ cao, các giống lai tạo chất lượng tốt; tập trung huy
động mọi nguồn vốn để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông
nghiệp; thực hiện các chương trình, dự án chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng
vật nuôi, các dự án phát triển vùng nguyên liệu tập trung gắn với chế biến và
tiêu thụ sản phẩm.
* Đối với khu vực miền núi Thanh Hoá có các công trình
Đề tài, “Nghiên cứu, đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Thanh Hoá thời kỳ
2001 – 2004” - Đề tài khoa học của Cục thống kê Thanh Hoá năm 2005. Trên
cơ sở số liệu thể hiện mức độ hoàn thành chỉ tiêu kinh tế - xã hội, đề tài tập
trung nghiên cứu làm rõ tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội trên địa
bàn tỉnh Thanh Hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 2001
- 2004. Trong đó, tập trung vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành,
bao gồm cả sự chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành và chuyển dịch trong nội
bộ ngành. Đề tài tập trung phân tích rõ những ưu điểm, hạn chế của quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Trên cơ sở đó chỉ ra những nguyên nhân
và kiến nghị giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đề tài, "Nghiên cứu thực trạng kinh tế - xã hội 11 huyện miền núi
Thanh Hoá"- Cục Thống kê Thanh Hoá năm 2010. Đề tài đã tập trung làm
rõ thực trạng kinh tế - xã hội khu vực miền núi Thanh Hoá, chỉ rõ những mặt
đã làm được và những yếu kém, tồn tại. Đồng thời, phân tích, luận giải
nguyên nhân của những thành công và hạn chế trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của khu vực. Kiến nghị các giải pháp làm cơ sở cho Uỷ ban


7


nhân dân tỉnh hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng
miền núi Thanh Hoá đến năm 2030.
Bài báo, “Đảng bộ Thanh Hóa lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế”
của tác giả Mai Văn Ninh, Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 7 năm 2005. Bài báo
khái quát quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa trong các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội. Khẳng định tính tất yếu của quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế tỉnh Thanh Hóa nhằm phát huy lợi thế, tạo bước phát triển
mạnh mẽ về kinh tế - xã hội trong thời gian tới. Đồng thời, chỉ rõ một trong
những nhân tố đảm bảo quá trình chuyển dịch diễn ra đúng hướng là phải giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Bài báo khái quát những thành
tựu, hạn chế trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ
tỉnh Thanh Hóa. Từ đó, chỉ ra những phương hướng nhằm giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Bài báo, “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Thanh
Hóa” của tác giả Lê Khả Đấu, tạp chí Khoa học Công nghệ Thanh Hóa, Số 3
năm 2004. Bài báo trình bày khái quát kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh Thanh Hoá từ năm 1996 đến năm 2003. Phân tích những thành công
cũng như hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Luận giải rõ nguyên nhân của những thành công và
hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trên cơ sở đó, tác giả đã
đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của tỉnh Thanh Hoá.
Các công trình nghiên cứu nói trên đều đã đề cập đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo nhiều góc độ, phạm vi khác nhau. Tuy
nhiên, vấn đề: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong công nghiệp hoá,
hiện đại hoá khu vực miền núi Thanh Hoá hiện nay” vẫn chưa có đề tài nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện dưới góc độ kinh tế chính trị.



8
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích:
Nhằm luận giải cơ sở khoa học của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành khu vực miền núi Thanh Hoá. Trên cơ sở đó đề xuất những quan
điểm, giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành khu vực miền núi Thanh Hoá trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành khu vực miền núi Thanh Hoá.
Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu vực miền
núi Thanh Hoá những năm qua. Chỉ rõ những nguyên nhân hạn chế và những
mâu thuẫn đặt ra trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu vực miền núi Thanh Hoá.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu vực
miền núi Thanh Hoá dưới góc độ kinh tế chính trị học
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu vực
miền núi Thanh Hoá thông qua khảo sát từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, các văn
kiện của Đảng uỷ, uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá. Ngoài ra, quá trình
nghiên cứu còn sử dụng các lý luận có liên quan khác để tiếp cận đối tượng,
luận giải các nhiệm vụ của đề tài.



9
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp hệ thống phương pháp nghiên cứu, bao gồm:
Hệ thống phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị cùng các phương
pháp phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hoá, khái quát hoá…
Phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của công trình góp phần luận giải tính khoa học
của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu vực miền núi Thanh Hoá
và có thể tham khảo đối với các địa phương khác. Đồng thời, cũng có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy kinh tế chính trị
liên quan đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm có: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ NGÀNH KHU VỰC MIỀN NÚI THANH HÓA
1.1. Một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
* Cơ cấu kinh tế
Theo tiến trình phát triển của lịch sử, khi lực lượng sản xuất phát triển
đến một mức độ nhất định sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển.
Theo đó, nền sản xuất xã hội được phân chia thành các ngành, các lĩnh vực

theo tính chất sản phẩm, chuyên môn kỹ thuật. Đồng thời, trên cơ sở thế mạnh
của từng khu vực sẽ hình thành các vùng kinh tế khác nhau. Khi các ngành,
các lĩnh vực của nền kinh tế được hình thành tất yếu đòi hỏi phải giải quyết
mối quan hệ giữa chúng với nhau. Sự phân công lao động xã hội và mối quan
hệ tương tác giữa các ngành, các lĩnh vực là cơ sở hình thành cơ cấu kinh tế.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán kinh tế chính trị học”, khi phân tích
quá trình phân công lao động xã hội. C.Mác viết “Cơ cấu kinh tế xã hội là toàn bộ
những quan hệ sản xuất phù hợp với quá trình phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất vật chất” [35]. C.Mác cũng nhấn mạnh, cơ cấu là một sự phân chia về
chất và một tỷ lệ về số lượng của những quá trình sản xuất xã hội. Vì vậy, khi
phân tích cơ cấu kinh tế phải chú ý đến cả hai khía cạnh là chất lượng và số lượng.
Đối với nước ta, cho đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về cơ cấu
kinh tế trên cơ sở phương pháp tiếp cận khác nhau:
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các
ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp
thành. Như vậy, nói đến cơ cấu kinh tế là nói đến sự phân chia các ngành, các
lĩnh vực, các bộ phận và mối liên hệ giữa chúng trong nền kinh tế.
Theo triết học duy vật biện chứng, cơ cấu (hay kết cấu) là một khái
niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu thị sự


11
thống nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó.
Cơ cấu, chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và tổng thể, biểu hiện ra
như là một thuộc tính của sự vật hiện tượng, biến đổi cùng với sự biến đổi của
sự vật hiện tượng. Như vậy, có thể thấy có nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức
cơ cấu của khách thể và các hệ thống.
Theo quan điểm lý thuyết hệ thống thì cho rằng: Cơ cấu kinh tế là một
tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại với nhau trong những không gian và thời gian, những điều kiện

kinh tế - xã hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả
về số lượng và chất lượng, phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế.
Như vậy, mặc dù tiếp cận trên các góc độ khác nhau, song nhìn chung
các khái niệm cơ cấu kinh tế đều được biểu hiện như là sự tập hợp những mối
liên hệ, liên kết hữu cơ giữa các bộ phận, các lĩnh vực, các ngành kinh tế.
Theo đó, cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của
nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những mối
quan hệ tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không
gian và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những
mục tiêu nhất định.
Kế thừa các quan điểm trên, có thể hiểu: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các
ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng và mối quan hệ
hữu cơ tương đối ổn định giữa chúng hợp thành.
Cơ cấu kinh tế phản ánh trình độ của nền kinh tế, cả những yếu tố vật
chất - kỹ thuật cả những yếu tố kinh tế - xã hội. Như vậy, khi phân tích cơ cấu
kinh tế cần tiếp cận trên cả phương diện vật chất - kỹ thuật và kinh tế - xã hội.
* Thứ nhất, xét cơ cấu kinh tế về mặt vật chất - kỹ thuật bao gồm:
Cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh tế: Trên khía cạnh này, cơ cấu kinh
tế phản ánh số lượng, vị trí, tỷ trọng các ngành nghề, lĩnh vực bộ phận cấu


12
thành nền kinh tế. Cơ cấu vật chất - kỹ thuật phản ánh trình độ lực lượng sản
xuất hiện có. Trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân
công lao động xã hội sẽ hình thành cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực tương ứng.
Cơ cấu theo quy mô, trình độ kỹ thuật, công nghệ của các loại hình tổ
chức sản xuất: Trên khía cạnh này, cơ cấu kinh tế phản ánh chất lượng của
các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ: Trên khía cạnh này cơ cấu kinh tế
phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế - xã hội của

các vùng, phục vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất.
* Thứ hai, về mặt kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh tế bao gồm:
Cơ cấu thành phần kinh tế: Phản ánh khả năng khai thác năng lực tổ
chức sản xuất kinh doanh của mọi thành viên xã hội. Biểu hiện mối quan hệ
giữa các bộ phận, thành phần kinh tế dựa trên chế độ, hình thức sở hữu khác
nhau. Mặt kinh tế - xã hội của cơ cấu kinh tế thể hiện trình độ phát triển xã
hội, mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình phát triển;
trình độ hoàn thiện quan hệ sản xuất của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế theo trình độ phát triển của quan hệ hàng hoá và tiền tệ:
Phản ánh khả năng giải quyết mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các
ngành, lĩnh vực và các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Khi quan hệ hàng hoá và tiền tệ phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các
ngành sản xuất và dịch vụ, tạo ra sự thay đổi của cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế vừa mang tính khách quan vừa mang tính lịch sử - xã hội:
Tính lịch sử, khi nền kinh tế có sự phân công lao động xã hội, có các
ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế nhất định sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế
với tỷ lệ cân đối tương ứng giữa các bộ phận. Tỷ lệ đó thay đổi thường xuyên
và tự giác theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và diễn biến khách quan
của nhu cầu xã hội cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu đó.


13
Tính khách quan, cơ cấu kinh tế phản ánh trình độ phát triển của xã hội
và các điều kiện phát triển của một quốc gia. Sự hình thành và thay đổi cơ cấu
kinh tế do sự tác động từ chính nội tại sự phát triển và các quy luật kinh tế
khách quan. Sự tác động từ chiến lược phát triển kinh tế, hay sự quản lý của
Nhà nước chỉ có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự chuyển đổi cơ cấu kinh
tế trong một thời gian nhất định chứ không thể thay đổi hoàn toàn nó.
Mặt khác, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự thay đổi
không ngừng của lực lượng sản xuất, nhu cầu tiêu dùng và đặc điểm chính trị

- xã hội của từng thời kỳ. Cơ cấu kinh tế được hình thành khi quan hệ giữa
các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế được thiết lập một cách cân đối và sự
phân công lao động diễn ra một cách hợp lý.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu hướng phổ biến
ở mọi quốc gia. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa con người với con người, con
người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất mở rộng ở mỗi giai đoạn lịch
sử, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan hệ
sản xuất đặc trưng, văn hoá - xã hội và các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc. Các
nước có hình thái kinh tế - xã hội giống nhau nhưng vẫn có sự khác nhau
trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, bởi vì điều kiện kinh tế - xã hội, chiến
lược phát triển của mỗi nước có sự khác nhau.
Sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu
tố. Trong đó, việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý luôn là vấn đề có ý nghĩa then
chốt. Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách hợp lý khi chủ thể quản lý Nhà
nước có khả năng nắm bắt các quy luật khách quan, đánh giá đúng nguồn lực
trong nước và nước ngoài để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình hình
thành cơ cấu kinh tế. Theo hướng đó, cơ cấu kinh tế hợp lý phải thoả mãn được
các tiêu chí sau:
Thứ nhất, cơ cấu kinh tế phải phù hợp với các quy luật khách quan
Đây là tiêu chí quan trọng nhất biểu hiện tính hợp lý của cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là biểu hiện tóm tắt, cô đọng nội dung chiến lược phát triển


14

kinh tế - xã hội của từng giai đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên, không vì
thế mà áp đặt chủ quan, tự đặt cho các ngành những tỷ lệ và vị trí trái ngược
với yêu cầu và xu thế phát triển của xã hội.
Một cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật kinh tế khách quan là cơ cấu được
hình thành dựa trên cơ sở những tiền đề hiện thực. Theo hướng đó, việc xác

định các ngành, lĩnh vực, bộ phận cùng với vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ
tương tác giữa chúng phải tuân thủ các quy luật kinh tế khách quan. Nói cách
khác, cơ cấu kinh tế phải được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Bất cứ hành vi nào mang
tính áp đặt và không tuân thủ quy luật kinh tế khách quan sẽ làm cho cơ cấu
kinh tế đó không phát huy được hiệu quả. Đề cập đến vấn đề này, trong tác phẩm
“Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”, Lê Nin chỉ rõ: “Vì
nước ta (Nước Nga) là một nước tiểu tư sản và rất lạc hậu, cho nên có một số
đặc điểm khác với các nước tiên tiến” [32]. Trên cơ sở đó, Lê Nin chỉ rõ nước
Nga có các thành phần kinh tế: 1) Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một
phần lớn có tính chất tự nhiên; 2) sản xuất hàng hoá nhỏ (Trong đó bao gồm đại
đa số nông dân bán lúa mì); 3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân; 4) Chủ nghĩa tư bản
nhà nước; 5) chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh tại, mà nó
biến đổi cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Điều đó có nghĩa, khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định
thì cơ cấu kinh tế cũng thay đổi theo. Cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý là một
cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình tái sản xuất mở rộng.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế phản ánh được khả năng khai thác sử dụng
nguồn lực kinh tế trong nước và đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế và
khu vực, nhằm tạo ra sự cân đối, phát triển bền vững
Cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý khi cho phép phát huy hết mọi tiềm
năng, thế mạnh của nền kinh tế. Đảm bảo phát huy lợi thế sẵn có và tạo ra


15
những lợi thế mới trong quá trình hội nhập. Trên cơ sở tiềm năng, thế mạnh
và những ưu thế riêng tạo bước phát triển tại những ngành có ưu thế, thông
qua đó dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Những nguồn lực của nền kinh tế chỉ có
thể được phát huy một cách đầy đủ thông qua một cơ cấu kinh tế hợp lý, giải

phóng hết mọi năng lực sản xuất của xã hội.
Trong quá trình hội nhập và xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, cơ cấu
kinh tế phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp với xu thế tiến bộ của khoa
học - công nghệ, ứng dụng nhanh và có hiệu quả những thành tựu của khoa
học công nghệ trên thế giới. Nếu không có sự tiếp cận và ứng dụng khoa học
công nghệ trong quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế sẽ khiến cho cơ cấu kinh tế
lạc hậu, không tận dụng được những thành tựu của văn minh nhân loại vào
quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời, cơ cấu kinh tế hiện đại cho phép nền
kinh tế cùng với những sản phẩm kinh tế tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu,
khẳng định những giá trị riêng.
Thứ ba, cơ cấu kinh tế phải phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị của
khu vực và thế giới
Hiện nay, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn mọi
nền kinh tế trên thế giới. Vì vậy, việc xây dựng cơ cấu kinh tế luôn chịu sự
tác động của quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Điều đó đòi hỏi
việc xây dựng cơ cấu kinh tế phải nằm trong xu thế chung của khu vực và
thế giới. Đảm bảo sự phát triển đồng điệu trong nhịp điệu phát triển chung.
Mặt khác, xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế làm cho các nền kinh tế có xu
hướng vừa hợp tác vừa đấu tranh để phát triển. Theo hướng đó, cơ cấu kinh
tế chỉ hợp lý khi nó được đặt trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới,
phát triển theo xu hướng chung của nền kinh tế thế giới. Sự dịch chuyển về
cơ cấu thị trường quốc tế sẽ có ảnh hưởng nhanh chóng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh, cơ cấu kinh tế của các quốc gia.


16
* Cơ cấu kinh tế ngành
Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới các góc độ khác nhau như: cơ cấu
kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế thành phần. Trong đó, cơ
cấu kinh tế ngành giữ vai trò quan trọng nhất. Cơ cấu kinh tế ngành, lĩnh vực

kinh tế là cơ cấu phản ánh số lượng, vị trí, tỷ trọng các ngành nghề, lĩnh vực bộ phận
cấu thành nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế ngành phản ánh mặt vật chất, kỹ thuật của cơ
cấu kinh tế. Trong nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế ngành giữ vai trò quan trọng
nhất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh
tế ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển bởi vì, sự thay đổi của
cơ cấu kinh tế biểu hiện sự thay đổi của lực lượng sản xuất. Đối với các nước
đang phát triển, lực lượng sản xuất biến đổi mạnh mẽ, phân công lao động xã
hội ngày càng sâu sắc kéo theo sự thay đổi về cơ cấu kinh tế là điều đương
nhiên. Mặt khác, quá trình phát triển cũng chứng kiến sự hình thành và phát
triển những ngành nghề mới trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của mỗi nền
kinh tế. Từ đó, có thể hiểu:
Cơ cấu kinh tế ngành là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ
lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ
cấu kinh tế ngành phản ảnh phần nào trình độ phân công lao động xã hội và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nói đến cơ cấu kinh tế ngành trước hết là nói đến tổng thể các nhóm
ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một quốc gia. Tuỳ theo trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội mà nền
kinh tế được chia thành các nhóm ngành khác nhau. Về cơ bản, nền kinh tế
bao gồm các nhóm ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong đó,
nhóm ngành nông nghiệp bao gồm các ngành nông, lâm, ngư nghiệp; nhóm
ngành công nghiệp bao gồm các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công
nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác; nhóm ngành dịch vụ và du lịch bao gồm
thương mại, du lịch, dịch vụ…


17
Bên cạnh các ngành, cơ cấu kinh tế ngành còn biểu hiện số lượng và tỷ trọng
của các nhóm ngành. Theo đó, cơ cấu kinh tế ngành chỉ rõ số lượng các ngành, mối
tương quan giữa các ngành, vị trí, vai trò của các ngành trong nền kinh tế.

Như vậy, khi nền kinh tế hình thành nên các nhóm ngành, các mối quan
hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành cũng được hình thành, các mối
quan hệ tương tác này hướng vào các mục tiêu đã xác định. Cơ cấu kinh tế
nói chung, cơ cấu kinh tế ngành nói riêng là một phạm trù trừu tượng, liên tục
biến đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, muốn nắm vững bản chất
của cơ cấu kinh tế ngành và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành một cách có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của
nền kinh tế quốc dân.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Quá trình sản xuất vật chất luôn chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao
động xã hội ngày càng sâu sắc, tính chuyên môn hoá trong lao động ngày
càng cao, sẽ làm xuất hiện hoặc biến mất một số ngành kinh tế. Nói cách
khác, sự phát triển của phân công lao động xã hội và lực lượng sản xuất tất
yếu dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành nghề. Như vậy, cơ cấu kinh tế ngành
luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu
kinh tế luôn vận động, phát triển. Sự thay đổi đó bao gồm cả về số lượng
và về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành. Từ đó, có thể hiểu: Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành là sự thay đổi về số lượng, vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ
tương tác giữa các ngành trong nền kinh tế cho phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành không chỉ là thay đổi về số lượng, vị
trí, tỷ trọng và mối quan hệ giữa các ngành mà còn là sự thay đổi về lượng và
chất trong nội bộ các ngành. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là cải tạo cơ


18
cấu cũ, lạc hậu, chưa phù hợp thành cơ cấu mới hoàn thiện và phù hợp hơn.
Như vậy, thực chất chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự điều chỉnh mối
quan hệ, tỷ trọng giữa các ngành cho phù hợp với các mục tiêu kinh tế - xã

hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành được thể hiện rõ nét thông qua hai quá trình:
Chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành: là sự thay đổi về vị trí, tỷ trọng giữa
các ngành trong nền kinh tế cả về cơ cấu giá trị, cơ cấu vốn, cơ cấu lao động. Theo
đó, khi vị trí, tỷ trọng của nhóm ngành này tăng lên sẽ đồng nghĩa với việc vị trí
và tỷ trọng nhóm ngành khác giảm xuống tương ứng trong tổng giá trị sản phẩm
xã hội. Quá trình chuyển dịch giữa các ngành được xác định thông qua các chỉ số
về tổng giá trị sản phẩm xã hội làm ra. Đây cũng là tiêu chí đánh giá quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách chính xác.
Song song với quá trình chuyển dịch giữa các ngành luôn có sự
chuyển dịch trong nội bộ ngành. Theo đó, cùng với sự thay đổi vị trí, vai
trò và tỷ trọng của từng ngành trong tổng giá trị xã hội thì ngay trong
một ngành cũng có sự thay đổi về mặt cơ cấu giữa các phân ngành.
Chuyển dịch trong nội bộ ngành là sự chuyển dịch vị trí, vai trò và tỷ
trọng của các phân ngành trong nội bộ ngành đó. Đối với ngành nông
nghiệp là sự dịch chuyển giữa các ngành nông, lâm, ngư; đối với công
nghiệp là công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến,
công nghiệp khai thác; đối với dịch vụ và du lịch là thương mại, du lịch
và dịch vụ. Sự dịch chuyển trong nội bộ ngành thể hiện rõ nét quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế ngành thể hiện rõ nét bức tranh toàn cảnh của nền kinh
tế, quá trình thay đổi của cơ cấu kinh tế ngành luôn chịu sự tác động của
những nhân tố ảnh hưởng đến nền kinh tế, bao gồm cả nhân tố bên ngoài và
nhân tố bên trong; cả nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.


19
Nhân tố bên ngoài
Trước hết, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phụ thuộc và chịu ảnh
hưởng lớn từ xu thế chính trị - xã hội trong khu vực và thế giới

Xét đến cùng chính trị là biểu hiện tập trung của nền kinh tế. Sự biến động
về chính trị - xã hội của một nước hay một số nước, nhất là nước lớn, sẽ tác động
mạnh mẽ đến các hoạt động ngoại thương, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công
nghệ, tiếp thu khoa học kỹ thuật… của các nước khác trên thế giới và khu vực. Do
đó, khi thị trường và nguồn lực từ nước ngoài thay đổi, buộc các quốc gia phải
điều chỉnh chiến lược phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành cho phù hợp.
Hai là, xu thế toàn cầu hoá kinh tế và quốc tế hoá lực lượng sản xuất
Xu thế này tạo ra sự phát triển đan xen vào nhau, khai thác thế mạnh
của nhau, hợp tác với nhau một cách toàn diện cả trong sản xuất và trao đổi
hàng hoá, dịch vụ. Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế cho phép hình thành mạng
lưới sản xuất quốc tế, đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới và sự phát triển
mạnh mẽ của các công ty đa quốc gia, đã thúc đẩy quá trình phân công lao
động xã hội vượt xa hơn biên giới của một vùng lãnh thổ. Ngày nay, một sản
phẩm hàng hoá không chỉ là sản phẩm của một quốc gia, mà có thể có sự
tham gia của nhiều công ty, xí nghiệp thuộc nhiều nước trong khu vực và thế
giới cùng sản xuất. Đối với các quốc gia hướng về xuất khẩu thì yếu tố này trở
thành nhân tố không thể thiếu trong quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành. Xu thế này tạo ra sự đan xen vào nhau, khai thác thế mạnh của
nhau, thúc đẩy hợp tác với nhau một cách toàn diện cả trong sản xuất, trao đổi
hàng hoá, dịch vụ và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ. Tính phụ thuộc
lẫn nhau giữa các nền kinh tế tăng lên, các mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa
các nước và các khu vực ngày càng trở lên sâu rộng và mật thiết hơn.
Ba là, các thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ
Thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ thông tin là những
yếu tố bên ngoài tác động và ảnh hưởng lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế


20
ngành. Các yếu tố này tạo điều kiện cho các nhà sản xuất kinh doanh nắm bắt
thông tin, hiểu thị trường và hiểu đối tác mình muốn hợp tác. Từ đó, giúp họ

định hướng sản xuất kinh doanh, thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh phù hợp
với xu thế hợp tác đan xen vào nhau, khai thác thế mạnh của nhau, cùng nhau
phân chia lợi nhuận. Khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến được coi
là nhân tố quyết định đối với quá trình sản xuất, làm tăng mạnh giá trị kinh tế các
ngành, lĩnh vực, tạo ra những bước đột phá lớn thúc đẩy quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Các nhân tố bên ngoài có vai trò rất quan trọng và là nhân tố tác động
đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Song nhân tố bên
trong mới là những yếu tố quyết định.
Nhân tố bên trong
Một là, nhân tố thị trường và tiêu dùng của xã hội
Thị trường và nhu cầu xã hội là người đặt hàng cho tất cả các ngành
kinh tế. Nếu như xã hội không có nhu cầu thì không thể có bất kỳ một quá
trình sản xuất nào diễn ra cả. Cũng như vậy không có thị trường thì không có
kinh tế hàng hoá.
Thị trường và nhu cầu xã hội không chỉ quy định về số lượng mà cả
về chất lượng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Vì vậy, nó có tác động
trực tiếp đến quy mô, trình độ phát triển của các cơ sở kinh tế; đến xu
hướng phát triển và phân công lao động xã hội; đến vị trí và tỷ trọng giữa
các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Hai là, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu lao động và con người có khả năng
sử dụng tư liệu lao động để tác động vào điều kiện tự nhiên, tạo ra sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu xã hội. Lực lượng sản xuất là yếu tố
động nhất, là động lực phát triển của xã hội. Nhu cầu của xã hội là vô tận và


21
ngày càng đòi hỏi khắt khe. Muốn đáp ứng đầy đủ những nhu cầu xã hội đòi
hỏi trước hết là phải phát triển lực lượng sản xuất. Sự phát triển không ngừng

của lực lượng sản xuất sẽ làm thay đổi quy mô sản xuất, thay đổi công nghệ,
thiết bị, hình thành các ngành nghề mới, biến đổi lao động giản đơn thành lao
động phức tạp, tạo ra sự phát triển của ngành này hoặc ngành khác. Sự phát triển
đó phá vỡ cân đối cũ, hình thành một cơ cấu kinh tế ngành mới với vị trí, tỷ
trọng của các ngành phù hợp hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội. Quá trình
phát triển đó diễn ra một cách khách quan và từng bước tạo ra một sự cân đối
hợp lý hơn, có khả năng khai thác nguồn lực trong nước và nước ngoài. Như
vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành
cơ cấu kinh tế ngành. Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng khiến cho cơ
cấu kinh tế ngành cũng luôn luôn thay đổi.
Mặt khác, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, điều kiện tự
nhiên ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Những yếu tố tự nhiên tạo điều kiện cho phép phát triển một ngành sản
xuất nào đó một cách thuận lợi hoặc khó khăn. Lợi thế tự nhiên tác động
đến tăng trưởng kinh tế không những theo chiều rộng mà còn đảm bảo cho
tăng trưởng theo chiều sâu nếu có chính sách khai thác, sử dụng hiệu quả.
Lợi thế tự nhiên tạo ra những lợi thế cho nền kinh tế, là cơ sở hình thành và
phát triển các ngành kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, những yếu tố, điều kiện
tự nhiên chỉ là nền tảng để có thể phát triển kinh tế, tích luỹ đầy đủ các yếu
tố để phát triển theo chiều sâu.
Ba là, quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cơ chế quản lý
Cơ chế quản lý của Nhà nước có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế ngành nói riêng. Nếu
cơ chế chính sách khoa học, phù hợp với quy luật khách quan và tình hình
thực tiễn thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho quá trình


22
chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh và hiệu quả. Ngược lại, nếu cơ chế
chính sách thiếu căn cứ khoa học, không xuất phát từ quy luật khách quan sẽ

kìm hãm, làm chậm lại quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trên thực tế, thể chế chính trị - xã hội – kinh tế tác động đến quá
trình phát triển trên khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý và môi trường
xã hội. Vì vậy, mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan và tính lịch
sử xã hội, nhưng nó lại chịu sự tác động, chi phối của Nhà nước. Nhà
nước tác động gián tiếp thông qua định hướng chiến lược, đặt ra các mục
tiêu phát triển kinh tế – xã hội và khuyến khích mọi ngành kinh tế phát
triển nhằm đạt các mục tiêu đề ra.
Nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt các ngành nghề, không quy định
cụ thể về cơ cấu kinh tế song thông qua hệ thống pháp luật, các quy định, thể
chế, chiến lược phát triển, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, Nhà nước có
sự điều tiết vĩ mô, dẫn dắt các ngành, lĩnh vực kinh tế phát triển theo định
hướng chung, đảm bảo tính cân đối và đồng bộ của nền kinh tế.
Bốn là, đặc điểm văn hoá – xã hội
Nhân tố văn hoá – xã hội bao trùm nhiều mặt từ các tri thức phổ thông
đến các tích luỹ tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, công nghệ, văn
học, lối sống và các ứng xử trong quan hệ giao tiếp, những phong tục tập
quán,…Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát
triển cao. Những đặc điểm văn hoá - xã hội có thể có tác động tích cực hoặc
tiêu cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Năm là, dân số
Dân số được xem là nguồn lực quan trọng cho chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành được xem xét trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học
kỹ thuật mới… Trình độ dân trí và kết cấu dân cư ảnh hưởng lớn đến chất


23
lượng nguồn nhân lực. Các ngành nghề chỉ có thể phát triển mạnh mẽ và bền

vững trên cơ sở nguồn nhân lực của nền kinh tế dồi dào. Không thể phát triển
khoa học kỹ thuật trên cơ sở dân trí thấp, khả năng tiếp thu hạn chế.
Thứ hai, quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập dân cư có ảnh hưởng đến
quy mô và tính chất của thị trường. Dân số đông là tiền đề cho một thị trường rộng
lớn, thu nhập dân cư ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành các ngành sản xuất và
các loại thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ.
* Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Hiện nay trên thế giới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đang diễn
ra theo hai xu hướng, đó là:
Chuyển dịch từ khu vực sản xuất vật chất sang khu vực dịch vụ. Xu
hướng này thường diễn ra ở các nước có nền kinh tế phát triển cao, dưới ảnh
hưởng của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại.
Chuyển dịch trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất, chủ yếu là chuyển
dịch cơ cấu từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Xu hướng này
chủ yếu ở các nước đang phát triển, gắn liền với quá trình công nghiệp hoá.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu vực miền núi Thanh Hoá
* Quan niệm chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu vực miền
núi Thanh Hoá
Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước nói chung và của tỉnh Thanh Hoá nói riêng đang đặt khu vực
miền núi Thanh Hoá trước những cơ hội và thách thức mới. Sự xuất hiện các
ngành nghề mới trong quá trình giao lưu và hội nhập, sự thay đổi về tỷ trọng
giữa các ngành đang trở thành xu hướng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành khu vực miền núi Thanh Hoá. Trên cơ sở quan niệm chung
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đã trình bày trên, vận dụng vào thực tiễn
các huyện miền núi Thanh Hoá có thể hiểu:


24
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu vực miền núi Thanh Hoá là hoạt

động chủ động của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế nhằm thay đổi
số lượng, vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương tác của các ngành kinh tế khu
vực miền núi Thanh Hoá cho phù hợp với xu thế chung của sự phát triển.
* Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở miền núi Thanh Hoá
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là một nội dung cốt lõi của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và Thanh Hoá nói riêng
Thực chất quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình thay đổi
từ lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động với
máy móc, công cụ hiện đại. Theo hướng đó, tỷ trọng lao động trong khối
ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên, lao động nông nghiệp giảm xuống.
Quá trình đó đồng nghĩa với quá trình thay đổi về cơ cấu kinh tế ngành.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là vấn đề có tầm quan trọng
đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành là hệ quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất trong
khu vực. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành không đơn thuần là
hệ quả thụ động của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và phân công
lao động xã hội. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách hợp lý còn
là nhân tố mở đường cho sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,
thúc đẩy phân công lao động ngày càng sâu sắc.
Mặt khác, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là chuyển từ cơ cấu kinh tế
cũ, lạc hậu sẽ được sang cơ cấu kinh tế mới, hợp lý và hiện đại hơn, tạo động lực
mạnh mẽ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi Thanh Hoá.
Nói cách khác, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nhằm tạo ra đầy đủ những
điều kiện tiền đề cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo đà cho sự
phát triển lực lượng sản xuất trong khu vực. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội khu
vực miền núi Thanh Hoá.


25

Hai là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nhằm khai thác tiềm năng thế
mạnh của khu vực miền núi Thanh Hoá, phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Tỉnh và đất nước
Cơ cấu kinh tế ngành được hình thành trên cơ sở sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, tại đó những ngành có ưu thế riêng
tất yếu sẽ có sự phát triển mạnh mẽ. Trên cơ sở sự phát triển của các ngành có ưu
thế, hình thành những đầu tàu, động lực dẫn dắt nền kinh tế trong khu vực phát
triển. Đồng thời, chính những ưu thế đó là cơ sở hình thành cơ cấu kinh tế ngành
một cách hợp lý. Sự phù hợp của cơ cấu ngành nghề sẽ cho phép phát huy hết mọi
tiềm năng của khu vực, tạo đà phát triển mạnh mẽ. Mục tiêu của quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành nhằm khai thác tối ưu các nguồn lực, đảm bảo cho sự
phát triển của khu vực miền núi Thanh Hoá theo đúng quỹ đạo phát triển của tỉnh
và quốc gia.
Ba là, từ thực tiễn cơ cấu kinh tế ngành khu vực miền núi Thanh Hoá
Trong những năm vừa qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu
vực miền núi Thanh Hoá đã đạt được những kết quả to lớn, tạo ra những cơ hội và
khả năng phát triển to lớn cho khu vực. Về cơ bản, cơ cấu kinh tế ngành có bước
chuyển dịch hợp lý, cho phép khai thác được những tiềm năng trong khu vực. Xu
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phù hợp với đường lối phát triển chung,
tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng, nông nghiệp chuyển
dịch theo hướng sản xuất hàng hoá. Tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế đã
dần được thay thế bởi quan hệ hàng hoá tiền tệ. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại không
ít những hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, quá trình
chuyển dịch còn chậm, chưa cho phép tạo ra những bước phát triển đột phá cho
kinh tế khu vực. Tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ tuy có tăng nhưng chưa tương
xứng với tiềm năng của vùng. Ngành nông nghiệp tuy có hướng về sản xuất hàng
hoá nhưng chưa thực sự tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, phần lớn còn mang nặng


26

tính tự cung, tự cấp. Về cơ bản miền núi Thanh Hoá vẫn là khu vực kinh tế khó
khăn, đời sống đồng bào các dân tộc vùng núi còn ở mức thấp. Thậm chí cơ cấu
kinh tế ngành còn tạo ra những sức ì nhất định, cản trở sự phát triển kinh tế - xã
hội. Vì vậy, để nền kinh tế miền núi Thanh Hoá phát triển cần tiếp tục đẩy mạnh
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc
từ thực tiễn, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, thông qua đó đặt nền móng cho
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế khu vực.
* Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khu vực miền núi Thanh
Hoá
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thanh Hoá nói chung, miền núi Thanh
Hoá nói riêng trước hết tuân theo xu hướng chung là:
Quá trình chuyển dịch trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất, chủ
yếu là chuyển dịch cơ cấu từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công
nghiệp. Khi thu nhập theo đầu người tăng lên thì tỷ trọng của sản phẩm
nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân sẽ giảm xuống, tỷ trọng sản
phẩm công nghiệp sẽ tăng lên. Đó cũng chính là kết quả của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Đến một mức độ nào đó, sẽ có sự
chuyển dịch từ khu vực sản xuất vật chất sang khu vực dịch vụ, và đến một
trình độ nhất định tỷ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn công nghiệp.
Các ngành kinh tế sẽ tịnh tiến đến ngành có vốn cao; chuyển từ nền
kinh tế với công nghệ cũ, lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng sản
phẩm kém sang nền kinh tế cơ giới hoá, hoá học hoá, điện khí hoá, chuyên
môn hoá với công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm cao hơn; từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức với công
nghệ cao, điện tử hoá, tin học hoá, tự động hoá, siêu xa lộ thông tin cùng với
đội ngũ công nhân trí thức đông đảo. Cùng với quá trình phát triển, các ngành
sản xuất vật chất phát triển theo chiều rộng sẽ dần dần chuyển sang xu thế



×