Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM và một số vấn đề cấp BÁCH TRONG xây DỰNG CHỈNH đốn ĐẢNG THEO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.81 KB, 21 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN
ĐỀ CẤP BÁCH TRONG XÂY DỰNG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
MỤC LỤC

Tran
g
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM

3

1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản Việt Nam

3

1.2. Những tiền đề tư tưởng - lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng Cộng sản Việt Nam

3

1.3. Hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh để hình thành tư
tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam

5


2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

6

2.1. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng
Việt Nam đến thắng lợi

6

2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác
-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam

8

2.3. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam
2.4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin "làm cốt”

10
11

2.5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên
tắc Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân

12

2.6. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo vừa là
người đầy tớ trung thành của nhân dân
2.7. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới


15
16

3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ ĐỔI MỚI VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

17


2
3.1. Sự cần thiết phải đổi mới và chỉnh đốn Đảng

17

3.2. Nội dung, biện pháp chủ yếu trong đổi mới và chỉnh đốn Đảng
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

19
21

KẾT LUẬN
LỜI NÓI ĐẦU

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là sự vận dụng và
phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về chính Đảng vô sản vào hoàn
cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền nông nghiệp lạc hậu.
Đây là một nội dung xuyên suốt, có vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ di
sản tư tưởng của Người.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc nhất là đối với công tác xây dựng Đảng
trong tình hình hiện nay.
1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM

1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản Việt Nam

Những năm 20 của thế kỷ XX, phong trào Cộng sản và Công nhân
quốc tế phát triển mạnh, hàng loạt các Đảng Cộng sản được thành lập và gia
nhập tổ chức Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Riêng ở khu vực châu Á có các
đảng như: Đảng Cộng sản Inđônêxia (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc
(1921), Đảng Cộng sản Nhật Bản (1922), Đảng Cộng sản Triều Tiên (1925),
Đảng Cộng sản Ấn Độ (1928), Đảng Cộng sản Thái Lan (1928)… Sự ra đời
và hoạt động của các đảng đó có ảnh hưởng lớn đến phong trào công nhân
Việt Nam và quá trình nghiên cứu, hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.
Ở Việt Nam lúc này, phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, khẳng
định tinh thần đấu tranh kiên cường của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của các
sĩ phu yêu nước, các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Hoàng Hoa Thám... Nhưng các cuộc đấu tranh ấy chưa thành công vì chưa có
hệ tư tưởng tiên phong dẫn đường và lực lượng tiên phong lãnh đạo.
Cùng thời gian ấy, phong trào công nhân Việt Nam cũng phát triển
mạnh mẽ ở cả 3 miền Nam, Trung, Bắc, điển hình như cuộc đấu tranh của công


3
nhân đồn điền cao su Phú Riềng, công nhân Mỏ than Mạo Khê, công nhân
Xưởng đóng tàu Ba Son… Các cuộc đấu tranh đó đã chứng tỏ vai trò và khả
năng cách mạng to lớn của giai cấp công nhân, thúc đẩy sự ra đời các tổ chức
cộng sản đầu tiên ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở

Bắc kỳ vào 6/1929, An Nam Cộng sản Đảng ở Nam kỳ vào 8/1929 và Đông
Dương Cộng sản liên đoàn ở Trung kỳ vào 01/1930.
Thực tiễn lịch sử đòi hỏi phải có một chính đảng độc lập, thống nhất,
với đường lối đúng đắn để lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong
kiến, đưa cách mạng Việt Nam tiến lên.
1.2. Những tiền đề tư tưởng - lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng Cộng sản Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ học
thuyết Mác – Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
C.Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân từ giữa thế kỷ XIX. Trong khi
khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân là xoá bỏ
chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đồng thời chỉ rõ tính tất yếu phải có Đảng,
khẳng định bản chất giai cấp công nhân, tính tiền phong, mục đích chính trị
của Đảng, xác định nhiệm vụ của Đảng Cộng sản là lãnh đạo giai cấp công
nhân và nhân dân lao động làm cuộc cách mạng lật đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản.
Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, thể
hiện rõ bản chất hiếu chiến, xâm lược và phản động toàn diện, làm cho các
mâu thuẫn trong xã hội càng thêm gay gắt. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
nổ ra, Quốc tế II bị lũng đoạn bởi sự phá hoại của chủ nghĩa cơ hội, xét lại.
Trong khi đó tiền đề cách mạng xã hội chủ nghĩa đang đặt ra một cách trực
tiếp. Tình hình trên đòi hỏi phải củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo của các
Đảng Cộng sản đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chiến tranh
thế giới và tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.



4
V.I.Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, trực
tiếp lãnh đạo công tác xây dựng Đảng Dân chủ - xã hội Nga, đánh bại tính cơ
hội, phản động của phái Mensêvich. Qua đó, V.I.Lênin đã nêu lên những
nguyên lý cơ bản về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân: Đảng là
đội tiền phong của giai cấp công nhân; Đảng là đội tiền phong có tổ chức của
giai cấp công nhân; Đảng là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân; Đảng tổ
chức theo chế độ tập trung dân chủ; Đảng phải liên hệ mật thiết với quần
chúng; Đảng là một khối thống nhất, không dung nạp bè phái…
Đó là tiền đề lý luận cơ bản làm cơ sở để hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh còn nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm tổ chức và xây
dựng Đảng Cộng sản ở các nước như: Đảng Dân chủ - xã hội Nga, Đảng
Cộng sản Pháp… Đặc biệt sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương
về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc
tế III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp… đã thể hiện bước chuyển biến
trong lập trường của Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống sang
chủ nghĩa yêu nước trên lập trường giai cấp công nhân, chấm dứt thời kỳ tìm
đường cứu nước và mở ra thời kỳ mới: chuẩn bị cho việc thành lập Đảng và
dẫn dắt cách mạng Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản.
1.3. Hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh để hình thành tư
tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam

Từ những năm 1920-1930, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam để giác ngộ họ theo con đường cách
mạng vô sản, tập hợp lực lượng, đoàn kết họ lại để xúc tiến thành lập các tổ
chức cách mạng, lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Hoạt
động tuyên truyền của Người rất phong phú, đa dạng, thông qua nhiều hình
thức, phương pháp khác nhau.

Hoạt động

CN Mác – Lênin, TT Hồ Chí Minh đã vào Việt Nam

Xuất bản cuốn: “Đường cách mệnh”


5

Xuất bản cuốn: “Bản án chế độ thực dân Pháp”
Viết nhiều bài trên các báo quốc tế
Làm Trưởng tiểu ban nghiên cứu thuộc địa
Tham gia Hội Liên hiệp thuộc địa và báo người cùng khổ

1920

1921

1922

1923

1925

1927

1929

Thời gian


Hình 1: Sơ đồ khái quát quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh vào Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã chủ động cải tổ tổ chức "Tâm Tâm xã", một tổ chức
yêu nước của người Việt Nam ở Trung quốc, thành “Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên” (6/1925) để vận động tập hợp thanh niên yêu nước, lãnh đạo, chỉ đạo
các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong nước đồng
thời tiếp tục tuyên truyền giác ngộ cách mạng trong các tầng lớp nhân dân. Đây là
tổ chức có xu hướng cộng sản, là tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, tổ chức này đã có nhiều hoạt động rất tích
cực để truyền bá lý luận, xây dựng phong trào. Từ năm 1925 đến năm 1929, đã
lãnh đạo 57 cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam, điển hình như: Bãi
công của hơn 1000 công nhân xưởng đóng tàu Ba Son, đấu tranh của công nhân
mỏ than Mạo Khê, cao su Phú Riềng, công nhân cao su Lộc Ninh…
Cùng với các hoạt động trên, Nguyễn Ái Quốc đã mở các lớp đào tạo
cán bộ làm nòng cốt để lãnh đạo phong trào công nhân Việt Nam, đồng thời
chuẩn bị lực lượng lãnh đạo nòng cốt sau này. Từ năm 1925-1927 Người đã
đào tạo được 10 khoá học với hơn 200 cán bộ trung kiên. Trong đó có các
đồng chí tiêu biểu như: Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập… Có
đồng chí được cử đi học trường Quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu Trung
Quốc, trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva. Các


6
đồng chí đó được đưa về nước hoạt động và tiếp tục được truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam.
Nhờ hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc và những người cộng sản,
phong trào đấu tranh ở Việt Nam phát triển mạnh hơn và thúc đẩy sự ra đời
của các tổ chức cộng sản độc lập đầu tiên. Trước thực tế đó, Nguyễn Ái Quốc
đã tích cực vận động và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành

lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930). Đây cũng là cơ sở để Hồ Chí
Minh tổng kết, hình thành và phát triển tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

2.1. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi

Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu ra
đời và vai trò của Đảng Cộng sản trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
tổng kết thực tiễn đấu tranh của các dân tộc trên thế giới, nhất là cách mạng
Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh thấy rõ: cách mạng thắng lợi hay không phụ
thuộc quyết định vào sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân. Người
còn nghiên cứu tổng kết thực tiễn Việt Nam, trước sự phát triển của phong
trào công nhân và phong trào yêu nước đòi hỏi phải có Đảng lãnh đạo.
Vì vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có
Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”1. Luận
điểm của Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
Thứ nhất, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân nhưng quần chúng không thể tự mình
làm cách mạng. Quần chúng phải được giáo dục, được giác ngộ, được tổ
chức, được dẫn dắt bởi đường lối đúng đắn thì mới làm cách mạng được.
Muốn vận động, tập hợp, tổ chức họ làm cách mạng thì phải có một Đảng
cách mạng chân chính lãnh đạo.

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.267-268.



7
Thứ hai, cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi trước hết phải dựa
vào sức mình là chính, đồng thời phải biết kết hợp sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế. Mục đích là nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để chiến
thắng kẻ thù. Muốn đạt được vấn đề đó thì chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo của
chính Đảng của giai cấp công nhân.
Thứ ba, Hồ Chí Minh ví vai trò sứ mệnh của Đảng như “Người cầm lái,
"người dẫn đường”, “Người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Đảng có
nhiệm vụ định ra đường lối để giác ngộ, tổ chức, tập hợp quần chúng nhân
dân đứng lên đấu tranh thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng
xã hội mới, đồng thời giải quyết đúng đắn các quan hệ đối ngoại để kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm
đưa cách mạng đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh: trước khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều phong trào yêu nước,
nhưng do không có đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, không
tập hợp và phát huy được lực lượng to lớn của dân tộc nên đều bị thất bại.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối đúng đắn đã lãnh đạo
cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn, đó là: thắng lợi
của cách mạng Tháng Tám năm 1945 lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; đánh thắng hai
tên đế quốc to là Pháp và Mỹ; đạt được nhiều thành tựu trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay.
Luận điểm đó của Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc,
đã được kiểm nghiệm và đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đây là cơ sở để
khẳng định vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng, đấu tranh chống quan điểm đòi
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam


Quy luật phổ biến của sự ra đời các Đảng Cộng sản trên thế giới là sản
phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân.
Trong đó chủ nghĩa Mác - Lênin là vũ khí tư tưởng, lý luận của giai cấp công
nhân, là biểu hiện tập trung lập trường quan điểm triệt để cách mạng nhất của


8
giai cấp công nhân. Còn phong trào công nhân là mảnh đất hiện thực cho sự
ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi chủ nghĩa Mác - Lênin
kết hợp với phong trào công nhân cũng là điều kiện để giai cấp công nhân
thấy rõ sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, ý thức được sự cần thiết phải tổ
chức ra Đảng Cộng sản để lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động
đấu tranh nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản.
Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, Hồ
Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công
nhân đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng theo Người nếu
chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ mà
phải đồng thời kết hợp với phong trào yêu nước, đó là một trong ba yếu tố kết
hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi vì:
Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam mới ra đời, số lượng còn ít;
phong trào công nhân có phát triển nhưng chưa rộng khắp, mới chỉ dừng lại
trong phạm vi các đồn điền, nhà máy, ít ảnh hưởng trong các tầng lớp nhân
dân lao động. Mặc dù giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, có sứ
mệnh lãnh đạo cách mạng nhưng nếu Đảng ra đời chỉ dựa vào công nhân
thì chưa thực sự đủ mạnh, chưa nắm được ngọn cờ của phong trào yêu
nước, chưa thu hút được những phần tử ưu tú trong các tầng lớp nhân dân
lao động.
Thứ hai, phong trào yêu nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá

trình phát triển của dân tộc Việt Nam, là nhân tố chủ đạo quyết định thắng lợi
sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc. Phong trào yêu nước có trước phong
trào công nhân và có ảnh hướng rất lớn trong tất cả các tầng lớp nhân dân, đã
phát triển liên tục và bền bỉ qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã
kết thành chủ nghĩa yêu nước - giá trị văn hoá tốt đẹp nhất của dân tộc ta.
Mặc dù chưa thành công nhưng phong trào yêu nước đã thể hiện rõ sức mạnh
to lớn của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, đây cũng chính là một cơ
sở, nền tảng dẫn đến sự hình thành Đảng.
Thứ ba, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước vì
hai phong trào này đều có chung kẻ và sáng tạo, Hồ Chí
Minh đã nêu một tấm gương mẫu mực về sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề thực tiễn đặt ra. Người
cũng đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập chủ nghĩa Mác
- Lênin để vận dụng sáng tạo vào công việc hàng ngày, đấu tranh chống chủ
nghĩa cơ hội, xét lại, chống sự xuyên tạc của kẻ thù.

1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.268.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.268.


12
2.5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên
tắc Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân

Để xây dựng Đảng thực sự là một Đảng mác xít chân chính, xứng đáng
ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng. Hồ Chí Minh đã khái quát yêu cầu
xây dựng Đảng thành các nguyên tắc cơ bản sau:

Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một
tổ chức chiến đấu chặt chẽ, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc
tổ chức của Đảng.
Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ thống nhất biện chứng với
nhau trong một nguyên tắc. Dân chủ là để đi đến tập trung, là cơ sở của tập
trung, tập trung trên cơ sở dân chủ. Để bảo đảm tập trung, Hồ Chí Minh yêu
cầu cần phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động. Do đó, thiểu số
phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải
chấp hành vô điều kiện Nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy
nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”1.
Để bảo đảm dân chủ, Người yêu cầu tư tưởng phải được tự do. Đối với
mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý.
Đó là quyền lợi, đồng thời là nghĩa vụ của mọi người. Hồ Chí Minh viết:
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối
với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra
chân lý. Đó là một quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi
người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng
hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”2.
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh việc thực hiện và phát huy dân chủ nội
bộ làm cho Đảng mạnh, định hướng xây dựng chế độ dân chủ trong xã hội.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Sở dĩ phải bảo
đảm tập thể lãnh đạo là vì một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thấy hết
mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiểu hết
được mọi chuyện. Vì vậy, cần phải có nhiều người cùng tham gia lãnh đạo.
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.553.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr.216.


13
Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này người thấy mặt kia, do
đó sẽ hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề.
Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh chỉ rõ việc gì đã được tập thể bàn
bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách.
Như thế công việc mới chạy, như thế mới tránh được thói dựa dẫm, người này
ỷ vào người kia, ỷ vào tập thể. Hồ Chí Minh kết luận: “Lãnh đạo không tập
thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính
phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần
phải luôn luôn đi đôi với nhau”1.
Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát
triển của Đảng. Vì mỗi đảng viên trước hết phải tự mình thấy rõ mình, để phát
huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, cũng giống như tự soi gương rửa mặt
hàng ngày. Hơn nữa, nếu biết tự phê bình tốt thì mới phê bình người khác tốt
được. Tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm
cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ, làm cho
Đảng vững mạnh đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng. Người nói:
“Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một
Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu
mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm
mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh
dạn, chắc chắn, chân chính”2. Người yêu cầu cán bộ càng cao, trách nhiệm
càng lớn, càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Muốn thực hiện tốt
nguyên tắc này, mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình
cũng như với người khác, phải có tình yêu thương lẫn nhau. Kiên quyết đấu

tranh chống các biểu hiện sai trái như: thiếu trung thực, che dấu khuyết điểm,
sợ phê bình, trù dập người phê bình hoặc lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi
nhọ, đả kích người khác…
Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác.

1

2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.505.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.261.


14
Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng kỷ luật nghiêm minh và tự giác
trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là:
chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ
chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Mỗi đảng
viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp uỷ đảng dù ở cấp nào cũng phải nghiêm túc
chấp hành kỷ luật của Đảng, biến kỷ luật thành ý thức và hành động tự giác.
Năm là, nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Hồ Chí Minh xem đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng
khối đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh yêu cầu mọi cán
bộ đảng viên phải bảo đảm, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng như
bảo vệ con ngươi của mắt mình. Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống
cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các
chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”1.
Cơ sở để xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường
lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Nếu xa rời cơ sở này sẽ dẫn đến

nguy cơ làm mất đoàn kết thống nhất từ trong Đảng.
Để xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất trong Đảng Hồ Chí Minh
yêu cầu phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để cán bộ, đảng viên có thể
tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng; phải
thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần trung thực chân
thành, thẳng thắn; phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân.
2.6. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo vừa là
người đầy tớ trung thành của nhân dân

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhiều lần đề cập mối
quan hệ Đảng với quần chúng. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng Đảng muốn
thực hiện được sứ mệnh của mình, phải vận động tập hợp, giác ngộ và tổ chức
quần chúng đấu tranh cách mạng. V.I.Lênin đặc biệt coi trọng và làm rõ mối
quan hệ Đảng - lãnh tụ - giai cấp và quần chúng, chỉ ra nguy cơ của một đảng

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.510.


15
cầm quyền là tệ quan liêu xa rời quần chúng. Tư tưởng đó đã được Hồ Chí Minh
nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc để xây dựng Đảng ta.
Từ đặc thù quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, có truyền thống lấy dân làm gốc, có những thuận lợi
lớn như sự đoàn kết gắn bó Đảng với các tầng lớp nhân dân lao động, nhất là
nông dân và công nhân, đó là nền tảng, cơ sở xã hội vững chắc của Đảng. Tuy
nhiên, thành phần xuất thân của Đảng từ nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau,
trong Đảng ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng tiểu nông, gia trưởng, cục bộ

địa phương… Cần nhận thức đúng và có biện pháp khai thác những thuận lợi, kế
thừa truyền thống tốt đẹp, khắc phục ảnh hưởng của những hạn chế, tiêu cực.
Với tư cách là người lãnh đạo tập thể của nhân dân, Đảng phải có
đường lối đúng đắn để tổ chức quần chúng thực hiện; phải làm tốt công tác
giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng, nâng cao dân trí; phải
thu phục quần chúng bằng nhiều hình thức, biện pháp để vận động, lôi kéo,
tập hợp họ vào các tổ chức, đoàn thể cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng là nhằm: lấy tài dân, sức
dân để làm những công việc có lợi cho dân chứ không phải lợi ích của người
lãnh đạo. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng chính là vì độc lập, tự do của dân tộc,
dân chủ, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Trên ý nghĩa đó thì sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đồng nghĩa là đầy tớ của quần chúng nhân dân.
Với tư cách là người đầy tớ trung thành của nhân dân thì trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, Đảng cũng phải trung thành với lợi ích của nhân dân lao động,
vì sự nghiệp giải phóng con người toàn diện; Đảng phải gần gũi, lắng nghe ý
kiến quần chúng, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần chúng, chống bệnh
quan liêu, xa rời quần chúng.
Đảng cầm quyền càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ của nhân
dân, chứ không phải người chủ của nhân dân, tự cho phép mình đứng trên
nhân dân, trên Nhà nước, trên pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước là nhằm
xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đảng phải thường
xuyên chăm lo xây dựng, củng cố mối quan hệ máu thịt với quần chúng nhân
dân. Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong


16
lòng dân. Không phải chỉ có Nước mới lấy dân làm gốc, mà Đảng cũng phải
lấy dân là gốc. Chính cái gốc này đem lại nguồn sức mạnh to lớn cho Đảng.
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải đi sâu vào đời sống nhân dân,
tổng kết, đúc rút kinh nghiệm của quần chúng biến thành đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng để quay trở lại lãnh đạo, chỉ đạo quần chúng
thực hiện. Đồng thời Người cũng lưu ý: lãnh đạo phải biết tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của quần chúng, nhưng không được theo đuôi quần chúng.
Hai cương vị: người lãnh đạo và người đầy tớ có mối quan hệ biện
chứng không tách rời nhau, không đối lập nhau, làm tốt cương vị này cũng
đồng thời làm tốt cương vị kia.
Tư tưởng trên của Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng nhất là trong
tình hình hiện nay. Công cuộc đổi mới đòi hỏi Đảng phải không ngừng lớn
mạnh về mọi mặt, trong khi đó một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có
biểu hiện tham nhũng, quan liêu, xa rời quần chúng, làm ảnh hưởng đến niềm
tin của nhân dân đối với Đảng. Vì vậy, phải không ngừng củng cố, tăng
cường mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng.
2.7. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới

Mục đích chỉnh đốn và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ và
đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ của cách mạng.
Sở dĩ phải thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng, bởi bên cạnh số
đông đảng viên mẫu mực thì vẫn còn một bộ phận đảng viên chưa thực sự
trong sạch vững mạnh về mọi mặt, còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm. Trong
Di chúc, Người đã căn dặn: “Việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng,
làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm
vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”1.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng là làm cho Đảng luôn trong sạch và vững
mạnh toàn diện; chỉnh đốn là chỉnh đốn lại cách nghĩ, cách làm, phương pháp
lãnh đạo, lề lối làm việc. Xây dựng và chỉnh đốn là hai vấn đề có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Phải trên cơ sở xây dựng mà chỉnh đốn, chỉnh đốn cũng
1


Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.503.


17
nhằm mục tiêu xây dựng Đảng vững mạnh hơn, năng lực lãnh đạo được tăng
cường. Mục tiêu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng đòi hỏi mỗi cán bộ
và đảng viên phải phấn đấu không ngừng để tiến kịp sự phát triển của cách
mạng. Nếu thoả mãn, dừng lại sẽ bị lạc hậu. Hồ Chí Minh đã nêu một luận
điểm rất quan trọng: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua
là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân”1.
Những luận điểm cơ bản trên đây về công tác xây dựng Đảng của Hồ
Chí Minh đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam và nhiều nước trên thế giới
kiểm nghiệm là đúng đắn, sáng tạo, ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ ĐỔI MỚI VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

3.1. Sự cần thiết phải đổi mới và chỉnh đốn Đảng

Xuất phát từ vị trí vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới, là
nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước. Khi
cách mạng phát triển đòi hỏi Đảng phải phát triển cả về chính trị, tư tưởng và
tổ chức; cả về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Hiện nay chúng ta đang
phải đối mặt với nhiều vấn đề đòi hỏi phải giải quyết như: chủ nghĩa xã hội
với kinh tế thị trường, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước… Do đó đòi hỏi
Đảng phải có trí tuệ và năng lực tổng kết thực tiễn, để đưa ra những dự báo,
những giải pháp đúng đắn kịp thời.
Xuất phát từ thực trạng công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong
thời gian qua đã đạt được những kết quả khả quan, song vẫn còn tồn tại nhiều

yếu kém và khuyết điểm. Đại hội X đánh giá: "Cuộc vận động xây dựng và
chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng
viên chưa đạt yêu cầu đề ra… Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí còn nhiều
thiếu sót, tính định hướng, tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả chưa
cao. Công tác tổ chức trên một số mặt còn yếu, chưa thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Không ít cơ sở đảng yếu kém, năng
lực và sức chiến đấu thấp, sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên lỏng lẻo, tự

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.557, 558.đ


18
phê bình và phê bình yếu…"1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Khoá X đánh giá: “Tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
và nhân dân chưa được khắc phục có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của
Đảng và lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước”2.
Sự cần thiết phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn xuất phát từ yêu cầu
đấu tranh chống sự phá hoại của các thế lực thù địch đối với Đảng và sự
nghiệp cách mạng. Hiện nay, chúng đang đẩy mạnh thực hiện "diễn biến hoà
bình", chống phá Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Các phần tử cơ
hội chính trị trong nước móc nối với các thế lực thù địch, phản động ở nước
ngoài ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng; mua chuộc, nói xấu cán bộ, đảng viên,
kích động chia rẽ đoàn kết nội bộ, gây mất lòng tin của nhân dân, đòi đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập để xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng.
Thực tiễn cho thấy hơn bao giờ hết Đảng phải tiếp tục xây dựng và
chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Đây không chỉ

là nhiệm vụ cơ bản thường xuyên mà còn là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa sống
còn đối với sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay.
3.2. Nội dung, biện pháp chủ yếu trong đổi mới và chỉnh đốn Đảng hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn xây dựng Đảng, Đảng ta xác định phương hướng và
mục tiêu tổng quát của công tác xây dựng Đảng là: "Tiếp tục tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo
khoa học, luôn gắn bó với nhân dân"3.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.268–274
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW Khoá X, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr 34.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.279.


19
Để thực hiện phương hướng, mục tiêu trên, Đại hội X xác định một số
nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:
- Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, hoàn thiện đường lối đổi mới
và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện.

Cụ thể hoá, pháp luật hoá và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối
chính trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng
Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội. Đảng
phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại; tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, kiên định về nguyên tắc
chiến lược, linh hoạt, sáng tạo về sách lược; phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
- Tăng cường công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu rộng đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng
yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường giáo dục
phẩm chất đạo đức cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là đối với
thế hệ trẻ. Chăm lo củng cố sự đoàn kết, thống nhất và tình đồng chí trong
Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên
tự phê bình và phê bình.
Công tác tư tưởng cần nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục;
bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và những vướng mắc trong
tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để giải đáp sát thực, kịp thời; đấu
tranh khắc phục những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích
cá nhân; chủ động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ
những luận điệu phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn
"diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
kịp thời làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường



20
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; về Đảng cầm quyền và công tác xây dựng Đảng; về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa… Chú trọng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn
và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý
luận. Sớm xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giảng dạy và học tập lý luận,
công tác thông tin tuyên truyền, cổ động, báo chí xuất bản, văn hoá nghệ
thuật. Nắm bắt và định hướng dư luận xã hội, tăng cường tuyên truyền đối
ngoại, đặc biệt là những vấn đề chính trị nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, dân
chủ, nhân quyền…
Đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ,
đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức, lối sống, hết lòng
vì dân, vì cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm
trước Đảng và nhân dân, thực sự tiên phong gương mẫu trong mọi công việc.
Đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt Đảng. Thường xuyên lấy ý kiến
nhận xét của nhân dân về tư cách đạo đức cán bộ, đảng viên. Coi trọng công
tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm những đảng viên vi phạm kỷ luật.
- Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Đây là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng. Các cấp
uỷ và tổ chức đảng phải nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp của
công tác này. Phải có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết từ Trung
ương đến cơ sở, trong Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, kết hợp nhiều biện
pháp đồng bộ. Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên phải thực sự
tiên phong, gương mẫu trong chống tham nhũng.
Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2), Khoá VIII và Kết luận của Hội
nghị Trung ương bốn, Khoá IX. Coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, tự tu
dưỡng rèn luyện của cán bộ, đảng viên và công tác quản lý cán bộ, đảng viên;
đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, biểu dương và nhân rộng gương

điểm hình. Xử lý kịp thời, nghiêm minh theo kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà
nước đối với hành vi tham nhũng, bao che tham nhũng. Cấp uỷ, tổ chức đảng


21
các cấp, các ngành phải lãnh đạo chặt chẽ cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, không để kẻ xấu lợi dụng gây rối.
Trong những năm tới còn phải đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của
Đảng và của hệ thống chính trị; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo
vệ chính trị nội bộ; xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất
lượng đảng viên; đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; xây dựng
và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng.
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt
Nam là một trong những di sản đặc sắc trong hệ thống tư tưởng của Người.
Đó là tư tưởng về sự cần thiết phải có Đảng lãnh đạo cách mạng mới thành
công; về sự sáng tạo khi xác định quy luật ra đời của Đảng ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến, nền nông nghiệp lạc hậu; về những nguyên tắc xây dựng
Đảng; về Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân… Nghiên cứu vấn đề này không chỉ có ý nghĩa to lớn về
lý luận, mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, nhất là trong tình hình hiện nay,
việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng đang đặt ra rất cấp bách. Đòi hỏi phải
nghiên cứu vận dụng sáng tạo những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh
vào thực tiễn công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.




×