Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề KINH tế CHÍNH TRỊ mở RỘNG, PHÁT TRIỂN QUAN hệ KINH tế QUỐC tế TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.02 KB, 17 trang )

2
MỞ RỘNG, PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
LỜI NÓI ĐẦU

Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới
tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới và
những đặc điểm, lợi thế khác; mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã trở thành
một xu thế tất yếu trong sự phát triển kinh tế mỗi nước. Việt Nam cũng không
nằm ngoài xu thế đó. Mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế là một
trong ba nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu và nắm vững những nội dung của quan hệ kinh tế quốc tế
đồng thời hiểu rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề này là
cơ sở giúp người học có nhận thức đúng đắn vận dụng vào thực tiễn hoạt
động công tác, tránh được sự mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác trong thực hiện
các nhiệm vụ.
1. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC MỞ RỘNG, PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

1.1. Quan hệ kinh tế quốc tế và đặc điểm chung của quan hệ kinh tế
quốc tế

Quan hệ kinh tế quốc tế là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa các quốc
gia và nhóm quốc gia, các tổ chức kinh tế (nền kinh tế và khu vực), vùng lãnh
thổ dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và hợp tác quốc tế, bảo đảm
thực hiện bằng luật pháp quốc tế và được thể hiện trên những hình thức, cấp
độ khác nhau.
Quan hệ kinh tế quốc tế là một bộ phận của quan hệ quốc tế (kinh tế,
chính trị, ngoại giao, văn hoá,…) hình thành do mối quan hệ về mặt kinh tế
giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ (nền kinh tế), dân tộc. Nó được quyết định


bởi sự phân công lao động quốc tế và hình thức xã hội hoá của sản xuất. Quan
hệ kinh tế quốc tế biểu hiện ở nhiều hình thức như hoạt động xuất nhập khẩu,
chuyển giao khoa học công nghệ, kỹ thuật, lao động, đầu tư vốn,… giữa hai
hay nhiều quốc gia, tổ chức kinh tế với nhau.


3
Trong thời đại ngày nay, quan hệ kinh tế quốc tế phát triển mạnh mẽ cả
chiều rộng và chiều sâu, trở thành một xu thế tất yếu khách quan, không một
quốc gia nào có thể phát triển nếu đứng ngoài xu thế đó. Có thể nói, quan hệ
kinh tế quốc tế trở thành một trong những đặc trưng mang tính phổ biến của
thời đại công nghiệp hiện đại với những đặc điểm chung là:
- Phân công lao động và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
nước quy định quy mô, khả năng và nội dung vật chất của quan hệ kinh tế
quốc tế ở mỗi nước.
Quan hệ kinh tế quốc tế là hình thức biểu hiện của phân công lao động
quốc tế nhưng phân công lao động quốc tế lại phụ thuộc vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động trong nước. Nếu sự phân
công lao động trong nước hợp lý, mở rộng nhiều ngành nghề với sự phát triển
của lực lượng sản xuất ngày càng cao thì quan hệ kinh tế quốc tế sẽ có quy
mô, khả năng và nội dung vật chất lớn hoặc ngược lại. Tuy nhiên, trong mối
quan hệ giữa quan hệ kinh tế quốc tế với quan hệ kinh tế trong nước thì quan
hệ kinh tế quốc tế không chỉ đóng vai trò thụ động, mà nó còn làm sâu sắc,
phong phú thêm quan hệ kinh tế trong nước. Quan hệ kinh tế quốc tế xuất
hiện là tất yếu do sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động
trong nước vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dân tộc hình thành phân công lao
động trong nước và quốc tế. Đồng thời nó lại thúc đẩy tính chất đặc thù về
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động trong nước.
Đó là quan hệ biện chứng giữa phân công lao động trong mỗi một nước với
phân công lao động quốc tế, giữa nền kinh tế thế giới với nền kinh tế của mỗi

quốc gia.
Với ý nghĩa đó, từ trước đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chủ
trương đẩy mạnh phân công lao động trong nước, chú trọng phát triển và đầu
tư một số ngành nghề, lĩnh vực mà sản phẩm có chất lượng cao trên cơ sở các
thế mạnh của nền kinh tế Việt Nam để tham gia hợp tác và phân công lao
động quốc tế, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế đất nước.
- Bản chất kinh tế xã hội của các quan hệ kinh tế quốc tế của mỗi nước
do bản chất của các quan hệ sản xuất thống trị trong nước chi phối.


4
Đặc điểm này xác định rõ mối quan hệ kinh tế trong nước với quan hệ
kinh tế quốc tế và quyết định ở mỗi hình thái kinh tế xã hội có một loại hình
quan hệ kinh tế quốc tế tương ứng. Bởi vì, sự phát triển của sản xuất và phân
công lao động trong nước vận động phát triển trong quan hệ sản xuất thích
ứng với nó. Xuất phát từ đó, bản chất kinh tế xã hội của quan hệ kinh tế quốc
tế cũng do bản chất quan hệ sản xuất thống trị trong nước quy định. Với các
nước tư bản chủ nghĩa, bản chất quan hệ kinh tế quốc tế do quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất chi phối; với các nước xã hội chủ nghĩa, bản chất quan hệ kinh tế
quốc tế do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu chi phối.
- Các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng mang nội dung chính trị sâu sắc.
Trong quan hệ kinh tế trên thế giới hình thành hai khuynh hướng chính
là kinh tế hoá các hoạt động chính trị quốc tế hoặc chính trị hoá các hoạt động
kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, trong quan hệ kinh tế quốc tế cần phải chống quan điểm chỉ
thấy lợi ích kinh tế trước mắt mà mơ hồ, mất cảnh giác, hoặc quá nhấn mạnh
về chính trị nên kìm hãm sự phát triển kinh tế và không dám mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế.

1.2. Sự cần thiết phải mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế
trong thời đại ngày nay

Quan hệ kinh tế quốc tế xuất hiện từ rất sớm. Lịch sử đã ghi nhận “Con
đường tơ lụa” đó chính là thương mại quốc tế - một hình thức chủ yếu của
quan hệ kinh tế quốc tế tồn tại cho đến ngày nay. Mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế đã và đang là xu thế tất yếu đối với tất cả các nước trong thời đại ngày
nay xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội cả về
chiều rộng và chiều sâu thúc đẩy sự cần thiết mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Nền đại công nghiệp đã làm cho lực lượng sản xuất của mỗi nước phát
triển mạnh mẽ và vượt ra khỏi biên giới quốc gia, làm cho sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nước trên thế giới ở tất cả các lĩnh vực ngày càng lớn. Hơn nữa,
với sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt


5
trong giai đoạn hiện nay đã tạo ra bước nhảy vọt nhanh chóng trong lực lượng
sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, chuyên môn hoá, hợp
tác hoá trong sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển cả về chiều sâu và
chiều rộng.
- Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiên
tiến trên thế giới với nội dung tự động hoá, công nghệ sinh học, các vật liệu
mới, điện tử, tin học và sự áp dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học công
nghệ vào sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả kinh tế. Điều này đã đặt
ra hàng loạt vấn đề cần có sự hợp tác về vốn, lực lượng khoa học, kỹ thuật
công nghệ, thông tin, viễn thông… giữa các quốc gia, dân tộc. Việc giải quyết
các vần đề toàn cầu như bảo đảm môi trường sinh thái, tái sản xuất môi
trường, đảm bảo nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm cho sản xuất và đời
sống, giải quyết vấn đề bệnh tật, chiến tranh, hoà bình… cũng đòi hỏi sự hợp

tác giữa các quốc gia với nhau. Tất cả những điều đó làm tăng thêm sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của mỗi nước.
- Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường hiện đại với sự trao
đổi mua bán diễn ra với quy mô ngày càng rộng lớn đã tạo ra sự gắn kết thị
trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới. Nền kinh tế thị trường
càng phát triển thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn, đặc
biệt thông qua các hiệp định song phương và đa phương.
Ngược dòng lịch sử chúng ta đều biết: cùng với sự phát triển của phân
công lao động là sự ra đời của sản xuất hàng hoá, phá vỡ vòng tuần hoàn khép
kín của kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Chính kinh tế hàng hoá đã dần dỡ bỏ
tính cát cứ của vùng, miền trong từng quốc gia, dân tộc và đến một mức độ
nhất định vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Các quan hệ kinh tế thương mại
giữa các nước được khởi động và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển
của kinh tế hàng hoá, việc hình thành “Con đường tơ lụa” từ Trung Quốc
xuyên qua vùng Trung Á đến Trung Cận Đông. Việc giao lưu buôn bán giữa
các dân tộc Châu Âu, Châu Á đã nói lên điều đó. Khi chủ nghĩa tư bản ra đời,
cùng với đại công nghiệp và việc đưa các đội quân viễn chinh đi xâm chiếm,
cướp bóc thuộc địa đã đẩy nhanh hơn quá trình giao lưu hàng hoá trên thế
giới. Với đà phát triển của chủ nghĩa tư bản, thương mại toàn cầu ngày càng


6
được đẩy mạnh. Cùng với sự phát triển của thương mại thế giới là sự thay đổi
cơ cấu thị trường quốc tế; thị trường tài chính ngày càng có vai trò quan trọng
tạo ra một nền kinh tế ảo mà những biến động của nó tác động trực tiếp đến
nền kinh tế toàn cầu.
Phân công lao động xã hội và nền sản xuất vật chất phát triển cùng với
sự phát triển của khoa học công nghệ và thị trường. Một sản phẩm sản xuất ra
có sự góp mặt của nhiều công ty trên thế giới. Sự ra đời và phát triển của các
công ty xuyên quốc gia cũng làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng mang

tính quốc tế hoá cao.
Đối với Việt Nam hiện nay, sự cần thiết phải mở rộng, phát triển quan
hệ kinh tế quốc tế còn xuất phát từ chính vai trò, tác dụng của việc mở rộng
phát triển quan hệ kinh tế quốc tế trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Việc mở rộng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho
Việt Nam mở rộng và khai thông thị trường nội địa với các nước trong khu
vực và thế giới. Thông qua các hiệp định đa phương và song phương, qua
việc tham gia vào các tổ chức kinh tế, thương mại trong khu vực và thế giới
sẽ góp phần mở rộng thị trường, tạo khả năng thu hút các nguồn lực nước
ngoài như vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến… trên thế
giới hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, các
vùng kinh tế trọng điểm… đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam là một nước
có lực lượng lao động dồi dào, thông minh, khéo léo, nhưng số lao động đã
được đào tạo nghề, chuyên môn kỹ thuật còn thấp. Do đó, tình trạng thừa lao
động phổ thông nhưng lại thiếu lao động có tay nghề cao và các chuyên gia
kỹ thuật công nghệ còn phổ biến. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế sẽ tạo môi
trường mở rộng giao lưu, khai thông nguồn nhân lực giữa nước ta và thế giới.
Thông qua hình thức hợp tác đào tạo, trao đổi chuyên gia, xuất khẩu lao
động… sẽ góp phần nâng cao trình độ tay nghề, tiếp thu kỹ thuật công nghệ
mới, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động…


7
Thông qua mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế tạo điều kiện
đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, từng bước hình thành cơ

cấu kinh tế hợp lý, giải phóng năng lực sản xuất ở mọi thành phần kinh tế,
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đồng thời, tăng cường
khả năng củng cố quốc phòng - an ninh, tạo thế và lực cho công cuộc xây
dựng, bảo vệ đất nước…
Những tác động tích cực trên chỉ được phát huy hiệu quả khi có sự nỗ
lực rất cao của Nhà nước và nhân dân ta trong việc nhận thức và chuẩn bị
những điều kiện để chủ động mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế mặc dù là xu thế chung của
thời đại, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt trong khi đó, tiềm lực kinh tế
của Việt Nam còn có hạn, chất lượng lao động, trình độ công nghệ, năng lực
quản lý, sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn yếu… Vai trò to lớn
của quan hệ kinh tế quốc tế chỉ có thể đạt được khi hoạt động kinh tế quốc tế
vượt qua được những thách thức của toàn cầu hoá và giữ đúng định hướng xã
hội chủ nghĩa. Quá trình mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế cần
chú ý đến những tác động tiêu cực đó là: tính lệ thuộc vào nền kinh tế thế giới
về vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường,… hay nguy cơ trở thành thị trường
tiêu thụ, bãi thải công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường hiện nay đang là
một thực tế đặt ra. Ngoài ra, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế cũng cần chú ý
đến sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, các tầng lớp trong xã hội sẽ có
nguy cơ tăng nhanh, nguy cơ bị chèn ép, áp đặt, thôn tính do cạnh tranh
không cân sức với các công ty lớn của nước ngoài, tệ nạn xã hội cũng như vấn
đề văn hoá dân tộc, độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia đứng trước những
thách thức to lớn do tác động của toàn cầu hoá kinh tế…
Hội nhập kinh tế quốc tế là mở rộng và đa dạng hoá các mối quan hệ
với bên ngoài, do đó các thế lực thù địch có thêm điều kiện để thực hiện mục
tiêu chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, cần cảnh giác phát hiện và kiên quyết đấu tranh



8
làm thất bại các âm mưu và thủ đoạn thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch, lấy kinh tế tác động vào chính trị, làm suy yếu
vai trò lãnh đạo của Đảng, chia rẽ Đảng với Nhà nước và nhân dân. Giữ vững
độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc trong quan hệ
kinh tế quốc tế là yêu cầu xuyên suốt trong mọi hoạt động kinh tế quốc tế đảm
bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
2. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN MỞ RỘNG, PHÁT
TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY CỦA ĐẢNG TA

2.1. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế

Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng quyết định thành công của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay. Xuất phát từ tình hình trên
thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu
hoá đang được đẩy nhanh hơn, tạo ra cơ hội phát triển cho các quốc gia, dân
tộc. Hơn nữa, cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới đã
và đang có những bước tiến nhảy vọt, những đột phá lớn mở ra triển vọng
mới cho mỗi nền kinh tế tham gia phân công lao động toàn cầu. Tuy nhiên,
những diễn biến phức tạp và mâu thuẫn lớn của thời đại trên thế giới vẫn rất
gay gắt; toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng
nhiều yếu tố bất bình đẳng gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia
nhất là các nước đang phát triển; nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các
quốc gia và tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển, chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế.
Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác khu

vực và quốc tế ”1.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở rộng giao lưu kinh tế và khoa
học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu; là quá trình tham gia giải
quyết các vấn đề kinh tế - xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề dân số, tài
1

Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.112


9
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống…; là quá trình tham gia loại bỏ
dần các hàng rào thương mại, thanh toán quốc tế và việc di chuyển các nhân
tố sản xuất giữa các nước. Thực chất hội nhập kinh tế quốc tế chính là quá
trình mở cửa nền kinh tế nhằm kết hợp các nguồn lực trong nước với các
nguồn lực nước ngoài để phát triển và xác lập vị thế của mình trong quan hệ
kinh tế quốc tế. Đó là quá trình thực hiện những điều chỉnh về chính sách, luật
lệ ở trong nước cho thích ứng với tình hình và thông lệ quốc tế, đồng thời
thực hiện sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhằm phát huy lợi thế so sánh, nâng
cao sức cạnh tranh của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế
quốc tế là đòi hỏi tất yếu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay. Tuy nhiên, cần nhận rõ những bất lợi, thách thức khi tham gia hội
nhập nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền, định hướng xã hội chủ nghĩa và chuẩn
bị đầy đủ các điều kiện để hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hành động có ý thức tự giác của
Nhà nước, doanh nghiệp trong việc xây dựng và thực hiện các chiến lược kinh
tế xã hội, chiến lược đầu tư, sản xuất kinh doanh trên cơ sở lộ trình, hình thức
và bước đi đã lựa chọn nhằm phát triển có hiệu quả những lợi thế của đất
nước và tránh được những tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải tích cực trong công tác

chuẩn bị các điều kiện, có kế hoạch cụ thể với lộ trình, bước đi phù hợp,
không nóng vội, giản đơn, nhưng cũng không chần chừ do dự, bỏ lỡ thời cơ.
Kết hợp chặt chẽ giữa nội lực với ngoại lực tạo nên sức mạnh tổng hợp trong
đó nội lực có vai trò quyết định. Quá trình hội nhập cũng là quá trình chủ
động đẩy nhanh các cuộc đàm phán song phương, đa phương để gia nhập vào
các liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, tạo ra thế và lực mới để hội nhập có
hiệu quả hơn. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với chiến lược
phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020”1.
Theo tinh thần đó, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu là
chúng ta hoàn toàn chủ động quyết định đường lối, chính sách phát triển kinh
1

Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H,2006, tr.114


10
tế - xã hội nói chung, chủ trương chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói
riêng. Chủ động là nắm vững quy luật, tính tất yếu của sự vận động kinh tế
toàn cầu, phát huy đầy đủ năng lực nội sinh, xác định lộ trình, nội dung, quy
mô, bước đi phù hợp, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế quốc
tế. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là sáng tạo, phân tích, lựa chọn phương
thức hành động đúng, dự báo được những thuận lợi, khó khăn khi hội nhập.
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh
đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn,
từ trung ương đến địa phương, doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng lộ trình
kế hoạch, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn
chỉnh hệ thống luật pháp… Tích cực là không duy trì quá lâu các chính sách
bảo hộ của Nhà nước, khắc phục nhanh tình trạng trông chờ, ỷ lại ở sự bao
cấp của Nhà nước. Tích cực nhưng phải thận trọng, vững chắc.

Thực hiện đường lối của Đảng đến nay trong quan hệ song phương
Việt Nam đã ký trên 80 hiệp định thương mại, 47 hiệp định khuyến khích và
bảo hộ đầu tư với các nước, có quan hệ buôn bán với 170 nước và vùng lãnh
thổ, đã có trên 70 quốc gia và nền kinh tế có dự án đầu tư ở Việt Nam. Gia
nhập ASEAN, AFTA, APEC, đặc biệt việc gia nhập WTO là mốc quan trọng
trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế của nước ta. Với những bước đi
đó Việt Nam đã và đang chủ động hội nhập sâu hơn vào một khu vực thị
trường rộng lớn có tính cạnh tranh cao và gồm những đối tác có năng lực
cạnh tranh rất mạnh. Đó là những bước đi quan trọng trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta, diễn ra đồng thời trên cả cấp độ song phương và
khu vực. Thực tiễn thời gian qua đã chứng tỏ việc chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta là đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển
chung của thế giới.
Biện pháp chủ yếu để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
Tiến hành công tác tư tưởng, tuyên truyền giải thích trong toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân… về chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng nhằm đạt tới sự thống nhất về nhận thức và hành động,
nâng cao niềm tin và quyết tâm trong tổ chức thực hiện.


11
Khẩn trương xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với lộ trình hợp
lý và chương trình kế hoạch hành động cụ thể, phù hợp.
Chủ động và khẩn trương đổi mới công nghệ và quản lý, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm khai thác tối
đa mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, nâng cao sức cạnh tranh của doanh
nghiệp và nền kinh tế. Từng bước hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, gắn thị
trường trong nước với thị trường thế giới, tập trung phát triển những ngành
hàng có sức cạnh tranh cao, có lợi thế so sánh lớn. Đẩy mạnh xúc tiến thương
mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới, củng cố thương hiệu,

nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Phát huy vai trò chủ thể của doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế, khuyến
khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước
ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.
Tích cực tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, trước hết hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý cho việc phát
triển đồng bộ các loại thị trường, giải phóng mọi tiềm năng, phát huy tối đa
mọi tiềm lực tạo động lực cho sự phát triển, …
Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế, trong đó chú ý đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ có đủ
năng lực, trình độ, bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp để tham gia có
hiệu quả vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tích cực đổi mới thể chế, chính sách và bộ máy quản lý phù hợp với
cam kết của tổ chức thương mại thế giới WTO, gắn kết với quá trình đổi mới
toàn diện về kinh tế của đất nước.
Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại,
gắn kết chủ trương hội nhập với nhiệm vụ an ninh - quốc phòng ngay trong
quá trình xây dựng kế hoạch, xác định lộ trình cũng như trong quá trình thực
hiện nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế
với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia và an toàn xã hội. Theo đó,
các lực lượng vũ trang nhân dân cần phát huy vai trò, trách nhiệm của mình
cùng với toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc an ninh, chủ quyền quốc gia
và tạo môi trường thuận lợi để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.


12
Mặt khác tận dụng những cơ hội thuận lợi của hội nhập kinh tế để xây dựng
quân đội, củng cố quốc phòng.
2.2. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ định hướng xã hội chủ nghĩa


Đây là yêu cầu xuyên suốt trong quan hệ kinh tế quốc tế ở nước ta. Độc
lập tự chủ về kinh tế là nền tảng cơ bản để củng cố và duy trì độc lập tự chủ
về chính trị. Sẽ không có độc lập tự chủ về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, sự phụ thuộc
về kinh tế giữa các nước càng gia tăng, sự cạnh tranh quốc tế ngày càng gay
gắt mà lợi thế thuộc về các nước công nghiệp phát triển thì nguy cơ bị lệ
thuộc đang là một thách thức lớn với các nước đang phát triển. Điều này càng
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta đang trong quá trình mở cửa,
hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phải được coi là
một bộ phận của cuộc đấu tranh vì độc lập, chủ quyền của mỗi nước nói
chung và Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, quan niệm về một nền kinh tế độc lập tự chủ ngày nay cũng
khác trước đây. Độc lập, tự chủ về kinh tế trước hết được hiểu không bị chi
phối, lệ thuộc vào nước khác, hoặc một tổ chức quốc tế nào về đường lối,
chính sách phát triển kinh tế, vào những điều kiện kinh tế chính trị mà họ
muốn áp đặt trong quan hệ hợp tác song phương, đa phương, trong tiếp nhận
viện trợ, đầu tư, … mà những điều kiện ấy sẽ gây tổn hại đến lợi ích cơ bản
của quốc gia, dân tộc. Đồng thời giữ vững ổn định về phát triển kinh tế, chính
trị trước những biến động của thị trường, của khủng hoảng tài chính, kinh tế ở
khu vực, trước sự bao vây, cô lập, chống phá của các thế lực thù địch từ bên
ngoài. Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, độc lập tự chủ về kinh tế là độc
lập, tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập với nền kinh tế
thế giới, hợp tác và cạnh tranh quốc tế có hiệu quả nhưng không lệ thuộc, phụ
thuộc một chiều vào bên ngoài. Đối với nước ta, giữ vững độc lập tự chủ về
kinh tế còn là điều kiện tiên quyết để định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
- Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện toàn cầu hoá về kinh tế
phải hội tụ đầy đủ các yếu tố cơ bản sau:



13
Phải độc lập, tự chủ về đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Có tiềm lực kinh tế đủ mạnh để chủ
động đáp ứng kịp thời những nhu cầu cơ bản về sản xuất, tiêu dùng, về an
ninh quốc phòng của đất nước; ứng phó kịp thời với những tác động xấu từ
bên ngoài và khẳng định vị thế của mình trong quan hệ quốc tế hiện nay như:
có mức tích luỹ cao trong nội bộ nền kinh tế, cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức
cạnh tranh cao, kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại, có một số ngành công
nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học công nghệ, giữ vững
ổn định kinh tế, tài chính vĩ mô; đảm bảo an ninh lương thực, an toàn năng
lượng, tài chính, môi trường, …
- Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải đi đôi với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp
để phát triển đất nước. Độc lập, tự chủ về kinh tế sẽ tạo cơ sở vững chắc để
hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, ngược lại, quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ tạo điều kiện cần thiết để xây dựng và củng cố nền kinh tế độc lập,
tự chủ. Do đó, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là cách thức hợp lý nhất tạo
sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, khai thác tốt mọi tiềm năng, lợi thế
trong nước để phát triển kinh tế đồng thời giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài.
Theo đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X xác định: “Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân,
nhân dân là chủ thể của hội nhập và được hưởng thành quả của hội nhập.
Mọi chính sách kinh tế và cơ chế quản lý phải nhằm phát huy tính chủ động
của mọi người dân, phát huy khả năng sáng tạo và nguồn lực của nhân dân,
đi đôi với việc lấy người dân làm đối tượng phục vụ. Thực hiện đúng yêu cầu
dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, tạo ra sự đồng thuận cao trong
toàn xã hội”1.
2.3. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đảm bảo phát

triển mạnh và bền vững; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công
bằng xã hội

1

Đảng CSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Nxb CTQG, H, 2007, tr.45


14
Quan điểm này xuất phát từ việc coi năng lực nội sinh và các nỗ lực đổi
mới toàn diện nền kinh tế đất nước là nhân tố giữ vai trò quyết định trong việc
thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả
quan hệ kinh tế quốc tế, đồng thời cần thấy hết sự gắn kết giữa nguồn lực trong
nước với nguồn lực từ bên ngoài khi kinh tế thị trường trong nước đã trở thành
một bộ phận của tổng đầu tư xã hội, thể chế kinh tế quốc gia đã tương thích với
thể chế kinh tế quốc tế, … điều đó cũng có nghĩa là nhìn nhận đúng hơn vai trò
của nguồn lực bên ngoài trong sức mạnh tổng hợp quốc gia để xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Về nội dung này, Đảng ta xác định: “Gắn khai thác với sử dụng có
hiệu quả cao các nguồn lực; phát huy tối đa nội lực đi đôi với việc coi trọng
thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài tạo thành sức mạnh
quốc gia, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Chủ động, tích cực tạo ra và sử dụng có hiệu quả cao các lợi thế
so sánh của đất nước”1.
Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi liền với nâng cao chất lượng,
hiệu quả tăng trưởng. Trong tình hình hiện nay, do trình độ phát triển và sự
tụt hậu của nước ta so với các nước trong khu vực yêu cầu phải có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao để sớm đuổi kịp các nước. Nhưng chất lượng, hiệu quả
tăng trưởng phải là tiêu chí quan trọng hàng đầu để đảm bảo phát triển bền
vững. Mục tiêu xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh” bên cạnh yêu cầu tốc độ tăng trưởng kinh tế cao cần phải
hết sức coi trọng phát triển các lĩnh vực khác, giải quyết tốt các vấn đề xã hội
phát sinh dưới tác động của toàn cầu hoá. Đại hội X khẳng định quan điểm:
“Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước,
ở từng lĩnh vực, địa phương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách
xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và
hưởng thụ,… ”2.

1
2

Đảng CSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Khoá X, Nxb CTQG, H,2007 tr.46
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H,2006, tr. 101.


15
Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội là điều kiện quan trọng hàng
đầu để phát triển. Giữ gìn bản sắc văn hoá, bảo vệ môi trường là mục tiêu
đồng thời là động lực của sự phát triển.
2.4. Đẩy mạnh xuất khẩu, chủ động về nhập khẩu, kiềm chế và thu hẹp
dần nhập siêu

Do nhu cầu phát triển sản xuất cũng như ổn định đời sống của nhân dân
trong nước, thời gian vừa qua nước ta phải nhập khẩu khá nhiều. Mặc dù
Đảng, Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách hạn chế nhập khẩu ở
mức thấp nhất nhưng kim ngạch nhập khẩu của nước ta vẫn cao, ảnh hưởng
trực tiếp đến việc thực hiện cân đối cán cân xuất nhập khẩu trong nền kinh tế
quốc dân. Trên thực tế chúng ta vẫn chưa có những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực có lợi thế cao để có thể đứng vững chắc trên thị trường quốc tế, cơ cấu

hàng xuất khẩu chưa phong phú, hấp dẫn, trình độ chế biến còn hạn chế, chất
lượng thấp và không ổn định, khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước ta còn
thấp. Hàng xuất khẩu của nước ta chủ yếu vẫn là nông, lâm, thuỷ sản, hàng
thủ công mỹ nghệ và một vài khoáng sản, xuất khẩu chủ yếu vẫn là sản phẩm
thô. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định nội dung quan
điểm là: “Tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có giá trị
tăng thêm cao, giàu hàm lượng công nghệ, có sức cạnh tranh, tạo thêm các
sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới, hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài
nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua chế biến. Củng cố và mở rộng thị
trường xuất khẩu, tạo thị trường ổn định cho các mặt hàng có khả năng cạnh
tranh, tăng thêm thị phần ở các thị trường lớn và khai mở các thị trường còn
nhiều tiềm năng”1.
Do vậy, cần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải khai thác nhanh mọi thế mạnh của cả
nước, của mỗi vùng, mỗi ngành, tập trung nguồn lực thích đáng cho các lĩnh
vực, các trung tâm, các cơ sở sản xuất để nâng cao trình độ chế biến, hạ giá
thành sản phẩm. Ngoài ra, phải tăng cường nghiên cứu, khảo sát thị trường
thế giới và khả năng thực tế của ta để phấn đấu cải tiến mẫu mã, đổi mới cơ

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.205


16
cấu mặt hàng xuất khẩu nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao và tạo điều kiện
ổn định thị trường tiêu thụ…
Quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải tuân thủ tư tưởng chỉ
đạo chung là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội,
đồng thời rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và

hoàn cảnh cụ thể của đất nước cũng như diễn biến của tình hình thế giới và
khu vực, phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng mà ta có quan hệ.
2.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc

Quán triệt quan điểm này vừa là điều kiện tiên quyết vừa là cơ sở để
thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Yêu cầu ổn định chính trị, giữ vững an ninh và chủ quyền quốc
gia, bảo đảm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tất
yếu đòi hỏi phải đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Quyết định đúng
đắn, kịp thời và linh hoạt của Đảng, cùng hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước chính là sức mạnh định hướng để phát huy cao độ vai trò, trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp và người dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò rất quan trọng
đảm bảo thắng lợi trong quá trình hội nhập, vì hội nhập là công việc của toàn
dân, vì lợi ích của nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là liên minh
chính trị và tập hợp đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân đóng góp rất quan
trọng cho sự đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy vai trò tập hợp quần chúng, phản
biện, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là góp phần cho
hội nhập thành công.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X khẳng
định: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai
trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”1.

1

Đảng CSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá X, Nxb CTQG, H, 2007, tr.47



17
Cần quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo ở đây là quyết tâm chính trị,
đường lối chính trị của Đảng, quyết sách quản lý của Nhà nước, sự chủ động
của doanh nghiệp và ý chí tự lực, tự cường, tinh thần tự tôn dân tộc của mọi
người dân là bốn trụ lực chính quyết định sự thắng lợi của hội nhập kinh tế
quốc tế nói chung, vì mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và
cạnh tranh, có nhiều cơ hội nhưng không ít thách thức…, do vậy, cần tỉnh táo,
linh hoạt trong xử lý tính hai mặt theo từng đối tượng, trường hợp, thời điểm
cụ thể, vừa đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động; vừa chống tư tưởng đơn giản,
nôn nóng. Theo đó, các lực lượng vũ trang nhân dân cần phát huy tốt vai trò,
trách nhiệm của mình cùng với toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc an ninh
chủ quyền quốc gia và tạo môi trường thuận lợi để chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế có hiệu quả. Mặt khác, tận dụng những cơ hội thuận lợi của hội nhập
để xây dựng quân đội ngày càng hiện đại, củng cố quốc phòng, an ninh.


18
KẾT LUẬN

Quan hệ kinh tế quốc tế là chiến lược quan trọng của Đảng Cộng sản
Việt Nam nhằm ổn định phát triển kinh tế xã hội, tạo việc làm cho người lao
động nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Quá trình phát triển
quan hệ kinh tế quốc tế phải tuân thủ những quan điểm của Đảng, đó là giữ
vững nguyên tắc độc lập tự chủ, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng
có lợi không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đồng thời, phải năng
động, sáng tạo phù hợp với vị trí, điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam. Nắm
chắc tình hình diễn biến của kinh tế thế giới và khu vực để đề ra quan điểm

mở rộng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế hợp lý, bên cạnh đó phải nêu cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn
của kẻ thù.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, để không bị lệ thuộc vào bên ngoài
cần nhanh chóng phát huy tiềm lực bên trong, biến nhân tố ngoại sinh thành
điều kiện để phát triển nhân tố nội sinh của Việt Nam. Cần phải nắm vững tiêu
chí hiệu quả kinh tế xã hội trong quan hệ kinh tế với nước ngoài, mà tiêu chí ấy
chính là nhờ kết quả của hoạt động mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, kinh tế
nước ta tăng trưởng và ổn định, đời sống nhân dân được nâng cao cả về vật
chất lẫn tinh thần, khối đoàn kết dân tộc dựa trên cơ sở liên minh công nhân –
nông dân - trí thức ngày càng vững chắc. Cần giữ vững ổn định chính trị, xây
dựng hệ thống chính trị vững mạnh củng cố an ninh, quốc phòng và đấu tranh
có hiệu quả, chống âm mưu phá hoại an ninh, “diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định nhất trong việc phát triển
quan hệ kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay cũng như trong tương lai.



×