Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Phân tích những đặc điểm của doanh nhân việt nam dưới yếu tố dám chất nhận rủi ro trong kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300 KB, 11 trang )

Quản trị Marketing

BÀI LUẬN MARKETING
MÔN: QUẢN TRỊ MARKETING
Đề bài: Phân tích những đặc điểm của doanh nhân Việt Nam dưới yếu tố dám chất
nhận rủi ro trong kinh doanh?
Tính đổi mới, sáng tạo/innovativeness (về SP, kênh phân phối, hoạt động khuyếch
trương…)
Tính tiên phong, đi trước đối thủ trong các hoạt động kinh doanh/proactiveness
Đánh giá thực trạng mức độ & vai trò từng khía cạnh trên (thang điểm 1-5, 1: rất thấp,
3: TB, 5: rất cao); so sánh mức độ theo tuổi tác, giới tính, khu vực KT (tư nhân, nhà
nước, nước ngoài/LD,…), qui mô DN, lĩnh vực, ngành nghề hoạt động,…Nêu ví du
minh họa.
Bài làm
Hầu hết trên các phương tiện thông tin đại chúng như các kênh truyền hình, báo
mạng, báo giấy … trong thời gian gian gần đây đều đưa các thông tin liên quan đến
các doanh nhân trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Doanh nhân Việt Nam hiện nay là
một cộng đồng rất đa dạng, hình thành từ nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã
hội nhưng họ có một đặc điểm chung là làm công việc kinh doanh với mục tiêu đạt
được sự giàu có và thành đạt. Họ không chỉ là các ông chủ tư nhân mà còn bao gồm cả
bộ phận cán bộ, lãnh đạo, quản lý và nghiệp vụ kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà
nước; không chỉ là một bộ phận của trí thức mà còn có trong giai cấp nông dân, đội
ngũ cán bộ, công chức...; không chỉ là những người có hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng
mà có cả những người mới lập nghiệp nghèo nhưng có chí làm giàu.
Những tư tưởng mới của thời cuộc và sự thay đổi của bối cảnh xã hội đã hình
thành nên những đặc tính rất cơ bản của mỗi thế hệ doanh nhân. Và chính cuộc khủng
hoảng hiện nay, cùng bối cảnh hội nhập sâu rộng về nhiều mặt của Việt Nam với thế
giới cũng đã định danh những đặc tính cơ bản cho thế hệ doanh nhân mới. Các đặc
điểm của thế hệ doanh nhân mới cụ thể như sau:
+ Doanh nhân là những con người có khát vọng mới - khát vọng đua tranh mạnh mẽ
cùng thế giới, dù quy mô của doanh nghiệp là lớn hay chỉ nhỏ gọn trong phạm vi gia


đình, dù là đua tranh ở bên ngoài đất nước hay đua tranh ngay trong “nhà” của mình,


Quản trị Marketing

hay là đua tranh giữa các doanh nhân Việt với nhau. Đó còn là khát vọng xây dựng
hình ảnh mới đẹp hơn cho cả cộng đồng doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam trong
mắt bạn bè quốc tế.
+ Doanh nhân là những con người có năng lực mới - năng lực quản lý và lãnh đạo
mới để có thể thực hiện được khát vọng mới nói trên: có khả năng nhìn xa (không chỉ
2 năm, 5 năm, mà có thể là 20 năm, 30 năm..., thậm chí là xa hơn) và trông rộng
(không chỉ giới hạn ở tầm nhìn VN, mà còn có khả năng nhìn thấy cơ hội ở khắp nơi
trên thế giới); có khả năng sống một cách đàng hoàng và làm việc thành công cùng
những con người với đủ màu da, quốc tịch, chủng tộc, cũng như tôn giáo...
+ Doanh nhân luôn mang trong mình những giá trị mới, những phẩm chất, những
văn hóa mới để làm nền tảng cho cho việc thực hiện các khát vọng của mình.
Những giá trị mới này, không nằm ngoài nền tảng đạo đức kinh doanh, không nằm
ngoài tinh thần phụng sự xã hội mà thế giới tôn vinh, và cũng không nằm ngoài cái
“đạo kinh doanh” mà thế hệ doanh nhân 2.0 đã bắt đầu nghĩ đến và tạo dựng. Những
giá trị nền tảng (core values) có thể là: chữ tín (Integrity), Tiên phong (Leadership),
Sáng tạo (Innovativeness), Mạo hiểm (Dedication), Tôn trọng (Respect)…Thế hệ
doanh nhân trẻ biết cách tự tái tạo lại bản thân mình, tự làm mới mình bằng khát vọng
mới, năng lực mới và giá trị mới. Trong bài viết này, tôi phân tích một số đặc điểm
chính như sau :
❖ Mức độ dám chấp nhận rủi ro trong KD/risk taking
Doanh nhân là những người dám chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, nhưng điều đó không
có nghĩa là để khởi nghiệp, tất cả các doanh nhân phải đối mặt ngay với rủi ro mà
ngược lại, họ phải là người biết cách phòng tránh, hạn chế rủi ro. Warren Buffet đã
từng nói: “Nếu bạn không dám mạo hiểm trên thương trường thì tốt nhất là bạn nên
loại bỏ khỏi ý muốn của mình về những khoản lợi nhuận khổng lồ”.

Trong hoàn cảnh cạnh tranh thị trường rất khốc liệt này, rủi ro là khó tránh khỏi.
Doanh nghiệp nào không dám chấp nhận rủi ro sẽ không phát triển lớn mạnh được.
Thông thường thành công càng lớn thì cũng phải chịu rủi ro càng lớn hơn, đó là sự
thực. Những người mạo hiểm chủ động trước rủi ro là những người đầy năng lực, rất
mẫn cảm và có cách xử lý hợp lý đối với rủi ro. Họ sử dụng phương thức mạo hiểm,


Quản trị Marketing

trong nguy hiểm có sự ổn định. Hoặc trước khi hành động họ luôn để một con đường
thoát cho mình, tiến lên có thể tấn công, rút lui có thể phòng thủ, luôn đề phòng sự thất
bại. Đó chính là con đường tất yếu để giảm bớt tổn thất. Con người hoàn toàn có thể
giảm rủi ro tới mức thấp nhất.
Theo các kết quả điều tra, khoảng 70% doanh nhân lãnh đạo các doanh nghiệp dân
doanh ở độ tuổi dưới 45 (đối với doanh nghiệp nữ, tỷ lệ đó là 62%, với doanh nghiệp
quốc doanh là 20 – 25%). Tuổi đời trẻ, ảnh hưởng nhiều tới tính năng động, ý chí dám
chấp nhận rủi ro, thách thức, khả năng học hỏi và sức làm việc của doanh nhân. Một
trong những tố chất quan trọng nhất của một doanh nhân là dám chấp nhận rủi ro.
Không biết được điều đó thì không có một doanh nghiệp lớn mạnh.
Bí quyết đầu tư là phải mạo hiểm với những rủi ro được tính toán trước. Mỗi một
cơ hội đầu tư luôn mang theo những rủi ro tiềm ẩn. Trong một số thương vụ đầu tư,
một loại rủi ro nhất định có thể chiếm ưu thế hơn, và những rủi ro khác chỉ là thứ yếu.
Hiểu đầy đủ về những loại rủi ro chính yếu là cần thiết để mạo hiểm có tính toán và
đưa ra những quyết định đầu tư nhanh nhạy.
Hơn 90% doanh nghiệp hiện nay của Việt nam là nhỏ và vừa, trong đó phần lớn
trong số đó lại là nhỏ và rất nhỏ. Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, không thể
không có Doanh nghiệp lớn. Có một nghịch lý hiện nay là chúng ta vừa thiếu vừa thừa
Doanh nghiệp lớn: thiếu những Doanh nghiệp lớn có khả năng cạnh tranh quốc tế,
trong khi lại thừa Doanh nghiệp lớn kém hiệu quả (Tập đoàn Kinh tế Nhà nước). Ngay
cả khi các Doanh nghiệp dám chấp nhận rủi ro thì họ cũng cần tìm những biện pháp để

giảm bớt và phân tán rủi ro. Ở đây, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Ra
quốc tế cần hiểu biết và tôn trọng "luật hàng hải" quốc tế, luật biển quốc tế khác luật
sông nội địa. Đã một thời gian dài các Doanh nghiệp Việt quen với việc xé rào và lách
luật hơn là tuân thủ luật. Hiểu biết luật và các tập quán thương mại quốc tế không chỉ
giúp các Doanh nghiệp thành công hơn, mà còn giúp họ giảm rủi ro và bớt tổn thất
trong những tranh chấp thương mại khi chúng xảy ra.
Một ví dụ điển hình về việc chấp nhận rủi ro trên thế giới: Những năm đầu thập niên
80, Micheal Dell, chủ tịch Dell Computer lúc đó còn là sinh viên đã phát minh ra mạch
từ tính của các máy điều khiển tự động. Sau đó, Dell đem bán phát minh cho một công


Quản trị Marketing

ty cơ khí của Mỹ. Nhận thấy rằng kỹ thuật máy tính đang ngày một phát triển và sẽ rất
hưng thịnh trong nay mai, Dell không hề do dự sử dụng số tiền bán phát minh của
mình mở công ty máy tính Dell Computer. Dưới sự trợ giúp của nhiều người cùng với
sự phân tích đánh giá đúng đắn về các nguồn thông tin, Dell đã quyết định một cách
khác người, mạo hiểm mở các công ty phát triển máy tính cỡ lớn bỏ qua các công ty
máy tính nhỏ, đồng thời chuyển sang kinh doanh các thiết bị máy tính văn phòng và đã
đạt được thành công bất ngờ. Sau đó hàng năm mức doanh thu bình quân của Dell
Computer tăng từ 40-50% và Micheal Dell trở thành một trong những tỷ phú trẻ nhất
nước Mỹ.
Đến những năm 90, nhận ra tiềm lực to lớn của thị trường máy tính PC, Micheal Dell
đã kiên quyết lao vào lĩnh vực mới, chấp nhận mạo hiểm mặc dù chưa có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực này. Chỉ vài năm sau, máy tính của Dell Computer đã có mặt
hầu hết các nước trên thế giới với doanh thu hàng năm hơn chục tỷ USD. Dell
Computer trở thành một trong những hãng máy tính lớn nhất thế giới và Micheal Dell
cũng được xếp vào một trong 10 người giàu nhất thế giới. Chính cá tính mạo hiểm đã
giải thích tại sao các đối thủ cạnh tranh cho đến nay vẫn không bắt chước được
Micheal Dell. Theo nhà phân tích chiến lược công nghệ Steven Milunuovic của Merrill

Lynch thì việc dám đương đầu với mạo hiểm của Dell có thể vì như siêu sao bóng rổ
Micheal Jordan: tất cả mọi người đều biết, đều hiểu nhưng không ai có thể bắt chước
được anh.
❖ Tính đổi mới, sáng tạo/innovativeness (về SP, kênh phân phối, hoạt động
khuyếch trương…)
Ivan Lamprad, chủ tịch IKEA nói: “Nếu không có ý tưởng, đôi khi hoạt động kinh
doanh trở nên đơn điệu. Một ý tưởng kinh doanh táo bạo, dám nghĩ dám làm, đồng
nghĩa với thành công trong kinh doanh”.
Phần lớn các doanh nhân phải đối mặt với những biến đổi của môi trường như: các
quy định mới của chính phủ, khối lượng dữ liệu ngày càng lớn, sở thích của khách
hàng thay đổi nhanh...Theo các doanh nhân, những biến đổi và phức tạp trên có thể


Quản trị Marketing

vượt qua được nếu doanh nghiệp tăng cường tính sáng tạo. Với doanh nhân, sáng tạo là
yếu tố quan trọng hơn bất kỳ phẩm chất lãnh đạo nào khác.
Nhà lãnh đạo sáng tạo sẽ thích nghi được với môi trường liên thay đổi và luôn tìm tòi
những mô hình kinh doanh mới. Họ chào đón những đổi mới sáng tạo mang tính đột
phá, khuyến khích những người khác từ bỏ những khuynh hướng lỗi thời và chấp nhận
rủi ro cân bằng (balanced risks). Họ cũng rất cởi mở và trong việc thay đổi phương
thức lãnh đạo và truyền thông của mình để gắn kết với thế hệ nhân viên, đối tác và
khách hàng mới.
Có một thực tế cần phải nhìn nhận thẳng thắn là tính đổi mới và sáng tạo trong
một bộ phân không nhỏ doanh nhân Việt còn ở mức rất thấp. Chúng ta hay tự nhận xét
rằng người Việt thông minh, sáng tạo, nhưng nhiều khi các sáng tạo đó mang nặng tính
chất manh mún, đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động. Theo kết quả cuộc điều
tra của MPDF và doanh nhân nữ cho thấy chỉ có khoảng 25% nữ chủ doanh nhân có
trình độ đại học hoặc là trên đại học, trong khi có tới 32.5% chưa học tới phổ thông
trung học. Đó là lỗ hổng rất lớn, hạn chế khả năng và tầm nhìn của doanh nhân trong

thế giới kinh doanh hiện đại ngày nay và do đó giảm hiệu quả và tính sáng tạo của
doanh nghiệp.
Các nhà tỷ phú đều không phải là những nhà khoa học có những phát minh vĩ đại
nhưng họ đều có những khả năng nhạy bén và ra những quyết định lớn trong kinh
doanh, đem lại những khoản lợi nhuận khổng lồ có giá trị tương đương với các phát
minh lớn của các nhà khoa học. Sở dĩ Bill Gates trở thành người giàu nhất thế giới
trong một thời gian dài đến như vậy là nhờ Bill Gates đã biết phát huy sáng tạo về hệ
thống điều hành của máy tính DOS. Trên thực tế, hệ thống điều hành này không phải
là của Bill Gates mà là của một người anh em kết nghĩa. Ông này đã chết vì tai nạn xe
hơi sau khi đã uống rượu say.
Với sự hỗ trợ thích hợp của các đối tác kinh doanh cộng với đầu óc sáng tạo, linh hoạt
của các tỷ phú, có thể nói phần lớn các sản phẩm của họ đều hứa hẹn một tiềm năng
lớn tại thị trường mới. Khác với các bậc đàn anh đi trước, các tỷ phú ngày nay không


Quản trị Marketing

chấp nhận "trói mình" trong một ngành nào đó. Ngày nay, ít có các tỷ phú chỉ bám mãi
một ngành, họ không ngại thay đổi và biết tạo ra những thành tựu kỳ diệu, gây được ấn
tượng mạnh ngay trong các ngành nghề truyền thống. Nhà doanh nhân trẻ Denis
Lerrien rời bỏ công ty con của Amagon để lãnh đạo Sanford Enrope. Anh đã gánh lấy
trách nhiệm đứng đầu 3000 cán bộ công nhân và đối mặt với những vấn đề mới về
chiến lược trong kinh doanh các loại bút máy Waterman hoặc Parker.
Carlos Slim, tỷ phú viễn thông của đất nước trung Mỹ Mexico cũng có cách thức xâm
nhập thị trường Mỹ một cách rất sáng tạo khi lập phòng viễn thông tại đây: Ông chỉ
góp vốn bằng cách đưa nhân sự của mình sang công ty Mỹ mới thành lập mang tên
Maxel Tech. Vốn của Maxel góp là tiền lương năm đầu tiên trả cho các nhân sự đó.
Sau một năm, hãng mới phải trả lương cho các nhân sự. Với vốn góp bằng 1 năm tiền
lương của mình, các nhân viên của Carlos và chính bản thân ông vẫn được bảo toàn
trong số vốn đầu tư và sẽ được chia lời khi làm ăn có hiệu quả.

Về sản phẩm: Nói chung một doanh nghiệp thường sản xuất kinh doanh một số sản
phẩm nhất định. Chủng loại và số lượng sản phẩm ấy tạo thành danh mục sản phẩm
của doanh nghiệp. Các sản phẩm trong danh mục có thể có quan hệ với nhau theo
những kiểu khác nhau: quan hệ trong sản xuất, quan hệ trong tiêu dùng, các sản phẩm
có thể thay thế nhau... chủng loại sản phẩm trong danh mục nhiều hay ít tuỳ thuộc vào
chính sách sản phẩm mà doanh nghiệp theo đuổi (chính sách chuyên môn hoá hay
chính sách đa dạng hoá sản phẩm ). Trong quá trình phát triển doanh nghiệp, danh mục
sản phẩm thường không cố định mà có sự thay đổi thích ứng với sự thay đổi của môi
trường, nhu cầu của thị trường và điều kiện kinh doanh. Điều này thể hiện sự năng
động và nhạy bén của doanh nghiệp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh và nhu
cầu khách hàng, tạo cho doanh nghiệp khả năng cạnh tranh cao trong việc thoả mãn
nhu cầu của khách hàng. Sự biến đổi danh mục sản phẩm của doanh nghiệp gắn liền
với sự phát triển sản phẩm theo nhiều hướng khác nhau.
Hệ thống phân phối: Không phải đơn giản để chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường và cũng không dễ dàng chuyển từ khâu phân
phối theo kiểu “xin cho” sang kênh phân phối cạnh tranh hiện đại. Thiết lập một hệ


Quản trị Marketing

thống theo chuẩn mực, quản lý kênh phân phối và quản lý lực lượng bán hàng hiệu quả
là mấu chốt để cạnh tranh và giành thị phần. Đây là mảnh đất mầu mỡ cho những ý
tưởng sáng tạo trong việc: thiết lập kênh phân phối theo dạng trực tiếp hay gián tiếp,
đơn kênh hay đa kênh, độ dài của kênh và các giải pháp khuyên khích bán hàng cũng
như giảm thiểu các xung đột lợi ích trong kênh.
Hoạt động khuyếch trương : Mỗi doanh nghiệp đều phải thực hiện một số nhiệm vụ
marketing khác nhau. Trước tiên, các doanh nghiệp phải cung cấp cho khách hàng tiềm
năng thông tin về sản phẩm hoặc dịch vụ của mình. Sau đó, họ phải thông tin cho
những người mua hàng tiềm năng về các đặc tính và những lợi ích của sản phẩm người
mua hàng sẽ thu được khi mua sản phẩm đó. Nhiệm vụ tiếp theo là thuyết phục khách

hàng mua sản phẩm; sau khi khách hàng đã sử dụng sản phẩm trong một thời gian dài,
nhiệm vụ sẽ là nhắc nhở cho người mua hàng biết rằng sản phẩm này vẫn đang được
cung cấp và có thể tiếp tục đem lại nhiều lợi ích.
Tính tiên phong, đi trước đối thủ trong các hoạt động kinh doanh/proactivenes :Khi
nói về sứ mệnh doanh nghiệp, chúng ta thường nhấn mạnh đến vai trò đầu tàu trong
tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu xã hội… Về mặt bề nổi thì
đúng là như vậy nhưng nhìn nhận ở góc độ sâu hơn, nổi bật trong mỗi hoạt động của
doanh nhân là tính tiên phong, mở đường cho những ý tưởng mới, nhận thức mới và ở
mức độ nào đó, tác động tích cực đến tầm nhìn trong tổ chức đời sống xã hội. Tính tiên
phong trong hoạt động doanh nghiệp Việt nam: Tiên phong về sản phẩm mới, dịch vụ
mới ; Tiên phong về công nghệ ; Tiên phong trong phương pháp quản trị doanh
nghiệp ; Tiên phong về văn hóa và tri thức
Khi Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, chúng ta có cái nhìn logic hơn
về mối quan hệ cung – cầu, giá – cầu; nhưng chỉ khi các siêu thị Metro, Vincom, BigC,
Nguyễn Kim, Parkson,… tung những “đòn” siêu khuyến mãi, chúng ta mới nhận thức
một cách trực quan, đầy đủ sự vận động của giá lên cầu, cũng như quyền năng, giới
hạn của người tiêu dùng trong 3 trụ cột quyết định đến nhịp độ phát triển đất nước, bao
gồm: xuất khẩu – tiêu dùng trong nước – đầu tư toàn xã hội.


Quản trị Marketing

Hoạt động của doanh nhân còn mở rộng ra thị trường nhân lực, buộc các trường đại
học, viện nghiên cứu phải đổi mới phương pháp giáo dục, nghiên cứu khoa học theo
hướng coi trọng thực hành hơn. Sỡ dĩ doanh nhân giữ vai trò tiên phong trong sáng tạo,
đổi mới nhận thức, cách nhìn như vậy là do họ là đối tượng sử dụng tài nguyên (đất,
mặt nước, rừng, dải tần số, nhân lực, thông tin,…) nhiều nhất; họ cũng là đối tượng sử
dụng công nghệ nhiều nhất. Tính tiên phong cũng là nhân tố quan trọng bậc nhất trong
chiến lược cạnh tranh vượt lên đối thủ.
Một điều tra trong phạm vi hẹp về đặc điểm của doanh nhân trong loại hình doanh

nghiệp tại ViệtNam
Cách thức : chọn một số người bạn thân quen có uy tín trong một số doanh nghiệp
(mẫu chọn điển hình có người làm DN nhà nước, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp tư
nhân) sau đó phỏng vấn trực tiếp qua điện thoại hoặc mời đi uống cà fe, kết quả phỏng
vấn được tổng hợp như sau :
Nội dung
DN Nhà nước
Mức độ dám chấp nhận rủi
1/5
ro trong KD/risk taking
Tính đổi mới, sáng
2/5
tạo/innovativeness
Tính tiên phong, đi trước
2/5
đối thủ

DN FDI
2/5

DN TN
5/5

4/5

4/5

4/5

4/5


Nhận xét : Do mẫu chọn điều tra phỏng vấn ít, nên kết quả chấm điểm ở bảng trên có
thể chưa phản ánh đúng đặc điểm của các doanh nhân trong từng lĩnh vực hoạt động,
tuy nhiên tác giả cũng đã thực hiện phỏng vấn một số doanh nhân có uy tín,có tầm ảnh
hưởng trong các doanh nghiệp nên xét trên một khía cạnh nào đó thì bảng điều tra
trên cũng phản ánh một phần thực trạng các đặc điểm của các doanh nhân được đặt
vào các môi trường hoạt động khác nhau.
Chúng ta có thể khẳng định doanh nhân họ đều là những người dám làm dám chịu, tuy
nhiên họ được đặt trong các môi trường khác nhau thì các đặc điểm của họ sẽ phải
điều chỉnh cho phù hợp với cương vị họ được giao trọng trách : nhìn chung đối với
doanh nghiệp nhà nước các doanh nhân họ không phát huy được hết khả năng vốn có
của họ bị một có chế vô hình làm cản trở quyết định độc lập của họ. Đối với khối tư
nhân tiền thực sự là tiền túi họ bỏ ra, họ kinh doanh cho chính họ và họ được đưa ra
quyết định độc lập…
Ví dụ về doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực viễn thông :
Có lẽ Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) là cái tên tiêu biểu nhất trong năm 2010
trong chuyện đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, khi đổ tiền của đến


Quản trị Marketing

nhiều nước trên thế giới để xây dựng hạ tầng, phát triển mạng lưới viễn thông.
Đến cuối năm 2010, mạng Viettel ở Campuchia và Lào đã cho thấy những kết quả khả
quan sau một năm kể từ ngày chính thức khai trương. Các dự án tại thị trường Haiti
và Mozambique cũng đang được khẩn trương chuẩn bị để có thể cung cấp dịch vụ
trong năm 2011. Mới đây nhất, Viettel cũng đã thắng thầu giấy phép viễn thông ở
Peru.
Hiện tại, mạng Metfone, thương hiệu của Viettel ở Campuchia, vẫn giữ vững vị trí
mạng dẫn đầu với hạ tầng mạng lưới rộng quy mô lớn nhất. Chỉ sau hơn một năm kể
từ khi khai trương, Metfone đã lắp đặt phát sóng hơn 4.000 trạm và 15.000 km cáp

quang, cung cấp dịch vụ viễn thông đến cho hơn 3,7 triệu thuê bao các loại trên toàn
quốc. Tốc độ phát triển này tương đương với Viettel ở Việt Nam sau hơn hai năm triển
khai kinh doanh. Còn ở Lào, với thương hiệu Unitel, công ty liên doanh của Viettel với
đối tác Lào cũng đứng đầu về mạng lưới ngay khi khai trương vào tháng 10/2009, và
vươn lên đứng thứ hai về thuê bao trong năm 2010.

Một trung tâm chăm sóc khách hàng của Viettel
Với Viettel, khó khăn chính là cơ hội để trưởng thành, phải chấp nhận, vì khó khăn thì
mới đến lượt mình. Khi đưa ra quyết định đầu tư tại một thị trường, Viettel đưa ra định
hướng rõ ràng, tạo thành chiến lược đầu tư. Việc lựa chọn thị trường để đầu tư được
dựa trên việc nhìn vào mật độ điện thoại và tốc độ tăng trưởng chung của thị trường
đó.
Để có thể vượt qua được những đối thủ nặng ký đên từ Thái Lan, Malaysia, Bắc Âu...
chúng tôi đã xác định cho mình một cách làm khác biệt tại các thị trường này. Chẳng
hạn như kinh nghiệm mạng lưới đi trước, kinh doanh theo sau, kinh nghiệm hướng đến
người tiêu dung có thu nhập thấp… mà chúng tôi đã đúc kết thành triết lý 4Any
(anytime: mọi lúc, anywhere: mọi nơi, anybody: mọi người, anyprice: mọi giá).


Quản trị Marketing

Chiến lược đầu tư theo hướng “kỹ thuật đi trước, kinh doanh theo sau” được xuất phát
từ quan điểm kinh doanh viễn thông là kinh doanh hạ tầng. Sản phẩm của viễn thông
chính là hạ tầng. Để đưa sản phẩm tới tay người dùng thì phải đầu tư lớn về hạ tầng.
Chính vì vậy, trong khi các công ty nước ngoài khác muốn có lãi ngay nên tính toán
đầu tư vào những nơi dễ có lợi, chứ không như Viettel đi lắp đặt trạm tới tận vùng sâu
vùng xa. Quan trọng hơn, trong kinh doanh viễn thông, khi thị trường có mật độ thâm
nhập dưới 50% thì còn cơ hội để thành công. Do vậy, Viettel đã và sẽ triển khai chiến
lược đầu tư mạnh ồ ạt để trở thành nhà cung cấp lớn nhất trước khi thị trường bão
hoà.

Tương tự như vậy, với vấn đề nhân lực, Viettel chủ trương cách làm là cử những
chuyên gia tốt nhất sang xây dựng bộ máy, đào tạo và chuyển giao tri thức. Mục tiêu
cuối cùng là sau 3 năm triển khai, bộ máy đó phải được vận hành bởi chính những
người địa phương, từ kỹ thuật đến kinh doanh. Điều này khác với những nhà đầu tư
khác, tập trung thuê các chuyên gia nước ngoài đã có chuyên môn để đảm bảo công
việc, thay vì đào tạo một lớp nhân lực cấp cao cho chính đất nước đó. Cách làm này
đã được người dân đánh giá cao, vì những giá trị thực sự và sự chân thành mà Viettel
đang mang đến cho đất nước họ. Có được sự tin tưởng này thì Viettel sẽ nhận được sự
yêu mến, tin tưởng và thu hút được nhiều người tài.
Ví dụ mới nhất đến từ đoàn công tác người Haiti sang thăm Viettel tại Việt Nam. Khi
được hỏi ông thấy ấn tượng nhất điều gì sau 6 tháng làm việc với đội ngũ người
Viettel, cán bộ kỹ thuật giỏi nhất cuả phía Haiti đã trả lời rằng ông bị sốc văn hoá:
“Người Viettel làm từ sáng đến đêm, họ có tính kỷ luật cao, đối xử với nhau như đồng
đội ngoài chiến tuyến. Ngay cả cán bộ lãnh đạo cũng làm việc chi tiết như kỹ sư,
không giống tôi, chỉ chỉ đạo trong phòng máy lạnh. Nhưng bây giờ tôi đã thay đổi vì
tôi đã là người Viettel rồi, các anh yên tâm, vì chúng tôi đang và sẽ làm như người
Viettel”.

Để đội ngũ doanh nhân Việt Nam đủ mạnh để gánh vác trọng trách với dân tộc trong
thời kì đổi mới và hội nhập, mỗi doanh nhân Việt Nam cần không ngừng học hỏi, tôi
luyện bản lĩnh để đủ tầm, đủ kinh nghiệm để tự tin khi đàm phán, ký kết các hợp đồng
với đối tác nước ngoài, chủ động trong mọi tình huống trước những biến động của nền
kinh tế thế giới. Từ đó, tạo nên những đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế đất nước
ngày càng hưng thịnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Tài liệu môn Marketing của trường Griggs.



Quản trị Marketing

-

Các tài liệu tham khảo trên Internet : phương tiện thông tin đại chúng, trang
Web của một số công ty.

-

Bài viết “ Luận bàn về doanh nhân Việt thời khủng hoảng” của Đinh Hồng Kỳ
Tổng Giám đốc Secoin.

-

Viettel đầu tư ra nước ngoài: “Kỹ thuật đi trước” Theo Vneconomy Thứ Sáu,
11-02-2011



×