Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động trẻ tại khu công nghiệp sài đồng – long biên – hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1007.25 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ NGỌC NGA

TIẾP CẬN DỊCH VỤ Y TẾ CỦA
NGƢỜI LAO ĐỘNG TRẺ TẠI KHU CÔNG NGHIỆP
SÀI ĐỒNG – LONG BIÊN – HÀ NỘI

Chuyên ngành: Xã Hội Học
Mã số: 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐẶNG NGUYÊN ANH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn
trung thực. Các số liệu và kết quả nghiên cứu công bố trong luận văn này là
công trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả. Cá nhân tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm về kết quả của luận văn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 2 năm 2017
Tác giả


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sỹ “Tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động trẻ tại


Khu công nghiệp Sài Đồng - Long Biên – Hà Nội” được hoàn thành, tôi
chân thành cảm ơn sự dạy dỗ, truyền đạt của các thầy cô giáo trong và ngoài
Khoa Xã hội học, Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam đã tham gia giảng dạy, cung cấp các kiến thức, kỹ năng nghiên cứu
và sự giúp đỡ nhiệt tình, tạo điều kiện cho học viên của các cán bộ Khoa xã
hội học, Ban Đào tạo Học viện Khoa học xã hội trong suốt quá trình đào tạo
tại đây để tôi có thể tiến hành thực hiện đề tài này. Xin chân thành cảm ơn
lãnh đạo cơ quan cùng các anh chị em đồng nghiệp, lãnh đạo cán bộ UBND
quận Long Biên, trạm y tế phường Sài Đồng, phường Thạch Bàn – quận Long
biên đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đặng Nguyên
Anh - người thầy tận tụy đã gợi mở, định hướng, chỉ bảo tôi hoàn thành
nghiên cứu này.
Mặc dù tôi đã cố gắng song luận văn vẫn không tránh khỏi thiếu sót.
Tôi mong sẽ tiếp tục nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ của các thầy cô để luận
văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 2 năm 2017
Tác giả


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU ............................. 17
1.1. Thao tác hóa khái niệm ............................................................................ 17
1.2. Các lý thuyết liên quan ............................................................................. 21
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TIẾP CẬN DỊCH VỤ Y TẾ CỦA LAO
ĐỘNG TRẺ Ở KHU CÔNG NGHIỆP SÀI ĐỒNG – LONG BIÊN – HÀ
NỘI ................................................................................................................. 28
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và mẫu nghiên cứu ................................... 28

2.2. Thực trạng tiếp cận các dịch vụ y tế của người lao động trẻ tại khu công
nghiệp Sài Đồng - Long Biên - Hà Nội .......................................................... 31
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ RÀO CẢN VÀ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN
TIẾP CẬN DỊCH VỤ Y TẾ CỦA LAO ĐỘNG TRẺ KHU CÔNG
NGHIỆP SÀI ĐỒNG – LONG BIÊN – HÀ NỘI ....................................... 39
3.1. Rào cản từ yếu tố cá nhân ........................................................................ 39
3.2. Những rào cản từ phía cộng đồng, xã hội ................................................ 53
KẾT LUẬN .................................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AAV

ActionAid Việt Nam

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHXH

Bảo hiểm xã hội

CHXHCN

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa

CSSK


Chăm sóc sức khỏe

DTTS

Dân tộc thiểu số

KCN

Khu công nghiệp

TCTK

Tổng cục Thống kê

THCS

Trung học cơ sở

UNDP

Chương trình liên hiệp quốc về phát triển

UNFPA

Quỹ hoạt động dân số Liên Hợp quốc


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Loại hình công việc chính của lao động trẻ tại KCN theo giới tính

(đơn vị %) ........................................................................................................ 30
Bảng 2.2: Loại hình dịch vụ y tế lao động trẻ tại KCN Sài Đồng thường xuyên sử
dụng, chia theo tình trạng hôn nhân (đơn vị %) .................................................... 32
Bảng 2.3: Loại hình dịch vụ y tế lao động trẻ KCN Sài Đồng ....................... 33
thường xuyên sử dụng, chia theo trình độ học vấn ( đơn vị %) ..................... 33
Bảng 2.4: Mức độ sử dụng dịch vụ y tế tại nhà máy, xí nghiệp của lao động
trẻ tại KCN Sài Đồng (đơn vị %) .................................................................... 36
Bảng 2.5: Đánh giá của công nhân chất lượng dịch vụ y tế của nhà máy, xí
nghiệp .............................................................................................................. 37
Bảng 3.1: Thu nhập bình quân của các lao động trẻ tại khu công nghiệp Sài
Đồng (đơn vị %) .............................................................................................. 40
Bảng 3.2: Loại hình dịch vụ y tế người lao động trẻ tại KCN Sài Đồng thường
xuyên sử dụng, chia theo thu nhập (đơn vị: %) ................................................. 42
Bảng 3.3: Tỷ lệ lao động trẻ tại KCN Sài Đồng lên phương án điều trị khi bị
bệnh, chia theo giới tính và tình trạng hôn nhân (Đơn vị %) ............................. 44
Bảng 3.4: Tỷ lệ lao động trẻ nhập cư cho biết phương án điều trị khi bị bệnh,
chia theo thu nhập (Đơn vị %) .......................................................................... 45
Bảng 3.5: Đánh giá về cơ sở hạ tầng y tế dịch vụ công của người lao động trẻ
KCN Sài Đồng (đơn vị %) ............................................................................... 53
Bảng 3.6: Thời gian chờ đợi khi đi khám chữa bệnh (đơn vị %) ................... 55
Bảng 3.7: Tỷ lệ lao động trẻ nhập cư biết các chính sách chăm sóc sức khỏe
dành cho người lao động nhập cư ở địa phương (đơn vị %) .......................... 58
Bảng 3.8: Lý do lao động trẻ KCN Sài Đồng không biết các chính sách chăm
sóc sức khỏe dành cho người lao động nhập cư ở địa phương (đơn vị %) .... 59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tăng cường khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng của ngành y tế, đây cũng là một trong những mục tiêu

chính nhằm đảm bảo tính công bằng trong chăm sóc sức khỏe tiến tới đảm
bảo công bằng xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ quan điểm cơ bản là để
đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khỏe thì phải đảm bảo công bằng
trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người dân, đặc biệt là những lao
động trẻ. Đây là chủ đề thu hút được sự quan tâm của các nhà quản lý và giới
nghiên cứu khoa học.
Trong quá trình phát triển, xây dựng và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò
của nguồn nhân lực là vô cùng quan trọng, trong đó thanh niên là nhóm lao
động chính, có sức khỏe, tiềm năng trí tuệ, khả năng tiếp cận và hội nhập
nhanh, với nhiều cơ hội khởi nghiệp. Do vậy, có được nguồn nhân lực có kỹ
năng và sức khỏe thực sự là đòi hỏi quan trọng nhất trong để phát triển kinh tế
xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhưng cũng chính với nhóm
tuổi này, vấn đề chăm sóc sức khỏe và tiếp cận các dịch vụ y tế về chăm sóc
sức khỏe có nhiều vấn đề cần được chú ý.
Trong đề tài này, tôi quan tâm đến vấn đề tiếp cận dịch vụ y tế của
nhóm lao động trẻ tại khu công nghiệp. Nhóm thanh niên này chủ yếu di cư từ
nông thôn lên các thành phố lớn, nơi có các khu công nghiệp, khu chế xuất để
sinh sống và tham gia lao động sản xuất. Vấn đề đặt ra là họ có thực sự quan
tâm tới vấn đề sức khỏe của mình hay không khi đang được nhìn nhận là
nguồn nhân lực trẻ khỏe? Cách họ tiếp cận với các dịch vụ y tế như thế nào?
Những yếu tố và rào cản nào đang ảnh hưởng đến việc tiếp cận các dịch khám
chữa bệnh của nhóm dân cư này? Đặc biệt, với đặc điểm chủ yếu là các lao
động trẻ từ nơi khác đến, sinh hoạt trong một môi trường sống mới, thì cần có
1


các các giải pháp chính sách nào để tăng cường cơ hội tiếp cận các dịch vụ y
tế có chất lượng một cách thuận tiện và hiệu quả?
Đó cũng chính là lý do để tôi chọn đề tài nghiên cứu “Tiếp cận dịch
vụ y tế của ngƣời lao động trẻ tại Khu công nghiệp Sài Đồng – Long Biên

– Hà Nội” làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề người lao động trẻ tại các khu công nghiệp với việc tiếp cận dịch
vụ y tế là một vấn đề lớn được nhiều nhà khoa học nghiên cứu trên nhiều góc
cạnh. Một số đề tài nghiên cứu, sách, tạp chí có liên quan đã được công bố như:
Bài viết về “Lao động nông thôn di cư ra thành thị: Thực trạng và
khuyến nghị”, tác giả Nguyễn Đình Long và Nguyễn Thị Minh Phượng
(2003) [24] đã chỉ ra rằng di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công
nghiệp ở nước ta ngày càng có xu hướng gia tăng và có tính rộng khắp trên
các vùng nông thôn trong cả nước. Đặc trưng di cư lao động từ nông thôn ra
thành thị và các khu công nghiệp ở nước ta là ngày càng trẻ hóa. Di cư tự do
từ nông thôn ra thành thị góp phần mang lại sự chuyển dịch và phân phối lực
lượng lao động. Tăng thu nhập phi nông sẽ có điều kiện cải thiện cuộc sống
bản thân và gia đình.
Tuy nhiên, việc có quá đông người nhập cư cũng gây ra những áp lực
nhất định về cơ sở hạ tầng, vệ sinh môi trường, giáo dục, y tế và an ninh trật
tự tại các địa bàn nơi đến. Lượng người nhập cư ngày một tăng trong khi cơ
sở vật chất, áp lực môi trường và dịch vụ xã hội không đáp ứng kịp đã gây ra
tình trạng quá tải tại các trường học, cơ sở y tế. Tệ nạn xã hội (trộm cắp,
nghiện hút) tăng lên trong những năm gần đây cũng được cho là hệ lụy của
lượng người nhập cư tăng quá nhanh.
Báo cáo “Chuyển đổi thị trường và an sinh xã hội ở Việt Nam”, chủ
biên Lê Bạch Dương và Khuất Thu Hồng (2008) [15] cho thấy người dân di
2


cư không chỉ bị cô lập về mặt xã hội mà còn bị cô lập về mặt không gian bởi
họ phải sống trong những nơi không có đủ nhà ở và không được tiếp cận đầy
đủ với nước sạch và vệ sinh. Thực trạng này một phần là do tác động của mục
đích tiết kiệm cao trong điều kiện thu nhập thấp của người di cư, nhưng phần

lớn là do các chính sách hiện hành đang thành những rào cản người di cư tiếp
cận với các dịch vụ xã hội. Cùng với nhận thức còn kém và thu nhập thấp của
bản thân người lao động thì những rào cản chính sách là nguyên nhân chủ
yếu. Việc quản lý theo hộ khẩu hoặc hợp đồng lao động khiến cho nhiều
người lao động di cư không bao giờ có thể tiếp cận dịch vụ an sinh xã hội vì
rất khó để họ có thể có được hộ khẩu ở thành phố và công việc của họ phần
lớn là công việc mùa vụ, ngắn ngày. Hơn nữa, các quy định hiện nay của hệ
thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, kể cả chế độ tự nguyện, thường quá
cao so với khả năng đáp ứng của người lao động di cư.
Trong báo cáo “Tận dụng cơ hội dân số „vàng‟ ở Việt Nam: Cơ hội,
thách thức và các gợi ý chính sách” của Quỹ Dân số Liên Hợp quốc UNFPA
(2010) [38] ,cho thấy, dịch chuyển lao động thông qua di cư, đặc biệt là lao
động trẻ tuổi, sẽ tạo động lực phát triển kinh tế, góp phần giảm nghèo nhanh
và bền vững. Lao động di cư trong thanh niên tăng nhanh, nhưng các chính sách
an sinh xã hội , việc làm và các dịch vụ xã hội liên quan còn nhiều bất cập, đặc
biệt các chính sách về tiền lương, nâng cao kỹ năng và tay nghề. Khả năng tiếp
cận với các dịch vụ an sinh xã hội của nhóm lao động di cư - nhóm lao động dễ
tổn thương nhất trước các cú sốc kinh tế - xã hội còn rất thấp. Khả năng tiếp cận
các dịch vụ y tế của các nhóm dân số rất khác nhau, trong đó người nghèo, người
dân tộc thiểu số và lao động di cư ít có khả năng tiếp cận nhất.
Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ nhất
(2003) và lần thứ hai (2009), gọi tắt là SAVY 1 và SAVY 2 của Bộ y tế và
Tổng cục Thống kê [36], tính chung cho cả người đã kết hôn lẫn những người
3


còn chưa kết hôn, có 9,5% thanh niên ở SAVY 2 cho biết họ đã từng có quan
hệ tình dục trước hôn nhân (tỷ lệ này ở SAVY 1 là 7,6%). Tỷ lệ nam thanh
niên đã từng có quan hệ tình dục khi chưa lập gia đình (kể cả những người
hiện đã kết hôn) là 13,6%, cao hơn hai lần tỷ lệ này ở nữ là 5,2% (Điều

tương ứng ở SAVY 1 là 11,1% và 4%). Cũng như ở nhiều nước khác trên thế
giới trong giai đoạn hiện đại hóa, tuổi quan hệ tình dục lần đầu trung bình của
thanh niên có xu hướng giảm từ 19,6 tuổi (20 cho nam và 19,4 cho nữ) ở
SAVY 1 xuống còn 18,1 tuổi (18,2 cho nam và 18 cho nữ) ở SAVY 2. Thanh
niên ngày nay tỏ ra có quan niệm cởi mở hơn về quan hệ tình dục trước hôn
nhân, đặc biệt ở những nhóm tuổi cao hơn, ở nam giới, và ở những người
sống ở đô thị. Kiến thức về mang thai ở thanh thiếu niên ở cả hai cuộc điều tra
còn rất hạn chế và điều này dường như không có tiến bộ đáng kể nào giữa hai
kỳ điều tra. Thanh thiếu niên chủ yếu biết được thông tin về mang thai hay kế
hoạch hóa gia đình qua các nguồn thông tin đại chúng. Mức độ cho biết các
thông tin này từ nhà trường, gia đình, nhân viên y tế/dân số hay các cơ sở tư
vấn sức khỏe sinh sản còn rất khiêm tốn.
Trong báo cáo “Thanh niên Việt Nam: Tóm tắt một số chỉ số thống kê
Từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam,” Quỹ Dân số Liên Hợp quốc
UNFPA (2009) [39] chỉ ra thanh niên trong độ tuổi 15-24 có xu hướng di cư
ra thành thị, trong khi ở độ tuổi từ 25 trở lên lại có xu hướng di cư đến cả hai
khu vực thành thị và nông thôn. Điều này cho thấy di cư của thanh niên đóng
vai trò quan trọng trong phát triển khu vực đô thị trong thập kỷ vừa qua. Điều
này cũng có nghĩa là chỉ khi chính sách phát triển đô thị phù hợp có tính đến
các dòng di cư và sự biến động dân số thì lúc đó người di cư mới có thể tiếp
cận được tới các dịch vụ xã hội và cơ hội việc làm. Quan trọng hơn, do nữ
giới chiếm tỷ trọng lớn trong số thanh niên di cư nên việc cung cấp các dịch

4


vụ sức khỏe sinh sản cho nữ thanh niên di cư nhằm bảo vệ họ trước các rủi ro
sức khỏe không đáng có là điều rất cần thiết.
Theo “Thanh thiếu niên nhập cư ở Hà Nội: Điều kiện sống, nhận thức
và hành vi của họ đối với sức khỏe sinh sản” của tác giả Bùi Thị Như Quỳnh

(2007) [29], . Bài báo này tóm lược những kết quả của một nghiên cứu về
nhóm vị thành niên thanh niên nhập cư tại Hà Nội , cuộc sống cũng như kiến
thức, thái độ và hành vi của “nhóm xã hội” này đối với các vấn đề sức khỏe
sinh sản. Cuộc sống của những người lao động nhập cư không được đảm bảo.
Họ thiếu việc làm an toàn, thiếu nơi ở và gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp
cận các dịch vụ y tế cũng như thông tin về nhiều mặt của đời sống, trong đó
có sức khỏe sinh sản. Các dự án và chương trình sức khỏe sinh sản thoáng bỏ
qua đối tượng này bởi họ không được coi là cư dân chính thức về mặt pháp lý.
Hiện nay, có quá ít biện pháp được thực hiện nhằm cung cấp dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sinh sản cho lao động nhập cư. Đặc biệt, vị thành niên và thanh
niên là nhóm đối tượng có những biểu hiện ban đầu của thời kì sinh sản
nhưng lại ít hiểu biết về những thay đổi trong sức khỏe sinh sản. Cuộc khảo
sát nói trên cho thấy thanh niên vị thành niên nhập cư còn thiếu hiểu biết, thậm
chí có những hiểu biết lệch lạc về các vấn đề sức khỏe sinh sản. Kiến thức của
họ về chăm sóc sức khỏe sinh sản, các biện pháp phòng tránh thai, tiêm phòng
và phòng chống các bệnh lây qua đường tình dục, HIV/AIDS còn rất hạn chế.
Đa số đều tiếp cận tới kiến thức sức khỏe sinh sản thông qua các phương tiện
truyền thông như ti vi, báo, đài, đôi khi qua bạn bè. Thiếu một thái độ tích cực
có lẽ là nét quán triệt thái độ và hành vi của những người nhập cư trẻ tuổi
trước những vấn đề liên quan tới sức khỏe sinh sản. Kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy có sự khác biệt khá rõ về giới: các nhóm nữ quan tâm nhiều hơn vấn
đề này so với nhóm nam giới. Những kết quả nghiên cứu cũng gợi ý rằng việc
xây dựng các chương trình trên ti vi, tư vấn qua điện thoại, sách cẩm nang có
5


thể thích hợp hơn cả trong việc quảng bá các kiến thức về sức khỏe sinh sản
đối với nhóm nhập cư. Nhìn chung, những người nhập cư có thu nhập tạm đủ
sống và nhiều người trong số họ có cuộc sống khá dần lên. Các cơ hội việc
làm, thu nhập, khả ngừng phát huy năng lực, đóng góp cho xã hội, niềm tin

vào tương lai là những lĩnh vực được đánh giá là hơn trước.
“Báo cáo Dân số và Phát triển tại Việt Nam: Hướng tới một chiến lược
mới 2011-2020” của UNFPA (2009) [41] cho thấy người di cư vẫn gặp khó
khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế hay học hành cho con em họ. Việc
đăng ký tạm trú chính thức ở nơi ở mới cũng không phải dễ dàng và điều này
có thể dẫn đén những hệ lụy nhất định; người nhập cư thường khó vay được
tiền ngân hàng và không có tiền gửi tiết kiệm, không được đăng ký xe máy, bị
nhiều hạn chế trong việc tiếp cận các chế độ an sinh xã hội cũng như các dịch
vụ phúc lợi y tế, giáo dục tại địa phương cư trú. Ngoài ra, một vấn đề liên
quan khác là người nhập cư đa phần là phụ nữ trẻ, chưa lập gia đình thường
có ít kiến thức và thực hành về sức khỏe sinh sản.
Nghiên cứu “Tìm hiểu rào cản tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản của phụ nữ di cư và các mô hình can thiệp” , Vũ Thị Hoàng Lan
[22]. Nghiên cứu này xem xét phân tích rào cản văn hóa xã hội và chính sách
trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của người di cư và rà soát
các mô hình can thiệp chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) cho phụ nữ di
cư. Nghiên cứu áp dụng phương pháp tổng quan tài liệu các nghiên cứu trong
vòng 20 năm (1992 – 2012) để tìm hiểu các rào cản văn hóa, xã hội, chính
sách trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như phỏng vấn sâu
các cán bộ thực hiện các chương trình can thiệp CSSKSS cho người di cư.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra các rào cản trong tiếp cận dịch vụ SKSS bao gồm
thiếu khuôn khổ pháp lý bảo vệ người di cư, bảo hiểm y tế, thái độ của chính
quyền với người di cư, tình trạng cư trú lưu động, thời gian làm việc dài, thu
6


nhập thấp, chi phí khám chữa bệnh cao, thiếu hiểu biết về Sức khỏe sinh sản,
sức khỏe tình dục. Các mô hình can thiệp hiện tại chưa giải quyết được các
rào cản một cách toàn diện, tính bền vững của mô hình còn thấp.Địa bài
nghiên cứu của đề tài này cũng là một địa bàn mà dân số chủ yếu là dân di cư,

người lao động làm việc tại các khu công nghiệp. Bởi vậy, từ những thuận lợi
của bài viết sẽ gợi mở cho tác giả luận văn có những nhận định chung nhất là
đối tượng này.
Trong bài viết “Một số yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội tiếp cận dịch vụ
chăm sóc sức khỏe của người nghèo ở nước ta hiện nay” Nguyễn Đình Tuấn
[37] chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng tới cơ hội tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức
khỏe của người nghèo ở nước ta hiện nay bao gồm : Chi phí khám chữa bệnh
cao so với mức thu nhập, Khoảng cách từ nơi ở đến cơ sở khám chữa bệnh
còn tương đối xa, phân bổ cơ sở khám chữa bệnh và cán bộ y tế chưa hợp lý,
nhận thức của người nghèo về chăm sóc sức khỏe chưa cao.
Báo cáo “Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia vòng
4” của Oxfam và AAV (2011) [28] chỉ ra nhữngbất lợi của người nghèo đô
thị, trong đó có nhiều người di cư, khi đối mặt với đa cú sốc, điển hình là lạm
phát cao trong năm 2011. Giá cả tăng đã làm giảm sức mua, giảm chất lượng
cuộc sống nhất là về dinh dưỡng và sức khỏe, giảm tiếp cận dịch vụ công, làm
trầm trọng thêm các khó khăn cố hữu của người nghèo. Giá cả tăng cũng làm
giảm mạnh khả năng tiết kiệm và gửi tiền về quê, gây bất ổn nghề nghiệp
và căng thẳng trong quan hệ lao động của người nhập cư.
Báo cáo “Di cư trong nước và Phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam:
Kêu gọi hành động” của UNDP (2010) [43] chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực
của hệ thống đăng ký hộ khẩu ở Việt Nam đến sự tiếp cận các dịch vụ cơ bản
và các dịch vụ hỗ trợ đặc biệt của người di cư . Các dịch vụ do Chính phủ
cung cấp như các dịch vụ y tế (bao gồm cả sức khỏe sinh sản, giáo dục, chăm
7


sóc và điều trị HIV và tiếp cận với các dịch vụ xóa đói giảm nghèo đều gắn
chặt với hệ thống đăng ký hộ khẩu. Người di cư không bị cản trở về mặt luật
pháp trong việc tiếp cận một số dịch vụ nhưng trên thực tế họ thường phải
chịu những hạn chế này. Chẳng hạn con cái của những người không có hộ

khẩu thường trú vẫn được đi học tại các trường trong huyện/địa bàn cư trú
nhưng chỉ trong trường hợp trường còn chỗ sau khi con cái của người có hộ
khẩu thường trú đã nhập học. Thông thường, những người dân di cư đặc biệt
cần các dịch vụ xã hội lại thường là những người yếu thế về xã hội và kinh tế
liên quan tới tình trạng di cư của họ. Rất nhiều người dân di cư không đăng ký
hộ khẩu làm việc trong khu vực phi chính thức và sống trong các nơi ở không
an toàn và không hợp vệ sinh và chính những điều đó khiến họ dễ gặp rủi ro
hơn về sức khỏe. Trong bối cảnh khi mà các chi phí sinh hoạt tại thành thị ngày
càng tăng, mức tăng lương lại không tương đương với mức tăng giá, nên việc
thiếu các dịch vụ hỗ trợ xã hội cho người dân di cư tại thành thị sẽ là vấn đề
đặc biệt quan ngại hiện nay.
Trong bài viết “Đời sống xã hội của thanh niên nhập cư lao động
phổ thông tại các cơ sở sản xuất nhỏ ở TP. Hồ Chí Minh” Phạm Thanh
Thôi [32]chỉ ra sự nghèo nàn trong đời sống văn hóa, giải trí và khả năng
tiếp cận các dịch vụ y tế của thanh niên nhập cư. Sau giờ làm ca là về nhà
trọ ngủ bù, không có điều kiện và thời gian giao tiếp với bên ngoài. Một
khi người lao động tai nạn lao động hay bệnh tật, họ phải tự chịu trách
nhiệm, chủ cơ sở sản xuất hay doanh nghiệp có giúp chăng cũng chỉ mang
tính động viên, hỗ trợ một phần. Các cơ sở sản xuất chưa có chính sách hay
kế hoạch cụ thể hay khả thi để cải thiện vấn đề này trong chiến lược đầu tư,
phát triển kinh doanh của họ.
Như vậy, qua sơ lược tổng quan một số công trình nghiên cứu liên quan
đến thực trạng về tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe chủ yếu nhằm đến
8


các bộ phận lao động nhập cư đặc thù như phụ nữ, thanh niên, người
nghèo,… về các vấn đề nghiên cứu liên quan đến sức khỏe sinh sản, phòng
tránh HIV/AIDS, mức độ tiếp cận của họ đối với hệ thống an sinh xã hội, cơ
sở hạ tầng tại các điểm đến. Đây là nguồn tài liệu giúp tác giả có thể tiếp

thu, kế thừa khi xây dựng cơ sở lý luận và quá trình thực tiễn nghiên cứu để
hoàn thiện luận văn của mình. Tuy nhiên, nhìn chung, những nghiên cứu về
dịch vụ y tế của lao động nhập cư đặc biệt là của lao động trẻ tại khu công
nghiệp mới được đề cập ở mức độ nhất định. Nhiều vấn đề liên quan đến tìm
hiểu việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế của nhóm đối tượng lao động
trẻ và những rào cản mới chỉ ở bước đầu. Ngay ở các khu công nghiệp tại đô
thị lớn như Hà Nội, thực trạng riếp cận các dịch vụ y tế còn rất hạn chế. Lao
động đến các khu công nghiệp địa bàn này còn gặp nhiều khó khă, trở ngại
trong cuộc sống và công việc. Sự khác biệt giới chưa được làmrõ trong
nhiều nghiên cứu… Những khoảng trống này sẽ được xem xét, đi sâu tìm
hiểu trong luận văn nghiên cứu này, góp phần làm sáng tỏ thêm được một số
rào cản hiện nay đối với việc khám chữa bệnh cho người lao động tại các
khu công nghiệp. Trên cơ sở đó đó, nghiên cứu sẽ đề xuất giải pháp phù hợp
nhằm tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh có chất lượng
cho lao động trẻ khu công nghiệp hiện nay. Do vậy, đề tài nghiên cứu “Tiếp
cận dịch vụ y tế của người lao động trẻ tại khu công nghiệp Sài Đồng- Long
Biên – Hà Nội” là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế của lao động trẻ
tại khu công nghiệp Sài Đồng – Long Biên – Hà Nội, nhận diện được một số
rào cản hiện nay đối với việc khám chữa bệnh cho người lao động di cư tại
đây, trên cơ sở đó đó đề xuất giải pháp phù hợp nhằm tăng cường khả năng
9


tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh có chất lượng cho lao động trẻ khu công
nghiệp hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.

- Tổng quan tư liệu hiện có về tiếp cận các dịch vụ y tế, các yếu tố tác
động đến việc tiếp cận chăm sóc sức khỏe đối vói lao động di cư.
- Xử lý, phân tích số liệu, thông tin thu thập được để tìm hiểu việc tiếp cận
và sử dụng các dịch vụ y tế của lao động trẻ, từ đó làm rõ những rào cản trong
việc tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế
có chất lượng cho người lao động trẻ tại khu công nghiệp hiện nay.
3.3. Câu hỏi nghiên cứu
Mức độ tiếp cận các dịch vụ y tế của lao động trẻ ở khu công nghiệp
hiện nay như thế nào?
Những rào cản nào là yếu tố tác động đến việc tiếp cận dịch vụ y tế của
lao động trẻ ở khu công nghiệp Sài Đồng – Long Biên – Hà Nội?
Liệu có sự khác biệt trong việc tiếp cận dịch vụ y tế giữa lao động nam
và lao động nữ?
3.4. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Mức độ tiếp cận dịch vụ y tế của nhóm người lao động
trẻ tại khu công nghiệp còn hạn chế.
Giả thuyết 2: Chi phí khám chữa bệnh cao, thủ tục khám chữa bệnh
rườm rà, vị thế cư trú tạm thời là những rào cản chính đối với việc tiếp cận
các dịch vụ y tế của lao động trẻ khu công nghiệp hiện nay.
Giả thuyết 3: Lao động nữ gặp nhiều rào cản trong tiếp cận các dịch vụ
y tế hơn so với lao động nam.

10


4. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiếp cận dịch vụ y tế của lao động trẻ tại khu công nghiệp Sài Đồng –
Long Biên – Hà Nội.

4.2. Khách thể nghiên cứu
Lao động trẻ nhập cư là nam – nữ trong độ tuổi từ 18 – 30 tại khu công
nghiệp Sài Đồng, Long Biên, Hà Nội.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Trong khuôn khổ đề tài này, tôi chỉ đề cập nghiên cứu
tới một số khía cạnh cơ bản nhất của các vấn đề tiếp cận dịch vụ y tế như:
+ Thực trạng tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh của nhóm lao động trẻ
nhập cư (chiếm đến 95% lao động trẻ khu công nghiệp).
+ Một số rào cản đối với việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, liên
quan đến chi phí, nhận thức, thủ tục khám chữa bệnh
Phạm vi không gian: địa bàn nghiên cứu tại Khu công nghiệp Sài Đồng,
quận Long Biên, Hà Nội.
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động
trẻ khu công nghiệp Sài Đồng – Long Biên từ năm 2014 đến tháng 9 năm 2016
(là thời điểm thực hiện khảo sát).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Vấn đề phương pháp luận của các nghiên cứu xã hội học đã được xem xét
và bàn đến từ rất nhiều cho đến nay. Đây là việc hệ thống các lý thuyết, các quan
điểm, các nguyên tắc được thay đổi trong sự phụ thuộc vào đặc tính cụ thể của
khoa học. Phương pháp luận chung nhất của xã hội học Mácxit là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử yêu cầu khi xem xét đánh giá bất kỳ một sự vật, hiện
11


tượng nào cũng được đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và đánh giá nó một cách
khách quan để tìm ra được quy luật phát triển của xã hội. Do đó, nghiên cứu về
thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế của lao động trẻ khu công nghiệp cần được đặt
vào trong mỗi hoàn cảnh xã hội, điều kiện kinh tế - xã hội - môi trường cụ thể.

Đời sống còn người lao động ở các khu công nghiệp còn nhiều khó khăn, đặc
biệt là những trường hợp thu nhập thấp, đời sống không ổn định. Yếu tố kinh tế
là yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người lao
động nói chung đặc biệt là lao động trẻ với mức sống, tay nghề và thu nhập còn
thấp. Điều đó cho thấy nguyên lý “tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội” của
phương pháp luận Mácxit. Tuy nhiên, cũng cần tìm hiểu sâu các yếu tố và rào
cản khác ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận dịch vụ của lao động trẻ nhập cư ở
các khu công nghiệp. Bởi theo phương pháp luận Mác-xít, nhìn nhận vấn đề
nghiên cứu một cách khách quan là phương thức tốt nhất, đúng đắn nhất đề giải
quyết vấn đề nghiên cứu một cách khách quan và khoa học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Thu thập thông tin sơ cấp
Với phương pháp này, chúng tôi phân tích những tư liệu, những nghiên
cứu có từ trước đây nhằm tìm hiểu về cơ sở lý luận cũng như những phân tích về
vấn đề các dịch vụ y tế cho nhóm đối tượng lao động trẻ nhằm tìm hiểu được
thực trạng việc sử dụng những dịch vụ y tế, từ đó đánh giá được mức độ tiếp cận
dịch vụ y tế của các lao động trẻ tại khu công nghiệp Sài Đồng, quận Long
Biên, Hà Nội.
5.2.2 .Phương pháp khảo sát định lượng
Bảng hỏi được xây dựng thông qua những câu hỏi nhằm thu thập thông
tin về nhận thức của người lao động trẻ về vấn đề tiếp cận dịch vụ y tế; cách thức
chữa bệnh khi sức khỏe cần được chăm sóc; những hiểu biết về các dịch vụ y tế,
chăm sóc sức khỏe; việc sử dụng và mức độ sử dụng dịch vụ y tế cơ sở nhằm tìm
12


hiểu và đánh giá những khác biệt giữa nhận thức và hành vi tiếp cận dịch vụ y tế
trên địa bàn thành phố.
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống được sử dụng, với đơn vị
chọn mẫu là người lao động trẻ, trong độ tuổi 18 – 30 tuổi nhằm thu thập

được những thông tin chính xác và khách quan về nhận thức cũng như hành
vi tiếp cận các dịch vụ y tế. Do hạn chế cả về thời gian, kinh phí, nhân lực nên
mẫu khảo sát định lượng bao gồm 200 lao động trẻ (100 nam và 100 nữ) hiện
sinh sống tại các nhà trọ trong khu công nghiệp và làm việc tại khu công
nghiệp Sài Đồng – Long Biên – Hà Nội và đã từng ít nhất một lần sử dụng các
dịch vụ y tế trong khoảng phạm vi thời gian từ năm 2014 đến thời điểm nghiên
cứu. Mẫu khảo sát sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên tại các nhà trọ xung quanh khu
công nghiệp Sài Đồng, nơi có nhiều các lao động trẻ tập trung sinh sống.
5.2.3. Phương pháp nghiên cứu định tính
Phương pháp phân tích tài liệu:
Được thực hiện chủ yếu thông qua việc sử dụng các tài liệu, sách tham
khảo, báo cáo, bài viết tạp chí liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu… Qua đó
cho phép nhà nghiên cứu thu thập và cập nhật được các thông tin thứ cấp,
hiểu rõ hơn về vấn đề nghiên cứu đồng thời chỉ ra những khoảng trống và
hướng đi trong nghiên cứu của mình.
Phương pháp phỏng vấn sâu
Kỹ thuật phỏng vấn sâu cá nhân được áp dụng để thu thập những thông
tin chi tiết, định tính mà khảo sát định lượng khó thu thập được. Phương pháp
này giúp tác giả hiểu biết sâu sắc hơn về nhận thức, mức độ nhu cầu tiếp cận
dịch vụ y tế của lao động trẻ khu công nghiệp. Tìm hiểu các nguyên nhân, yếu
tố ảnh hưởng, rào cản tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động trẻ nhập cư.
Đồng thời giúp kiểm chứng lại tính xác thực của thông tin định lượng thu
được qua khảo sát mẫu.
13


Mẫu nghiên cứu định tính bao gồm:
+ Đối với người lao động trẻ: Lựa chọn những khu nhà trọ xung
quanh khu công nghiệp, nơi có đông các lao động trẻ nhập cư thuê trọ và làm
việc tại khu công nghiệp Sài Đồng. Phỏng vấn sâu các nhóm đối tượng lao

động trẻ bao gồm 10 cuộc phỏng vấn sâu. Tác giả sử dụng phương pháp này
nhằm khai thác những thông tin sâu hơn của đề tài nghiên cứu. Hơn nữa, tác
giả cũng bổ sung thêm cho phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi nhằm khai
thác sâu hơn khía cạnh quan tâm nhưng chưa được đề ra trong bảng hỏi chính.
Những thông tin phỏng vấn sâu sẽ giải thích thêm những yếu tố chưa rõ nét
trong bảng hỏi.
+ Đối với cán bộ y tế: 02 cán bộ y tế phường Thạch Bàn và phường
Sài Đồng, quận Long Biên Long Biên – Hà Nội (nơi có nhiều công nhân cư
trú tại khu công nghiệp Sài Đồng).
+ Đối với cán bộ phường: phỏng vấn sâu 2 cán bộ phường Sài Đồng và
phường Thạch Bàn (nơi tập trung nhiều nhất lượng lao động trẻ làm việc tại
KCN Sài Đồng cư trú).
+ Đối với chủ nhà trọ: phỏng vấn sâu 2 chủ nhà trọ tại phường Sài
Đồng và Thạch Bàn.
Phương pháp phân tích và xử lý số liệu:
Sử dụng các phần mềm xử lý chuyên dụng như SPSS, Excel để nhập,
mã hóa, làm sạch và chuẩn bị số liệu cho phân tích. Quá trình này được thực
hiện ngay sau khi kết thúc khảo sát thực địa.

14


5.3. Khung phân tích

- Chính sách
chương trình
- Điều kiện phát
triển kinh tế xã
hội


Yếu tố cá nhân:
- Tuổi
- Nghề nghiệp
- Tình trạng hôn
nhân
- Giới tính
- Thu nhập
- Bảo hiểm y tế
- Gia đình
- Tình trạng sức
khỏe

Rào cản từ cộng
đồng, xã hội:

TIẾP CẬN
DỊCH VỤ
Y TẾ
- Mức độ tiếp
cận dịch vụ
- Thói quen sử
dụng dịch vụ

- Chất lượng dịch vụ
- Hạn chế thông tin
CSSK và hệ thống y
tế nơi đến
- Thủ tục khám chữa
bệnh bằng BHYT
rườm rà

- Tình trạng cư trú

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn cung cấp phương pháp luận cần thiết trong nghiên cứu thực
trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận dịch vụ y tế của lao động trẻ
khu công nghiệp. Đồng thời có thể mở rộng để nghiên cứu đánh giá tác động
của di cư lao động sự thích ứng của lao động di cư ở các khu công nghiệp.
Những phát hiện của luận văn sẽ góp phần cung cấp thêm tư liệu và bổ sung
15


tri thức về điều kiện sống của lao động trẻ di cư tại khu công nghiệp Sài Đồng
vốn ít được biết đến qua các nghiên cứu cho đến nay.
Đề tài nghiên cứu còn góp phần tìm hiểu và vận dụng một số lý thuyết
trong nghiên cứu xã hội học nói chung và nghiên cứu xã hội học y tế, sức
khỏe nói riêng gắn với thực tiễn xã hội Việt Nam, trong đề tài này chúng tôi
vận dụng một số lý thuyết như: hành động xã hội; một số lý thuyết xã hội học
về sức khỏe y tế.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần chỉ ra thực trạng tiếp cận các
dịch vụ y tế của người lao động trẻ. Từ đó gợi mở hướng nghiên cứu sâu hơn
về vấn đề này để nhận diện các rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế,
nhằm đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao nhận thức về sức
khỏe, thay đổi hành vi tiếp cận các dịch vụ y tế khám chữa bệnh và nâng cao
hơn nữa giải pháp cải thiện chất lượng dịch vụ y tế.
Kết quả nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu
cùng lĩnh vực về sức khỏe y tế, những người giảng dạy về xã hội học, làm tài
liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý ở địa phương trong lĩnh vực y tế.
7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của nghiên cứu
Chƣơng 2: Thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế của lao động trẻ khu
công nghiệp Sài Đồng - Long Biên – Hà Nội
Chương 3. Một số rào cản và yếu tố ảnh hưởng đến tiếp cận dịch vụ y
tế của lao động trẻ tại khu công nghiệp Sài Đồng - Long Biên – Hà Nội

16


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU
1.1. Thao tác hóa khái niệm
1.1.1. Khái niệm lao động trẻ:
Trẻ là gì?
Theo định nghĩa trong từ điển Tiếng Việt “Tuổi trẻ là quãng thời gian
của con người: độ tuổi thanh niên, thiếu niên. Theo điều 1 Luật Thanh niên
Việt Nam năm 2005 quy định: Thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ 16
tuổi đến 30 tuổi.
Người lao động
Ở Việt Nam, theo ghi nhận tại điểm 1 điều 3 Luật lao động thì người
lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp
đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao
động. Tuổi lao động được tính từ đủ 15 tuổi, còn tuổi nghỉ hưu thì đối vơi

nam là 60 và nữ là 55. Như vậy độ tuổi lao động là 15 – 60 tuổi đối với lao
động nam và 15 – 55 tuổi đối với lao động. Lao động được phân chia thành
2 thành phần lao động cơ bản: lao động phổ thông và lao động trí óc.
Người lao động là lực lượng về con người và được nghiên cứu dưới

nhiều khía cạnh. Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho
xã hội, bao gồm toàn bộ dân số có thể phát triển bình thường cả về thể lực
lẫn trí lực (không bị khiếm khuyết, dị tật bẩm sinh).
Như vậy, “lao động trẻ” hay “lao động trẻ tuổi” được hiểu là những
cá nhân trong độ tuổi thanh niên từ đủ 16 đến 30 tuổi làm việc, hoạt động có
mục đích nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho xã hội.
Đây là những người tham gia quan hệ lao động nằm trong độ tuổi lao động
được pháp luật thừa nhận.

17


Di cư
Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa về di cư (1958) như sau: “Di cư là
một hình thức di chuyển trong không gian của con người từ một đơn vị lãnh
thổ này tới một đơn vị lãnh thổ khác, hoặc sự di chuyển với khoảng cách tối
thiểu quy định. Sự di chuyển này diễn ra trong một khoảng thời gian di cư xác
định và đặc trưng bởi sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên”
Trong khái niệm di dân, người ta còn phân biệt và đặc biệt quan tâm
đến hai yếu tố cấu thành quá trình này là xuất cư và nhập cư. Nhập cư và xuất
cư bao gồm sự chuyển đến và chuyển đi khỏi khu vực nào đó. Dựa vào những
quy ước nói trên mà hai cấu thành được xác định:
- Xuất cư là việc di chuyển nơi cư ra khỏi một đơn vị hành chính tạm
thời hay vĩnh viễn, thời gian ngắn hoặc dài. Đây là hiện tượng phổ biến ở
nhiều quốc gia do tình trạng dự mức sống, thu nhập và lao động phân bố
không đồng đều. Xuất cư có ảnh hưởng đến mọi mặt kinh tế, văn hóa xã hội,
nhân khẩu của địa bàn nơi đến cũng như nơi đi.
- Nhập cư là sự di chuyển đến một khu vực hoặc đơn vị hành chính
khác, thậm chí tại một quốc gia khác. Quá trình này thường xuyên bị chi phối
bởi nhiều nhân tố như kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo … Cũng như xuất cư,

nhập cư có ảnh hưởng quan trọng đến địa bàn đầu đến và đầu đi. Đặc biệt
nhập cư đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nên các đơn vị hành
chính mới ở một số khu vực còn thưa dân của một quốc gia, cũng như góp
phần hình thành dân số của nhiều quốc gia trong lịch sử Hoa Kỳ, Canada,
Ôxtrâylia, Morixớt.
Sự chênh lệch giữa nhập cư và xuất cư gọi là di cư thuần túy, sự
tương quan này sẽ làm cho trị số của gia tăng cơ học của dân số là dương
(nếu số người xuất cư ít hơn số nhập cư) hoặc là âm (khi số người xuất cư
nhiều hơn số người nhập cư).
18


Nhập cư là hoạt động di chuyển chỗ ở đến vào một vùng hay quốc
gia mới. Người nhập cư là người dân di chuyển từ một vùng đến một vùng
khác để định cư hoặc tạm trú.
Trên cơ sở mục đích của luận văn, di cư trong nghiên cứu này được
xác định là sự di chuyển về không gian của lao động trẻ khu vực nông thôn
vào Hà Nội, cư trú và làm việc tại khu công nghiệp Sài Đồng - Long Biên –
Hà Nội trong thời gian tối thiểu 3 tháng.
1.1.2. Khái niệm dịch vụ y tế:
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO): Dịch vụ y tế bao gồm tất cả các dịch
vụ về chẩn đoán, điều trị bệnh tật và các hoạt động chăm sóc, phục hồi sức
khoẻ. Chúng bao gồm các dịch vụ y tế cá nhân và các dịch vụ y tế công cộng.
Có nhiều quan niệm về dịch vụ y tế được phản ánh dưới những góc
độ khác nhau nhưng tựu chung thì: Dịch vụ y tế chính là một loại hàng hóa
công đặc thù, đáp ứng những nhu cầu cơ bản của người dân và cộng đồng.
Nội hàm bao gồm hai nhóm dịch vụ thuộc khu vực công mở rộng: Nhóm
dịch vụ khám, chữa bệnh theo yêu cầu (mang tính chất hàng hóa tư nhiều
hơn có thể áp dụng cơ chế cạnh tranh trong thị trường này) và nhóm dịch
vụ y tế công cộng như phòng chống dịch bệnh (mang tính chất hàng hóa

công nhiều hơn)…do Nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm.
1.1.3. Khái niệm tiếp cận dịch vụ y tế
Tại Điều 2, Luật Khám bệnh chữa bệnh số 40/2009/QH12 ngày
23/11/2009 định nghĩa: Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh là cơ sở cố định hoặc
lưu động đã được cấp giấy phép hoạt động và cung cấp dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh; Người bệnh là người sử dụng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh.
Dịch vụ y tế là dịch vụ chỉ toàn bộ các hoạt động chăm sóc sức khoẻ
cho cộng đồng, cho con người mà kết quả là tạo ra các sản phẩm hàng hoá
không tồn tại dưới dạng hình thái vật chất cụ thể, nhằm thoả mãn kịp thời
19


×