Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bình luận các quy định của luật doanh nghiệp năm 2014 về xử lý tài chính khi xử lý lại và chuyển đổi mô hình doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.08 KB, 11 trang )

TIỂU LUẬN HẾT MÔN PHÁP LUẬT VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
129/2015/TT-BTC

Đề bài: Bình luận các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về xử
lý tài chính khi tổ chức lại và chuyển đổi mô hình doanh nghiệp
Trên con đường hình thành và phát triển của mình có vô số các yếu tố tác
động từ bên ngoài và cả ảnh hưởng từ bên trong làm thay đổi hướng đi của doanh
nghiệp. Để có thể đứng vững trên thị trường, các nhà đầu tư phải chủ động mở
rộng, thu hẹp quy mô hoặc chuyển đổi mô hình kinh doanh sao cho phù hợp với
khả năng tài chính của họ ở từng giai đoạn khác nhau. Để giúp doanh nghiệp tổ
chức lại và chuyển đổi mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cũng như góp
phần làm ổn định và phát triển nền kinh tế nước nhà, Luật doanh nghiệp năm 2014
đã quy định những nội dung cơ bản về xử lý tài chính khi tổ chức lại và chuyển đổi
mô hình doanh nghiệp.
I/ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XỬ LÝ TÀI CHÍNH KHI TỔ CHỨC LẠI VÀ
CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm
a) Tổ chức lại doanh nghiệp là việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập hoặc
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp.
b) Xử lý tài chính khi tổ chức lại doanh nghiệp: là việc xem xét, tiến hành
phân chia, tổng hợp hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu vốn và tài sản của các doanh
ngiệp trong quá trình tổ chức lại và chuyể đổi mô hình doanh nghiệp.
g) Chuyển đổi mô hình doanh nghiệp là việc chuyển đổi loại hình doanh
nghiệp từ
II/ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC XỬ LÝ TÀI CHÍNH KHI TỔ CHỨC LẠI
VÀ CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH DOANH NGHIỆP


1. Tình hình doanh nghiệp trong 9 tháng đầu năm 20161
Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định về việc tổ chức lại đã làm cản trở
việc thay đổi hoặc mở rộng kinh doanh theo cách thức sáp nhập, hợp nhất, chia,


tách doanh nghiệp và chuyển đổi mô hình doanh nghiệp. Vì vậy sau khi Luật
doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực thi hành, việc thay đổi chia, tách, hợp nhất,
sáp nhập và chuyển đổi mô hình doanh nghiệp sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ vể số
lượng doanh nghiệp tại Việt Nam. Điều đó được thể hiện tại số lượng đăng ký hoạt
động, số lượng doanh nghiệp giải thể trong 9 tháng đầu năm ở nước ta.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp 9 tháng đầu năm:
Trong 9 tháng đầu năm 2016, cả nước có thêm 81.451 doanh nghiệp thành
lập mới với số vốn đăng ký là 629.094 tỷ đồng, tăng 19,2% về số doanh nghiệp và
tăng 49,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015 (So sánh 2015/2014:
doanh nghiệp tăng 28,5%; vốn tăng 31,4%).
Trong 9 tháng đầu năm 2016, số doanh nghiệp thành lập mới tập trung nhiều
nhất ở loại hình công ty TNHH 1 thành viên với 44.149 doanh nghiệp đăng ký, tiếp
đến là loại hình công ty TNHH 2 thành viên là 20.674 doanh nghiệp, loại hình công
ty cổ phần là 13.331 doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp tư nhân là 3.285 doanh
nghiệp và loại hình công ty hợp danh là 12 doanh nghiệp.
Trong số các loại hình doanh nghiệp thành lập chỉ có duy nhất loại hình doanh
nghiệp tư nhân là có số doanh nghiệp đăng ký thành lập giảm (19,1%) so với cùng kỳ,
các loại hình doanh nghiệp còn lại đều có số thành lập tăng so với cùng kỳ.
b) Tình hình giải thể doanh nghiệp 9 tháng đầu năm: Số doanh nghiệp hoàn
tất thủ tục giải thể trong 9 tháng đầu năm 2016 của cả nước là 8.365 doanh nghiệp,
tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước (So sánh 2015/2014: doanh nghiệp giải thể
1 Báo cáo tình hình đăng ký doanh nghiệp tháng 9 và 9 tháng đầu năm của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh Bộ Kế
hoạch và Đầu tư


giảm 0,9%). Trong tổng số doanh nghiệp giải thể của cả nước trong 9 tháng đầu
năm 2016 có 3.373 công ty TNHH 1 thành viên chiếm 40,32%; có 2.489 công ty
TNHH 2 thành viên chiếm 29,75%; có 1.390 doanh nghiệp tư nhân chiếm 16,62%;
có 1.110 công ty cổ phần chiếm 13,27% và có 03 công ty hợp danh chiếm 0,04%2.
2. Những quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về xử lý tài chính

khi tổ chức lại và chuyển đổi mô hình doanh nghiệp
a) Xử lý tài chính trong trường hợp chia, tách doanh nghiệp
* Đối tượng:
Căn cứ Khoản 1, Điều 192 quy định: “Công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần có thể chia các cổ đông, thành viên và tài sản công ty để thành lập hai
hoặc nhiều công ty mới.”
Căn cứ Khoản 1, Điều 193 quy định: “Công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần có thể tách bằng cách chuyển một phần tài sản, quyền và nghĩa vụ của
công ty hiện có (sau đây gọi là công ty bị tách) để thành lập một hoặc một số công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần mới (sau đây gọi là công ty được tách)
mà không chấm dứt tồn tại của công ty bị tách”
Như vậy: chỉ có Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần mới được
thực hiện chia, tách doanh nghiệp vì: Phần vốn và tài sản của Chủ sở hữu có thể
phân chia được theo tỉ lệ vốn góp hoặc theo cổ phần. Mặt khác Quyền sở hữu vốn
và tài sản trong doanh doanh nghiệp hoàn toàn tách biệt với tài sản riêng của
Người góp vốn hoặc người có cổ phần.
* Các trường hợp
- Căn cứ Khoản 1, Điều 192 quy định:

2


“a) Một phần phần vốn góp, cổ phần của các thành viên, cổ đông cùng với
tài sản tương ứng với giá trị phần vốn góp, cổ phần được chia sang cho các công
ty mới theo tỷ lệ sở hữu trong công ty bị chia và tương ứng giá trị tài sản được
chuyển cho công ty mới;
b) Toàn bộ phần vốn góp, cổ phần của một hoặc một số thành viên, cổ đông
cùng với tài sản tương ứng với giá trị cổ phần, phần vốn góp họ được chuyển sang
cho các công ty mới;
c) Kết hợp cả hai trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này.”

- Căn cứ Khoản 2, Điều 193 quy định về tách công ty có thể thực hiện
theo một trong các phương thức sau đây:
“a) Một phần phần vốn góp, cổ phần của các thành viên, cổ đông cùng với
tài sản tương ứng với giá trị phần vốn góp, cổ phần được chuyển sang cho các
công ty mới theo tỷ lệ sở hữu trong công ty bị tách và tương ứng giá trị tài sản
được chuyển cho công ty mới;
b) Toàn bộ phần vốn góp, cổ phần của một hoặc một số thành viên, cổ đông
cùng với tài sản tương ứng với giá trị cổ phần, phần vốn góp của họ được chuyển
sang cho các công ty mới;
c) Kết hợp cả hai trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này.”
- Lần đầu tiên, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy định cụ thể hóa các
trường hợp, phương thức chia tách doanh nghiệp nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các
doanh nghiệp, Chủ sở hữu xác định chính xác phạm vi, các thức được chia tách
doanh nghiệp.
- Về hậu quả pháp lý của việc chia, tách doanh nghiệp có sự khác nhau,
nhưng cả hai điều luật có sự thống nhất phương thức chia, tách doanh nghiệp mặt
bản chất như:


+ Đồng nhất phương thức thực hiện chia doanh nghiệp, tách doanh nghiệp
được trong việc một phần vốn góp của các thành viên, cổ đồng cùng với tài sản
tương ứng giá trị phần vốn, cổ phần được chia/tách chuyển sang các công ty mới
theo tỷ lệ sở hữu trong công ty bị chia/tách và tương ứng giá trị tài sản được
chuyển cho công ty mới.

Tuy nhiên, về kỹ thuật lập pháp tại Khoản 2, Điều 192 và Khoản 3 Điều 193
có sự trùng lặp về mặt nội dung, kỹ thuật trình bày.
Kết luận chung đề nghị nghiên cứu gộp 2 quy định này lại làm một và sử
dụng kỹ thuật lập pháp phù hợp để phân định nội dung sao cho rõ ràng.
* Xử lý tài chính trong trường hợp chia, tách doanh nghiệp


* Về đối tượng điều chỉnh hợp nhất, sáp nhật doanh nghiệp của Luật
Doanh nghiệp năm 2014
Căn cứ Khoản 1, Điều 194 quy định: “Hai hoặc một số công ty (sau đây
gọi là công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (sau đây gọi là
công ty hợp nhất), đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.”
Căn cứ Khoản 1, Điều 195 quy định: “Một hoặc một số công ty (sau đây
gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là
công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi


ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công
ty bị sáp nhập.”
Quy định nêu trên thể hiện được mục tiêu của Nhà nước là tăng cường thu
hút và huy động hơn nữa mọi nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh
bằng việc cho phép hợp nhất, sáp nhập giữa các doanh nghiệp có loại hình kinh
doanh khác nhau. Đây là một sự tiến bộ vượt bậc, vi Luật Doanh nghiệp năm 2005
chỉ cho phép hợp nhất, sáp nhập những doanh nghiệp cùng loại.
* Về đối tượng chuyển đổi mô hình doanh nghiệp
Một công ty khi ra đời cho đến khi chấm dứt hoạt động luôn có mối liên hệ
chặt chẽ với Nhà nước. Quan hệ mang tính tất yếu này thuộc phạm vi quản lý Nà
nước về doanh nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội cộng đồng, quyền và
lợi ích hợp pháp của chính công ty và người thứ ba. Để đảm bảo mục đích quản lý
nhà nước, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định chi tiết đối tượng doanh nghiệp được
chuyển đổi, cụ thể:
- Chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần.
- Chuyển đổi công ty cổ phần thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
- Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn.
b) Về các trường hợp được tổ chức lại hoặc chuyển đổi mô hình doanh

nghiệp.
* Các trường hợp được chia, tách doanh nghiệp:
Căn cứ Khoản 1, Điều 192 và Khoản 2, Điều 193 quy định:
“a) Một phần phần vốn góp, cổ phần của các thành viên, cổ đông cùng với
tài sản tương ứng với giá trị phần vốn góp, cổ phần được chia sang cho các công
ty mới theo tỷ lệ sở hữu trong công ty bị chia và tương ứng giá trị tài sản được
chuyển cho công ty mới;


b) Toàn bộ phần vốn góp, cổ phần của một hoặc một số thành viên, cổ đông
cùng với tài sản tương ứng với giá trị cổ phần, phần vốn góp họ được chuyển sang
cho các công ty mới;
c) Kết hợp cả hai trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này.”

Về bản chất pháp lý mỗi mô hình doanh nghiệp là một pháp nhân được tổ
chức theo những mô hình pháp luật quy định. Mỗi h
Một công ty, từ khi ra đời cho đến khi chấm dứt hoạt động, luôn có mối quan hệ với Nhà
nước. Quan hệ mang tính tất yếu này thuộc phạm vi quản lý Nhà nước về doanh nghiệp nhằm bảo
vệ lợi ích chung cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của chính công ty và thành viên hoặc các
thành viên của công ty, và người thứ ba. Để đảm bảo mục đích quản lý Nhà nước, mục đích điều
chỉnh của pháp luật, Nhà nước quy định điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp, cũng
như thủ tục chuyển đổi hình thức doanh nghiệp.

Điều 196, Điều 197, Điều 198, Điều 199 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định
chi tiết đối tượng doanh nghiệp được chuyển đổi, cụ thể:
- Chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần.
- Chuyển đổi công ty cổ phần thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
- Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn.
Về bản chất pháp lý, công ty là thương nhân pháp nhân. Các hình thức công ty là các hình

thức cấu tạo nên thương nhân pháp nhân. Do vậy việc chuyển đổi hình thức cấu tạo thương nhân
pháp nhân về nguyên tắc là do chính thương nhân đó quyết định, không làm tiêu biến thương nhân
pháp nhân, cũng như không thể rũ bỏ các khoản nợ đối với người thứ ba.


Điều kiện và thủ tục chuyển đổi hình thức công ty
Một công ty, từ khi ra đời cho đến khi chấm dứt hoạt động, luôn có mối quan hệ với Nhà
nước. Quan hệ mang tính tất yếu này thuộc phạm vi quản lý Nhà nước về doanh nghiệp nhằm bảo
vệ lợi ích chung cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của chính công ty và thành viên hoặc các
thành viên của công ty, và người thứ ba. Để đảm bảo mục đích quản lý Nhà nước, mục đích điều
chỉnh của pháp luật, Nhà nước quy định điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp, cũng
như thủ tục chuyển đổi hình thức doanh nghiệp.

* Đối với việc hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp

các cổ đông, thành viên và tài sản công ty để thành lập hai hoặc nhiều công ty mới trong một trong các
trường hợp sau đây:
a) Một phần phần vốn góp, cổ phần của các thành viên, cổ đông cùng với tài sản tương ứng với giá trị phần vốn góp,
cổ phần được chia sang cho các công ty mới theo tỷ lệ sở hữu trong công ty bị chia và tương ứng giá trị tài sản
được chuyển cho công ty mới;
b) Toàn bộ phần vốn góp, cổ phần của một hoặc một số thành viên, cổ đông cùng với tài sản tương ứng với giá trị cổ
phần, phần vốn góp họ được chuyển sang cho các công ty mới;
c) Kết hợp cả hai trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này.

vốn của DNNN cơ bản tiếp tục được bảo toàn, năng lực tài chính được bảo đảm: Vốn chủ sở hữu
của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước năm 2013 là 959.796 tỷ đồng, tăng 4,1% so với
năm 2012; Giá trị tổng tài sản của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2013 đạt 2.387.150 tỷ
đồng, tăng 33% so với năm 2010; Thuế và các khoản phải nộp NSNN năm 2013 đạt 218.915 tỷ
đồng, tăng 9% so với năm 2012 (trong khi năm 2011 giảm 8% và năm 2012 giảm 6%); Tỷ trọng
đóng góp vào GDP của khối DNNN đạt mức 34,72% (năm 2009) và đạt 32,4% (năm 2013); Hoạt

động sản xuất - kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tương đối ổn định, doanh thu
năm 2013 đạt 1.471.018 tỷ đồng; Tạo việc làm cho khoảng trên 1,2 triệu lao động.
Đến nay, phần lớn các tập đoàn, tổng công ty đã thực hiện rà soát, phân loại và xác định danh mục
ngành nghề, phạm vi kinh doanh chính, ngành nghề có liên quan và ngành nghề không liên quan.
Trên cơ sở đó, đã xác định được các khoản mục đầu tư cần phải thoái vốn, kế hoạch thoái các
khoản vốn đầu tư ngoài ngành; tiến hành phân loại các đơn vị trực thuộc, đơn vị thành viên. Một số
tập đoàn, tổng công ty đã ban hành mới, bổ sung sửa đổi các quy chế quản lý nội bộ; cơ cấu lại tổ
chức, bộ máy và sắp xếp lại cán bộ...
Theo kế hoạch đến cuối năm 2014, sẽ có khoảng 200 DN thực hiện cổ phần hóa và đến cuối quý
III/2015, toàn bộ DN được phê duyệt phương án cổ phần hóa để tiến hành bán cổ phần lần đầu và
sẽ có 81 DN được sắp xếp theo các hình thức khác.


Với những hành lang pháp lý được hoàn thiện theo yêu cầu thực tiễn cùng sự vào cuộc mạnh mẽ
của các cấp, các ngành, tái cơ cấu DNNN bước đầu đã mang lại nhiều kết quả khả quan.

2. Nguyên nhân
Một là, tư duy kinh tế nhà nước giữ vị trí chủ đạo, trong đó DNNN là một bộ phận quan trọng của
khu vực kinh tế này. Để đảm nhiệm được vai trò chủ đạo thì khu vực DNNN sẽ vẫn còn phải đủ lớn
và các DNNN sẽ phải thực hiện những nhiệm vụ chính trị và xã hội, ngoài các nhiệm vụ kinh doanh
chính. Điều này mâu thuẫn với mục tiêu thu hẹp khu vực DNNN vào các lĩnh vực thuần túy công
ích, phục vụ an sinh xã hội. DNNN vẫn giữa vị thế độc quyền tại nhiều ngành nghề quan trọng, cản
trở sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân.
Hai là, các quy định liên quan đến thoái vốn đầu tư ngoài ngành chưa linh hoạt. Các quy định về
thực hiện bảo toàn và phát triển vốn tại DNNN chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Khi nền kinh tế
suy thoái, rất khó có thể tìm được nhà đầu tư mua lại phần vốn nhà nước như giá trị sổ sách. Các
quy định về định giá vốn tại DNNN cũng rườm rà không theo nguyên tắc thị trường, cản trở quá
trình thoái vốn của các DNNN.
Ba là, hiện nay, DNNN kinh doanh thua lỗ, không thanh toán được các khoán nợ đến hạn những
vẫn không bị phá sản. Nhà nước về cơ bản vẫn đứng ra gánh chịu các khoản nọ cho DN dưới hình

thức giãn nợ, giảm nợ, chuyển nợ cho đơn vị khác hoặc bảo lãnh nợ… Điều này khiến cho những
người đại diện chủ sở hữu và những người quản lý DNNN thiếu động lực trong việc tái cơ cấu
DNNN.
Bốn là, cơ chế chịu trách nhiệm tập thể đối với DNNN hiện nay vẫn tồn tại. Việc vận hành DNNN
được thực hiện không chỉ qua hội đồng quản trị hoặc ban giám đốc mà còn chịu sự chỉ đạo của
đảng ủy và các cơ quan chủ quản cấp trên. Do DNNN chịu nhiều đầu mối quản lý nên rất khó xác
định được người phải trách nhiệm trong việc vận hành DNNN. Đây là lý do khiến cho các hoạt động
tái cơ cấu như cổ phần hóa hoặc thoái vốn ngoài ngành tại các DNNN diễn ra chậm chạp.

3. Giải pháp
Giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN
Theo kế hoạch, trong giai đoạn 2014 - 2015, cả nước sẽ thực hiện cổ phần hóa 432 DN. Để thực
hiện thành công mục tiêu này, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa
phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh để đạt,
vượt mức kế hoạch năm 2014, song song với tái cơ cấu DN một cách toàn diện, từ mô hình tổ
chức, quản lý, ngành nghề sản xuất - kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư, nguồn nhân lực, thị
trường... Bên cạnh đó, tiếp tục quán triệt sâu rộng về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình cổ
phần hóa, thoái vốn nhà nước trong các năm 2014 - 2015, coi đây là một nhiệm vụ chính trị trọng
tâm cần khẩn trương và kiên quyết hoàn thành. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng
công ty nhà nước có kết quả cổ phần hóa, thoái vốn thấp cần nghiêm túc rút kinh nghiệm, xác định
trách nhiệm của tổ chức, cá nhân; có biện pháp phù hợp để khắc phục, góp phần hoàn thành mục
tiêu chung. Các bộ, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cần bám sát đề án tái cơ
cấu, phương án sắp xếp DNNN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạo quyết liệt, chặt
chẽ và khẩn trương nhiệm vụ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước.
Không dừng lại ở các DN đã có kế hoạch cổ phần hóa, Thủ tướng yêu cầu các bộ, địa phương, tập
đoàn kinh tế căn cứ tiêu chí, danh mục phân loại DNNN ban hành tại Quyết định số 37/2014/QĐTTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ, rà soát, bổ sung DN cần cổ phần hóa, thoái vốn nhà
nước và lộ trình triển khai, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để thực hiện. Đối với một số DN


hoạt động trong lĩnh vực công ích như môi trường đô thị, cấp, thoát nước, nếu các nhà đầu tư trong

nước có nhu cầu nắm giữ đa số vốn điều lệ thì khuyến khích, với điều kiện DN cam kết cung cấp tốt
các dịch vụ công ích này.
Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính cũng đã đề ra một số giải pháp
cần tập trung thực hiện, cụ thể:
Thứ nhất, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, kết luận của Đảng và các cơ chế, chính sách pháp luật
có liên quan của Nhà nước về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN.
Đồng thời, tập trung chỉ đạo triển khai Nghị quyết số 15/ NQ-CP ngày 6/3/2014 của Chính phủ,
Quyết định số 51/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số nội dung về thoái vốn, bán cổ
phần và đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán của DNNN và chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ tại Thông báo số 334/TB-VPCP tại Hội nghị giao ban về tái cơ cấu DNNN tháng
8/2014.
Thứ hai, các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nghiêm túc thực hiện đẩy mạnh sản
xuất kinh doanh để đạt, vượt mức kế hoạch năm 2014, đồng thời với tái cơ cấu DN một cách toàn
diện, từ mô hình tổ chức, quản lý, ngành nghề sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư,
nguồn nhân lực, thị trường… Đặc biệt quan tâm việc tạo ra sản phẩm mới, tăng năng suất lao động,
hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh; Tiếp tục quan triệt sâu rộng về quan điểm, mục tiêu,
nhiệm vụ, lộ trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước trong các năm 2014 – 2015. Các bộ, ngành, địa
phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước có kết quả cổ phần hóa, thoái vốn thấp cần nghiêm túc
rút kinh nghiệm, xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân; có biện pháp phù hợp để khắc phục,
góp phần hoàn thành mục tiêu chung; Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty bám sát
đề án tái cơ cấu, phương án sắp xếp DNNN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạo
quyết liệt, chặt chẽ và khẩn trương nhiệm vụ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước; Các bộ, địa phương,
tập đoàn, tổng công ty căn cứ, tiêu chí, danh mục phân loại DNNN ban hành tại Quyết định số
37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ, rà soát, bổ sung DN cần cổ phần hóa,
thoái vốn nhà nước và lộ trình triển khai, trong quý III/2014 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để
thực hiện; Đẩy mạnh truyền thông và công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát các bộ, ngành, địa
phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong tái cơ cấu DN cùng với thực hiện nhiệm vụ sản xuất
– kinh doanh được giao.
Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các cơ chế chính sách để đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu
DNNN, như: Sửa đổi quy định về bán, giao DN, hoàn thiện chính sách đối với người lao động dôi

dư trong DN sắp xếp, chuyển đổi.
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả và tiến độ thực hiện đề án tái
cơ cấu DN.
Thứ năm, thực hiện chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn tại một số DN lớn đã cổ phần hóa
đang có vốn nhà nước về Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) theo quy định.
Thứ sáu, thực hiện các giải pháp tái cấu trúc thị trường chứng khoán theo tinh thần Quyết định số
1826/QĐ-TTg ngày 6/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ, qua đó hỗ trợ thu hút và khuyến khích nhà
đầu tư tham gia mua cổ phần của DN. Mặt khác, các đơn vị thực hiện tốt chế độ báo cáo về tình
hình triển khai cổ phần hóa DNNN; kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý những khó khăn,
vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện, đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch đề ra.
Ngoài những giải pháp mang tính cấp bách từ Chính phủ, Bộ Tài chính, ngay từ thời điểm này cũng
cần quan tâm đến một số giải pháp sau:
Một là, cải cách cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước theo hướng tập trung và chuyên nghiệp. Nên
chuyển đổi mạnh mẽ việc quản lý các DNNN dưới dạng quỹ quản lý vốn (SCIC) thay vì trực thuộc
chính phủ, các bộ, hoặc UBND tỉnh. Trong giai đoạn còn nhiều DNNN như hiện nay có thể nhà
nước cần vài công ty kiểu SCIC. Mỗi một công ty quản lý vốn sẽ phụ trách một lĩnh vực hàng hoá và
dịch vụ công nào đó. Các SCIC này nên được đặt dưới sự quản lý tạm thời của một Uỷ ban cải
cách DNNN có vai trò tương đương một bộ trong Chính phủ. Uỷ ban này có sứ mệnh thực hiện việc
tái cơ cấu các DNNN để giảm quy mô và số lượng các DNNN về một mức mục tiêu nào đó, chẳng
hạn tỷ trọng đóng góp vào GDP chỉ còn dưới 10% vào năm 2020.


Hai là, cải cách hệ thống trách nhiệm và khuyến khích trong việc quản trị DNNN theo hướng người
đại diện vốn chủ sở hữu là giám quản của Nhà nước; người điều hành DNNN được hưởng lợi ích
theo cơ sở thị trường. Các giám quản sẽ có trách nhiệm giám sát hoạt động của DNNN hoặc được
bổ nhiệm làm thành viên hội đồng quản trị của DNNN. Để đảm bảo người được bổ nhiệm trong hội
đồng quản trị của DNNN làm việc vì lợi ích của nhà nước thì người được bổ nhiệm này không được
nhận lương hay tiền của DN. Trong khi đó, chế độ lương bổng cho giám đốc hoặc ban điều hành
của DNNN sẽ do hội đồng quản trị đề xuất thông qua hội nghị cổ đông hàng năm. Lương cho giám

đốc hoặc ban điều hành cần đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường.
Ba là, DNNN phải là khu vực tiên phong về minh bạch thông tin. Cần áp dụng các chuẩn mực tài
chính kế toán và công khai hóa thông tin của các công ty niêm yết đối với các DNNN. Các DNNN
cũng cần công khai các mục tiêu chính sách, chỉ rõ các chi phí thực hiện để theo đuổi các mục tiêu
phi thương mại cũng như các khoản nhận hỗ trợ từ Chính phủ. Bản thân Chính phủ hàng năm cũng
cần làm một báo cáo hợp nhất về hoạt động của toàn bộ các công ty quản lý vốn và các DNNN trực
thuộc các công ty quản lý vốn.

III/ Những hạn chế và kiến nghị sửa đổi Luật Doanh nghiệp về xử lý tài
chính khi tổ chức lại và chuyển đổi mô hình doanh nghiệp
1. Hạn chế
2. Kiến nghị sửa đổi
IV/ Kết luận



×