Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD lớp 12 trường THPT 195 huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.94 KB, 84 trang )

1


2


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LỪ THỊ SƠN

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
LỚP 12 Ở TRƯỜNG THPT 19/5, HUYỆN KIM BÔI,
TỈNH HÒA BÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

SƠN LA, NĂM 2017

3


4


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LỪ THỊ SƠN


VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
LỚP 12 Ở TRƯỜNG THPT 19/5, HUYỆN KIM BÔI,
TỈNH HÒA BÌNH

Chuyên ngành: Giáo dục

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Linh Huyền

SƠN LA, NĂM 2017

5


LỜI CẢM ƠN
Để khóa luận được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em nhận được sự
chu đáo, nhiệt tình của Bam Giám hiệu, phòng Quản lý khoa học và Quan hệ quốc tế,
Phòng Đào tạo và các Phòng, Ban chức năng của trường Đại học Tây Bắc.
Em xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa, các thầy giáo, cô giáo trong
Khoa Lý luận Chính trị, cô giáo chủ nhiệm, tập thể các bạn sinh viên lớp K54 ĐHGD Chính trị, gia đình và bạn bè đã tạo mọi điểu kiện thuận lợi giúp em hoàn thành khóa
luận.
Bên cạnh đó, em cũng gửi lời cảm ơn tới các các thầy cô giáo trong trường
THPT 19/5 huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình đã giúp đỡ nhiệt tình để em hoàn thành
khóa luận.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn khoa học
Th.s Nguyễn Thị Linh Huyền – Giảng viên Khoa Lý luận Chính trị đã hướng dẫn, chỉ
bảo, giúp đỡ tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu để em hoàn thành khóa luận.
Em xin gửi tới các thầy giáo, cô giáo, gia đình, bạn bè đã giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất.

Em xin chân thành cảm ơn!
Người thực hiên khóa luận

Lừ Thị Sơn

6


BẢNG GHI CHÚ NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
VIẾT LÀ
PPDH
GDCD
GV
HS
TGQ
PPLKH
PPTLN
ĐCS
TLN
UBND
GD – ĐT
SGK
THPT

7

DỊCH LÀ
Phương pháp dạy học
Giáo dục công dân
Giáo viên

Học sinh
Thế giới quan
Phương pháp luận khoa học
Phương pháp thảo luận nhóm
Đảng cộng sản
Thảo luận nhóm
Ủy ban nhân dân
Giáo dục – Đào tạo
Sách giáo khoa
Trung học phổ thông


MỤC LỤC

8


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhân loại đã và đang bước vào thế kỷ của chất xám trí tuệ, của nền kinh tế tri
thức. Trong thế kỷ này, sự phát triển của kinh tế xã hội được quy định bởi con người
có trình độ văn hóa, hiểu biết sâu rộng và năng lực hành động và năng lực cộng tác
ngày càng cao. Hiện nay đất nước ta đang tiến hành hai cuộc cách mạng lớn: cách
mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng khoa học công nghệ. Điều này tác động mạnh
mẽ đến sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục nhà trường phổ thông nói riêng. Nó
đòi hỏi nhà trường phải đào tạo ra cho xã hội những con người thông minh có thái độ
tích cực, năng động sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội hiện
nay. Muốn làm được như vậy trước hết nhà trường phổ thông phải trang bị cho học
sinh hệ thống tri thức khoa học cơ bản hiện đại phù hợp với thực tiễn nước ta. Những

phương pháp dạy học truyền thống không còn phù hợp nữa, nhiều phương pháp dạy
học tích cực ra đời thay thế cho những phương pháp truyền thống.
Tuy nhiên thực trạng đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) hiện nay chưa đáp
ứng được nhu cầu giáo dục trong nước và đem lại hiệu quả không cao. Một trong
những nguyên nhân chính là việc vận dụng PPDH chưa hợp lý. Các PPDH tích cực
như: PPDH theo nhóm, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp vấn đáp… chưa vận
dụng tốt vào quá trình dạy học ở trường THPT, trong đó có dạy học môn giáo dục
công dân (GDCD). Phương pháp dạy cơ bản vẫn theo lối truyền thụ một chiều, đòi hỏi
người học phải ghi nhớ máy móc, không phát huy được tư duy phê phán, tinh thần
sáng tạo và tinh thần tự học của người học. Hơn nữa chỉ vận dụng PPDH truyền thống
không đáp ứng nhu cầu nhận thức của các em, do đó GV cần đổi mới PPDH để khai
thác hết tiềm năng vốn sống của HS.
GDCD không phải là môn học dễ tiếp thu bởi những kiến thức phong phú, sâu
rộng mà lại trừu tượng nếu GV không sử dụng PPDH tích cực phù hợp sẽ làm cho
môn học trở nên khô khan, kém hấp dẫn với HS. Tuy nhiên việc vận PPDH tích cực
nhằm phát huy vai trò tự giác, chủ động của HS trong việc tiếp thu bài học lại chưa
được quan tâm đúng mức. PPTLN là một trong những PPDH mang tính tích cực.
PPDH này rất thích hợp trong cho một số bài giảng và một số môn học ở trường
THPT. Trong quá trình giảng dạy các môn học nói chung và môn GDCD nói riêng nếu
GV biết kết hợp và vận dụng các PPDH hợp lý sẽ nâng cao được hiệu quả giảng dạy

9


và PPTLN là phương pháp rất đáng được chú ý áp dụng cho môn GDCD – nó là phù
hợp với xu hướng đổi mới PPDH ở trường THPT.
Ở cấp học phổ thông, môn GDCD trực tiếp giáo dục cho HS những tri thức theo
một hệ thống xác định toàn diện về TGQ và nhân sinh quan, giúp cho học sinh nhận
thức đúng đắn: sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, có ý thức trách nhiệm
cao đối với Tổ quốc, đối với nhân dân, đối với gia đình và đối với bản thân mình. Các

em HS lớp 12 đang đến tuổi trưởng thành, sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Hơn
nữa, tâm lý HS thường ngán ngại phần học lý thuyết pháp luật khô khan trong chương
trình môn GDCD lớp 12. Do đó người GV phải sử dụng nhiều phương pháp trong một
tiết dạy, đặc biệt là sử dụng phương pháp thảo luận nhóm (PPTLN) nhằm tạo sự hứng
thú cho HS trong học tập, rèn luyện khả năng tư duy linh hoạt, sáng tạo cũng như khả
năng hợp tác, làm việc nhóm của HS để từ hiểu biết pháp luật, các em có thể áp dụng
vào cuộc sống, có ý thức công dân, tự giác tuân thủ pháp luật Nhà nước, phấn đấu trở
thành công dân có ích cho xã hội.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Vận dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT 19/5,
huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

PPDH thảo luận nhóm đã được nhiều nhà nghiên cứu và được biết đến trong xu
thế dạy học lấy HS làm trung tâm. Trong những năm gần đây có rất nhiều tài liệu trong
và ngoài nước đều nêu rõ sự cần thiết phát huy tính tích cực của người học. Đây là một
xu hướng tất yếu đã được nhiều nhà giáo dục quan tâm và tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau.
Theo quan điểm Tâm lý học lịch sử, L. X. Vưgôtxki cho rằng các chức năng
tâm lý cấp cao xuất hiện trước hết ở mức độ liên nhân cách giữa các cá nhân, trước khi
chúng tồn tại ở mức độ tâm lý bên trong. Chính vì vậy, theo ông, trong một lớp học,
cần coi trọng sự khám phá có trợ giúp hơn là sự tự khám phá. Từ đó cần rút ra một
nguyên tắc là dạy học cần tổ chức cho học sinh học tập với sự trợ giúp, hỗ trợ của bạn
học, học tập cùng nhau sẽ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức tốt hơn.
Trong bài viết: Lấy học sinh làm trung tâm của tác giả Trần Bá Hoành đã đề
cập tới phương pháp hợp tác hay phương pháp học tập nhóm. Tác giả cho rằng, trong
quá trình dạy học phải chú ý đến quyền lợi của từng cá nhân học sinh như: phải để cho

10



học sinh hoạt động, phải kích thích họ hoạt động tích cực và sáng tạo, phải cho người
học tiếp xúc với thực tế xã hội, thiên nhiên, qua đó tích lũy được vốn sống cần thiết.
GV phải biết định hướng, tổ chức cho người học, tự khám phá ra tri thức mới giúp cho
HS không chỉ nắm được tri thức mà còn nắm được phương pháp đi tới tri thức đó, dạy
cách học phải trở thành mục tiêu dạy học chứ không phải là phương tiện nâng cao hiệu
quả dạy học [13]. Tác giả Trần Bá Hoành cũng đã nêu lên các kỹ năng TLN như: kĩ
năng bám sát yêu cầu, kĩ năng diễn đạt bằng lời, kĩ năng tranh luận với bạn, kĩ năng đề
xuất kết luận. Khái niệm “nhóm” (đội, ê kip) cũng được tác giả nhắc tới trong công
trình nghiên cứu của mình [13; 55]. Với cương vị là một trong những người có công đi
đầu trong việc đưa dạy bằng PPTLN vào trường học, ông tiếp tục có nhiều công trình,
bài báo nghiên cứu sâu về PPTLN.
Tác giả Phan Trọng Ngọ trong cuốn: “Dạy học và phương pháp dạy học trong
nhà trường” cũng đã giới thiệu nhiều về phương pháp dạy học trong nhà trường hiện
nay, trong đó có PPTLN. Tác giả cho rằng “PPTLN là phương pháp mà trong đó
nhóm lớp (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong
lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể nào đó và đưa ra ý kiến
chung của nhóm mình về vấn đề đó”. [22;223]
Tác giả Nguyễn Hữu Châu trong cuốn: “Những vấn đề cơ bản về chương trình
và quá trình dạy học” đã đưa ra quan điểm về dạy học hợp tác theo nhóm. Theo tác
giả “Dạy học hợp tác là việc sử dụng là việc sử dụng các nhóm nhỏ để học sinh làm
việc cùng nhau nhằm tối đa hóa kết quả học tập của bản than mình cũng như người
khác”.[4;225]
Tác giả Nguyễn Thanh Bình với đề tài: “Sử dụng một số hình thức, phương
pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh” cũng nêu
lên những nội dung liên quan đến cách tổ chức dạy học “Hợp tác nhóm”. Tác giả cho
rằng: trong dạy học hợp tác, giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động cùng trao đổi,
thảo luận để đưa ra suy nghĩ, quan điểm, quyết định và giải quyết một vấn đề gì đó
trong những nhóm nhỏ để học sinh thực hiện nhiệm vụ nhất định trong một thời gian
nhất định. Trong nhóm dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng, học sinh chia sẻ kinh nghiệm

và hợp tác cùng nhau để giải quyết nhiệm vụ được giao. Với dạy học theo nhóm, tác
giả cho rằng sẽ có tiềm năng để giáo dục kĩ năng sống cho người học như: kĩ năng
giao tiếp trong học nhóm, kĩ năng xác định trách nhiệm cá nhân và gắn trách nhiệm cá

11


nhân với trách nhiệm chung của nhóm, kĩ năng thảo luận, kĩ năng tranh luận có tổ
chức, kĩ năng diễn đạt ý kiến mạch lạc, rõ ràng, thuyết phục; kĩ năng lắng nghe và tóm
tắt chính xác ý kiến của người khác; kĩ năng trao đổi, thống nhất ý kiến hoặc chấp
nhận ý kiến trái ngược [3].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn (chủ biên) với cuốn: “Kĩ năng làm việc nhóm” [25].
Cuốn sách cung cấp một cách nhìn tổng quát về nhóm, quy luật tâm lý diễn ra trong
nhóm cho đến cách chấp nhận sự khác biệt của người khác, cách các thành viên tổ
chức và điều hành một cuộc họp nhóm, cách giải quyết mâu thuẫn, đưa ra một quyết
định chung của nhóm…
Tác giả Đặng Thành Hưng [16] cho rằng để học tập hợp tác có kết quả cần dạy
các kĩ năng xã hội, kĩ năng cộng tác cho học sinh và chỉ ra nội dung, biện pháp hình
thành kĩ năng này.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu như: Nguyễn Gia Cầu, (2007),
Dạy học phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh, Tạp chí Giáo dục, số 156;
Nguyễn Trọng Sửu, (2007), Dạy học theo nhóm – phương pháp dạy học tích cực, Tạp
chí Giáo dục, số 171; Thế Phong (2011), Cần quan niệm đúng về phương pháp thảo
luận nhóm, Tạp chí thanh niên phía trước, số 48; Nguyễn Thị Toan, (2011), Vận dụng
phương pháo thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD ở trường THPT, Tạp chí Dạy
và Học ngày nay, số 48;…
Như vậy, học tập theo nhóm là một vấn đề được nhiều nhà giáo dục quan tâm ở
nhiều phương diện khác nhau, cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu đến việc áp dụng
PPTLN vào công tác giảng dạy. Tuy đã có nhiều tác giả nghiên cứu nhiều góc độ khác
nhau về vận dụng PPTLN vào giảng dạy môn GDCD lớp 12 ở trường THPT 19/5,

huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình nhưng trong điều kiện mới tôi thấy việc tiếp tục nghiên
cứu vẫn là cần thiết. Vì vậy trên cơ sở kế thừa những thành tựu, kết quả của các tác giả
đi trước, tôi tiếp tục đi sâu bản chất của PPTLN, khai thác tính tính tích cực của
phương pháp này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài:
Trên cơ sở tìm hiểu lý luận và thực tiễn của PPTLN, đề tài xây dựng quy trình
PPTLN trong giảng dạy môn GDCD nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học

12


sinh góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD lớp 12 cho học sinh trường
THPT 19/5, huyện Kim Bôi, tinh Hòa Bình.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
Để đạt được mục đích đề ra, đề tài tập trung thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc tổ chức dạy học bằng PPTLN
+ Thực trạng sử dụng PPTLN trong dạy học môn GDCD cho học sinh 12 ở
trường THPT 19/5
+ Tiến hành thực nghiệm PPTLN trong dạy học môn GDCD cho học sinh 12 ở
trường THPT 19/5
+ Xác lập quy trình thực hiện PPTLN trong dạy học môn GCDCD và đưa ra các
biện pháp để thực hiện có hiệu quả ở trường THPT 19/5, huyện Kim Bôi, tinh Hòa Bình.
4. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
4.1 . Khách thể nghiên cứu đề tài

Toàn bộ quan điểm lý luận, thực tiễn vận dụng PPTLN trong dạy học môn
GDCD ở trường THPT 19/5, huyện Kim Bôi, tinh Hòa Bình.
4.2 . Đối tượng nghiên cứu đề tài


Đề tài nghiên cứu quy trình thực hiện PPTLN trong dạy học môn GDCD lớp 12
ở trường THPT 19/5, huyện Kim Bôi, tinh Hòa Bình.
5. Giả thuyết khoa học

Nếu vận dụng tốt PPTLN trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT
19/5, huyện Kim Bôi, tinh Hòa Bình sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức, đặc biệt là hứng thú tiếp thu những kiến thức
pháp luật, nhờ đó nâng cao chất lượng dạy và học cho học sinh khối 12 ở trường
THPT 19/5, huyện Kim Bôi, tinh Hòa Bình.
6. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tiến hành nghiên cứu thực nghiệm PPTLN trên một số bài giảng cụ thể
có đối chứng ở một đơn vị kiến thức tương đương của môn GDCD lớp 12.
7. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan
đến PPTLN để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

13


- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp phỏng vấn
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+ Phương pháp thống kê toán học

8. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tài liệu tham khảo, mục lục,
phụ lục. Phần nội dung của đề tài bao gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 ở trường THPT 19/5, huyện Kim Bôi,
tỉnh Hòa Bình.
Chương 2: Thực nghiệm phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo
dục công dân lớp 12 ở trường THPT 19/5, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình.
Chương 3: Quy trình và điệu kiện thực hiện phương pháp thảo luận nhóm trong dạy
học môn Giáo dục công dân lớp 12 ở trường THPT 19/5, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình.

14


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO
LUẬN NHÓM TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12
TRƯỜNG THPT 19/5 HUYỆN KIM BÔI, TỈNH HÒA BÌNH
1.1.

Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
môn giáo dục công dân lớp 12 ở trường THPT 19/5 huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa
Bình
1.1.1. Quan niệm về nhóm trong hoạt động học tập
1.1.1.1. Khái niệm nhóm

Nhóm là tập hợp những cá thể lại với nhau theo những nguyên tắc nhất định.
Nhóm là một hiện tượng xã hội, một sự tập hợp của hai hay trên hai người có
sự tác động lẫn nhau nhằm đạt được mục tiêu chung.

Nhóm là tập hợp nhỏ được hình thành để thực hiện một nhiệm vụ nhất định
trong một thời gian nhất định.
Theo A.T.Francisco (1993): Học tập nhóm là một phương pháp học tập mà
theo phương pháp đó học viên trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và hợp tác với nhau
trong học tập.
Căn cứ vào những điều kiện cụ thể mà có những cách phân chia nhóm khác
nhau. Song về cơ bản: Nhóm là sự hợp tác giữa các cá nhân với nhau trên cơ sở kì
vọng chung, trong nhóm có sự phân công nhiệm vụ, sự tương tác và ảnh hưởng lẫn
nhau trong quá trình thực hiện nhằm đặt được các mục tiêu chung.
Đặc điểm của nhóm được xác định bởi:
- Số người trong nhóm
- Nhiệm vụ của mỗi nhóm
- Sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm
- Các đặc điểm tâm sinh lý của nhóm
- Chia sẻ mục tiêu chung: mục tiêu càng rõ thì mối tương tác càng mạnh
- Hệ thống quy tắc (sự tuân thủ)
- Cơ cấu chính thức và phi chính thức

- Các vai trò thể hiện trong nhóm: Vai trò hướng về công việc, vai trò củng cố
nhóm, vai trò liên quan đến nhu cầu cá nhân (vai trò cản trở hay vai trò thức đẩy). Các
vai trò này luôn biến đổi làm cho nhóm năng động và ảnh hưởng đến từng người trong
nhóm.
1.1.1.2.

Các hình thức chia nhóm trong học tập

15


Căn cứ vào mục tiêu, nội dung, mức độ khó dễ của các nhiệm vụ học tập, trình

độ của đối tượng học sinh, có các hình thức chia nhóm khác nhau:
-

Hình thức chia nhóm ngẫu nhiên
Đây là cách chia được tiến hành khi giữa các đối tượng học sinh không cần có
sư phân biệt.Mọi học sinh đều phải hoạt động để giải quyết vấn đề cùng chiễm lĩnh tri
thức. Nhiệm vụ được giao không khác nhau nhiều về nội dung, ít có sự chênh lệch về
độ khó và có cùng chung một yêu cầu.
Ở hình thức chia nhóm ngẫu nhiên này, khi chia nhóm giáo viên có thể chia

-

theo bàn, theo tổ hoặc bằng cách đếm vòng tròn.
Chia nhóm cùng một trình độ
Việc chia nhóm cùng một trình độ được áp dụng khi cần có sự phân hóa về
trình độ bởi mức độ khó dễ của nội dung bài học cho từng đối tượng học sinh. Người
ta thường dựa vào các trình độ giỏi, khá, trung bình và yếu để chia thành các nhóm
tương ứng.
Với cách chia này giáo viên có thể đưa ra các yêu cầu cụ thể khác nhau đối với
từng nhóm trong việc giải quyết cùng một nhiệm vụ học tập.
Song khi áp dụng hình thức chia nhóm này giáo viên cần phải thận trọng.Bởi vì
muốn chia đúng trình độ của học sinh, giáo viên phải nắm được trình độ của học sinh,
vì nếu không nắm chắc được trình độ của học sinh mà chia sai nhóm thì sẽ dẫn đến
phản tác dụng.

-

Chia nhóm nhiều trình độ khác nhau
Cách chia này thường được sử dụng khi nội dung dạy học cần có sự hỗ trợ
nhau. Trong trường hợp này cần phải xác định vai trò của nhóm trưởng (người có năng

lực hơn cả) là rất quan trọng trong việc phân chai nhiệm vụ cho các thành viên trong
nhóm.

-

Chia nhóm theo sở trường:
Cách chia này thường được tiến hành trong các buổi tập ngoại khóa, mỗi nhóm
sẽ gồm một số học sinh có chung sở trường, hứng thú.
Tóm lại, có nhiều hình thức chia nhóm khác nhau, mỗi hình thức có đặc điểm
và ưu thế riêng. Vì vậy, trước khi quyết định chia nhóm theo hình thức nào giáo viên
nên dựa vào mục tiêu bài học, loại bài học, không gian học tập, trình độ, sở trường của
học sinh.

1.1.2.

Phương pháp thảo luận nhóm

16


1.1.2.1.

Khái niệm về phương pháp thảo luận nhóm
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về PPTLN như:
Theo tác giả Trần Bá Hoành: “Thảo luận nhóm là một dạng tương tác nhóm
trong đó các thành viên hợp sức giải quyết một vấn đề cùng quan tâm, nhằm đạt tới
một sự hiểu biết chung về vấn đề đó” [14;157]
Theo tác giả Phan Trọng Ngọ: Thảo luận nhóm là phương pháp trong đó nhóm
lớn (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều
được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra các ý kiến chung của nhóm

mình về vấn đề đó.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về PPTLN, song có thể khái quát khái
niệm như sau: TLN là một phương pháp dạy học, trong đó lớp học được chia thành các
nhóm nhỏ để học sinh tích cực, chủ động nghiên cứu, thảo luận các nhiệm vụ học tập
để đạt được các mục tiêu học tập dưới sự hướng dẫn, điểu khiển của giáo viên.
Như vậy có thể tóm tắt những cách thức TLN sau:
+ PPTLN chia nội dung bài dạy thành những vấn đề nhỏ. Mỗi vấn đề nhỏ được
coi là một chủ đề thảo luận.
+ Chia lớp thành nhiều nhóm, cách chia nhóm tùy thuộc vào nội dung và tính
chất của vấn đề thảo luận cũng như các điều kiện phục vụ khác (bàn, ghế, phòng học,
tài liệu, phương tiện dạy học…)
+ Mỗi nhóm cử ra một nhóm trưởng điều khiển và duy trì hoạt động của nhóm
và một thư ký ghi đầy đủ các phát biểu trong thảo luận.
+ Có thể giao nhiệm vụ cho từng cá nhân làm việc độc lập trong nhóm, sau đó
cả nhóm đánh giá và bổ sung. Cũng có thể giao nhiệm vụ cho cả nhóm, tuy nhiên cần
nhớ: tại một thời điểm, mỗi nhóm (cá nhân) chỉ được giao thảo luận một chủ đề (một
nhiệm vụ), không giao cùng một lúc nhiều chủ đề.
+ Tại một thời điểm có thể giao cho nhiều nhóm cùng thảo luận một chủ đề.
Kết thúc chủ đề này lại thảo luận chủ đề khác (phát triển bài học theo chiều dọc) cũng
có thể giao cho mỗi nhóm một chủ đề. Sự liên kết các nhóm này sẽ tạo ra sự thống
nhất về kết quả chung của bài dạy (phát triển bài học theo chiều ngang). Cả hai hướng
đều có điểm mạnh và hạn chế nhất định. Vì vậy phải tùy theo mục tiêu và nội dung
giảng dạy, giáo viên có thể kết hợp hai cách trên với mức độ nhất định.
+ Các sản phẩm của cá nhân hay của cả nhóm có thể được thể hiện trên các văn
bản, biểu đồ,… các sản phẩm đó phải được giới thiệu và trình bày trước nhóm hoặc
trước các nhóm khác trong lớp.
+ Đảm bảo yếu tố thông tin phản hồi từ các nhóm.

17



+ Bất kỳ cuộc thảo luận nào cũng có kết quả của giáo viên, cần giành thời gian
ghi chép, đánh giá sự tiến bộ của các nhóm, tóm tắt ý tưởng của các nhóm, thực hiện
công tác trọng tài cố vấn cho các nhóm tiếp tục hoàn thiện hoặc phát triển ý tưởng của
mình.
Các hình thức thảo luận nhóm
Có nhiều hình thức thảo luận theo nhóm, hiệu quả của chúng tùy thuộc vào ý đồ

1.1.2.2.

-

và tính chất sử dụng của người dạy.
Dưới đây là một số hình thức thảo luận nhóm phổ biến:
Nhóm nhỏ thông thường
Giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ (3 đến 5 người) để thảo luận một vấn đề
cụ thể nào đó và nhanh chóng đưa ra kết luận tập thể về các vấn đề đó.Hình thức này
thường được sử dụng kết hợp với các kỹ thuật dạy học khác trong một bài học. Nội
ding thảo luận của nhóm thông thường là các nội dung nhỏ, thường thảo luận ngắn (5
đến 10 phút).

-

Nhóm rì rầm
Giáo viên chia lớp học thành các nhóm cực nhỏ, khoảng 2 đến 3 người (thường
là cùng bàn) để trao đổi (rì rầm) và thống nhất trả lời một câu hỏi, giải quyết một vấn
đề một ý tưởng, thái độ… để nhóm rì rần có hiệu quả, giáo viên cần cung cấp đầy đủ,
chính xác các dữ liệu, các gợi ý và nêu rõ yêu cầu đối với câu trả lời để các thành viên
tập trung vào giải quyết. Việc chia lớp thành những nhóm nhỏ hoặc nhóm rì rầm là
biện pháp khắc phục hiện tượng người ngoài cuộc làm tăng hiệu quả của PPTLN.


-

Nhóm kim tự tháp
Đây là hình thức mở rộng của nhóm rì rầm, sau khi thảo luận theo cặp (nhóm rì
rầm), các cặp (2 hoặc 3 nhóm rì rầm) kết hợp thành nhóm 4 – 6 người để hoàn thành
một vấn đề chung. Đây cũng là biện pháp khắc phục hiện tượng “người ngoài cuộc”,
đồng thời tạo điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ học tập với chất lượng cao hơn.

-

Nhóm đồng tâm (nhóm bể cá)
Giáo viên chia lớp thành hai nhóm: nhóm thảo luận và nhóm quan sát (sau đó
có thể hoán vị cho nhau). Nhóm nhỏ hơn 6 – 10 người có nhiệm vụ thảo luận và trình
bày và trình bày vấn đề được giao, còn các thành viên khác trong lớp đóng vai quan
sát và phản biện. Hình thức chia nhóm này rất có hiệu quả đối với việc làm tăng ý thức
trách nhiệm cá nhân trước tập thể và tạo động cơ cho người trình bày ý tưởng của
mình trước tập thể.

18


-

Nhóm khép kín và nhóm mở
Nhóm khép kín là các thành viên trong nhóm làm việc trong khoảng thời gian
dài, thực hiện trọn vẹn một hoạt động học tập từ thời gian đầu đến cuối cùng.
Nhóm mở là cac thành viên có thể tham gia một hoặc vài giai đoạn phù hợp
với khả năng và sở thích của mình. Hình thức này mang lại cho người học nhiều khả
năng lựa chọn vấn đề thực hiện hiệu quả, chủ động về thời gian, sức lực.

Tóm lại, có nhiều hình thức thảo luận nhóm, mỗi hình thức có đặc điểm và ưu
thế nổi trội của mình. Tùy thuộc vào tính chất, nội dung của bài học cũng như các
điều kiện dạy học khác mà người giáo viên có thể lựa chọn cho mình một hình thức
thảo luận nhóm phù hợp hoặc cũng có thể lựa chọn nhiều hình thức thảo luận nhóm
kết hợp với nhau một cách linh hoạt.

1.1.2.3.
-

Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm
Ưu điểm: Dạy học bằng PPTLN có một số ưu điểm sau:
+ Học theo nhóm bao giờ cũng sôi nổi, nó tạo ra cơ hội tối đa cho mọi thành
viên trong nhóm được bộc lộ sự hiểu biết của mình về nội dung và phương pháp học
tập, giúp họ phát triển khả năng diễn đạt, trao đổi suy nghĩ và quan điểm một rang tăng
cường khả năng chịu đựng và sự quan tâm của người học. Điều này đặc biệt có ích đối
với học sinh nhút nhát, ngại ngùng, ít phát biểu trong lớp.
+ Tạo cơ hội thuận lợi để các thành viên trong nhóm học hỏi lẫn nhau và lịch sự
thể hiện quan điểm của mình cũng như nhận xét, đánh giá ý kiến của bạn, điều chỉnh
tư duy của mình.
+ Tạo cơ hội để các thành viên trong lớp làm quen, trao đổi và hợp tác với
nhau, hình thành thói quen tương tác trong học tập. Góp phần làm tăng bầu không khí
hiểu biết, tin cậy, thân thiện và đoàn kết giữa các thành viên.
+ Tạo yếu tố kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm, đặc biệt là việc
học tập các chủ đề có tính sáng tạo cao. Rèn luyện, phát triển các kỹ năng tư duy, phân
tích tổng hợp…
+ Tạo cơ hội cho giáo viên có thông tin phản hồi về người học. Đây là một
trong những ưu điểm nổi trội của PPTLN so với các phương pháp dạy học khác. Mặt
khác, giáo viên còn có thể thu được tri thức và kinh nghiệm từ phia người học, qua các
phát biểu có suy ngĩ và sáng tạo của học sinh.


19


Như vậy, PPTLN được tổ chức tốt sẽ tăng cường tính tích cực, chủ động của
học sinh, giúp học sinh tập trung vào bài học, phát triển được các kỹ năng tư duy và óc
phê phán, các kỹ năng giao tiếp xã hội quan trọng khác.
-

Hạn chế: Mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng PPTLN cũng có những khó khăn, hạn chế
nhất định:
+ Để PPTLN có hiệu quả, đòi hỏi người giáo viên phải có khả năng xây dựng,
thiết kế những tri thức trong bài học thành tình huống có vấn đề. Song đó là việc
không hề đơn giản với mọi giáo viên và mọi bài học.
+ Để tổ chức một buổi học bằng PPTLN có hiệu quả thì cả giáo viên và học sinh
đều phải chuẩn bị, đầu tư nhiều về thời gian và công sức. Đặc biệt là ở những lớp học
quá đông thì đây thực sự là một trở ngại. Vì thế học bằng PPTLN sẽ làm mất nhiều
thời gian của giáo viên và học sinh.
+ Hiệu quả học tập phụ thuộc rất nhiều vào tinh thần tham gia của các thành viên
trong nhóm, thảo luận chỉ có một vài người tham gia tích cực thì dẫn đến tình trạng có
một vài người là chủ nhân, còn các thành viên khác là khách ngồi nghe để mặc cho
người khác dẫn dắt và quyết định. Khi đó TLN trở thành sự độc diễn cá nhân, hệt như
phương pháp thuyết trình của giáo viên. Còn các thành viên khác trở thành người
ngoài cuộc – một hiện tượng khá phổ biến trong TLN hiện nay.
+ Sự tác động từ bên ngoài như sự giám sát thường xuyên của giáo viên, yếu tố
thi đua giữa các nhóm cũng ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình thảo luận.
Có thể thấy rằng TLN là một trong những phương pháp phát huy tính tích cực, tự
giác của người học. Nó đã tạo ra được một môi trường học tập thuận lợi mà ở đó trí
tuệ tập thể đã được phát huy cũng như vai trò hoạt động xã hội của các cá nhân được
trải nghiệm. Nếu giáo viên người có tâm huyết, có quy trình và biện pháp thảo luận


1.1.2.4.

hữu hiệu thì những khó khăn và hạn chế trên hoàn toàn có khả năng khắc phục được.
Mối quan hệ giữa PPTLN với các phương pháp dạy học tích cực khác
Hiện nay, trong các trường THPT sử dụng rất đa dạng các PPDH, do vậy GV
phải nghiên cứu kỹ mục đích, nội dung môn học, bài dạy để tìm ra các phương pháp
phù hợp. Mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm riêng nên các phương pháp cần
được sử dụng phối hợp, hỗ trợ nhau để đảm bảo dạy học thành công.
PPTLN là một PPDH được sử dụng phổ biến, thường xuyên song song với các
PPDH tích cực khác trong quá trình dạy học, cụ thể:
Phương pháp thuyết trình là phương pháp không thể thiếu trong dạy học có sử
dụng PPTLN. Khi kết thúc thời gian thảo luận, GV yêu cầu các nhóm trình bày kết

20


quả thảo luận với nhiều hình thức phong phú. Nhóm có thể tự cử đại diện hoặc GV
yêu cầu ngẫu nhiên bất cứ một HS nào trong nhóm lên thuyết trình. Sau đó GV lại sử
dụng phương pháp thuyết trình trình bày và khắc sâu phần kiến thức đã thảo luận.
Khi GV yêu cầu HS thảo luận để đưa ra ý kiến quan điểm về một chủ đề nào đó
thì lúc đó phương pháp thảo luận đang được thực hiện, nhưng để có được quan điểm
và ý kiến thống nhất thì HS các nhóm đều phải đào sâu suy nghĩ. Như vậy, qua TLN
mà phương pháp động não được thể hiện.
PPDH nêu và giải quyết vấn đề cũng chỉ được thực hiện có hiệu quả khi các
nhóm trao đổi bàn bạc một cách tích cực, sôi nổi các vấn đề, mục học tập đã đề ra.
Phương pháp vấn đáp còn được vận dụng trong giờ thảo luận tập thể bằng một hệ
thống các câu hỏi giúp học sinh cùng tranh luận để hiểu sâu sắc hơn vấn đề đang học.
PPDH thông qua nghiên cứu tình huống cũng không thoát ly khỏi PPTLN. Bởi
vì một tình huống có vấn đề nào đó chỉ có thể biến thành tri thức HS thông qua việc
trao đổi, thảo luận các yếu tố, các mâu thuẫn của tình huống.

Có một phương pháp nữa mà thiếu nó thì PPTLN khó có thể phát huy được thế
mạnh của mình. Đó chính là phương pháp thảo luận lớp. Bởi vì, để có được ý kiến
thống nhất chung của các nhóm trong quá trình thảo luận thì tất yếu phải có sự trao
đổi, bàn bạc, bổ sung, thống nhất giữa các nhóm và vì thế không thể thiếu được
phương pháp thảo luận lớp khi thực hiện PPTLN trong quá trình dạy học.
Như vậy, PPTLN là một trong những PPDH được sử dụng kết hợp nhiều PPDH
tích cực khác, mà điển hình là những phương pháp nêu trên. TLN là phương tiện, điều
kiện cho sự thành công của các PPDH tích cực và ngược lại cũng nhờ các PPDH tích cực
đó mà PPTLN đã phát huy được tác dụng và thế mạnh. Vì thế, một lần nữa khẳng định ý
nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu, vận dụng PPTLN trong quá trình dạy học.
1.1.3. Đặc thù của môn GDCD ở trường THPT
Môn GDCD là môn khoa học xã hội, có vị trí đặc biệt quan trọng trong trường
THPT. Điều này có từ tính chất đặc thù về tri thức của môn GDCD đem lại, có thể nêu
lên một vài điểm riêng biệt như sau:
Thứ nhất: Nội dung tri thức môn học bao gồm phạm vi kiến thức rộng lớn, bao
quát toàn bộ đời sống xã hội, tri thức này được khái quát từ những vấn đề rất gần gũi,
thiết thực trong đời sống thường nhật của cá nhân công dân, gia đình và xã hội đến
những vấn đề lớn hơn của quốc gia, dân tộc, nhân loại. Đây là những kiến thức thể
hiện tên gọi của môn học, dạy và học để làm người của công dân. Để trở thành người
công dân đúng chuẩn mực xác định của người công dân Việt Nam trong thời đại mới,

21


khỏa mạnh, tự trọng, có kiến thức, kỹ năng, có động lực học tập suốt đời, biết quan
tâm tới người khác và có trách nhiệm với xã hội.
Hai là: Các tri thức môn GDCD có tính khái quát cao, tính trừu tượng, tính quy
luật logic chặt chẽ. Đây là tri thức mang tính định hướng sâu sắc, nó trực tiếp đề cập
tới những vấn đề chính trị, tư tưởng của giai cấp công nhân, của ĐCS Việt Nam, trực
tiếp xác lập cho học sinh một thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cộng sản.

Những kiến thức triết học nền tảng của thế giới quan đã giúp cho học sinh có được
định hướng đúng đắn trong hoạt động thức tiễn, biết cách giải quyết mối quan hệ của
bản than với cộng đồng trong các lĩnh vực ở phạm vi khác nhau. Những kiến thức về
kinh tế, chính trị - xã hội, pháp luật đạo đức… trực tiếp giúp cho học sinh bước đầu
biết phân tích đánh giá và tự rút ra kết luận đúng đắn về những vấn đề nóng bỏng của
đất nước và thế giới.Mỗi môn học học trong nhà trường đều có nhiệm vụ xây dựng thế
giới quan và phương pháp luận khoa học song lợi thế hơn các môn khác, môn GDCD
thực hiện nhiệm vụ này một cách trực tiếp. Đây là đặc điểm nói lên khả năng to lớn và
trách nhiệm nặng nề của môn GDCD trong trường THPT.
Ba là: Tri thức GDCD gắn bó mật thiết với hiện thực, phản ánh một cách sinh
động đời sống hiện thực, nếu việc dạy học tri thức môn GDCD tách khỏi thực tiễn xây
dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì sẽ mất hết ý nghĩa và tác dụng.
Bởi lẽ, dạy học môn GDCD là học sinh trở thành người công dân có tinh thần trách
nhiệm của một thành viên hữu ích cho đất nước. Do đó, quá trình dạy học môn GDCD
phải trực tiếp, cụ thể với đời sống, với việc rèn luyện và tu dưỡng của mỗi học sinh.
Tóm lại môn GDCD ở trường THPT đã đề cập và giải quyết một cách toàn diện
hệ thống kiến thức cơ bản, cần thiết của một công dân Việt Nam trong thời đại mới là
tổng hợp tri thức của nhiều môn khoa học. Đào tạo ra những thế hệ công dân có lập
trường tư tưởng vững vàng, có ý thức tự tôn dân tộc, có lý tưởng cách mạng, có tự
trọng giỏi giang và có ích cho xã hội là hết sức quan trọng cần thiết.
1.1.4. Vị trí, vai trò của phương pháp thảo luận nhóm đối với môn GDCD
Khi vận dụng phương pháp này người học sẽ tham gia vào các hoạt động học
tập ở mức độ cao. Người học không thụ động, chỉ nghe giảng và truyền đạt kiến thức
mà còn được học tập bằng hoạt động của chính mình.
Người học sẽ tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng và điều chỉnh thái độ
phù hợp với những tác động của nhà trường cũng như của thực tiễn.Những tri thức
trong môn GDCD mang tính khái quát hóa trừu tượng hóa cao, vận dụng PPTLN
nhóm này sẽ giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức một cách sâu sắc, bền vững.

22



Vận dụng PPTLN sẽ khuyến khích lòng say mê, học hỏi, tính tự giác, chủ động
học tập, có khả năng tạo ra tính chủ động trong học tập của người học. Vận dụng
PPTLN sẽ giúp người học phát triển được các kỹ năng tư duy và các kỹ năng giao tiếp
cơ bản. Điều đó cho thấy vị trí của môn GDCD là quan trọng cần phải có nhận thức
đúng đắn đầy đủ về vị trí, vai trò của môn học này thì mới góp phần xây dựng “con
người vừa hồng vừa chuyên”.
Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học

1.2.

môn GDCD lớp 12 ở trường THPT 19/5 huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình
1.2.1. Thực trạng của việc dạy học bằng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
GDCD lớp 12 ở trường THPT 19/5 huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình
∗ Đặc điểm của môn GDCD lớp 12
Môn GDCD lớp 12 “Công dân với pháp luật” bao gồm những tri thức về pháp
luật. Trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản về pháp luật, những tri thức cơ
bản về các phạm trù, khái niệm, nội dung các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
một số điều luật cơ bản trong hệ thống pháp luật mà người công dân Việt Nam cần
phải nắm được để các em vận dụng vào thực tế cuộc sống, giúp các em phân biệt các
loại vi phạm pháp luật và tránh được một số hành vi vi phạm pháp luật. Là hành trang
bước đầu cho cuộc sống tương lai của các em.
Nội dung chương trình môn GDCD lớp 12 bao gồm:
Bài
Bài 1
Bài 2
Bài 3
Bài 4
Bài 5

Bài 6
Bài 7
Bài 8
Bài 9
Bài 10


Nội dung
Pháp luật với đời sống
Thực hiện pháp luật
Công dân bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời
sống xã hội
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo
Công dân với các quyền tự do cơ bản
Công dân với các quyền dân chủ
Pháp luật với sự phát triển của công dân
Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước
Pháp luật với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của nhân loại

Số tiết
3
3
1
3
2
4
3
2
4

1

Khái quát chung về thực trạng của giảng dạy và học tập môn GDCD nói chung và
môn GDCD lớp 12 nói riêng ở trường THPT 19/5 huyện Kim Bội, tỉnh Hòa Bình
Trường THPT 19/5 được thành lập từ năm 1983, trường đóng trên địa bàn Bãi
Chạo, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình là vùng chủ yếu dân tộc Mường sinh sống. Nhà
trường có 27 lớp với tổng số học sinh là 1002 (2016 – 2017), trong đó có 9 lớp 10, 9

23


lớp 11và 9 lớp 12. Hội đồng sư phạm nhà trường có 70 thầy cô giáo, cán bộ nhân viên.
Đội ngũ cán bộ giáo viên và nhân viên đều có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, trong
đó có 11 thạc sĩ trên tổng số 70 giáo viên đang trực tiếp giảng dạy.
Qua điều tra tôi nhận thấy một số thực trạng dạy và học môn GDCD lớp 12 ở
trường THPT 19/5 huyện Kim Bôi, Hòa Bình như sau:
Qua khảo sát thực tiễn tại trường THPT 19/5 Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình vẫn còn
tình trạng thiếu giáo viên giảng dạy chất lượng cao, tuy không có giáo viên kiêm
nhiệm bộ môn nhưng chỉ có 02 giáo viên giảng dạy cho 27 lớp, chính vì vậy mà chất
lượng dạy chưa cao, sự đầu tư về chất lượng cho bài giảng chưa thực sự tốt.
Hơn nữa trong quá trinh giảng dạy môn GDCD, đa số giáo viên sử dụng
phương pháp truyền thống. Mặc dù phương pháp này có ưu điểm là trong khoảng thời
gian ngắn giáo viên có thể truyền tải đến người học một lượng thông tin lớn cần thiết,
cô đọng và cập nhật. Nhưng phương pháp này cũng làm cho người học gần như thụ
động nên ít có cơ hội thể hiện và áp dụng ý tưởng của mình đối với tài liệu học tập. Do
đó bài học dẫn đến đơn điệu, nhàm chán, kém hiệu quả.
Ngoài ra tình trạng các em học sinh thờ ơ, coi môn học GDCD là phụ vẫn còn
khá nhiều, nguyên nhân là do các em muốn tập trung vào các môn toán, lý, hóa… Tuy
môn học này đã được đưa vào kỳ thi THPT Quốc gia năm 2017 dưới hình thức trắc
nghiệm tích hợp với Lịch sử và Địa lý những vẫn có một số em chểnh mảng với môn

học này. Hơn nữa một nguyên nhân khá phổ biến là do bài giảng của giáo viên còn sơ
sài, không chuyên sâu ít có sự liên hệ thực tiễn với các vấn đề xung quanh giúp học
sinh yêu thích môn GDCD và thấy được tầm quan trọng của môn học.
∗ Tiến hành điều tra, khảo sát GV và HS
Để đánh giá một cách khách quan thực trạng dạy và học môn GDCD lớp 12
“Công dân với pháp luật” ở trường THPT 19/5 nói riêng và ở một số trường THPT ở
Hòa Bình nói chung, đặc biệt là việc vận dụng PPTLN trong quá trình dạy học của
giáo viên. Tôi đã tiến hành điều tra GV và HS của trường.
- Kết quả phân tích dữ liệu điều tra GV:
Tôi có đưa ra một số câu hỏi cho 05 GV dạy GDCD của các trường: 02 GV
trường THPT 19/5, 02 GV trường THPT Mường Bi (trong đó có 01 GV kiêm nhiệm),
01 GV trường THPT Tân Lạc như sau:
Câu hỏi 1.Theo các thầy (cô) PPTLN cần thiết trong dạy học trong môn GDCD
lớp 12 ở mức độ nào?
Tôi thu được kết quả như sau:
Mức độ
Rất cần thiết

24

Số lượng GV
0

%
0%


Cần thiết
Không cần thiết
Bình thường


4
0
1

80%
0%
20%

Kết quả thống kê cho thấy giáo viên đánh giá cao về việc sử dụng PPTLN trong
quá trình dạy học, thể hiện ở 80% giáo viên GDCD cho là cần thiết.
Câu hỏi 2.Trong quá trình giảng dạy môn GDCD lớp 12 “Công dân với pháp
luật” thầy (cô) sử dụng PPTLN ở mức độ nào?
Tôi thu được kết quả như sau:
Mức độ
Thường xuyên
Đôi khi
Chưa bao giờ

Số lượng GV
0
4
1

%
0%
80%
20%

Như vậy có thể thấy rằng, PPTLN tuy được nhận thức là một trong những

phương pháp cần thiết và quan trọng như đã điều tra ở trên, song số giáo viên sử dụng
phương pháp này thường xuyên thì ko có ai, các giáo viên chỉ đôi khi sử dụng hoặc có
giáo viên thì chưa bao giờ sử dụng phương pháp này trong quá trình dạy học. Các thầy
(cô) cho rằng, do nội dung kiến thức trong GDCD lớp 12 chủ yếu là kiến thức pháp
luật, nhiều nội dung không thể truyền tải hết kiến thức cho học sinh nếu sử dụng
PPTLN thường xuyên.
Câu hỏi 3: Theo thầy (cô) nên kết hợp PPTLN với những phương pháp dạy học
nào sau đây?
Kết quả thu được:
Phương pháp dạy học
Phương pháp thuyết trình
Phương pháp nêu vấn đề
Phương pháp động não
Phương pháp vấn đáp

Số lượng GV
5
2
3
5

%
100%
40%
60%
100%

Mặc dù PPTLN có nhiều ưu điểm nhưng nó không thể sử dụng tách rời, độc lập
mà có mối quan hệ chặt chẽ với tất cả các phương pháp dạy học khác. Vì thế các giáo
viên đều cho rằng PPTLN cần kết hợp với nhiều phương pháp dạy học tích cực khác,

như phương pháp thuyết trình, vấn đáp (100%). Điều đó cho thấy việc kết hợp tối ưu
các phương pháp dạy học khác là rất cần thiết.

25


×