Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

LDS-Cao Thị Thu Phương-Sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.14 KB, 12 trang )

Header Page 1 of 126.

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỞ HỮU

9

CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG ĐỐI VỚI QUYỀN TÀI
SẢN VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT

1.1.

Khái niệm, sự phân loại quyền tài sản và đặc điểm quyền

9

sở hữu đối với quyền tài sản
1.1.1.

Khái niệm quyền tài sản

9

1.1.2.

Phân loại quyền tài sản



16

1.1.3.

Đặc điểm quyền sở hữu đối với quyền tài sản

30

1.2

Đặc điểm của sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền
tài sản và nội dung điều chỉnh pháp luật quan hệ sở hữu
chung của vợ chồng đối với quyền tài sản

35

1.2.1

Đặc điểm của sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản

35

1.2.2

Vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ sở hữu chung của vợ

41

chồng đối với quyền tài sản

1.3.

Pháp luật Việt Nam về sở hữu chung của vợ, chồng đối với tài sản

46

qua các giai đoạn phát triển
1.3.1.

Quy định trước năm 1945

46

1.3.2.

Quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2000

52

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU

58

CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG ĐỐI VỚI QUYỀN TÀI
SẢN – NHỮNG BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

2.1.

Nội dung pháp luật Việt Nam hiện hành về sở hữu chung của vợ,


59

chồng đối với quyền tài sản

Footer Page 1 of 126.

1


Header Page 2 of 126.

2.1.1.

Khái quát về sở hữu chung của vợ, chồng theo Luật HNGĐ Việt

59

Nam năm 2000
2.1.2.

Căn cứ phát sinh sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản

60

2.1.3.

Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với quyền tài sản thuộc sở hữu

76


chung của vợ, chồng
2.1.4

Các căn cứ chấm dứt sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài

86

sản
2.2

Thực tiễn áp dụng pháp luật về sở hữu chung của vợ, chồng đối với

92

quyền tài sản - Một số vấn đề đặt ra và phương hướng hoàn thiện
2.2.1

Một số vấn đề bất cập trong pháp luật về sở hữu chung của vợ,

92

chồng đối với quyền tài sản
2.2.2

Phương hướng hoàn thiện pháp luật về sở hữu chung của vợ chồng

100

đối với quyền tài sản


Footer Page 2 of 126.

KẾT LUẬN

108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

110

2


Header Page 3 of 126.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

ĐHQGHN

Đại học quốc gia Hà Nội

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

HN&GĐ


Hôn nhân và gia đình

LDN

Luật Doanh nghiệp

LĐĐ

Luật đất đai



Nghị định

NQ

Nghị quyết

SHCN

Sở hữu công nghiệp

SHTT

Sở hữu trí tuệ

Footer Page 3 of 126.

3



Header Page 4 of 126.

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hôn nhân và gia đình là những yếu tố đặc biệt quan trọng trong xã hội. Ở
bất kỳ quốc gia nào, hôn nhân và gia đình cũng là những yếu tố không thể thiếu để
nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội. Vai trò của gia đình đã được Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2000 ghi nhận ngay ở lời nói đầu đó là “Gia đình là tế
bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình
thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”.
Trong gia đình thì quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ giữ vai trò chủ
đạo và có vai trò đặc biệt quan trọng. Mỗi gia đình đều được hình thành từ quan
hệ cơ bản nhất là quan hệ hôn nhân và chủ thể của quan hệ đó là người vợ và
người chồng. Từ nền tảng quan hệ hôn nhân giữa một người đàn ông và một người
đàn bà mà gia đình được tạo dựng và phát triển, sinh sôi, nảy nở. Hôn nhân chính
là tiền đề cho sự ra đời của gia đình, mục đích của hôn nhân là để xây dựng gia
đình và gia đình phải dựa trên cơ sở của hôn nhân, “hôn nhân sẽ không là đối
tượng của việc lập pháp, cũng như tình bạn nếu nó không là cơ sở của gia đình”
[28, tr. 47], đồng thời chịu tác động của các yếu tố đạo đức, tôn giáo, truyền thống,
pháp luật… Khi một người nam và một người nữ thiết lập quan hệ hôn nhân theo
quy định của pháp luật, giữa họ sẽ phát sinh một quan hệ đặc biệt đó là quan hệ
giữa vợ và chồng. Quan hệ vợ chồng là quan hệ rất đặc thù và nội dung của quan
hệ giữa vợ và chồng bao gồm các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng.
Trong các quan hệ hôn nhân gia đình nói chung thì quan hệ nhân thân có là
nhóm quan hệ chủ đạo và là yếu tố quyết định vì chỉ khi các quan hệ nhân thân


Footer Page 4 of 126.

4


Header Page 5 of 126.

được xác lập (như quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa vợ chồng được xác lập sau sự
kiện kết hôn) thì từ đó các quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng mới phát
sinh. Quan hệ nhân thân là các quan hệ phát sinh trên đời sống tinh thần và tình
cảm giữa vợ và chồng. Bên cạnh các quan hệ nhân thân thì quan hệ tài sản giữa vợ
và chồng cũng là những quan hệ cơ bản và đặc biệt quan trọng đối với đời sống
gia đình. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là các quan hệ được xác lập dựa trên
đối tượng là tài sản. Để cho gia đình tồn tại và phát triển, cần phải có các điều kiện
vật chất là cơ sở kinh tế của gia đình để nuôi sống gia đình. Do vậy chế độ tài sản
của vợ chồng luôn được các nhà làm luật của tất cả các quốc gia trên thế giới quan
tâm xây dựng như là một chế định cơ bản của luật HN&GĐ. “Chế độ tài sản của
vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản của
vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của
vợ, chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia
tài sản giữa vợ và chồng theo luật định” [6, trg. 8]. Việc quy định và thực hiện chế
độ sở hữu chung của vợ chồng đối với tài sản ở nước ta trong những năm qua đã
góp phần đảm bảo sự ổn định và bền vững của các quan hệ hôn nhân gia đình, đặc
biệt là bảo đảm sự cân bằng về mặt lợi ích giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người phụ nữ. Trong xã hội hiện đại, vai trò và đóng góp của
người phụ nữ đối với gia đình cũng như đối với sự phát triển chung của toàn xã
hội là rất to lớn và cần được trân trọng và bảo vệ. Việc pháp luật quy định hợp lý
về vấn đề sở hữu chung của vợ, chồng sẽ giúp người phụ nữ bảo đảm và nâng cao
vị trí của mình trong gia đình cũng như trong xã hội, giúp tạo sự bình đẳng về mặt
kinh tế và xã hội của người vợ so với người chồng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích

chính đáng của phụ nữ. Pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam hiện hành
điều chỉnh về vấn đề tài sản chung của vợ chồng nhìn chung là khá đầy đủ và toàn
diện, đã góp phần bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, lợi ích chung của gia đình
cũng như lợi ích của toàn xã hội tuy nhiên trên thực tế áp dụng pháp luật vẫn nảy
sinh nhiều điểm bất cập. Còn nhiều vấn đề pháp luật chưa quy định thực sự rõ ràng
dẫn đến việc các bên tham gia quan hệ liên quan đến tài sản chung của vợ, chồng
Footer Page 5 of 126.

5


Header Page 6 of 126.

cũng như các cơ quan có thẩm quyền gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết các
tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
Trong các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng có một loại tài sản
đặc biệt, đóng vai trò quan trọng cũng như chiếm giá trị lớn trong khối tài sản
chung đó chính là các quyền tài sản. Bản thân quyền tài sản là một loại tài sản có
nhiều đặc điểm khác biệt so với các loại tài sản khác. Quyền tài sản là tài sản vô
hình, con người không thể cảm nhận được sự tồn tại của nó bằng các giác quan
như đối với các tài sản khác mà con người nhận thức được sự tồn tại của các
quyền tài sản thông qua các quy định của pháp luật. Nhắc đến quyền tài sản là
nhắc đến góc độ pháp lý của tài sản do đó các quyền tài sản phải được pháp luật
ghi nhận và bảo vệ. Do tính chất vô hình của mình mà việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt của các chủ thể đối với quyền tài sản khá đặc biệt so với các loại tài sản
khác. Đặc biệt trong quan hệ sở hữu chung của vợ chồng thì việc thực hiện quyền
sở hữu của mỗi người đối với các quyền tài sản chung như thế nào cũng là một
vấn đề rất phức tạp.
Bên cạnh đó, hiện nay khi nền kinh tế và trình độ khoa học kỹ thuật ngày
càng hiện đại và phát triển thì trong xã hội lại ngày càng xuất hiện nhiều loại tài

sản mới có tính chất đặc thù như các quyền SHTT, các loại tài sản ảo trong các trò
chơi trực tuyến (game online) v.v… Quyền SHTT là những quyền rất có ý nghĩa
trong đời sống không chỉ vì giá trị rất lớn của nó đối với nền kinh tế mà còn còn vì
những thành quả to lớn mà các đối tượng quyền SHTT mang lại đối với toàn xã
hội. Pháp luật Việt Nam đã có nhiều quy định để bảo các quyền này mà điển hình
là Luật SHTT được ban hành năm 2005. Luật SHTT 2005 đã ghi nhận đầy đủ các
đối tượng của quyền SHTT cũng như cơ chế điều chỉnh và bảo vệ các đối tượng
đó. Trong các loại quyền tài sản thì quyền SHTT lại là một loại quyền tài sản đặc
thù nên việc thực hiện quyền sở hữu chung của vợ, chồng trên các quyền tài sản là
quyền SHTT cũng khá khác biệt so với các loại quyền tài sản khác. Còn đối với
đối tượng mới xuất hiện như tài sản ảo thì hiện nay pháp luật vẫn chưa có quy

Footer Page 6 of 126.

6


Header Page 7 of 126.

định cụ thể về việc ghi nhận, bảo vệ tài sản ảo nên chưa có cơ sở pháp lý để bảo vệ
quyền của người có tài sản ảo cũng như để giải quyết các tranh chấp liên quan.
Một thực tế hiện nay đó các quy định của pháp luật hiện hành cụ thể là
BLDS 2005 về tài sản và quyền sở hữu nói chung cũng như các quy định về quyền
tài sản nói riêng vẫn còn nhiều bất cập. Ngay bản thân khái niệm quyền tài sản
chưa được định nghĩa một cách rõ ràng và chính xác, trong luật chưa có sự phân
loại các quyền tài sản và chưa nêu ra được bản chất của từng loại quyền tài sản.
Do chưa phân loại được và chưa hiểu đúng bản chất của từng loại quyền tài sản
nên các quy định về quyền tài sản trong BLDS 2005 vừa thiếu lại vừa không chính
xác. Chính vì vậy, việc thực hiện quyền sở hữu đối với quyền tài sản còn trên thực
tế còn gặp nhiều khó khăn, làm phát sinh nhiều mâu thuẫn trong việc áp dụng

pháp luật, do đó các tranh chấp liên quan đến quyền tài sản chưa được giải quyết
một cách hợp lý. Điều này khiến cho việc thực hiện quyền sở hữu chung của vợ
chồng đối với các loại quyền tài sản lại càng gặp nhiều khó khăn hơn.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập như hiện nay, quan hệ tài
sản giữa vợ và chồng đang có nhiều thay đổi, sự thay đổi đó là cần thiết để tạo
điều kiện cho vợ và chồng phát huy khả năng kinh doanh của mỗi người, đảm bảo
nền tảng kinh tế cho cả gia đình cũng như sự phát triển kinh tế chung của toàn xã
hội. Các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành điều chỉnh về
quan hệ tài sản giữa vợ, chồng đã tỏ ra có nhiều điểm không còn phù hợp với sự
phát triển của kinh tế – xã hội ở nước ta, chính vì vậy việc nghiên cứu tìm ra
những điểm bất cập của pháp luật và đề ra các giải pháp sửa đổi là rất cần thiết.
Đồng thời càng ngày giá trị và vai trò của các quyền tài sản lại ngày càng được
nâng cao hơn trong đời sống xã hội vì vậy yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp
luật về sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản đang đặt ra cấp thiết.
Qua việc nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về
quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản, tác giả mong
muốn sẽ làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quyền tài sản và quan hệ sở

Footer Page 7 of 126.

7


Header Page 8 of 126.

hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản; phân tích, đánh giá thực trạng pháp
luật từ đó chỉ ra những điểm hợp lý và những điểm còn bất cập của pháp luật Việt
Nam hiện hành quy định về vấn đề này và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như nâng cao tính hiệu quả của pháp luật
trong việc điều chỉnh về quyền tài sản nói chung và sở hữu chung của vợ chồng

đối với quyền tài sản nói riêng. Vì các lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Sở
hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật ở Việt Nam" có ý
nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, vấn đề quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng đã được nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, trong đó có thể kể đến các tài liệu
sau đây: Luận văn thạc sỹ luật học chuyên ngành Luật dân sự khoá 11 của học
viên Nguyễn Hiển Vinh tại Khoa Luật - ĐHQGHN “Chế độ tài sản của vợ chồng
theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ luật học chuyên
ngành Luật dân sự khoá 10 của học viên Đinh Thị Mai Phương tại Khoa Luật ĐHQGHN “Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt
Nam”; các bài viết “Một số ý kiến về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng” – ThS.
Nguyễn Thị Lan – Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật Hà Nội; “Khái quát tài sản
của vợ chồng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình của một số nước trên thế giới”
– ThS. Nguyễn Hồng Hải – Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật Hà Nội; “Quan hệ
về tài sản của vợ chồng trong hoạt động hợp tác sản xuất, kinh doanh theo pháp
luật của cộng hoà Pháp” – ThS. Bùi Minh Hồng – Khoa Luật Dân sự - Đại học
Luật Hà Nội (nghiên cứu sinh tại Cộng hoà Pháp) … một trong những nghiên cứu
chuyên sâu và toàn diện nhất về quan hệ tài sản giữa vợ, chồng đó là Luận án tiến
sĩ luật học của nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Cừ “Chế độ tài sản của vợ chồng theo
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” năm 2005 và sau đó tác giả này cũng đã phát
hành cuốn sách chuyên khảo: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam - TS. Nguyễn Văn Cừ - Nhà xuất bản Tư pháp - năm 2008
để những người nghiên cứu có điều kiện dễ dàng tiếp cận. Tuy nhiên trong các
Footer Page 8 of 126.

8


Header Page 9 of 126.


nghiên cứu nói trên về quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ, chồng thì chưa nghiên cứu
nào đặt vấn đề này trong bối cảnh Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế cũng như
sự thay đổi đáng kể trong quan hệ sản xuất của kinh tế thị trường khiến cho quan
hệ sở hữu tài sản giữa vợ và chồng cũng có những sự thay đổi đáng kể. Tuy nhiên
pháp luật Việt Nam điều chỉnh về quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng vẫn chưa
có sự thay đổi phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu
để làm rõ cả vấn đề lý luận và thực tiễn để có những quy định pháp luật điều chỉnh
quan hệ tài sản giữa vợ, chồng cho phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước
ta như hiện nay là rất cần thiết.
Các vấn đề liên quan đến quyền tài sản cũng đã được nhiều tác giả nghiên
cứu đề cập đến trong các tài liệu chuyên sâu khác nhau, cụ thể là: “Quyền tài sản một loại tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam” – Luận văn thạc sỹ của Sỹ Hồng
Nam học viên cao học Khoá 9 chuyên ngành Luật Dân sự tại Khoa Luật –
ĐHQGHN; bài viết “Tổng quan về Luật tài sản” của TS. Ngô Huy Cương; bài viết
“Cần xây dựng lại khái niệm Quyền tài sản trong Luật dân sự” và “Một số vấn đề
về quyền tài sản và hướng hoàn thiện” của TS. Nguyễn Ngọc Điện; Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp trường “Tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam – Những vấn
đề lý luận và thực tiễn” của Đại học Luật Hà Nội v.v… Tuy nhiên, có thể nói cho
đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về quan hệ sở hữu chung
giữa vợ, chồng đối với quyền tài sản, một loại tài sản đặc biệt trong thực tiễn.
Trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
cùng với nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, vấn đề về quyền tài sản và sở
hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý
luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền
tài sản nói chung và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản nói riêng,
đáp ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
công dân.

Footer Page 9 of 126.


9


Header Page 10 of 126.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích: Làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quyền tài sản và sở
hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản; phân tích, đánh giá thực trạng pháp
luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh về vấn đề này, trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyền tài sản và quan hệ sở hữu chung
của vợ chồng đối với quyền tài sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận, khái niệm, đặc điểm và sự phân loại của quyền tài
sản; đặc điểm của sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản và nội dung
điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản.
- Phân tích, đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về
quyền tài sản, về sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản và thực tiễn áp
dụng các quy định đó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ
chồng đối với quyền tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam. Quyền tài sản
được nghiên cứu trong luận văn là một đối tượng của quyền sở hữu.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn là
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp luật
học so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp hệ thống.

6. Điểm mới của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về sắc về sở hữu chung của
vợ chồng đối với một loại tài sản đặc biệt đó là quyền tài sản.

Footer Page 10 of 126.

10


Header Page 11 of 126.

- Luận văn đã đưa ra được khái niệm, đặc điểm và phân loại quyền tài sản; chỉ ra
và phân tích được các đặc điểm và nội dung của quan hệ sở hữu chung của vợ
chồng đối với quyền tài sản.
- Luận văn đã phân tích, làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về
quyền tài sản và sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản, chỉ ra những
điểm tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn
cũng đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng áp dụng các quy
định pháp luật về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài
sản và chỉ rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của chúng.
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến nghị cụ
thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tài sản và sở hữu chung của
vợ chồng đối với tài sản nói chung và đối với quyền tài sản nói riêng.
7. Ý nghĩa của luận văn:
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tài sản và sở hữu chung
của vợ chồng đối với quyền tài sản nói riêng, từ đó góp phần nâng cao vai trò và
hiệu quả của pháp luật đối với đời sống xã hội.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu và học tập các môn học như Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình v.v… tại

các cơ sở đào tạo luật.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát một số vấn đề lý luận về sở hữu chung của vợ,
chồng đối với quyền tài sản và vấn đề điều chỉnh pháp luật
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về sở hữu chung của vợ, chồng
đối với quyền tài sản – Những bất cập và hướng hoàn thiện

Footer Page 11 of 126.

11


Header Page 12 of 126.

Footer Page 12 of 126.

12



×