VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM ĐINH TRUNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN 2,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM ĐINH TRUNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN QUẬN 2,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số : 60.34.04.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI – 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT .................. 8
1.1. Khái quát về chính sách giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất ..... 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện chính sách giải quyết việc làm
cho người dân bị thu hồi đất ................................................................................... 14
1.3. Nội dung thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi
đất ............................................................................................................................ 17
1.4. Các giai đoạn tổ chức thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người
dân bị thu hồi đất .................................................................................................... 18
1.5. Những yếu tố tác động đến thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho
người dân bị thu hồi đất .......................................................................................... 20
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI DÂN KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI QUẬN 2,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................................................. 29
2.1. Những yếu tố tác động đến thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho
người dân tại quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh ..................................................... 29
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân
tại quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................... 42
2.3. Kết quả thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân tại quận 2,
Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................................ 44
2.4. Đánh giá khái quát việc thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người
dân tại quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................... 50
Chương 3. TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT ..................................................... 54
3.1. Quan điểm, định hướng tăng cường thực hiện chính sách giải quyết việc
làm cho người dân bị thu hồi đất ....................................................................... 54
3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho
người dân bị thu hồi đất ...................................................................................... 56
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 78
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển, có tiềm năng lao động rất lớn với trên
42 triệu lao động trong đó lao động nông nghiệp chiếm trên 70% (trên 30 triệu lao
động nông nghiệp). Khả năng tạo việc làm cho lao động nói chung và đặc biệt là lao
động nông thôn rất khó khăn, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp có xu hướng gia
tăng, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tới sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, an
ninh của quốc gia, nguyên nhân của vấn đề này là: Nền kinh tế của đất nước phát
triển chậm, khả năng thu hút lao động và tạo việc làm mới hạn chế; trình độ của độ
ngũ người lao động thấp, không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, thông tin
về thị trường, thông tin về khoa học công nghệ rất yếu, nghèo, thiếu vốn, thiếu công
nghệ...
Để phát triển nền kinh tế đòi hỏi đất nước phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ
cơ cấu kinh tế thuần nông, độc canh hay nói cách khác là một đất nước nông
nghiệp, sản xuất nhỏ lạc hậu phải chuyển sang nền văn minh mới: nền văn minh
công nghiệp, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH), phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành một đất nước công nghiệp hiện
đại ngang tầm với các nước trong khu vực.
Đi liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng
CNH, HĐH, nhiều thành phố, khu công nghiệp, thị trấn, thị tứ mới được mọc lên.
Hay có thể nói, đô thị hóa là kết quả tất yếu của quá trình CNH, HĐH nền kinh tế
nước nhà.
Đô thị hóa đem lại nhiều lợi ích cho sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH)
của đất nước, song bản thân nó lại gây ra không ít những mâu thuẫn mới đòi hỏi
phải được giải quyết: quá trình đô thị hóa gia tăng sẽ đẩy một bộ phận nông dân ra
khỏi vùng đất mà họ vẫn thường sinh sống (quá trình bần cùng hóa những người lao
động) làm cho đất canh tác bình quân đầu người đã thấp (0,17ha/người lao động)
nay còn thấp hơn.
Thu hồi đất phục vụ mục đích Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa
1
diễn ra mạnh mẽ đã mang đến những thay đổi lớn ở các vùng nông thôn Việt Nam.
Báo cáo từ những đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước cho thấy
sau khi thu hồi đất, ngân sách của địa phương tăng lên, cơ sở hạ tầng được cải thiện,
thu nhập bình quân đầu người của địa phương tăng lên hàng năm, tỉ lệ hộ nghèo
giảm đi đáng kể. Tuy nhiên thu hồi đất làm giảm đi nhanh chóng diện tích đất sản
xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm của các hộ dân bị thu hồi đất. Trong 10 năm
từ năm 2001 đến 2010, trung bình mỗi năm khu vực nông thôn nước ta phải nhường
50.000 ha đất nông nghiệp. Theo tính toán của các nhà phân tích, mỗi ha đất nông
nghiệp bị thu hồi sẽ làm cho khoảng 10 người lao động mất việc làm; và với nửa
triệu ha đất bị thu hồi từ năm 2001-2010, số lao động mất việc làm lên đến hàng
triệu người.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm văn hóa lớn, đồng thời là trung tâm
kinh tế hàng đầu của cả nước; vì vậy, đô thị hóa ở Thành phố là một kết quả tất yếu
của sự phát triển kinh tế – xã hội. Đặc biệt, quá trình đô thị hóa vùng ven Thành
phố Hồ Chí Minh đang diễn ra rất sôi động. Quận 2 là một trong những quận vùng
ven của Thành phố, đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ. Điều này được biểu
hiện qua sự gia tăng dân số, tăng tỉ lệ dân đô thị và thay đổi lớn số lượng dân cư.
Bên cạnh đó, Quận 2 có nhiều công trình, dự án đang được triển khai thực hiện,
trong đó nổi bật là dự án Đô Thị mới Thủ Thiêm, dự án khu Đô thị An Phú - An
Khánh và nhiều dự án lớn khác. Quận 2 là một quận ngoại thành được tách ra từ
Huyện Thủ Đức cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, với thế mạnh là sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là trồng lúa và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nhưng cùng với sự phát
triển của thành phố, cùng với quá trình đô thị hoá, diện tích đất nông nghiệp của
quận cũng đang phải nhường chỗ cho các khu công nghiệp, khu đô thị và nhà máy
mới mọc lên. Quận 2 có vị trí và điều kiện thuận lợi để hình thành một đô thị mới
của cả nước. Là đầu mối giao thông về đường bộ, đường sắt nội đô, đường thủy nối
liền Thành phố với các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu; có tiềm năng
về quỹ đất xây dựng, làm cho tốc độ đô thị hóa ở Quận 2 ngày càng nhanh.
Mặt khác, việc nhà nước thu hồi đất đã ảnh hưởng đến đời sống vật chất và
2
tinh thần của người dân như: không ít người dân mất đất canh tác, gặp khó khăn
trong việc chuyển đổi nghề nghiệp. Giờ đây, người dân bị mất đất, mất tư liệu sản
xuất, không có việc làm, thu nhập bấp bênh. Do số tiền đền bù và hỗ trợ thấp, hơn
nữa có một bộ phận người dân không sử dụng số tiền đền bù một cách hiệu quả, nên
sau khi tiêu hết tiền không còn nguồn thu nhập, đời sống không ổn định, thậm chí
rơi vào cảnh nghèo túng. Có một bộ phận do không có việc làm đã sa đà vào con
đuờng kiếm tiền phi pháp hoặc vướng các tệ nạn xã hội. Với một quận mới thành
lập, còn khó khăn về kinh tế như Quận 2, việc tạo việc làm cho nguời dân khi nhà
nước thu hồi đất là một bài toán rất khó khăn. Do đó, sau thời gian tìm hiểu về thực
trạng việc làm của nguời dân sau khi bị thu hồi đất ở quận 2, tác giả chọn đề tài luận
văn: “Thực hiện chính sách việc làm khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Quận 2,
Thành phố Hồ Chí Minh”.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta, những năm qua có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề việc
làm và giải quyết việc làm, đặc biệt giải quyết việc làm đối với người dân khi nhà
nước thu hồi đất, như: Trần Thị Minh Ngọc (2010), “Giải quyết việc làm cho nông
dân bị thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính
trị - Hành chính khu vực I, Hà Nội; Nguyễn Văn Nhường (2010), “Chính sách an
sinh xã hội đối với người nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các cụm công
nghiệp (nghiên cứu tại Bắc Ninh)”, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học kinh tế
Quốc dân, Hà Nội; Lê Du Phong (Chủ biên), (2007), “Thu nhập, đời sống, việc làm
của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Minh Phong, Phạm Thị Minh Uyên (2009),
“Đào tạo nghề và việc làm cho nông dân - Vấn đề bức xúc của hậu giải phóng mặt
bằng”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (13); Nguyễn Duy Phương (2013), "Quan điểm
và giải pháp giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay", Tạp chí Lao động và Xã hội,
(464 + 465). Trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đã đánh giá sự tác động,
sự cần thiết cũng như các nhân tố ảnh hưởng của thu hồi đất để công nghiệp hóa,
3
đô thị hóa đến việc làm của người dân bị thu hồi đất; trên cơ sở đó đưa ra hệ thống
các giải pháp và khuyến nghị nhằm tạo việc làm cho họ.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu về thực
hiện chính sách việc làm khi Nhà nước thu hồi đất. Vì vậy, Đề tài “Thực hiện chính
sách việc làm khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Quận 2, thành phố Hồ Chí
Minh” của Luận văn này, theo tìm hiểu của tác giả là không trùng với các công
trình đã được công bố ở nước ta từ trước đến nay.
Trong quá trình đô thị hoá, nhiều vấn đề bức xúc về mặt xã hội đang diễn ra
khắp cả nước đã được các cơ quan truyền thông đại chúng phản ánh hằng ngày, đời
sống một bộ phận nhân dân sau khi di dời, tái định cư gặp nhiều khó khăn, nhất là
trong vấn đề việc làm, thu nhập, điều kiện nhà ở khiến họ chưa thể hòa nhập với
nơi ở mới, việc đền bù chưa hợp lý, chưa giải quyết dứt điểm khi giải phóng mặt
bằng làm cho một số hộ dân bức xúc dẫn đến khiếu nại kéo dài, ảnh hưởng đến tình
hình an ninh trật tự, an ninh chính trị trên địa bàn… Song, sự phản ánh trên các
phương tiện thông tin đại chúng mới chỉ thể hiện ở từng hiện tượng riêng lẻ, chưa
mang tính hệ thống và chưa đủ tầm khái quát để làm cơ sở khoa học cho các chủ
trương, chính sách giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình đô thị hoá.
Việc thu hồi đất để tiến hành công nghiệp hóa, đô thị hóa và tạo việc làm cho
người dân sau khi Nhà nước thu hồi đất đang là bài toán khó của Chính phủ và các
địa phương trong việc đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững. Nếu không
đánh giá tổng quát, khoa học về sự tác động nhiều mặt của thu hồi đất đến việc làm,
thu nhập và đời sống của người dân sẽ không tìm ra "nền tảng" cho việc ổn định
chính trị, kinh tế xã hội ở nhiều địa phương trong cả nước.
Vấn đề thực hiện chính sách giải quyết việc làm, ổn định đời sống của người
dân thuộc diện giải tỏa, cùng với các chính sách có liên quan đến bồi thường, tái
định cư, thu hồi đất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là thực hiện chính sách tạo
việc làm khi Nhà nước thu hồi đất là nội dung quan trọng nhằm ổn định cuộc sống
của người dân về đời sống và thu nhập. Đó là những căn cứ khoa học và thực tiễn
quan trọng để kế thừa và phát triển cho quá trình nghiên cứu thực hiện của luận văn.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong quá trình thực hiện chính sách giải quyết
việc làm khi Nhà nước thu hồi đất, đề xuất nhóm các giải pháp đồng bộ, hợp lý
nhằm tạo việc làm một cách có hiệu quả cho người dân bị thu hồi đất từ thực tiễn tại
Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài hướng tới giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách việc làm
khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiệc các dự án phát triển hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội trên địa bàn Quận 2. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài sẽ tập
trung vào nghiên cứu những nội dung sau:
- Hệ thống hóa, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách
giải quyết việc làm khi Nhà nước thu hồi đất.
- Đánh giá thực trạng tạo việc làm khi Nhà nước thu hồi đất tại Quận 2,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Xác định các nhân tố ảnh huởng đến việc làm người dân bị thu hồi đất tại
Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, đề xuất các nhóm giải pháp nhằm tạo
việc làm hiệu quả cho người dân sau khi Nhà nước thu hồi đất tại Quận 2, Thành
phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách giải quyết việc làm
cho người dân bị thu hồi đất trên địa bàn quận 2.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thực trạng lao động, việc làm của người dân trước và sau khi bị thu hồi đất.
- Các nhân tố ảnh hưởng tới việc làm của người dân sau khi bị thu hồi đất.
- Nghiên cứu, đề xuất giải pháp tạo việc làm cho dân sau khi bị thu hồi đất.
+ Phạm vi về không gian: Nghiên cứu tại địa bàn quận 2.
+ Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu số liệu từ năm 2010 đến năm 2015.
5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương
pháp luận chung. Đặc biệt, chú trọng sử dụng các phương pháp đặc trưng của kinh
tế chính trị - phương pháp trừu tượng hóa. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp
khác: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: thu thập số liệu thứ cấp từ các báo
cáo kết quả, các cuộc tổng điều tra về xuất khẩu lao động, chương trình mục tiêu
quốc gia về việc làm, cuộc điều tra về lao động việc làm, đào tạo nghề cho lao
động, tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn quận từ năm 2010 đến năm 2015.
- Phương pháp phân tích thống kê số liệu: Dựa trên số liệu thứ cấp được thu
thập, tác giả lập các bảng biểu, đưa ra nhận xét một cách tổng thể đối với số liệu
được thu thập, trích dẫn các nguồn tham khảo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu cơ bản, hệ thống những vấn đề lý luận về
thực hiện chính sách giải quyết việc làm khi Nhà nước thu hồi đất.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích, đánh giá quá trình thực hiện chính sách giải quyết việc
làm khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Quận 2 giai đoạn từ năm 2010 đến năm
2015. Tác giả đưa ra những nhận định khách quan về những thành tựu, hạn chế và
nguyên nhân của các hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách giải quyết việc
làm cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Quận 2, Thành phố Hồ Chí
Minh
Tác giả đưa ra những quan điểm và đề xuất các nhóm giải pháp phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân bị
thu hồi đất.
7. Bố cục của luận văn
6
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách giải quyết việc làm
cho người dân bị thu hồi đất.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người
dân bị thu hồi đất
Chương 3. Tăng cường thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người
dân bị thu hồi đất
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
VỀ VIỆC LÀM CHO NGƯỜI DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái quát về chính sách giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất
1.1.1. Các quan niệm về việc làm
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
đã đưa ra khái niệm: “Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có
được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người
tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập
gia đình, không nhận được tiền công hay hiện vật” .
Theo quan niệm này thì người có việc làm là những người lao động ở tất cả
các khu vực công và tư nhân, cá thể, hộ gia đình đem lại nguồn thu nhập nuôi sống
bản thân, gia đình và xã hội. Do đó, khái niệm này khá hoàn chỉnh, phù hợp trong
nền kinh tế hiện đại và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay. Vì vậy, khái niệm này được các quốc gia thừa nhận và đã được áp dụng ở
nhiều nước trên thế giới.
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về việc làm, song đa số các tác giả đều
thống nhất quan điểm mà Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012: Luật số 10/2012/QH13 ở
Khoản 1, Điều 9, Chương II, Bộ luật Lao động (sửa đổi): “Việc làm là hoạt động
lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”. Như vậy, việc làm là lao
động của con người nhằm tạo ra thu nhập hoặc lợi ích cho bản thân và gia đình
không bị pháp luật ngăn cấm, bao gồm:
- Những người làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc
hiện vật (gọi là việc làm được trả công).
- Những người làm các công việc tự làm hoặc các công việc gia đình để thu
lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng không được trả
công bằng tiền hoặc hiện vật cho các công việc đó (gọi là việc làm không được trả
8
công)
Việc làm là khái niệm mang tính chất động. Vì vậy, người ta chia việc làm
thành những phạm trù xã hội - nghề nghiệp khác nhau như:
- Việc làm chính thức: Là công việc chính mang lại thu nhập chính (đối với
những việc làm được trả công) và những thu nhập về của cải vật chất cho bản thân
và gia đình (đối với những việc làm không được trả công).
- Việc làm không chính thức: Là những công việc làm thêm ngoài công việc
chính. Chẳng hạn, đối với người nông dân, việc làm chính của họ là sản xuất nông
nghiệp trong mùa vụ, còn việc làm không chính thức là những việc làm thêm trong
lúc nông nhàn.
- Việc làm bền vững: Là việc làm mà nó tạo ra các cơ hội cho người lao động
được làm việc một cách có hiệu quả, có thu nhập công bằng, bảo đảm an toàn tại
nơi làm việc, tạo điều kiện để cá nhân phát triển và khuyến khích hòa nhập xã hội,
cho phép mọi người được tự do bày tỏ những mối quan tâm của mình, được tự do tổ
chức và tham gia vào các quyết định ảnh hưởng tới cuộc sống của họ và bảo đảm
cho tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng và được đối xử bình đẳng.
Từ những phân tích các quan niệm về vấn đề việc làm xuất phát từ thực tiễn
phát triển kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế hiện nay, việc làm là hoạt động lao động của
con người, là dạng hoạt động kinh tế - xã hội, đó là sự kết hợp giữa sức lao động
với tư liệu sản xuất theo những điều kiện phù hợp nhất định, nhằm tạo ra sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng lợi ích con người (cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã
hội). Hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm.
1.1.2. Một số lý thuyết tạo việc làm
Tạo việc làm chính là tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm thu
nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Có nhiều lý
thuyết tạo việc làm của các nhà kinh tế, cụ thể như sau:
- Lý thuyết tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư - tăng trưởng kinh tế. Muốn tăng
trưởng kinh tế phải có tích lũy, để từ đó có vốn đầu tư mở rộng tái sản xuất, tạo ra
9
nhiều việc làm. Đối với các nước đang phát triển do thu nhập thấp, tỷ lệ tích lũy
thấp, dẫn đến thiếu vốn đầu tư. Để tạo vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, các nước
này cần phải dựa vào lợi thế so sánh của mình là tài nguyên thiên nhiên và nguồn
nhân lực giá rẻ để thu hút vốn đầu tư (hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm vốn bằng
ngoại tệ, thiết bị, phương tiện kỹ thuật, công nghệ, tri thức quản lý kinh tế hiện đại)
từ bên ngoài nhằm tạo ra “cú huých”, từ đó tạo thêm nhiều việc làm. Theo lý thuyết
này, tốc độ và quy mô của vốn đầu tư tăng sẽ thúc đẩy trực tiếp tốc độ và quy mô
của việc thu hút nguồn nhân lực vào hoạt động kinh tế, tạo nhiều việc làm mới.
- Lý thuyết tạo việc làm của W.Athur Lewis. Ông đã đưa ra mô hình kinh tế
nhị nguyên, sau đó được các nhà kinh tế học John Fei, Gustar Ranis, Harris áp dụng
phân tích quá trình tăng trưởng ở các nước đang phát triển. Tư tưởng cơ bản của lý
thuyết này là chuyển số lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp sang khu vực
công nghiệp do hệ thống tư bản nước ngoài đầu tư vào các nước đang phát triển.
Quá trình này sẽ tạo ra nhiều việc làm bởi vì, trong khu vực nông nghiệp đất đai
chật hẹp, lao động dư thừa, số lao động này không có việc làm nên không có thu
nhập. Vì vậy, khi có một mức lương cao hơn trong khu vực này thì các nhà đầu tư sẽ
sử dụng ngay nguồn lao động dư thừa từ nông nghiệp chuyển sang. Do chi trả lương
theo năng suất cận biên nên phần còn lại sẽ thuộc về các nhà đầu tư, từ đó các nhà
đầu tư sẽ thu hồi vốn nhanh, có nhiều lợi nhuận và tiếp tục tái sản xuất mở rộng.
- Lý thuyết tạo việc làm bằng di chuyển lao động của Torado. Lý thuyết này
phân tích khả năng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị. Theo đó, quá trình
dịch chuyển lao động chỉ diễn ra suôn sẻ khi tổng cung về lao động từ nông nghiệp
phù hợp với tổng cầu ở khu vực công nghiệp. Sự di chuyển lao động này không
những phụ thuộc vào chênh lệch thu nhập mà còn dựa vào xác suất tìm được việc
làm đối với lao động nông nghiệp và sự di chuyển lao động trên cơ sở thực hiện
điều tiết thu nhập, tiền lương giữa các khu vực kinh tế. Theo Torado, lao động nông
thôn có thu nhập thấp, vì thế họ quyết định di chuyển ra khu vực thành thị để có thu
nhập cao hơn. Quá trình này mang tính tự phát, phụ thuộc vào sự lựa chọn, quyết
định của các cá nhân. Vì thế, làm cho cung cầu về lao động ở từng vùng không ổn
10
định, gây khó khăn cho Chính phủ trong quản lý lao động và nhân khẩu.
Lý thuyết này cho thấy, ở các nước nông nghiệp muốn đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế cần phải tập trung vào việc phát triển ngành nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, để tạo ra thị trường cho công nghiệp và dịch vụ phát triển.
Các lý thuyết về tạo việc làm nêu trên đều tập trung luận giải các xu hướng,
biện pháp nhằm tạo việc làm. Mặc dù các lý thuyết chưa làm rõ vai trò của Chính
phủ trong việc kết hợp các chính sách kinh tế với chính sách xã hội để thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo nhiều việc làm.
Song, nó có tác dụng gợi mở những phương thức, biện pháp để tạo nhiều việc làm
cho lao động nông nghiệp, trong đó có bộ phận nông dân bị thu hồi đất trong quá
trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.
Tạo việc làm không đơn thuần là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất với sức lao
động, mà nó còn bao gồm cả yếu tố Nhà nước thông qua các chính sách và những
yếu tố xã hội. Tạo việc làm chính là tạo ra các cơ hội để người lao động, trong đó có
đối tượng là người dân bị thu hồi đất (thiếu hoặc không có tư liệu sản xuất chủ yếu đất đai), có việc làm và tăng thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân người lao
động, gia đình, cộng đồng và xã hội.
Tóm lại, tạo việc làm là quá trình:
Một là, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Số lượng và chất lượng
tư liệu sản xuất phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, vốn đầu tư, tiến bộ khoa học kỹ
thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng khai thác, quản lý, sử dụng đối với các tư
liệu sản xuất đó.
Hai là, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng sức lao động phụ
thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động và sự di
chuyển của lao động; chất lượng sức lao động phụ thuộc vào sự phát triển của giáo
dục, đào tạo, phổ cập nghề nghiệp, văn hóa, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức
khỏe cộng đồng.
Ba là, tạo ra những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội như các chính sách của
Nhà nước, các giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường hàng hóa
11
sức lao động, các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu quả cao,...
Bốn là, cần phải được xem xét cả từ ba phía: người lao động, người sử dụng
lao động và Nhà nước.
Vì vậy, tạo việc làm theo nghĩa rộng là tổng thể những mục tiêu, quan điểm,
cơ chế, chính sách, biện pháp kinh tế - xã hội của Nhà nước, cộng đồng và bản thân
người lao động tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội tạo điều kiện
thuận lợi để đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động có việc làm.
Tạo việc làm theo nghĩa hẹp là các biện pháp chủ yếu hướng vào đối tượng
thất nghiệp, thiếu việc làm, trong đó có nông dân bị thu hồi đất, thiếu hoặc không
còn đất sản xuất, nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động, duy trì tỷ lệ thất
nghiệp ở mức thấp.
Tại Việt Nam, xác định việc làm là một vấn đề cấp thiết, giải quyết việc làm
cho người lao động là một trong những ưu tiên hàng đầu trong các chính sách kinh
tế – xã hội, Chiến lược Phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010
nêu rõ: “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn
định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng
và yêu cầu bức xúc của nhân dân”. Thực hiện mục tiêu của chiến lược nói trên về
giải quyết việc làm, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng Chiến lược
Việc làm thời kỳ 2001-2010 nhằm mục tiêu “Chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp
với cơ cấu kinh tế; đảm bảo việc làm cho phần lớn lao động có nhu cầu làm việc;
nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho
nhân dân.
1.1.3. Chính sách việc làm cho người dân bị thu hồi đất
Để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, đô thị hóa, hàng chục vạn hộ gia đình
đã phải nhường đất để di dời đến nơi định cư mới theo sự sắp xếp của các nhà quản
lý. Cùng với đó là hàng trăm ngàn ha đất phải chuyển đổi mục đích sử dụng, do đó
sẽ có hàng chục vạn lao động không còn cơ hội được làm việc trên mảnh đất của
mình. Số lao động đó hoặc phải chuyển sang các ngành nghề mới, hoặc phải chấp
nhận cảnh không có việc làm. Để đảm bảo ổn định cuộc sống cho những người
12
nhường đất, tạo việc làm cho lao động vùng bị thu hồi đất là điều kiện tiên quyết
cho việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, đô thị hóa đất nước;
đồng thời là nhân tố quan trọng trong việc phấn đấu đạt được mục tiêu thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Từ những phân tích các lý thuyết, quan niệm về việc làm tạo việc làm trên cơ
sở thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế
hiện nay, thực hiện chính sách việc làm cho người dân bị thu hồi đất, là hoạt động
lao động của người dân trong độ tuổi lao động, là sự kết hợp giữa sức lao động với
tư liệu sản xuất theo những điều kiện phù hợp nhất định, nhằm tạo ra sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ, đáp ứng lợi ích của người nông dân, cộng đồng và xã hội.
Hoạt động lao động đó không bị luật pháp Việt Nam ngăn cấm.
Hoạt động được xem là việc làm cho người dân bị thu hồi đất phải đáp ứng
các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, hoạt động lao động của người dân khi không có đất sản xuất (bị thu
hồi hết) hoặc còn một phần đất sản xuất (sau khi thu hồi). Đây là hoạt động có mục
đích của người dân, dùng sức cơ bắp và thần kinh của mình tác động vào đối tượng
lao động thông qua công cụ lao động để cải biến nó phù hợp với nhu cầu của họ và
gia đình, cộng đồng và xã hội.
Thứ hai, để có việc làm đòi hỏi phải có tư liệu sản xuất và sức lao động. Với ý
nghĩa này, để người dân trong độ tuổi lao động bị thu hồi đất có việc làm đòi hỏi
phải đầu tư phát triển sản xuất, phải tạo ra một số lượng tư liệu sản xuất có khả
năng đáp ứng yêu cầu của người dân. Đồng thời, phải đào tạo nghề, chuyển đổi
nghề cho nông dân bị thu hồi đất nhằm nâng cao chất lượng, số lượng sức lao động,
để có thể sử dụng hiệu quả tư liệu sản xuất có được.
Thứ ba, trình độ của tư liệu sản xuất phải phù hợp với trình độ và năng lực lao
động của người dân bị thu hồi đất. Hay nói cách khác, để sức lao động có thể kết
hợp được với tư liệu sản xuất, thì người dân trong độ tuổi lao động bị thu hồi đất
phải có một trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp để sử dụng tư liệu sản xuất đó.
13
Thứ tư, sự kết hợp sức lao động của người dân trong độ tuổi lao động bị thu hồi
đất và tư liệu sản xuất phải tạo ra một loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nhất định nào
đó. Sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đó phù hợp với lợi ích của họ, cộng đồng và xã hội.
Thứ năm, sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động đó không bị luật
pháp ngăn cấm. Ở đây xác định rõ tính pháp lý của việc làm cho người dân trong độ
tuổi lao động bị thu hồi đất. Tính hợp pháp đó cho phép người dân trong độ tuổi lao
động bị thu hồi đất được tự do lựa chọn việc làm cho mình trong khuôn khổ pháp
luật quy định. Người dân trong độ tuổi lao động bị thu hồi đất được tự do hành
nghề, tự do liên doanh, liên kết, tự do thuê mướn lao động, tự do kí kết hợp đồng
lao động trong khuôn khổ pháp luật và sự hướng dẫn của Nhà nước để có thể tạo
việc làm cho mình.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện chính sách giải quyết
việc làm cho người dân bị thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân
bị thu hồi đất
Thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân khi Nhà nước thu
hồi đất là việc tạo ra các cơ hội để người dân bị thu hồi đất có việc làm và tăng
được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Với
đối tượng là người dân bị thu hồi đất, giải quyết việc làm là nhằm khai khai thác
triệt để tiềm năng của một con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có
hiệu quả. Chính vì vậy, giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với người lao động ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ
của mình. Trong đó, có quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi sống
bản thân và gia đình góp phần xây dựng quê hương đất nước. Giải quyết việc làm
có thể được hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Số lượng và chất
lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học – kỹ thuật áp
dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó.
14
Thứ hai, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao động phụ
thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động và sự di
chuyển của lao động, chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục
đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Thứ ba, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu quả
cao, các giải pháp về quản lý thị trường, kỹ thuật… nhằm nâng cao hiệu quả của
việc làm. Chỉ khi nào trên thị trường người lao động và người sử dụng lao động gặp
gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành.
Giải quyết việc làm cần phải được xem xét cả phía người lao động, người sử
dụng lao động và vai trò của nhà nước. Vì vậy giải quyết việc làm là tổng thể các
biện pháp, chính sách kinh tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao
động có thể có việc làm
1.2.2. Đặc điểm thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân bị
thu hồi đất
- Thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất đã
chuyển biến theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện cơ chế chính sách của chính phủ quốc gia,
của chính quyền địa phương là nhóm nhân tố quan trọng tạo việc làm cho người dân
bị thu hồi đất. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, chính phủ, địa phương sẽ đề ra những
chính sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý cho phát triển sản xuất, cải thiện đời sống,
mở rộng hoặc thu hẹp việc làm của ngành này hay ngành khác, tạo môi trường để
người sử dụng lao động và người lao động gặp nhau. Chẳng hạn, chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế, do đó cơ cấu lao động
theo ngành kinh tế, theo vùng cũng thay đổi.
- Trong Bộ luật lao động của nước ta quy định: “Người lao động có quyền
làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất kỳ chỗ nào mà pháp luật
không cấm” (khoản 1, điều 16). Điều 13 ghi rõ: “Giải quyết việc làm, bảo đảm cho
mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của nhà
nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”.
15
- Thực hiện chính sách giải quyết việc làm có mối quan hệ biện chứng với
thực hiện chính sách xã hội và thực hiện các chính sách kinh tế. Thực hiện tốt chính
sách việc làm thì nguồn lao động được sử dụng hiệu quả, thất nghiệp sẽ giảm, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo ổn định chính trị và xã hội. Ngược lại, khi chính
sách việc làm chưa được giải quyết tốt, nạn thất nghiệp sẽ tăng và các tệ nạn xã hội
sẽ dễ dàng phát sinh, gánh nặng của các chính sách bảo đảm an ninh, xã hội sẽ tăng
lên. Một hệ thống các chính sách việc làm đồng bộ sẽ tạo môi trường thuận lợi để
việc làm hình thành, ổn định và phát triển, từ đó cho công tác giải quyết việc làm sẽ
gặp nhiều thuận lợi và có kết quả tốt.
- Thực hiện chính sách việc làm người dân bị thu hồi đất từng bước hoàn
thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện, đa dạng, ngày càng mở rộng, hiệu quả, một
bộ phận của việc thực hiện chính sách việc làm nói chung nhằm góp phần đảm bảo
an sinh xã hội, ổn định và phát triển kinh tế xã hội ở địa phương nói riêng, cả nước
nói chung.
1.2.3. Vai trò thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân bị
thu hồi đất
Thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất được
đánh giá trên các mặt kinh tế xã hội. Với đối tượng là người dân bị thu hồi đất,
trước hết thực hiện chính sách giải quyết việc làm là một bộ phận quan trọng trong
hệ thống cụ thể hóa chính sách việc làm phát triển kinh tế xã hội vì nó đưa ra các
mục tiêu và hệ thống các giải pháp vừa đảm bảo phát triển kinh tế và vừa đảm bảo
mục tiêu phát triển xã hội.
Đối với phát triển kinh tế thì thực hiện chính sách giải quyết việc làm đặt ra
mục tiêu để sử dụng hiệu quả nguồn lực lao động nhằm mục tiêu tăng trưởng.
Đối với phát triển xã hội thì thực hiện chính sách giải quyết việc làm đặt ra
các mục tiêu về giải quyết việc làm nhưng mang tính xã hội, mục tiêu việc làm ở
đây đảm bảo sự phát triển trong mối quan hệ giữa việc làm và xã hội như: chuyển
đổi cơ cấu về lao động, định hướng nghề nghiệp đối với người dân bị thu hồi đất,
các chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm, hỗ trợ vay vốn…
16
Thông qua thực hiện chính sách việc làm thể hiện vai trò quản lý, điều tiết
của mình đối với vấn đề việc làm. Trong những năm tiếp theo khi mà vấn đề việc
làm cho người dân bị thu hồi đất ngày càng trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã
hội thì việc thực hiện chính sách việc làm càng trở nên quan trọng và cần thiết.
1.3. Nội dung thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân bị
thu hồi đất.
Thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất là quá
trình tạo ra và kết hợp giữa các yếu tố tư liệu sản xuất, sức lao động và các điều
kiện kinh tế xã hội khác để đảm bảo cho giải quyết việc làm diễn ra và duy trì việc
làm. Vấn đề này liên quan đến nhiều chủ thể, bao gồm người lao động, người sử
dụng lao động, Nhà nước.
Thực hiện chính sách việc làm cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất
chính là quá trình thông quan chính sách của Nhà nước, người dân sử dụng sức lao
động của mình có thể tự do tìm kiếm được một công việc phù hợp, cũng như là quá
trình mà người sử dụng lao động có thể tìm kiếm được những người lao động thoả
mãn được những yêu cầu của mình về cả mặt số lượng và chất lượng, là quá trình
nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi để người dân bị thu hồi đất có thể thực hiện
quá trình lao động của họ.
Với các nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, tập trung mọi nguồn lực có thể để nhanh chóng ổn định đời sống
của người dân trong diện di dời, thu hồi đất cho phát triển công nghiệp hóa, đô thị
hóa.
Việc tập trung giải quyết tái định cư, ổn định cuộc sống và việc làm cho
những người trong diện di dời, giải tỏa, thu hồi đất để phát triển công nghiệp, đô thị
là ưu tiên hàng đầu của các ngành, các cấp của địa phương .
Thứ hai, ưu tiên giải quyết việc làm cho những lao động khi Nhà nước thu hồi đất.
Đây là ưu tiên hàng đầu của địa phương, cam kết mạnh mẽ của lãnh đạo địa
phương đối với những lao động này. Thực tế cho thấy, nhờ sự quan tâm của chính
quyền các cấp và việc tích cực học nghề của người lao động nên đã có hàng chục
17
ngàn lao động chuyển đổi thành công nghề, trở thành những công nhân hòa nhập tốt
với môi trường công nghiệp và dịch vụ.
Thứ ba, thường xuyên hướng dẫn các cách thức, biện pháp tạo việc làm cho
người lao động, để bản thân họ có thể tự tạo việc làm cho mình và cho người khác.
Đối với những lao động lớn tuổi hoặc những lao động không thích làm việc ở
các nhà máy, xí nghiệp, chỉ thích tự do tìm kiếm những việc làm phù hợp như mở
các cơ sở kinh doanh, dịch vụ, hoặc lập các tiệm ăn uống. chính quyền các cấp đều
tích cực hỗ trợ từ cho vay vốn ưu đãi, tư vấn sản xuất, kinh doanh, cho đến hướng
dẫn các cách thức làm ăn sao cho vừa bảo toàn vốn, vừa có lãi để tiếp tục phát triển
sản xuất kinh doanh. Nhờ vậy, đã có hàng ngàn lao động sau khi bị thu hồi đất đã
thành công trong môi trường làm ăn mới, trong đó nhiều người đã tích lũy vốn đầu
tư phát triển những doanh nghiệp sử dụng hàng trăm lao động.
Thứ tư, kêu gọi và khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp tại các dự án mà người dân có đất bị thu hồi ưu tiên tuyển
dụng lao động bị thu hồi đất cho phát triển công nghiệp, đô thị.
Các doanh nghiệp tích cực và chủ động tạo điều kiện cho người lao động
tham gia học nghề ở doanh nghiệp mình, sau đó tuyển dụng vào làm việc. Nhiều
doanh nghiệp đã đến tận các địa phương để tuyển lao động hoặc thông qua công
nhân đang làm việc tại doanh nghiệp. Các chính sách ưu đãi trong tuyển dụng có
nhiều điểm mới có lợi cho người lao động như: hỗ trợ ăn ở, đi lại, nâng mức lương
khởi điểm, đào tạo nghề miễn phí. Ngoài ra, hoạt động thường xuyên theo định kỳ
hàng tháng của sàn giao dịch việc làm của địa phương cũng đã tạo cơ hội gặp gỡ
giữa nhà doanh nghiệp và người lao động, giúp cho doanh nghiệp và người lao
động dễ dàng gặp nhau trong quá trình tìm kiếm và giải quyết việc làm.
1.4. Các giai đoạn tổ chức thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho
người dân bị thu hồi đất
- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tổng thể về việc thu hồi đất, tổ
chức thực hiện kế hoạch tạo việc làm cho người dân khi thu hồi đất. Trước khi tiến
hành thu hồi đất, Nhà nước dựa trên quy hoạch tổng thể về kế hoạch sử dụng đất do
18
Chính phủ ban hành để thực hiện việc thu hồi như: tổng diện tích đất thu hồi, vị trí
đất thu hồi. Sau đó, Nhà nước tiến hành điều tra, đánh giá xã hội ban đầu để nắm
được chính xác đặc điểm cộng đồng dân chuyển cư, nguồn lao động của cộng đồng
người sẽ bị ảnh hưởng bởi dự án; thống kê, phân tích thực trạng cơ cấu và chất
lượng nguồn lao động của nhóm dân cư đó theo tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp,
đặc điểm gia đình và mức sống; đánh giá tổng quát những ảnh hưởng của việc thu
hồi đất đến việc làm thu nhập, đời sống của người dân.
- Xây dựng môi trường pháp lý, các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết nhằm
phát triển thị trường sức lao động. Dựa trên việc đánh giá những tác động của thu
hồi đất đến việc làm của người dân, Nhà nước xây dựng các văn bản pháp quy để
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư người dân bị thu hồi đất theo hướng bảo đảm ổn định
việc làm và thu nhập hợp pháp cho bản thân người dân và gia đình của họ. Đồng
thời, nhà nước xây dựng các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết để mở rộng và phát
triển các trung tâm dịch vụ việc làm cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin việc làm... để
người dân nâng cao cơ hội tiếp cận và tìm kiếm việc làm mới.
- Phát triển sản xuất kinh doanh, nhất là những ngành nghề sử dụng nhiều
lao động để thu hút lao động sau khi thu hồi đất. Sau khi thu hồi đất, nhà nước và
doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động nhằm phát triển sản xuất kinh doanh từ đó
tạo ra nhu cầu về việc làm và tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất.
- Xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề
nghiệp để người dân có cơ hội tìm được việc làm. Vì người dân mất việc làm do
không có trình độ, chuyên môn nghề nghiệp, do vậy, Nhà nước xây dựng và thực
thi các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân theo
hướng phù hợp với khả năng, phù hợp với nhu cầu của thị trường sức lao động
nhằm giúp người dân sau khi được đào tạo nghề tìm kiếm được việc làm.
- Phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với các doanh nghiệp chủ đầu tư sử dụng đất thu hồi trong việc đào tạo và bố trí việc làm cho người dân
bị thu hồi đất vào làm việc trong các doanh nghiệp này. Xây dựng cơ chế ràng buộc
và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp sử dụng đất thu hồi của người dân
19
trong việc giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
- Tuyên truyền, vận động, giúp đỡ người dân khi bị mất đất chủ động tìm
kiếm và lựa chọn nghề nghiệp và việc làm mới phù hợp với bản thân thông qua các
chính sách trợ giúp của Nhà nước và các doanh nghiệp, đồng thời bản thân người
dân cũng có cơ hội tìm việc làm và duy trì việc làm ở các dự án sử dụng đất thu hồi
hoặc tìm được các công việc khác do sự phát triển kinh tế xã hội tạo ra. Những nội
dung trên được thể hiện cụ thể trong xác định trách nhiệm của từng chủ thể có liên
quan đến thu hồi đất trong tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất, bao gồm các
chủ thể: người dân, người sử dụng lao động, và nhà nước.
Ngoài ra, các tổ chức chính trị xã hội cũng có vai trò quan trọng trong tạo
việc làm cho người dân bị thu hồi đất: tuyên truyền đường lối, chủ trương của
Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về đất đai đến với người dân; làm cho
người dân nhận thức đúng về việc thu hồi đất phục vụ lợi ích phát triển kinh tế xã
hội. Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị xã hội như Liên đoàn lao động, Đoàn Thanh
niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh cũng góp phần tích
cực trong việc hướng dẫn chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới, tăng thu
nhập cho người dân khi nhà nước thu hồi đất.
1.5. Những yếu tố tác động đến thực hiện chính sách giải quyết việc làm
cho người dân bị thu hồi đất
1.5.1. Tác động của thu hồi đất đến việc làm và đời sống người dân bị thu
hồi đất
Hàng vạn ha đất đã được thu hồi để sử dụng vào mục đích chuyên dùng như
xây dựng các khu công nghiệp, kinh tế, đô thị, xây dựng các công trình cơ sở hạ
tầng công cộng…Thực tế cho thấy, bên cạnh những mặt đã làm được thì vấn đề về
tái định cư, việc làm ổn định cho các hộ dân bị thu hồi đất đang đặt ra nhiều vấn đề
cấp thiết cần giải quyết, nhất là các địa phương nằm trong khu vực trọng điểm kinh
tế cuả đất nước.
Thực trạng vấn đề việc làm sau khi thu hồi đất Theo thống kê cuả Cục Hợp
tác xã và Phát triển nông thôn (Thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
20
hiện nay, trung bình mỗi hộ dân có 1,5 lao động và mỗi hecta đất bị thu hồi sẽ ảnh
hưởng tới việc làm của trên 10 lao động nông nghiệp. Như vậy, việc thu hồi đất
nông nghiệp và đất ở trong 5 năm gần đây đã tác động tới đời sống của 627.495 hộ
gia đình, khoảng 950 ngàn lao động và 2,5 triệu người. Trong đó, vùng Đồng Bằng
sông Hồng có số hộ bị ảnh hưởng đất lớn nhất, với khoảng 300.000 hộ; Đông Nam
Bộ với khoảng 108.000 hộ. Đây là những con số rất quan tâm, mặc dù Nhà nước đã
ban hành nhiều chủ trương, chính sách và các địa phương đã ban hành và tổ chức
thực hiện các chính sách cụ thể đối với người dân bị thu hồi đất như: quy định giá
đất bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái định cư
nhưng đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy, hầu hết
các lao động vẫn giữ nguyên nghề cũ sau khi bị thu hồi đất, chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ,
khoảng vài phần trăm là chuyển sang nghề mới và tìm được việc làm ổn định.
Trong khi đó, đối với các lao động thuộc ngành phi nông nghiệp, lao động làm thuê
và công nghân thì cơ hội chuyển sang nghề mới lớn hơn rất nhiều. Công tác tuyển
dụng lao động tại các địa phương có đất bị thu hồi chưa thực sự hiệu quả. Các
doanh nghiệp khi đầu tư sử dụng đất để thực hiện dự án đòi hỏi lao động phải được
đào tạo để đáp ứng yêu cầu của công việc, trong khi lao động của các hộ dân có đất
bị thu hồi là lao động nông nghiệp nên không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp
(chỉ có 27,23 % lao động bị thu hồi đất tốt nghiệp trung học phổ thông và 14% lao
động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp hoặc học nghề trở lên). Một vấn
đề cũng rất đáng lưu ý là nhận thức của người lao động còn thụ động, ỷ lại vào
chính sách hỗ trợ của nhà nước, vào tiền đền bù mà không tự tìm cho mình cố gắng
vượt qua khó khăn tìm kiếm việc làm. Tâm lý chờ nhận sự ưu đãi từ Nhà nước và
các doanh nghiệp mà không có sự chuẩn bị nghề nghiệp mới đang tồn tại một cách
khá phổ biến ở người lao động. Xu hướng và giải pháp thực tế vấn đề việc làm cho
thấy, nhà nước cần hỗ trợ chuyển đổi việc làm trong nông nghiệp sang các ngành
nghề phi nông nghiệp khác thông qua đào tạo, hướng nghiệp, ưu tiên tiếp nhận lao
động vào các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp - dịch vụ tại chỗ, xuất khẩu
lao động (sang nước ngoài hoặc sang các địa phương khác). Công tác đào tạo nghề
21
cho lao động nông thôn cũng cần được tăng cường. Tuy nhiên, thu nhập của con em
nông thôn rất khó khăn, nên các chính sách đào tạo nghề đối với họ cũng cần có
những điều chỉnh cho phù hợp. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần nghiên cứu thành
lập Quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm, ổn định đời sống người dân có đất bị thu hồi;
khuyến khích các khu công nghiệp, các doanh nghiệp lớn xây dựng các cơ sở đào
tạo nghề tại chỗ, nhằm đào tạo nghề cho người có đất bị thu hồi tại địa phương, từ
đó đáp ứng ngay được nhu cầu lao động của bản thân họ. Nhiều tỉnh đã ban hành
các chính sách đối với người dân bị thu hồi đất và triển khai thực hiện cho có hiệu
quả như: Tỉnh Hải Dương thực hiện chính sách dạy nghề miễn phí 100% cho những
người thuộc hộ đã bàn giao từ 50% diện tích đất canh tác trở lên; thành phố Đà
Nẵng hỗ trợ 4 triệu đồng cho một nông dân bị thu hồi đất; thành phố Hà Nội, nếu
thu hồi 30 -50% diện tích đất thì hỗ trợ chuyển nghề cho 01 lao động, nếu thu hồi từ
50 -70% hỗ trợ cho 02 lao động, nếu thu hồi trên 70% diện tích hỗ trợ cho số lao
động của cả hộ, mỗi lao động được hỗ trợ 3,8 triệu đồng, hỗ trợ đặc biệt cho người
dân sản xuất nông nghiệp từ 15.000-35000đồng/m² đất nông nghiệp. Những mô
hình, những chính sách đã làm tốt tại một số địa phương trên cần được khuyến
khích.
1.5.2. Tác động tích cực trong thực hiện chính sách giải quyết việc làm
cho người dân bị thu hồi đất
- Thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người dân khi nhà nước thu
hồi đất sẽ tạo sức ép mạnh mẽ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
+ Trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, một diện tích đất bị thu hồi để
xây dựng, cải tạo, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, giao thông, kinh tế
và xã hội gắn với việc hình thành các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu đô thị, khu
chế xuất, khu thương mại, du lịch. Thực tế cho thấy hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế
kỹ thuật và kinh tế xã hội ngày càng hiện đại thì sẽ kích thích gia tăng hội tụ các
nguồn lực đầu tư cho phát triển sản xuất, thúc đẩy các ngành công nghiệp, xây
dựng, thương mại, dịch vụ phát triển. Từ đó tạo ra ngày càng nhiều việc làm mới
22