Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Chương trình nông thôn mới và vấn đề văn hóa phát triển ở việt nam đương đại (nghiên cứu trường hợp xã kênh giang chí linh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.46 MB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THỊ HỒNG NHUNG

CHƢƠNG TRÌNH NƠNG THƠN MỚI VÀ VẤN ĐỀ
VĂN HÓA – PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
(Nghiên cứu trường hợp xã Kênh Giang – Chí Linh – Hải Dương)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THỊ HỒNG NHUNG

CHƢƠNG TRÌNH NƠNG THƠN MỚI VÀ VẤN ĐỀ
VĂN HÓA – PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
(Nghiên cứu trường hợp xã Kênh Giang – Chí Linh – Hải Dương)
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 60 31 06 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG CẦM


HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tơi. Những nội dung
trình bày trong luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, đảm bảo tính
trung thực và chưa từng được ai cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những
kết quả nghiên cứu của người khác, tơi đều trích dẫn nguồn rõ ràng.
Tơi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước cơ sở đào tạo về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày 17 tháng 2 năm 2017
Tác giả luận văn

Đào Thị Hồng Nhung


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cơ trong khoa Văn hóa
học, Học viện Khoa Học Xã hội (Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam)
những người đã trang bị cho tôi những kiến thức bổ ích nhất, để giúp tơi có
thể hồn thành khóa học và thực hiện đề tài của mình.
Tơi xin chân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Đảng Ủy, Ủy ban
nhân dân xã Kênh Giang, đồng nghiệp cơ quan, người dân trong xã Kênh
Giang đã giúp đỡ tơi có nguồn tư liệu thực địa hồn thành đề tài.
Tôi đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Hồng Cầm, người đã tận tình
hướng dẫn và góp ý cho tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài luận văn cao học.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và động viên tơi hồn thành luận
văn cao học.
Xin chân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 17 tháng 2 năm 2017
Tác giả luận văn


Đào Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ XÃ KÊNH GIANG ...................................... 9
1.1. Lịch sử hình thành ...................................................................................... 9
1.2. Đặc điểm cư dân ....................................................................................... 10
1.3. Hoạt động kinh tế ..................................................................................... 11
1.4. Vấn đề văn hóa – xã hội truyền thống ..................................................... 14
Chƣơng 2: CHƢƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XÂY DỰNG
NƠNG THƠN MỚI Ở KÊNH GIANG: Q TRÌNH THỰC HIỆN CÁC
VẤN ĐỀ VĂN HÓA ...................................................................................... 24
2.1. Vài nét về chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nơng thơn mới ... 24
2.2. Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nơng thơn mới được thực hiện
ở Kênh Giang, Chí Linh .................................................................................. 26
Chƣơng 3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƢỢC
THƠNG QUA CHƢƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở KÊNH GIANG ....................................................... 48
3.1. Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xây dựng nơng thơn mới và triết lý phát
triển nông thôn ở nước ta hiện nay.................................................................. 48
3.2. Sự thay đổi quan niệm, thực hành văn hóa, kinh tế, xã hội ở Kênh Giang
thơng qua chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nơng thơn mới ........... 52
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 73
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 78


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT

Từ/cụm từ viết tắt

Từ/cụm từ viết đầy đủ

1

BNNPT&NT

Bộ Nông nghiệp Phát triển và Nông thôn

2

BLĐTB&XH

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội

3

BVH, TT &DL

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

4

CP

Chính phủ


5

ĐCSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam

6

GTVT

Giao thông vận tải

7

HTX

Hợp tác xã

8



Nghị định

9

NTM

Nông thôn mới


10



Quyết định

11

TT

Thông tư

12

TTg

Thủ tướng

13

TW

Trung ương

14

UBND

Ủy ban nhân dân



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp với gần 70% người dân sống ở vùng
nông thôn, phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững có vai trị đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Ngay từ khi giành độc lập, vấn
đề phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn là mối quan tâm hàng
đầu của nhà nước trong q trình phát triển kinh tế văn hóa xã hội của quốc
gia. Vì vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành nhiều chủ trương,
chính sách để phát triển vùng nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi.
Các chương trình xây dựng, phát triển nơng thơn tiến hành trong nhiều
năm qua được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa nhằm
thay đổi diện mạo nông thôn đang được diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi cả
nước. Xét ở khía cạnh quy mơ, các chương trình phát triển nơng thơn được
chính phủ thực hiện trong các thập kỉ qua là rất đa diện. Ở thời điểm hiện tại,
một trong những chương trình phát triển có tính bao trùm nhất là Chương
trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới. Mục tiêu xây dựng của
chương trình là xây dựng mới các cơ sở vật chất, các vấn đề xã hội như trung
tâm văn hóa cấp xã và thơn, bưu điện văn hóa, hay trạm y tế v.v…Để hồn
thành mục tiêu đó, các vấn đề phải được nằm trong quyết định của các bộ,
ngành có liên quan. Ví dụ, ở khía cạnh văn hố, theo “Quy định tổng thể phát
triển hệ thống vấn đề văn hóa”, theo đó đến năm 2020, tỷ lệ văn hóa, thể thao
cấp thơn phải đạt 70% (đối với khu vực miền núi là 50%), 80% ở cấp xã (khu
vực miền núi là 60%) có trung tâm văn hóa thể thao.
Chính sách chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới
đang được diễn ra mạnh mẽ trong phạm vi cả nước nói chung và ở tỉnh Hải
Dương nói riêng. Tại các huyện, thị xã trên địa bàn tỉnh phong trào đang diễn
ra một cách mạnh mẽ ở các đơn vị xã, phường, thị trấn… Riêng tại thị xã Chí

1



Linh, phong trào Xây dựng nông thôn mới đang diễn ra một cách đồng bộ và
bước đầu đã thu được những kết quả tốt đẹp tại xã, phường trên địa bàn,
người dân phấn khởi chung sức tham gia cùng chính quyền để thu được kết
quả cao. Kênh Giang là một trong 12 xã của thị xã Chí Linh đang thực hiện
công cuộc Xây dựng nông thôn mới, người dân ở các thôn ra sức cùng nhau
thực hiện các mục tiêu đề ra để hoàn thành đạt chỉ tiêu mà các bộ tiêu chí đặt
ra. Nhìn chung, đây là chương trình mục tiêu quốc gia được áp dụng tại một
đơn vị cơ sở đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương
này, người dân trực tiếp thụ hưởng các sản phẩm vật chất và tinh thần của
chính họ mà nhà nước mang lại trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong quá
trình triển khai chương trình Xây dựng nơng thơn mới ở xã Kênh Giang nói
riêng và ở thị xã Chí Linh nói chung cịn gặp phải nhiều vấn đề tồn tại cần được
khắc phục để góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân
nơi đây. Đặc biệt là sự thay đổi diện mạo của đời sống văn hóa người dân Kênh
Giang dưới tác động của chương trình Xây dựng nơng thơn mới.
Nhận thấy sự cần thiết của việc tìm hiểu về chương trình nơng thơn
mới, đặc biệt là các tác động của chương trình này đối với các thực hành văn
hố và xã hội của người dân nơng thơn, tơi chọn “Chương trình nơng thơn
mới và vấn đề văn hóa - phát triển ở Việt Nam đương đại (nghiên cứu trường
hợp xã Kênh Giang - Chí Linh - Hải Dương) làm luận văn tốt nghiệp cao
học, chuyên ngành Văn hóa học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chương trình Xây dựng nơng thơn mới là chương trình lớn của quốc
gia, nó có tác động đến tồn bộ đời sống của người dân nơng thơn. Vì vậy,
ngay từ khi được triển khai, chương trình Xây dựng nơng thơn mới đã thu hút
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đề cập và bàn luận thơng qua các
cơng trình, bài viết. Những tập hợp và thống kê dưới đây của tác giả luận văn


2


cho thấy, đến nay đã có những tác phẩm viết về chương trình Xây dựng nơng
thơn mới ở nước ta.
Trước hết, có thể kể đến nghiên cứu của nhóm các tác giả thuộc Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên “Thực trạng và giải pháp xây dựng nông
thôn mới tại xã Thanh Lâm, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang giai đoạn 20122015” hay “Quy hoạch xây dựng nông thôn mới - những vấn đề đặt ra” của
tác giả Đàm Quang Tuấn. Hai cơng trình nêu lên những vấn đề cấp thiết trong
việc xây dựng, hoạch định phát triển các không gian trên địa bàn nơng thơn xã
một cách tồn diện đáp ứng các yêu cầu của Đảng và Chính phủ về xây dựng
tam nông. Nội dung của công tác lập quy hoạch xây dựng NTM liên quan chủ
yếu đến xây dựng, quy hoạch sản xuất và quy hoạch sử dụng đất. Tập trung
xây dựng trên địa bàn nông thôn hợp lý, đúng với chính sách, chủ trương của
Đảng và nhà nước về văn hóa và phát triển của người dân.
Tác giả Nguyễn Minh Tiến với bài viết “Những vấn đề đặt ra trong xây
dựng nông thôn mới ở Hải Dương” viết ngày 17/1//2013. Bài viết nêu rõ, Hải
Dương là một tỉnh có nền nơng nghiệp gần như thuần túy, gắn liền với đời
sống kinh tế của người dân. Việc xây dựng đời sống người dân nông thôn
phải đảm bảo phát huy lợi ích chương trình với lợi ích của người dân.
Tác giả Nguyễn Thu Hiền với bài viết “Khắc phục yếu kém của hệ
thống vấn đề văn hóa, thể thao cơ sở” xuất bản năm 2013 và tác giả Minh
Anh với bài viết “Nhà văn hóa - xây xong cửa đóng then cài” xuất bản năm
2013. Hai bài viết trên đã nêu ra những tồn tại quanh tiêu chí văn hóa đối với
mức độ sử dụng của người dân. Các tác giả cho rằng, đầu tư cho văn hóa
khơng bao giờ thừa, song để những cơng trình thật sự hiệu quả thì các cơ quan
chức năng cần rà sốt lại hệ thống vấn đề văn hóa cơ sở để có mơ hình đầu tư
thích đáng và điều quan trọng là phải được xây dựng xuất phát từ nguyện
vọng và nhu cầu của người dân, chứ không thể từ nhu cầu quy hoạch của cơ


3


quan quản lý, phải thực sự đáp ứng nhu cầu của người dân về sinh hoạt,
hưởng thụ văn hóa.
Tác giả Nguyễn Văn Hy với bài viết “Mấy vấn đề về xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở hiện nay” xuất bản năm 1985 và tác giả Trần Độ với bài viết “Văn
hóa ở cơ sở và văn hóa ở huyện” xuất bản năm 1987. Hai bài viết đều khẳng
định, để có một chỉnh thế các vấn đề văn hóa cần có: Cơ sở vật chất; bộ máy tổ
chức, cán bộ, hệ thống biện pháp hoạt động và kinh phí hoạt động của vấn đề đó.
Tác giả Trần Hữu Sơn trong “Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng cao”
xuất bản năm 1985 đã đề cập đến vấn đề qui hoạch chợ khơng phù hợp với
sinh hoạt văn hóa của người dân ở vùng cao, do đó người dân gặp nhiều khó
khăn trong việc mua lẫn việc bán.
Tác giả Đồn Quang Thiệu với bài viết “Nghiên cứu, xây dựng các tiêu
chí về nông thôn mới ở tỉnh Bắc Kạn” xuất bản năm 2010. Tác giả mô tả các
hoạt động của địa phương, đặc biệt là chương trình 135 và các chương trình,
dự án giảm nghèo đều huy động các nguồn lực trong Xây dựng nông thôn
mới. Tác giả cũng chỉ rõ những khó khăn thách thức, mục tiêu xây dựng
chương trình cho sự phát triển chung đời sống người dân từng bước được
nâng cao, diện mạo nông thôn khu vực miền núi có những thay đổi tích cực.
Trong nghiên cứu của Philip Taylor “Những vấn đề của phát triển nông
thôn Việt Nam” xuất bản năm 2012 đã nhận ra rằng, chính sách phát triển
nơng thơn hiện nay khơng thích hợp với tình hình thực tế và nhu cầu của con
người. Khi người dân nông thôn Việt Nam sử dụng tôn giáo, kiến thức bên
cạnh sinh hoạt văn hóa cộng đồng trong đời sống.
Ngồi ra, cịn có các tài liệu tập huấn cho các cán bộ văn hoá để triển
khai thực hiện các mục tiêu về văn hố trong Chương trình Mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới năm 2016 của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch.


4


Nhìn chung, phần lớn các nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến nội dung
chương trình Xây dựng nơng thơn mới nói chung, tuy nhiên ở một địa phương
như ở xã Kênh Giang, thị xã Chí Linh khi thực hiện phong trào này chưa có
cơng trình bài viết nào đề cập đến trong thời gian qua. Do vậy, tác giả luận
văn đã lựa chọn đối tượng này làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua nghiên cứu về các tiêu chí và hoạt động của chương trình
NTM ở một xã thuộc thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương, luận văn hướng tới
cung cấp một sự hiểu biết về quan điểm, cách nhìn nhận về văn hố cũng như
triết lý phát triển của Việt Nam đương đại cũng như tác động của chương
trình này đối với thực hành văn hố và xã hội của người dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là
đi sâu tìm hiểu các tiêu chí, việc triển khai thực hiện các tiêu chí cũng như
quan điểm của các bên hữu quan về mục tiêu và hoạt động của chương trình
này tại địa bàn nghiên cứu. Luận văn cũng xem xét các tiêu chí và hoạt động
của chương trình đến thực hành văn hóa, xã hội cũng như quan điểm của
người dân về sự thay đổi và phát triển ở địa phương này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối trượng nghiên cứu của luận văn là nội dung và các hoạt động của
chương trình xây dựng nơng thơn mới tại xã Kênh Giang, thị xã Chí Linh,
tỉnh Hải Dương hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi địa
bàn xã Kênh Giang, Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đây là một xã đặc biệt


5


khó khăn và nằm ở vị trí xa nhất của của thị xã Chí Linh, là một trong 12 xã
đang thực hiện chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới giai
đoạn 2010- 2020. Vì vậy, lựa chọn địa bàn xã kênh Giang để thấy được
những thay đổi về văn hóa, kinh tế, xã hội và sự biến đổi của chúng tới đời
sống người dân nơi đây.
- Phạm vi thời gian: Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu trong khoảng
thời gian từ năm 2010 đến nay. Đây là khoảng thời gian địa phương triển khai
xây dựng các tiêu chí xã đạt chuẩn nơng thơn mới với nhiều nội dung, dự án,
cơng trình đầu tư phát triển văn hóa - kinh tế - xã hội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu dùng để trình bày và phân tích trong luận văn cơ bản sử
dụng phương pháp định tính, dựa trên khảo khát thực địa, quan sát tham gia
và phỏng vấn sâu, đồng thời tham khảo, phân tích nguồn tư liệu thứ cấp.
Phân tích tư liệu thứ cấp trong quá trình thực hiện các văn bản, kế
hoạch, báo cáo của địa phương; các bài viết về hệ thống văn hố cơ sở. Đây là
những phân tích cung cấp thơng tin về tình hình phát triển kinh tế - văn hóa xã hội tại địa phương, thực trạng các vấn đề văn hóa cơ sở hiện nay. Song các
tư liệu thứ cấp chủ yếu nhấn mạnh các kết quả đạt được, nêu ra các mặt tích
cực và hạn chế chưa được chuyên sâu mà chưa có đề cập đến cách hưởng ứng
và tiếp cận của người dân. Vì vậy, tác giả luận văn đã thực hiện phương pháp
phỏng vấn sâu để tìm hiểu quan điểm và phản ứng của người dân đối với
chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nơng thơn mới trong cuộc sống văn
hóa người dân địa phương.
Quá trình phỏng vấn sâu được thực hiện đối với một số lãnh đạo địa
phương, các cán bộ phụ trách quản lý văn hóa cơ sở nhằm lấy thơng tin về
hoạt động quản lý và sử dụng văn hóa cơ sở, những thuận lợi, khó khăn và kế
hoạch xây dựng văn hoá mới trong thời gian tới. Phỏng vấn sâu còn được tiến


6


hành đối với cán bộ và người dân, những người trực tiếp sử dụng chịu ảnh
hưởng của nền văn hóa mới. Cuộc phỏng vấn được phân loại thành các nhóm
nhỏ hơn với sự khác nhau về nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính và về tơn giáo. Các
cuộc phỏng vấn sâu được hỏi xoay quanh các vấn đề liên quan tới sự tham gia,
quan điểm, nhu cầu của người dân đối với những thay đổi trên địa bàn sinh sống
từ khi chưa có chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nơng thơn mới đến khi
chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới diễn ra.
Quan sát tham gia được thực hiện cùng với hoạt động của người dân liên
quan sử dụng các vấn đề văn hóa mới, cũ có trên địa bàn. Trong đó là được
quan sát, tham gia lễ hội truyền thống (đền, chùa, nhà thờ họ) tham gia buổi
sinh hoạt nhà văn hóa thơn, đường làng, ngõ xóm, tham gia quan sát trường
học, trạm y tế, để thu thập thông tin thực tế về sự biến đổi của người dân đối
với các vấn đề của chương trình nơng thơn mới với cuộc sống mới và cũ.
Khi được phỏng vấn sâu nội dung của các cuộc phỏng vấn thường được
tập trung xoay quanh các vấn đề về trải nghiệm của mỗi cá nhân về suy nghĩ
của mình trên mỗi phương diện hoạt động của chính sách. Phỏng vấn sâu
được hỏi bởi các câu hỏi mở, trọng tâm một vấn đề. Hỏi một đối tượng nhiều
câu hỏi khác nhau về vấn đề liên quan. Trong quá trình tham gia phỏng vấn
tôi được sự giúp đỡ rất nhiều người dân địa phương, chính vì vậy có được
nhiều thơng tin phong phú, đa chiều xác thực phục vụ cho nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Thông qua nghiên cứu trường hợp chương trình mục tiêu quốc gia Xây
dựng nơng thôn mới ở một địa bàn cụ thể, luận văn cung cấp một sự hiểu biết
mới về triết lý, định hướng phát triển nông thôn trong xã hội Việt Nam đương
đại, từ đó góp thêm một nghiên cứu trường hợp cho bức tranh nghiên cứu của

ngành nhân học, nghiên cứu văn hóa về chủ đề văn hóa và phát triển.

7


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định các chính
sách xây dựng, hoạt động quản lí văn hóa của trung ương đến địa phương.
Đặc biệt là chương trình Xây dựng nơng thơn mới đi vào đời sống người dân
trong văn hóa và phát triển. Bên cạnh đó là người cơng tác trong khối chính
quyền xã, tác giả luận văn có thể tìm hiểu, đưa ra các giải pháp, khuyến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả việc tham gia của người dân, góp phần nâng cao ý
thức bảo vệ, phát huy chất lượng đời sống văn hóa cơ sở.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần nội
dung của luận văn bao gồm 03 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về xã Kênh Giang
Chƣơng 2: Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nơng thơn mới ở
Kênh Giang: Quá trình thực hiện các vấn đề văn hóa
Chƣơng 3: Những vấn đề đặt ra và hiệu quả đạt được thơng qua
Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới ở Kênh Giang.

8


Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ XÃ KÊNH GIANG
1.1. Lịch sử hình thành
Người dân xã Kênh Giang có cội nguồn là nghề sơng nước hay cịn gọi
là nghề “thuyền chài” theo như lời nói vui của các cụ từ thời xưa. Người dân
có đời sống sinh hoạt trên các con thuyền, dân cư nơi đây có nguồn gốc từ

vùng Nam Sách, Thượng Đạt, Chí Linh tỉnh Hải Dương. Do điều kiện kinh tế
khó khăn nên họ đã chọn con sơng Kinh Thày để mưu sinh. Người dân đi
thuyền, thả bè, bám trụ với nghề sông nước rồi đến vùng đất là xã Kênh
Giang ngày nay để làm ăn. Thời kì cách mạng tháng 8 năm 1945 người dân đậu
thuyên tại vùng đất Kênh Giang này làm nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng, kháng
chiến bằng việc chở bộ đội qua sông và chở lương thực. Từ năm 1928 đến năm
1945 một số người dân tham gia giành chính quyền, lập lên một chính quyền chủ
yếu hoạt động ở dưới thuyền. Xã Kênh Giang lúc đó chưa là một xã, chỉ là một
vùng đất hoang cây cỏ, cây sậy mọc lên um tùm khơng có người ở.
Xã Kênh Giang được thành lập năm 1946, tên ban đầu của xã khi đó là
Bình Giang, xã chỉ có một thơn là Nam Giàng. Đến năm 1951 xã được đổi tên
là xã Kênh Giang, sở dĩ có việc đổi tên gọi như vậy là do tên xã Bình Giàng
trùng với huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương. Việc đổi tên Kênh Giang cũng
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân trong xã, phù hợp với nghề truyền
thống là đánh bắt cá gắn liền với đời sống sông nước của người dân.
Đến năm 1950 thấy rằng đây là một vùng đất phù hợp với nghề đánh
bắt cá, là nơi cư trú ổn định lâu dài cho người dân từ sống ở dưới thuyền lên bờ
ổn định an cư lạc nghiệp, làm ăn kinh tế lâu dài, một số dòng họ đã xác định lên
bờ. Dòng họ đặt chân lên mảnh đất xã Kênh Giang ngày nay đầu tiên là hai họ
Nguyễn và Trần. Với mục đích khai hoang tìm đất ở và làm ăn ổn định. Sau khi
đất nước đã hịa bình một số dịng họ sống ở dưới thuyền cũng đã lên bờ khai
hoang lập nghiệp gồm có dịng họ Đào, họ Phùng, họ Đỗ, họ Hồng.

9


Khi dân số xã đã phát triển, để thuận tiện điều hành cho từng khu vực
dân cư dễ cho việc chỉ đạo sản xuất. Năm 1952 thống nhất tách làng Nam
Giàng thành hai làng Đông Giàng và Thượng liệt. Năm 1955 xã có sự phân
chia lại địa giới hành chính đổi tên làng Đông Giàng là làng Tân Lập, làng

Thượng Liệt là làng Nam Hải. Sau nhiều lần thay đổi tên gọi, địa giới hành
chính xã Kênh Giang ngày nay đã được Ủy ban dân tộc quốc hội khóa XII
cơng nhận là xã vùng 3 và làng Tân Lập là làng thuộc diện đặc biệt khó khăn
theo quyết định số 05/2007/QĐ-UBDT ngày 06/09/2007 căn cứ dựa trên trình
độ phát triển. Xã cách trung tâm thị xã Chí Linh khoảng 20 km về phía Tây
Bắc, cách thành phố Hải Dương 45 km về phía Đơng.
Ngày nay khi đất nước hịa bình, dần dần đi vào đổi mới, làng xóm phát
triển hội nhập với nền văn hóa kinh tế mới của đất nước. Làng Nam Hải là
một làng có lịch sử hình thành ngay từ thuở khai sơn lập địa, giá trị lịch sử
văn hóa gắn liền với đời sống người dân. Trên địa bàn làng Nam Hải có trụ sở
ủy ban nhân dân xã, có đền nằm trên địa bàn làng, là làng lớn nhất trong xã và
tách rời với làng cịn lại trong xã. Làng Nam Hải được hình thành từ khi xã
được thành lập cho đến ngày nay mang trong mình nhiều giá trị văn hóa
truyền thống .
1.2. Đặc điểm cƣ dân
Xã kênh Giang hiện nay có tổng số nhân khẩu là 910 khẩu 256 hộ.
Tổng diện tích của xã là 5.72km2, trong đó làng Tân Lập nằm tách rời là một
cồn đảo một mặt giáp sông Kinh Thày, một mặt giáp với xã Lê Ninh của
huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương. Làng Nam Hải nằm gọn trong diện tích
xâm cư có phần địa giới hành chính xen với xã Nguyễn Huệ, xã Thủy An của
huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh và nằm ngay bên cạnh sông Kinh Thày.
Là một xã có vị trí địa lí đặc biệt, trải dài với địa thế quan trọng về mặt
quân sự, trước mặt là dịng sơng Kinh Thày nên giao thơng đường sông thuận

10


tiện phát triển kinh tế xã hội, dịch vụ vận tải. Nghề truyền thống nông
nghiệp,đánh bắt cá, vận tải thủy. Do đặc điểm nghề nghiệp như vậy nên đã
ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề văn hóa của người dân. Nền văn hóa nơng

nghiệp, văn hóa ngư nghiệp phát triển và tồn tại với người dân xã Kênh Giang
đặc biệt gắn với đời sống người dân Nam Hải. Người dân có những đặc điểm
văn hóa riêng, gắn với đời sống sinh hoạt của bản thân, gia đình và trong làng,
xã mình, họ tham gia truyền thống văn hóa của làng của xã .
Làng Nam Hải có cơ cấu cư dân đông mật độ người dân ở cao, người
dân sống ở làng chiếm 80 % dân số trong xã. Trung bình nam giới chiếm tỷ lệ
60% còn nữ giới chiếm tỷ lệ 40%. Người già chiếm tỷ lệ thấp 15%, người
trung niên, thanh niên chiếm cao 70 % còn lại là trẻ nhỏ. Mức thu nhập, điều
kiện kinh tế người dân làng Nam Hải cao hơn làng Tân Lập vì do nghề nghiệp
chính của người dân trong làng là làm thương mại vận tải tàu thủy và đi lao
động nước ngoài.
1.3. Hoạt động kinh tế
Theo lịch sử hình thành của xã Kênh Giang, xã có vị trí địa lý nằm bên
dịng sơng Kinh Thày. Người dân có nghề chính là đánh bắt cá, chở hàng trên
sông. Sau khi lên bờ mới phát hoang trồng lúa và các loại cây hoa màu, bên
cạnh đó họ làm thêm nghề đan thuyền, đan lưới… Trước đây đời sống sản
xuất của người dân còn nhiều khó khăn, lạc hậu. Người dân lo làm ăn, lo cơm
áo gạo tiền nên chưa có ý thức lo cho đời sống văn hóa.
Cho đến ngày nay, xã Kênh Giang đã xây dựng cơ cấu kinh tế ngư
nghiệp - nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ. Xã có tổng
diện tích đất nơng nghiệp là 62,312 ha trong đó đất nơng nghiệp 16,44 ha. Đất
phi nơng nghiệp 43,98 ha, đất chưa sử dụng là 1,90 ha. Hộ có thuyền vận tải
thủy là 100 hộ. Người dân là nguồn nhân lực chính với nhiều nghề nghiệp và
sinh kế khác nhau với số lượng lao động chiếm khoảng 55% dân số trong đó

11


lao động nông nghiệp chiếm 30% dân số, lao động ngư nghiệp 25%, lao động
công nghiệp 40%, thương mại dịch vụ 4%, lao động thiếu việc làm 1%.

Nghề đánh bắt cá đã nhường ngôi cho nghề vận tải tàu thủy phát triển
và là ngành nghề chính người dân xã Kênh Giang. Bên cạnh đó là ngành nơng
nghiệp với hình thức hợp tác xã nông nghiệp làm cơ sở ổn định đời sống xã
hội và phát triển các ngành kinh tế khác. Người dân làm thêm các nghề như
lái tàu, phụ xây, đóng tàu, đóng gạch, đánh bắt cá, làm cơng nhân tại các công
ty, doanh nghiệp trên địa bàn xã. Phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân trong
xã, trong làng có nhiều hộ dân mở hàng, mở quán, kinh doanh dịch vụ bán lẻ
hàng hóa, tiêu dùng với qui mô nhỏ, cho thuê xe dịch vụ, phông bạt cưới hỏi chủ
yếu là phục vụ người dân trong xã mỗi khi nhà có cơng có việc hoặc ai đó đi đâu
xa. Từ việc thay đổi cơ cấu từ ngư nghiệp sang các ngành nghề khác có sự ảnh
hưởng đến sự tham gia và sử dụng các vấn đề văn hóa của người dân.
Điều kiện của người làm vận tải tàu thủy ít có thời gian sống trên địa
bàn nên không thể tham gia đầy đủ các vấn đề văn hóa hàng ngày, người làm
nơng nghiệp sống trên địa bàn có điều kiện tham gia đầy đủ các vấn đề văn
hóa. Những người đi làm th tại các cơng ty nhà máy, thời gian gị bó, lao
động về mệt khó có thể tham gia vào các vấn đề văn hóa, lễ hội làng. Trong
đó đối tượng dich vụ hàng hóa cịn lo kinh doanh trao đổi, bn bán, nên
nhiều khi khơng tham gia .
Hiện nay, trên địa bàn xã có 5 doanh nghiệp hoạt động, trong đó có 2
doanh nghiệp kinh doanh dầu diezen, 1 doanh nghiệp đóng tàu, 1 doanh
nghiệp bán vật liệu xây dựng và 1 doanh nghiệp sản xuất gạch. Các doanh
nghiệp là các gia đình tự mở cơng ty làm ăn, góp phần giải quyết việc làm cho
người dân và người trong gia đình đa số người dân trong xã làm việc thuê tại
các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp trong xã làm việc dựa vào điều kiện
địa lí thuận lợi từ dịng sơng Kinh Thày bám trụ với đất với làng. Hàng năm

12


các doanh nghiệp cũng có những ủng hộ, đóng góp, gây quỹ đầu tư cho đời

sống văn hóa, cơ sở hạ tầng trong xã.
Trong tồn xã người dân tích cực tham gia lao động, tham gia hoạt động
văn nghệ, quan hệ làng xóm thân thiết, các vấn đề văn hóa được sử dụng và
được người dân tham gia sử dụng là cơ sở văn hóa hàng ngày của người dân.
* Nghề nghiệp mƣu sinh và cƣ trú
Nghề nghiệp mưu sinh chính của người dân chủ yếu là nghề nơng
nghiệp, ngư nghiệp. Một thời gian dài cái nghề thuyền chài gắn với cả con
người cán bộ ở đây. Một lão thành cán bộ có nói “Đi họp cũng gọi là anh
khăn tõm, anh thuyền chài, ngày đó cịn khổ lắm, cơm khơng có mà ăn, áo
khơng có mà mặc mọi người vẫn rỉ tai nhau câu nói rằng:
“Bn thuyền bán bè
Khơng bằng ăn dè hà tiện”.
Rồi đến việc ăn uống, cũng gắn với đời sống sống trên thuyền ăn con
tôm con cá ở vùng đất này, mà cách nấu, cách chế biến cũng được dặn:
“Con tơm kho mặn thì bùi
Con cá kho mặn cái mùi mất ngon”.Hay cịn có câu;
“Ruốc tháng ba, cà ra tháng 10”.
Hay những câu thơ dân gian được người dân ứng dụng trong đời sống
ẩm thực của mình là:
“Râu tơm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”1.
Người dân sống trên thuyền ăn uống sinh hoạt ngay trên thuyền họ chỉ
quan tâm đến làm ăn mưu sinh, lo kinh tế gia đinh chưa có định hình về đời
sống văn hóa. Khi lên bờ ổn định “an cư lạc nghiệp” họ bắt đầu cuộc sống
mới ổn định, hòa nhập cuộc sống trên bờ giao lưu văn hóa vùng lân cận. Phát
1

Phỏng vấn Ơng Đào Văn Hưởng, sinh năm 1930, ngày 21/01/2016 tại Kênh Giang, xã Kênh Giang, thị xã
Chí Linh, tỉnh Hải Dương


13


triển văn hóa lịch sử con người địa phương, trao dồi kiến thức, tư tưởng trong
sự phát triển văn hóa đương đại.
1.4. Vấn đề văn hóa – xã hội truyền thống
* Đền
Làng Nam Hải có một ngơi đền chính được gọi tên là Đền Kênh Giang.
Đền thờ một vị tướng thủy quân vào bậc nhất thời nhà Trần, danh tướng Yết
Kiêu. Một nhân vật lịch sử đã có cơng phị trợ Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn thống lĩnh quân và dân Đại Việt 3 lần chiến thắng quân Nguyên
Mông ở thế kỉ thứ 13. Ngôi đền cùng các nhân vật được thờ phụng được bao
bọc trong muôn vàn truyền thuyết và sự tích. Kênh Giang là xã đảo duy nhất
của thị xã Chí Linh, đa phần người dân đều làm nghề chài lưới, nên lập đền
thờ Yết Kiêu. Là danh tướng thời Trần có biệt tài về sơng nước là phúc thần.
Mặc dù ngôi đền được xây dựng chưa lâu, song những cổ vật được thờ tự
trong đền lại có niên đại nhiều thế kỷ.
Tương truyền rằng: Trong trận cuối cùng ở Vạn Kiếp, tướng giặc là
Phạm Nhan có tài thần thơng biến hóa, Hưng Đạo Đại Vương chưa có kế sách
gì để bắt được tướng giặc, tướng Yết Kiêu đã lặn sâu vào giữa dưới thuyền
của giặc để nghe ngóng, nắm bắt tình hình. Biết được kế sách bắt sống tướng
giặc, người đã lặn tìm đến đúng chiến thuyền tướng Phạm Nhan đục thuyền
của tướng giặc rồi nổi lên bắt Phạm Nhan chói bằng chỉ ngũ sắc để khơng cịn
biến hóa được và mang nộp cho Trần Hưng Đạo.
Thiên hạ thái bình ơng được vua triệu về trao thưởng. Thuyền xuôi đến lục
đầu giang, trời đất bỗng nổi cuồng phong, mưa to sóng lớn dồn dập, đạo quân gặp
cây gỗ lớn xoay quanh dịng sơng, với tài chí cao ơng đã xoay được cây gỗ lớn
cho xi dịng nước, để đồn qn tiến về Thăng Long. Ơng hóa tại đây, theo cây
gồ về đến trang Thượng Đạt, nhân dân lập bài vị và thờ cúng từ đó và sửa lễ biểu


14


tâu về triều. Vua nghe xong sai sắc phong trung thần và sắc chỉ cho trang Thượng
Đạt trùng tu tôn tạo thờ cúng. (Xem phụ lục, ảnh 17).
Cây có cội, nước có nguồn, nhân dân Thượng Đạt dù đi đâu, ở đâu
cũng nhớ về nơi sinh ra. Một bộ phận dân Thượng Đạt phiêu bạt làm ăn di cư
đến vùng đất này (Làng Nam Hải xã Kênh Giang ngày nay) với bài vị và hịm
sắc của Ngài, đã được ơng cha ta lập lên đền thờ bên dịng sơng Kinh Thày
năm 1948, lấy tên là đền Kênh Giang thờ danh tướng Yết Kiêu có sắc phong
cùng ngọc phả và một số đồ thờ tế tự cổ đã đủ nói lên một lịch sử văn hóa lâu
đời trên đất Kênh Giang.
Từ khi lập đền thờ cho đến nay đền Kênh Giang đã trải qua 4 lần tu
sửa, nâng cấp. Lần gần đây nhất nhân dân Kênh Giang tập trung sức người
sức của và đền được tu sửa trên nền đất cũ, khai móng tháng 4 năm 2006, đến
tháng 8 năm 2008 thì hồn thành tổng cơng trình trị giá 500 triệu qui mô vừa
truyền thống vừa hiện đại với 3 gian hiền tế, 1 gian hậu cung, 1 bức tiền môn,
sân sửa lễ, nhà bia, bậc thang lên xuống cửa đền, và cổng đền. Cơng trình tu
sửa hiện đại nhưng vẫn giữ được nét cổ kính truyền thống với 3 chữ “Giang
sơn tự” ở cổng, bức đại tự sơn son thiếp vàng, ở chính đền có chữ “Trần triều
thượng tưởng”, có hai câu đối hai bên hiền tế:
“Tử vi thần độ thái cứu dân
Sinh vị tướng phù vua trị quốc”
Số tiền tu sửa, sửa chữa Đền được nhân dân trong xã đóng góp và tiền
cơng đức của du khách địa phương trong đó phần lớn là sự qun góp của gia
đình cụ Hiệu. Người trơng nhà đền đã nói rằng: “ngày 25 tháng chạp là ngày
mất của ngài, ngày 10 tháng riêng là ngày sinh của ngài. Lễ hội chính vào
ngày sinh của ngài”1. Người dân xã kênh giang hàng năm cứ 10/1 âm lịch lại

1


Phỏng vấn Ông Đào Văn Được, sinh năm 1950, ngày 20/01/2016 tại Đền Kênh Giang, xã Kênh Giang, thị
xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương

15


tổ chức lễ hội chính tại cửa đền. Người dân hai thơn, các ban ngành đồn thể
đều tập trung chuẩn bị cho ngày lễ hội chính.
Đền là nơi hoạt động các lễ hội của người dân .Trưởng ban khánh tiết đền
Kênh Giang đã nói rằng: “Lễ hội diễn ra trong 2 ngày phần lễ chọn người từ 45
tuổi trở lên vào đội tế, người không vướng mắc vào việc tang làm quan viên. Tế
chính là nam giới, đàn bà chỉ có lễ dâng hương, dâng hoa. Đội tế gồm có từ 8 10 người tế, đội tế tập trước từ ngày mùng 5 đến mùng 7. Ngày mùng 10 là lễ tế
chinh gọi là tế yên vị tế xong mới mời du khách thập phương nhân dân vào thắp
hương. Chiều tối ngày mùng 9 tế nhập tịch. Chiều tối mùng 10 là tế đã kết thúc
hội, phần tế lễ có tế rượu, tế nước, tế hương.1” (Xem phụ lục, ảnh 5)
Phần hội
Bên cạnh phần lễ, phần hội được người dân tham gia nhiệt tình nhất,
những lúc này họ tham gia hội với niềm vui vẻ, mong muốn năm mới sẽ được
mọi điều may mắn, già, trẻ, gái, trai không phân biệt tuổi tác tham gia lễ hội. Các
trò chơi trong lễ hội có đi cầu tũm, đập niêu đất, bơi trải, đánh bóng chuyền, đá
bóng, ngày nay một số trị chơi khơng cịn nữa nhường chỗ cho những trị chơi
mới như: kéo co, câu cá bằng nhựa, ném bóng, phi tiêu. Xong trò chơi hội truyền
thống là bơi trải vẫn giữ nguyên bản sắc là trò chơi được nhân dân mong đợi
nhất. Để xem phần thi bơi trải người dân phải đứng hai bên bờ sông họ cầm
trống, cầm chiêng cổ vũ cho đội thơn mình. Một người dân tham gia hội nói
trong niềm vui: “Phần thi bơi chải là tơi thấy vui nhất, hai thơn có hai đội bơi
trải ai ở thơn nào thì cũng cổ vũ nhiệt tình cho thơn đó. Ngồi tiền thưởng của
ban tổ chức người trong thơn cịn tài trợ tiền cho đội mình chiến thắng tùy từng
người có người cho 50.000đ, người thì cho 100.000đ gọi là động viên tinh thần

đội nhà mình”2. (Xem phụ lục, ảnh 16)

1

Phỏng vấn Ông Phùng Văn Chinh, sinh năm 1955, ngày 10/01/2016 tại Kênh Giang, xã Kênh Giang, thị xã
Chí Linh, tỉnh Hải Dương
2
Phỏng vấn Ơng Đào Văn Đềm, sinh năm 1950, ngày 10/01/2016 tại thôn Nam Hải, xã Kênh Giang, thị xã
Chí Linh, Hải Dương.

16


Kết thúc phần hội là niềm vui hân hoan của mọi người nơi họ có nhiều
nụ cười vui, thoải mái trong các trò chơi trong hội. Năm nào cũng vậy con
người và nhân dân trong xã tham gia lễ hội như một phần cuộc sống không
thể thiếu. Dù bận rộn, ngày hội chính người dân ai cũng cố gắng sắp xếp cơng
việc về tham gia lễ hội, đây chính là tính thiêng mà đền Kênh Giang có được
trong lịng người dân. Ngồi lễ hội chính người dân xã Kênh giang đến tham
gia sinh hoạt tại Đền vào các ngày lễ lớn của năm: lễ đầu năm, lễ sáng 1/1 âm
lịch, lễ cúng đêm giao thừa, ngày rằm tháng 7… Mục đích chính mà người
dân đến đền là để cầu bình an, tốt lành trong năm mới, cũng như là mong một
năm bn bán làm ăn thuận lợi, may mắn, có thể vượt qua được mọi tai ương
trong cuộc sống.
Người dân trong làng lên đền lễ vào những ngày gia đình có việc trọng
đại, con cái đi làm ăn xa, họ xuống thuyền mới, con cái học hành thi cử. Bà Cậy
có con ứng cử Đại biểu Hội đồng nhân dân xã nói: “Bất cứ khi nào gia đình có
việc trọng đại đều mang lễ lên đền với mong muốn con được đỗ đạt, hay cơng
việc lớn mình chuẩn bị làm sẽ thành cơng. Mình cứ thành tâm, cho tư tưởng
thoải mái”1. Đây như là nếp sống văn hóa, thói quen của người dân với mong

muốn cơng việc trong gia đình được may mắn, thuận lợi, mạnh khỏe, hạnh phúc.
Chị em Phụ nữ trong làng thường rỉ tai nhau câu nói “Cúng quanh năm
bằng ngày rằm tháng 7”. Vào ngày rằm tháng 7 người dân trong làng, đặc biệt
là chị em phụ nữ làm lễ rất lớn, to hơn so với các ngày lễ khác. Bởi tháng 7 là
mùa mưa có nước lũ lớn, gia đình nhà mình đi tàu nhiều nên làm lễ lớn, mong
muốn tránh được cơn bão to, bão lớn, con nước lớn, con nước ngược dòng.
Rằm tháng 7 theo như người dân nói đây là lễ cầu siêu của làng. Lễ được
cúng bằng thuyền bát nhã, cửu vong, lễ được sắm tươm tất, đầy đủ với mong

1

Phỏng vấn Bà Đỗ Thị Cậy, sinh năm 1955, ngày 20/05/2016 tại thơn Nam Hải, xã Kênh Giang, thị xã Chí
Linh, Hải Dương.

17


muốn người dân đi thuyền gặp nhiều may mắn tránh được mưa to bão
lớn.(Xem phụ lục, ảnh 6)
Lễ hội không chỉ những người dân trong làng có đền tham gia cịn có
sự tham gia của những người ngồi làng. Những người đi làm ăn, cư trú xa
quê hương thì lễ hội cũng là dịp họ trở về quê hương cúng tiến cơng đức,
đóng góp xây dựng q hương. Để lễ hội được diễn ra người dân trong làng
mỗi người một viêc. Các cụ cao niên chủ trì, tổ chức nghi thức trong lễ hội,
hội phụ nữ, nơng dân đóng vai trị làm cơng tác hậu cần trong lễ hội, thanh
niên trẻ tổ chức phần hội, chính quyền địa phương là cơ quan đơn vị tổ chức
và cũng là khách mời tham dự lễ hội.
Đền là nơi thờ vị tướng có công chống giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi
đất nước. Đối với người dân làng Nam Hải ngôi đền luôn có một vị trí vơ
cùng quan trọng. Trước kia khi chưa có UBND xã, thì mỗi khi trong làng có

cơng việc quan trọng thì hoạt động chính trị văn hóa trong làng đều được bàn
bạc, nói chuyện ở nơi của đền. Đây là nơi diễn ra những hoạt động lớn mang giá
trị chính trị, văn hóa cho cả làng, ngồi những hoạt động chính đền làng như là
một cơ quan hội tụ quyền lực điều hành của cả xã. Mọi công việc liên quan đến
người dân trong làng, hay là việc chính trong xã đều điễn ra ở Đền làng. Đền
làng lúc này mang trong mình vai trị và chức năng rất lớn đối với đời sống văn
hóa, kinh tế, chính trị của người dân.
* Chùa
Chùa là cơng trình kiến trúc thờ phật, tuy nhiên chùa Việt Nam ngoài
thờ phật cịn thờ thần. Làng Nam Hải hiện nay có một ngơi chùa là chùa
Kênh Giang. Chùa có từ khi người dân Nam Hải bắt đầu đến vùng đất này lập
nghiệp và sinh sống. Chùa được dựng năm 1958, lúc đó chỉ là một ngôi chùa
nhỏ, hoang sơ. Chùa rất thiêng, trong chùa cịn lưu giữ nhiều hiện vật của phật
có bộ cửu long 5 dây, đồ thờ cổ.

18


Chùa Kênh Giang có 3 gian gian hữu thờ Đức ông, gian tả thờ Đức
thánh Hiền, vọng cung thờ Phật gồm có: Tượng Tam Thế, Di Đà, bộ Cửu
Long 5 dây. Trong khơng gian chùa cịn có ban thờ mẫu: Thờ Mẫu Sơn
Trang, Mẫu Địa và Mẫu Thoải.
Năm 2005 chùa được tu sử và hoàn thành tháng 8 năm 2006. Kinh phí
tu sửa do người dân tham gia qun góp tiền, cơng sức để tu sửa. Người trơng
chùa nói: “Trong lần tu sửa này cơng sức đóng góp của người dân rất lớn,
ngồi phần của chính quyền thì gia đình ông Đào Văn Hiệu đã quyên góp 85
cây vàng (700 triệu), phần nhỏ còn lại được nhân dân trong xã quyên góp.
Tất cả số tiền đóng góp ủng hộ của dân làng đều được ghi vào bia đá công
đức của chùa”1.
Người dân trong xã và một số tín đồ phật giáo, du khách thập phương

đến đền lề bái, chiêm bái vào các ngày rằm, ngày mùng một hàng tháng. Một
người dân nói rằng: “Vào ngày mồng 1 hoặc khi nhà tơi có cơng việc, con thi
cử, nhà có người ốm đau tôi đều lên chùa cầu khấn để phật phù hộ che chở
cho con cái gia đình”2. Ngồi ra ở chùa còn tổ chức lễ vào các ngày lễ trong
năm: Lễ đầu năm (1/1), lễ rằm tháng riêng (15/1), lễ Phật đản (15/4), tết
Đoan ngọ (5/5), lễ cầu siêu (15/7), lễ tất niên (30/12). Ngày lễ rằm tháng 7
được tổ chức với qui mơ lớn hơn vì theo quan niệm của người dân nơi thì đây
là thời điểm cứu giúp cho các vong linh tội khổ và đồng thời là cơ hội để đền
ơn báo hiếu, đền ơn sinh thành, dưỡng dục của các bậc sinh thành. Chính vì
vậy vào các ngày lễ nhân dân trong làng từ già đến trẻ, nam hay nữ đều đến
thắp hương, thả hoa đăng cầu nhiều phúc, nhiều lộc.
Khi có việc trọng đại trong gia đình, trong làng, trong xã, trong dịng
họ, người dân lại sắm lễ lên chùa mọi người tạo cho mình một thói quen văn
1

Phỏng vấn Ơng Đào Văn Được, sinh năm 1950, ngày 12/01/2016 tại thôn Nam Hải, xã Kênh Giang, thị xã
Chí Linh, Hải Dương.
2
Phỏng vấn Bà Đỗ Thị Mật, sinh năm 1951, ngày 10/01/2016 tại thôn Nam Hải, xã Kênh Giang, thị xã Chí
Linh, Hải Dương.

19


×