Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

TỐNG THỊ HUYỀN TRÂM

SỬ DỤNG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO
CHỦ ĐỀ PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG GIAO
TIẾP NGÔN NGỮ CHO TRẺ
MẪU GIÁO 4-5 TUỔI

Chuyên ngành: Giáo dục Mầm non
Mã số: 60140101

LUẬN VĂN THẠC SĨ: GIÁO DỤC MẦM NON

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Nhƣ Mai
1


MỤC LỤC

Mục

Số trang

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ………………………………………...............Trang 4
2. Mục đích nghiên cứu....................................................................Trang 4
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu............................................ .Trang 5
4. Giả thuyết khoa học.....................................................................Trang 5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................Trang 5


6. Phạm vi nghiên cứu......................................................................Trang 5
7. Phương pháp nghiên cứu..............................................................Trang 6
8. Đóng góp mới của đề tài...............................................................Trang 6
9. Cấu trúc của đề tài........................................................................Trang 7
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO
CHỦ ĐỀ PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG GIAO TIẾP NGÔN NGỮ CHO TRẺ
MẪU GIÁO 4-5 TUỔI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề........................................................Trang 8
1.2. Một số khái niệm cơ bản:..........................................................Trang 11
1.3. Đặc điểm khả năng giao tiếp ngôn ngữ của trẻ 4-5 tuổi............Trang 22
1.4. Đặc điểm trò chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ 4-5 tuổi...........Trang 27
1.5. Sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả năng giao tiếp
ngôn ngữ của trẻ 4-5 tuổi........................................................................Trang 30
Kết luận chương 1 ..........................................................................Trang 33
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG BIỆN PHÁP SỬ DỤNG TRÒ CHƠI ĐÓNG
VAI THEO CHỦ ĐỀ PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG GIAO TIẾP NGÔN
NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO 4-5 TUỔI
2.1. Mục đích nghiên cứu.................................................................Trang 35
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................Trang 35
2


2.3. Nội dung nghiên cứu...........................................................Trang 35
2.4 Phương pháp nghiên cứu.....................................................Trang 36
2.5. Thời gian nghiên cứu..........................................................Trang 39
2.6. Phân tích kết quả nghiên cứu..............................................Trang 39
Kết luận chương II.......................................................................Trang 52
CHƢƠNG III: BIỆN PHÁP SỬ DỤNG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO
CHỦ ĐỀ PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG GIAO TIẾP NGÔN NGỮ CHO TRẺ
MẪU GIÁO 4-5 TUỔI

3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp...............................................Trang 54
3.2. Đề xuất một số biện pháp sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát
triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi..................Trang 57
3.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm biện pháp sử dụng trò chơi đóng vai
theo chủ đề phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi........Trang 69
Kết luận chương III........................................................................Trang 70
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ SƢ PHẠM
I. Kết luận.......................................................................................Trang 91
II. Kiến nghị sư phạm.....................................................................Trang 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................Trang 94
PHỤ LỤC ...............................................................................................Trang 97
GIÁO ÁN THỰC HIỆN Ở TRƯỜNG MẦM NON...............................Trang 100
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN (Dành cho giáo viên)...........................Trang 106

3


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với sự phát triển tâm lý và nhân cách của con người nói chung, phát
triển hoạt động giao tiếp được coi là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan
trọng, là tiền đề, là điều kiện để con người có thể thực hiện được những suy nghĩ
của mình.
Đối với trẻ em lứa tuổi mầm non nói riêng, phát triển hoạt động giao tiếp
cho trẻ là nhiệm vụ quan trọng của gia đình và nhà trường, có ý nghĩa đặc biệt
đối với sự phát triển của trẻ. Từ khi mới sinh ra đứa trẻ dần dần lĩnh hội kinh
nghiệm xã hội thông qua hoạt động giao tiếp với người lớn, qua đồ chơi, đồ vật
xung quanh. Các nhà khoa học đã chứng minh đặc điểm giao tiếp của trẻ với
người lớn và bạn cùng chơi được thay đổi và phức tạp dần trong suốt thời kì ấu
thơ. Sự phát triển giao tiếp, sự phức tạp hóa và làm giàu hình thức giao tiếp tạo

nên những khả năng mới cho đứa trẻ tiếp thu kiến thức và kĩ năng từ môi
trường xung quanh. Điều này có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự phát triển
tâm lý và nhân cách của đứa trẻ.
Ở trẻ 4-5 tuổi, trò chơi đóng vai theo chủ đề là hoạt động chủ đạo của trẻ
ở giai đoạn này. Các mối quan hệ của người lớn được trẻ thể hiện trong trò chơi.
Chuyển từ sự tham gia chơi cùng nhau đến sự hợp tác cùng nhau đánh dấu một
bước tiến đáng kể trong hoạt động giao tiếp của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
Thực tiễn giáo dục mầm non cho thấy, trò chơi đóng vai theo chủ đề đã
được đưa vào hoạt động của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi nhưng việc lựa chọn và sử
dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ còn
nhiều vấn đề có thể được tiếp tục nghiên cứu ứng dụng.
Vì những lý do kể trên, đề tài: “Sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề
phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi” được lựa
chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu

4


Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp sử
dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi, góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp cho các em.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi ở trường
Mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề nhằm phát triển khả
năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
4. Giả thuyết khoa học

Có thể sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề để phát triển khả năng giao
tiếp ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non. Khả năng giao tiếp ngôn ngữ
của phần lớn trẻ 4-5 tuổi được nghiên cứu còn chưa tốt.
Nếu lựa chọn và thực hiện được biện pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo
chủ đề phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ 4-5 tuổi thì sẽ phát triển được khả
năng giao tiếp ngôn ngữ của các em, góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp sau
này.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về sử dụng trò chơi đóng vai theo
chủ đề phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
5.2. Khảo sát thực trạng sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển
khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
5.3. Đề xuất biện pháp sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển
khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi và thực nghiệm sư phạm.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp lựa chọn và sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ
đề phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
6.2. Địa bàn nghiên cứu
5


Trường mầm non Ea Tung, huyện Krông Ana, Tỉnh Đắk Lăk.
Trường mầm non Ea Na, huyện Krông Ana, Tỉnh Đắk Lăk.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các vấn đề liên
quan đến đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Sử dụng phiếu quan sát để quan sát tự nhiên

những trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
Phương pháp điều tra bằng phiếu: Sử dụng phiếu khảo sát, phương pháp
trò chuyện để tìm hiểu thực trạng lựa chọn và sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ
đề nhằm phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Phân tích giáo án, kế
hoạch tổ chức, lựa chọn và sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề nhằm phát
triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Thực nghiệm phát hiện: Tổ chức thực nghiệm để phát hiện mức độ khả
năng giao tiếp ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
Thực nghiệm tác động: Phát hiện và đánh giá hiệu quả các biện pháp và
sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
7.3. Phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý, phân tích các kết quả
khảo sát và thực nghiệm sư phạm.
8. Đóng góp mới của đề tài
Hệ thống hóa cơ sở lý luận của đề tài.
Đánh giá thực trạng lựa chọn và sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề
phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
6


Bước đầu xây dựng được một số biện pháp sử dụng trò chơi đóng vai theo
chủ đề phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
9. Cấu trúc của đề tài
Phần Mở đầu
Phần Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.

Chương 2: Thực trạng biện pháp sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề
phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
Chương 3: Biện pháp sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển
khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
- Phần kết luận chung và kiến nghị sư phạm.

7


CHƢƠNG I: LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO
CHỦ ĐỀ PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG GIAO TIẾP NGÔN NGỮ CHO TRẺ
MẪU GIÁO 4-5 TUỔI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở nước ngoài
Phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ thông qua trò chơi đóng vai theo chủ
đề là một hoạt động giúp trẻ phát triển giao tiếp ngôn ngữ một cách nhanh chóng
và hiệu quả nhất, vì qua hoạt động vui chơi trẻ được tự mình giao lưu, trao đổi
với bạn cùng chơi, trẻ tự giải quyết tình huống chơi và mâu thuẫn trong khi chơi.
Từ đó vốn ngôn ngữ của trẻ được tăng lên đáng kể.
Đối với các nước trên thế giới việc dạy học theo xu hướng giao tiếp
không phải là một vấn đề quá mới, bởi lẽ từ lâu họ đã xem việc dạy học giao
tiếp ngôn ngữ cho trẻ là kim chỉ nam của quá trình dạy học.
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Cho nên ngôn
ngữ là tài sản quý báu của nhân loại. Nó là cả kho tàng trí tuệ của con người. Nó tồn
tại phát triển cùng với sự thay đổi và phát triển của con người. Cũng chính vì lẽ đó mà
có biết bao công trình nghiên cứu được tỏa sáng nhờ có ngôn ngữ. Và ngôn ngữ cũng
chính là vấn đề mà có rất nhiều các nhà khoa học từ các lĩnh vực khác nhau như: Tâm
lí học, triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, giáo dục học,… đi sâu, tìm tòi, nghiên cứu
và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn đáng kể.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về sự phát triển của trẻ, tiêu biểu là công

trình nghiên cứu của: L.X.Vugôtxky, V.X. Mukhina, F.D. Usinxky, R.O.Shor,
O.B.Encônhin, Piegie, M.M.Konxova, M.I.Lixinna, L.I.Bozovich, A.Z. Ruxkai, …
V.X. Mukhina với Tâm lí học mẫu giáo: Mukhina nghiên cứu về tâm lí
của trẻ em trong độ tuổi Mẫu giáo.
Winhem Preyer với Trí óc của trẻ em: Một tác phẩm miêu tả chi tiết về sự
phát triển của trẻ em, phát triển về vận động, hình thành ngôn ngữ và trí nhớ cụ
thể thông qua cậu bé Alex.
8


Erik Erickson với Trẻ em và xã hội: Ông nghiên cứu về sự phát triển của
trẻ em, cách đối xử và giáo dục trẻ.
John. B. Watson với Chăm sóc về tâm lí cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ:
Nghiên cứu về tâm lí của trẻ ngay từ khi mới sinh và cách chăm sóc chúng.
A. B. Zaporojets với Cơ sở tâm lí học của giáo dục mẫu giáo: Những
nghiên cứu chuyên biệt về trẻ nhỏ từ lúc mới sinh đến 6 tuổi.
M.M.Konxova với Dạy nói cho trẻ trước tuổi đi học: Các hình thức, biện
pháp để nhằm dạy nói cho trẻ trước khi vào tuổi đi học.
A.N.Xookolop với Lời nói bên trong và tư duy: Tác giả nghiên cứu những
vấn đề lí luận về ngôn ngữ và tư duy của trẻ em.
Một số bài nghiên cứu của các tác giả nước ngoài khác cũng đã đề cập
đến xu hướng dạy học theo hướng giao tiếp như: “Năng lực giao tiếp của trẻ
em” của H.Sposter; “Phương pháp phát triển lời nói cho trẻ em” của MRVlôp;
“Giúp con bạn diễn đạt tư tưởng” do Thiên Thanh biên dịch....đã đi sâu vào vấn
đề tạo dựng sự tự tin cho trẻ trong giao tiếp cũng hướng dẫn việc theo dõi và
một số biện pháp khắc phục những khuyết điểm trong diễn đạt ngôn ngữ của trẻ.
Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng được đông đảo các
nhà giáo dục quan tâm và đi vào nghiên cứu như:
Các tác giả Nguyễn Quang Ninh, Bùi Kim Tuyến, Lưu Thị Lan, Nguyễn

Thanh Hồng với: Tiếng việt và phương pháp phát triển lời nói cho trẻ, đề cập tới
tiếng Việt. Dựa vào đó các tác giả xây dựng các phương pháp nhằm phát triển và
hoàn thiện lời nói cho trẻ.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa với: Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mẫu giáo dưới 6 tuổi, đã đưa ra các phương pháp cụ thể giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ, vốn từ của mình.
Tác giả Hoàng Kim Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức với Phương
pháp phát triển ngôn ngữ. Tác giả đã đưa ra các phương pháp để giúp trẻ tăng
vốn từ.
9


Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Phạm Hoàng Gia, Đoàn thị Tâm với “Tâm lí
trẻ em lứa tuổi mầm non” đã tiến hành nghiên cứu sự phát triển tâm lí của trẻ
mầm non qua các giai đoạn lứa tuổi.
Hiện nay các nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng chủ yếu giải quyết vấn
đề dạy học, giáo dục trong nhà trường. PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết đã nhận định
rằng: “Chơi với bạn bè là nhu cầu bức thiết của trẻ mẫu giáo, giao tiếp có vai
trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ những năm đầu và trong suốt cuộc
đời”, với những tác phẩm: Giáo dục trẻ mẫu giáo chơi trong nhóm bạn
bè,(1987); Sự hình thành xã hội trẻ em trước tuổi học,(1988 ); và một số luận án
tiến sĩ đã xem xét vấn đề đặc điểm giao tiếp, hình thành nhu cầu và khả năng
giao tiếp ở trẻ, được phản ánh trong các công trình nghiên cứu như: Nguyễn Ánh
Tuyết, (1988), Chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào trường phổ thông; Lê Xuân Hồng,
(1996), Đặc điểm giao tiếp của trẻ trong nhóm chơi không cùng độ tuổi;
Nguyễn Xuân Thức(1997), Nghiên cứu tính tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi trong hoạt động vui chơi ... Luận án Phó tiến sĩ của Lưu Thị Lan:
“Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 1 đến 6 tuổi”, nội dung luận án nói
về các bước, giai đoạn hình thành phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong độ tuổi từ 1
đến 6 tuổi. Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về: “Phương pháp phát triển

ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo từ 0 – 6 tuổi”, đã nghiên cứu về sự phát triển vốn từ
ngữ của trẻ ở các độ tuổi và đưa ra các phương pháp nhằm phát triển ngôn ngữ
cho trẻ em ở độ tuổi mầm non. Luận án Tiến sĩ Nguyễn Thị Oanh: “Cơ sở của
việc tác động sư phạm đến sự phát triển ngôn ngữ tuổi Mầm non”. Dựa trên cơ
sở của ngành sư phạm tác giả đã nghiên cứu tới sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
em mầm non. Cùng với một số công trình nghiên cứu về khía cạnh văn hóa của
giao tiếp và việc giáo dục hành vi giao tiếp cho trẻ mầm non gồm các công
trình: Nguyễn Văn Lê,(1996), Quy tắc giao tiếp xã hội- giao tiếp bằng ngông
ngữ; Trần Trọng Thủy, (1983), Bài giảng tâm lý học giao tiếp; Lê Xuân Hồng,
(2005), Sự hình thành và phát triển giao tiếp của trẻ mầm non. Tạp chí giáo dục
số 127 (12/2005), Trò chơi và giao tiếp của trẻ mẫu giáo...
10


Nghiên cứu vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói chung chúng
ta cần phải kể đến những cuốn giáo trình được coi là đầu tiên ở nước ta thuộc
lĩnh vực này như: Cao Đức Tiến, Nguyễn Quang Ninh, Hồ Lam Hồng với giáo
trình Tiếng Việt và phương pháp phát triển lời nói cho trẻ em (Trung tâm nghiên
cứu đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, HN 1993), Phan Thiều (1980), “Dạy nói
cho trẻ em trước tuổi cấp một”, Nguyễn Minh “Một số vấn đề dạy ngôn bản nói
và viết”, Nguyễn Xuân Khoa với tác phẩm “Phương pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo” (NXB DHQGHN, 1999), Đinh Hồng Thái với cuốn giáo trình
“Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ em”…
Tác giả Hoàng Thị Oanh cũng đã có những công trình nghiên cứu đưa ra
những bài tập tình huống trong giáo dục mầm non mà cụ thể là trong trò chơi
đống vai theo chủ đề như : “Bài tập tình huống giáo dục trong tổ chức hoạt
động góc cho trẻ mẫu giáo”; “Nghiên cứu kĩ năng tổ chức trò chơi đóng vai
theo chủ đề cho trẻ 5 tuổi của sinh viên cao đẳng sư phạm nhà trẻ mẫu giáo”;
“Bài tập phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi”…
Tóm lại, các tác giả trong mỗi công trình nghiên cứu của mình đã đưa ra

những quan điểm nhằm phát triển năng lực nói cho trẻ. Hầu hết các tác giả quan
tâm đến các chức năng khác nhau của ngôn ngữ trong giao tiếp của trẻ, làm cơ
sở để đưa ra một biện pháp cụ thể kích thích trẻ mẫu giáo phát triển ngôn ngữ
giao tiếp trong chính hoạt động chủ đạo của mình là hoạt động vui chơi.
Đề tài này tiếp tục tìm hiểu và xây dựng một số biện pháp nhằm phát triển
ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ, mà cụ thể hơn là sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ
đề nhằm phát triển giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi.
1.2. Một số khái niệm cơ bản:
1.2.1. Khả năng giao tiếp ngôn ngữ của trẻ 4-5 tuổi.
1.2.1.1. Giao tiếp ngôn ngữ
a. Khái niệm ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống các kí hiệu có cấu trúc quy tắc và ý nghĩa được
con người sử dụng trong giao tiếp. Các kí hiệu có thể được kết hợp được tổ chức
11


để thay thế và sử dụng để truyền đạt một khối lượng thông điệp vô cùng đa dạng
và phức tạp.
Ngôn ngữ được coi là một hệ thống tín hiệu đặc biệt với những quy tắc
hoạt động chung, là phương tiện giao tiếp của con người trong xã hội loài người,
nó không chỉ thể hiện ý thức xã hội hiện tại mà còn luôn phát triển cùng với sự
tồn tại và phát triển của xã hội.
Như vậy, ngôn ngữ xuất hiện là do nhu cầu giao tiếp và thỏa mãn nhu cầu
giao lưu của con người khi họ sống trong cộng đồng xã hội. Tất cả các hoạt
động của con người trong mọi lĩnh vực diễn ra hàng ngày, hàng giờ như: Lao
động, học tập, vui chơi, giải trí...đều cần có ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ mà con
người có thể trao đổi nguyện vọng, tâm tư, tình cảm, kinh nghiệm cho nhau.
Cũng nhờ ngôn ngữ mà con người hiểu nhau hơn và cùng nhau tổ chức công tác
trên mọi lĩnh vực hoạt động đang vận hành trong xã hội.
b. Ngôn ngữ - hoạt động lời nói

So với ngôn ngữ, lời nói không chỉ đơn thuần là cái gì đó mang tính thứ
yếu, nếu ngôn ngữ mang tính chất chung cho cả cộng đồng thì lời nói lại mang
bản sắc riêng, nó mang tính ngẫu nhiên và đặc trưng cho mỗi cá nhân. Nhưng,
xét về bản chất, nó cũng chính là ngôn ngữ- ngôn ngữ ở dạng hành động, điều
này làm cho lời nói vừa có tính xã hội lại vừa có màu sắc riêng của cá nhân
người nói - người sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa quan niệm: “Lời nói là quá trình thể hiện tư
duy trên cơ sở vận dụng phương tiện ngôn ngữ. Lời nói thưc hiện chức năng
giao tiếp, thông báo, chức năng tự bộc lộ cảm xúc và tác động vào người khác”.
Thực tế lời nói tồn tại ở hai dạng: Lời nói bên ngoài và lời nói bên trong. Lời nói
bên ngoài được dùng nhằm mục đích giao tiếp với người khác, còn lời nói bên
trong được tồn tại dưới dạng tiềm thức, suy nghĩ và tự nói với chính mình từ bên
trong.
Như vậy, mối quan hệ giữ ngôn ngữ và lời nói là mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng tạo nên cá tính riêng cho mỗi người. Nếu nói ngôn ngữ là kí
hiệu chung cho cả một cộng đồng người thì lời nói sẽ là sản phẩm riêng biệt của
12


mỗi cá nhân. Ngôn ngữ luôn mang tính khái quát và ổn định, ít thay đổi còn lời
nói lại mang tính cụ thể, có tính nhất thời và luôn thay đổi do hoàn cảnh tác
động. Tuy nhiên lời nói có sự thay đổi như thế nào đi nữa thì nó vẫn luôn mang
trong mình mặt xã hội của ngôn ngữ và màu sắc riêng của cá nhân trong lời nói.
Lời nói bên trong hay lời nói bên ngoài thì khi nghiên cứu nó vẫn được xem xét
dưới góc độ là một trong những đối tượng của ngôn ngữ học dưới một hệ thống
bao gồm các bộ phận: Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp...Vì vậy, khi nghiên cứu và
đề xuất các biện pháp phát triển giao tiếp ngôn ngữ không thể đi liền với việc
thực hiện các nhiệm vụ đó.
c. Khái niệm giao tiếp ngôn ngữ
Có nhiều cách hiểu khác nhau về giao tiếp ngôn ngữ:

Giao tiếp ngôn ngữ là hình thức giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của
xã hội loài người.
Khi nghiên cứu về sự phát triển tâm lý và các yếu tố ảnh hưởng tới sự
phát triển tâm lý, các nhà tâm lý cũng rất quan tâm đến sự phát triển giao tiếp
ngôn ngữ và ảnh hưởng của nó tới sự phát trieenrr nhân cách con người.
Tác giả Ngô Công Hoàn- Hoàng Anh trong giáo trình “Giao tiếp sư
phạm” định nghĩa về giao tiếp ngôn ngữ như sau: “Giao tiếp ngôn ngữ là một
hoạt động có mục đích của người nói (người viết) nhằm tác động đến nhận thức,
tình cảm, hoạt động của người nghe (người đọc)”. Do vậy, hiểu biết về người
tiếp nhận ngôn bản là điều không thể thiếu đối với người phát tin. Hiểu biết càng
phong phú thì hiệu quả giao tiếp càng cao.
Nhìn chung khái niệm giao tiếp ngôn ngữ được hiểu như sau: Giao tiếp
ngôn ngữ là một hoạt động, giao tiếp ngôn ngữ xuất hiện như một dạng hoạt
động xác lập và vận hành mối quan hệ người- người bằng các tín hiệu từ ngữ.
d. Đặc điểm khả năng giao tiếp ngôn ngữ của trẻ 4-5 tuổi.
Giai đoạn đầu lứa tuổi 4-5 tuổi, khi tham gia trò chơi đóng vai theo chủ
đề, sự phối hợp vai chơi còn rời rạc, việc sử dụng ngôn ngữ nhiều khi chưa có
tính chủ định, sử dụng câu còn lộn xộn gây khó khăn cho việc diễn đạt. Dần dần,
khả năng nghe của trẻ tăng lên rõ rệt, trẻ có thể nghe mọi người nói chuyện được
13


lâu hơn, bên cạnh đó do muốn được thỏa mãn nhu cầu vui chơi cùng bạn và nhu
cầu nhận thức về thế giới xung quanh mà vốn từ tăng nhanh, kết cấu ngữ pháp
phát triển rõ rệt hơn, câu biểu đạt có tính linh hoạt hơn.
Nhìn chung, ở giai đoạn 4-5 tuổi, do phạm vi giao lưu của trẻ được mở
rộng mà giao tiếp ngôn ngữ cũng có nhiều bước phát triển cả về vốn từ, cấu trúc
ngữ pháp, sử dụng câu trong lời nói, đặc biệt là khả năng biểu đạt bằng nhiều
cách khác nhau. Do vậy, ở giai đoạn này nhà giáo dục cần hướng trẻ đến việc
liên kết thành nhóm trong vui chơi, giúp trẻ mở rộng chủ đề và nội dung những

trò chơi mang tính sinh hoạt không chỉ trong gia đình mà còn ngoài xã hội, củng
cố những quy tắc ứng xử của trẻ trong tập thể, kĩ năng giao tiếp có văn hóa, bên
cạnh đó cần tổ chức tốt các trò chơi có chủ đề về sinh hoạt xã hội là những việc
làm hết sức cần thiết đối với sự phát triển giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ.
1.2.1.2. Ý nghĩa của việc phát triển giao tiếp ngôn ngữ đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách trẻ em.
Con người có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau trong giao tiếp
như phương tiện giao tiếp bằng vật chất thông qua các giá trị vật chất mà con
người tiếp xúc với nhau, gởi gắm niềm tin, nỗi nhớ…hay phương tiện giao tiếp
phi ngôn ngữ thể hiện qua nét mặt, điệu bộ, ánh mắt, nụ cười, tư thế,…nhưng
trong đó phương tiện được sử dụng chủ đạo và thường xuyên nhất vẫn là
phương tiện ngôn ngữ bởi theo Piaget, lời nói có ba ưu thế so với hành động vật
chất: Hành động diễn tả bằng tay diễn ra với tốc độ chậm hơn nhiều so với lời
mô tả; Hành động bằng tay bị hạn chế bởi không gian chật hẹp và thời gian trực
tiếp, trong khi nhờ ngôn ngữ, tư duy dễ dàng vượt ra khỏi giới hạn đó; Hành động
bằng tay diễn ra tuần tự, dần dần, còn ngôn ngữ thì cho biểu tượng về toàn bộ.
Đối với trẻ mẫu giáo, sự xuất hiện ngôn ngữ nói là sự kiện quan trọng bởi
trẻ em sinh ra và lớn lên trong xã hội loài người. Hàng ngày, trẻ em nghe được
tiếng nói của mọi người xung quanh nói với nhau và với trẻ. Dần dần trẻ hiểu
được tiếng nói và biết nói. Sự giao tiếp của trẻ với mọi người xung quanh và
hoạt động tìm hiểu thế giới xung quanh có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ. Quá trình nói ấy diễn ra đồng thời với sự hoàn thiện dần dần
14


với sự phát triển sinh lí và tâm lý trẻ. Trẻ phát triển -> nhu cầu giao tiếp nhận
thức tăng -> nhu cầu nắm bắt sử dụng lời nói tăng -> ngôn ngữ phát triển -> giao
tiếp -> nhu cầu phát triển ngôn ngữ -> ngôn ngữ phát triển -> mở rộng giao
tiếp…
Việc phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ là một yêu cầu tất yếu

cần phải được thực hiện ở trường mầm non.Trẻ phải được học được luyện tập về
giao tiếp ngôn ngữ trong những tình huống giao tiếp cụ thể. Chúng ta biết rằng,
mặc dù trước khi đến trường, trẻ đã biết nghe và nói tiếng việt, đã biết dùng
tiếng việt dạng nói để giao tiếp trong gia đình, nhà trường, trên đường phố, trong
siêu thị,… Lớn dần lên, trẻ không học cũng có thể dung tiếng Việt ở dạng nói để
trao đổi, bàn luận, thảo luận, để trình bày ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm…của mình.
Điều đó có nghĩa là kĩ năng giao tiếp ngôn ngữ của trẻ đã được hình thành một
cách tự phát theo con đường tự rút kinh nghiệm qua hoạt động giao tiếp hàng
ngày. Tuy nhiên thực tiễn lại cho thấy rằng nếu nhà trường không dạy phát triển
khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ, tức là nếu giáo viên không biết cách sử
dụng các hình thức, phương tiện dạy học cũng như các biện pháp đa dạng khác
nhau để tiếp tục phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ một cách tự phát
thông qua các hoạt động trao đổi giữa cô và trẻ, giữa trẻ và trẻ sẽ làm hạn chế rất
nhiều năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp của trẻ, hạn chế tính chủ động,
sáng tạo của trẻ khi tham gia các hoạt động giao tiếp.
Như vậy, thông qua việc phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ,
các kĩ năng giao tiếp ngôn ngữ của trẻ đã được hình thành một cách tự phát theo
con đường tự rút kinh nghiệm qua hoạt động giao tiếp hàng ngày sẽ được tiếp
tục phát triển một cách khoa học, hợp lý và mang tính thực tiễn cao.Thông qua
con đường học tập trẻ mới thực sự học được cách sử dụng tiếng nói phong phú,
đa dạng gắn với cuộc sống sôi động hàng ngày, học tiếng nói trong giao tiếp và
để giao tiếp. Qua giao tiếp ngôn ngữ trẻ sẽ hiểu được cách xác định chủ đề chơi
cũng như mục đích của việc tham gia đối thoại, phân biệt được vai trò các đối
tượng tham gia đối thoại, luyện tập các kĩ năng trao lời và đáp lời,…Giúp trẻ
15


ngày càng chủ động, tự tin, sáng tạo khi tham gia các hoạt động giao lưu trong
xã hội.
Hoạt động giao tiếp ngôn ngữ là hoạt động giao tiếp gắn chặt với các quy

tắc ứng xử trong xã hội, thể hiện trình độ văn minh của con người. Vì thế phát
triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ đồng thời cũng là dạy đạo đức, dạy
văn hóa ứng xử cho trẻ bởi từ lâu ông cha ta đã dạy: “Học ăn, học nói, học gói,
học mở”. Ăn cũng phải học vì có dăm bảy cách ăn. Có cách ăn của người văn
minh, có cách ăn của kẻ phàm phu tục tử. Nói càng phải học vì cũng có nhiều
cách nói . Có cách nói văn hóa, lịch sự, có cách nói thô lỗ, dung tục…
Việc phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ ngay trong nhà trường
đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong nội dung cũng như phương pháp dạy
tiếng mẹ đẻ cho trẻ ở trường mầm non, nhờ vậy mà trẻ giao tiếp ngày càng linh
hoạt, sôi động hơn. Việc học các quy tắc, kĩ năng tham gia đối thoại, từ quy tắc
luân phiên lượt lời đến các phương châm điều hành nội dung đối thoại, từ phép
lịch sự đến việc thực hiện các quy luật, cấu trúc, mục đích của cuộc đối thoại, trẻ
thực ra đã tiếp nhận nhiều quy tắc đạo đức, nhiều phép ứng xử văn minh như sự
tôn trọng thể diện người đối thoại, sự phối hợp, hợp tác trong cuộc sống…
Việc phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ đã góp phần quan
trọng trong việc biến kiến thức ngôn ngữ thành kiến thức đời thường bởi nó
không chỉ làm cho ngôn ngữ nói của trẻ trở nên sôi động, gần với thực tế giao
tiếp, không chỉ làm cho quá trình tiếp nhận ngôn ngữ trở nên hấp dẫn hơn mà
còn giúp cho trẻ thực hành giao tiếp và học tiếng mẹ đẻ một cách dễ dàng hơn.
Đó là con đường hiệu quả nhất để khắc sâu, nâng cao và mở rộng kiến thức cũng
như hoàn thiện kĩ năng giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ cho trẻ. Từ đó trẻ có kĩ năng
ứng xử linh hoạt, đúng phong cách và có văn hóa.
Đối với lĩnh vực nhận thức, những kết quả đạt được trong quá trình tác
động của giáo viên đối với việc phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ
không chỉ góp phần giúp trẻ có khả năng phân tích, đánh giá, hình thành các kĩ
năng, kĩ xảo ngôn ngữ và phân biệt được các hiện tượng xung quanh...mà còn
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động hệ thần kinh của trẻ, giúp cho
16



các qua trình tâm lý như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy phát triển tốt bởi trong
quá trình luyện tập, giáo viên sử dụng hệ thống các phương pháp tác động khác
nhau, tác động lên quá trình nhận thức của trẻ yêu cầu trẻ phải tư duy tích cực để
ghi nhớ và nhớ lại cách thức thực hiện các chuẩn mực trong hoạt động giao tiếp.
Bằng những kiến thức, kinh nghiệm mà trẻ có được thông qua việc tìm
hiểu, khám phá những biểu tượng phong phú về thế giới xung quanh qua trò
chơi, lao động, học tập, giải trí, lễ hội...sẽ làm phong phú tâm hồn trẻ thơ bằng
những tri thức thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ. Từ đó hướng trẻ tới việc ý thức
cái đẹp, thừa nhận cái đẹp chân chính, chối bỏ loại trừ cái xấu, cái tiêu cực, giáo
dục cho các em quan niệm đúng về cái đẹp, tự hoàn thiện nó trong đời sống sinh
hoạt, trong giao tiếp với mọi người xung quanh, ứng xử với cái đẹp trong thiên
nhiên. Những tác động của hoạt động giáo dục nhằm phát triển khả năng giao
tiếp ngôn ngữ đã góp phần tạo nên con người văn hóa, con người có những hành
vi đẹp.
1.2.2. Trò chơi đóng vai theo chủ đề.
1.2.2.1. Khái niệm trò chơi
Hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo là vui chơi, qua vui chơi trẻ em thỏa
mãn nhu cầu được chơi, được học, được sống, được giống như người lớn. Do
vậy, những điều người lớn muốn dạy trẻ và những điều trẻ muốn được học cần
được tổ chức dưới hình thức vui chơi “học mà chơi chơi mà học”.
Trong vui chơi con người sử dụng rất nhiều trò chơi, tùy vào góc độ tiếp
cận mà có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về trò chơi:
- Theo từ điển tiếng Việt, chữ “trò” được hiểu là một hình thức mua vui,
được bầy ra trước mắt mọi người, chữ “chơi” để chỉ những hoạt động lúc nhàn
rỗi, ngoài giờ làm việc, có mục đích giải trí. Từ đó “trò chơi” được hiểu là
những hình thức hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu giải trí của con
người.
- G.V Plekhanốp cho rằng: Trò chơi là một hình thức hoạt động, gắn liền
với lao động của xã hội loài người, ông đã lý giải mối quan hệ giữa vui chơi của
trẻ em và lao động của người lớn như là nguồn gốc xã hội nảy sinh trò chơi.

17


- Một số nhà khoa học khác như: Tăng Bồi Viêm (Trung Quốc), Nguyễn
Toán, Lê Anh Thơ (Việt Nam) thì cho rằng: Trò chơi là một bộ phận của nền
văn hóa xã hội, là một phương tiện để giáo dục con người, trước hết là giáo dục
thanh thiếu niên, nhi đồng.
- Theo quan điểm của Giáo dục học, thì trò chơi là hình thức thể hiện cuộc
sống, là phương tiên phát triển nhân cách con người. Đối với trẻ em trò chơi là
hoạt động giúp trẻ tái tạo các hoạt động của người lớn, qua vui chơi, thể lực, trí
tuệ, đạo đức được hình thành.
- Theo tác giả Ngô Ngọc Thanh trò chơi là hoạt động trình diễn bằng các
tín hiệu và thông qua luật lệ của một nhóm người làm giải tỏa sự bức xúc về tinh
thần và thể chất, để tái tạo sức lao động và năng lượng. Ở đây tín hiệu chơi được
hiểu là những phương tiện dùng để chơi, còn “lệ chơi” là những quy định cho
việc chơi, là yếu tố quyết định đến việc chơi mà thiếu nó thì không thể thành trò
chơi.
- Theo tác giả Lê Minh Thuận, trò chơi là hoạt động trình diễn bằng các
tín hiệu và thông qua luật lệ của một nhóm người làm giải tỏa sự bức xúc về tinh
thần và thể chất, để tái tạo sức lao động và năng lượng. Ở đây tín hiệu chơi được
hiểu là những phương tiện dùng đẻ chơi, còn luật lệ là những quy định cho việc
chơi, là yếu tố quyết định đến việc chơi mà thiếu nó không thể trở thành trò
chơi.
Trò chơi của trẻ là một hoạt động phản ánh sáng tạo độc đáo, thực hiện
tác động qua lại giữa trẻ với môi trường xung quanh. Qua đó làm thỏa mãn nhu
cầu vui chơi của trẻ.
Tóm lại, trò chơi là một kiểu chơi, một dạng hoạt động giải trí, một hình
thức phản ánh hoạt động sản xuất, sinh hoat văn hóa xã hội. Được thực hiện
theo quy ước nhằm thỏa mãn những nhu cầu về thể chất và tinh thần của con
người.

Trò chơi có những đặc điểm :
- Trò chơi luôn đem đến cho tác nhân sự thích thú, thỏa mãn
18


- Sự thỏa mãn mục đích giải trí nằm trong hành động chơi. Người chơi
quan tâm đến hành động chơi hơn là quan tâm đến kết quả chơi, hành động chơi
mang mục đích tự nó.
- Trò chơi có thể diễn tả một mình hoặc dưới hình thức nhóm.
Những dấu hiệu đặc trưng để nhận diện trò chơi của trẻ, góp phần giúp giáo
viên phát hiện năng lực của trẻ trong tiến trình tác động sư phạm đến với trẻ.
Theo J.Piaget và Henriot vui chơi gắn liền với đời sống xã hội của trẻ,
trong khi chơi trẻ em lĩnh hội cái mới, thông qua đó mà phát triển nhận thức,
tình cảm và thể chất...J.Piaget đã mô tả trò chơi của trẻ như là sự đồng hóa và
thích nghi là hai quá trình kiến tạo trí tuệ. Sự phát triển trí tuệ, tình cảm của trẻ
em diễn ra trong khi chơi đó là sự đồng hóa những thông tin mới làm cho nó phù
hợp với những vốn thông tin đã có, J.Piaget khẳng định “vui chơi là thước đo
trình độ phát triển của trẻ”
Như vậy, trò chơi là hình thức hoạt động đặc thù, đọc đáo của trẻ thực
hiện tác động tương hỗ giữa chủ thể với môi trường. Trò chơi của trẻ mô phỏng
lại cuộc sống của người lớn, tái tạo ác hành động, các mối quan hệ, qua đó trẻ
bộc lộ thái độ, cảm xúc của mình. Khi chơi, trẻ sống một cuộc sống thực chính
trong hoạt động chơi, trẻ thực sự là một chủ thể tích cực hoạt động, giao tiếp và
chủ động vận dụng các kinh nghiệm đã có để củng cố, khái quát thành kiến thức
để hình thành nhân cách.Vì vậy, trò chơi là một hoạt động tự lực và sáng tạo của
trẻ cần được người lớn tổ chức hướng dẫn.
1.2.2.2. Khái niệm trò chơi đóng vai theo chủ đề
Bước vào tuổi mẫu giáo, trẻ có thể tham gia vào nhiều trò chơi khác nhau
như: Trò chơi dân gian, trò chơi vận động,trò chơi học tập, trò chơi đóng vai...,
trong đó trò chơi đóng vai theo chủ đề (TCĐVTCĐ) giữ vị trí trung tâm.

TCĐVTCĐ sẽ tạo ra những nét đặc trưng trong tâm lý trẻ, giúp trẻ thực hiện các
hành vi nhân cách như người lớn.
- TCĐVTCĐ là loại trò chơi mô phỏng các hoạt động trong cuộc sống
sinh hoạt của người lớn, trẻ đóng vai một nhân vật nào đó để thực hiện chức
năng xã hội của nhân vật đó bằng những hành động mang tính tượng trưng.
19


Trong TCĐVTCĐ trẻ em tái tạo lại những ấn tượng, những cảm xúc mà
trẻ thu nhận được từ cuộc sống, từ môi trường xã hội nhờ sự tham gia tích cực
của trí tưởng tượng.
Khi trẻ chơi TCĐVTCĐ, điều hấp dẫn nhất đối với trẻ là chúng thỏa mãn
được nguyện vọng được chơi,được sống và hoạt động giống như người lớn. Ví
dụ: Trò chơi “gia đình” trẻ đóng vai là bố, mẹ, con...Bố, mẹ thương yêu con,
chăm sóc con, o lắng khi con ốm đau. Con ngoan biết nghe lời bố mẹ, lễ phép,
kính trọng bố mẹ...Trò chơi “Bệnh viện” trẻ đóng vai bác sĩ, y tá, bệnh
nhân...Bác sĩ khám bệnh cho bệnh nhân, y tá phụ giúp và làm theo chỉ dẫn của
bác sĩ, bệnh nhân phục tùng ý kiến của bác sĩ và y tá. Nghĩa là trẻ mô phỏng lại
các hành động, lời nói, mối quan hệ của các vai trong trò chơi. Đây là lần đầu
tiên các mối quan hệ xã hội giữa người với người được thể hiện một cách khách
quan và tự nhiên trước mắt trẻ. Qua đó, trẻ có thể hiểu được trong xã hội mỗi
người đều có quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi người xung quanh.
TCĐVTCĐ là một hình thức độc đáo, hấp dẫn trẻ em, nó mang đầy đủ ý
nghĩa của sự chơi: tính tự do, tự chủ, tự nguyện, tính hợp tác tượng trưng, mà trò
chơi cần có. Qua TCĐVTCĐ trẻ được trải nghiệm các mối quan hệ xã hội của
người lớn, là cơ sở để trẻ được học làm người.
Đối với trẻ mẫu giáo TCĐVTCĐ là loại trò chơi hấp dẫn vì nó phù hợp
với tâm lý trẻ em muốn tự mình làm lấy mọi việc như người lớn, muốn được
khẳng định mình. Tâm lý trẻ em rất thích được làm người lớn, tuy nhiên trẻ chưa
thể tự mình làm được các việc đó, nên xuất hiện mâu thuẫn giữa một bên là nhu

cầu của trẻ với một bên là khả năng còn hạn chế. Để giải quyết mâu thuẫn đó trẻ
tìm đến một hoạt động mới đó là TCĐVTCĐ, ở đây trẻ đóng những vai người
lớn mà trẻ thích, trong khi chơi trẻ thỏa thích làm những công việc của người
lớn bằng cách trẻ đặt mình vào vị trí của người lớn “người mẹ”, “bác sĩ”, “người
bán hàng”...
Khi chơi trẻ hòa mình vào vai chơi, thể hiện vai chơi - phản ánh một
mảng cuộc sống thực của người lớn, đồng thời thiết lập mối quan hệ giữa các vai
20


chơi, từ đó hình thành một “xã hội trẻ em”. Qua đây ta thấy TCĐVTCĐ giữ vị
trí trung tâm tạo ra những biến đổi trong đời sống tâm lý của trẻ mẫu giáo.
Tóm lại, TCĐVTCĐ là một loại trò chơi trong đó trẻ em hóa thân vào các
nhân vật, tái tạo lại những hành động và cảm xúc của nhân vật để thỏa mãn nhu
cầu vui chơi của mình.
1.2.3. Sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả năng giao
tiếp ngôn ngữ của trẻ 4-5 tuổi.
Sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với việc phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ bởi nó sẽ góp phần tạo
nên mối quan hệ gắn kết giữa nội dung giáo dục với thực tiễn cuộc sống của trẻ.
Nó là hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động ngôn ngữ của trẻ ngay
trong chính hoạt động chủ đạo của trẻ ở trường mầm non, tạo cơ hội cho trẻ
được tự học, tự trải nghiệm những vốn kinh nghiệm, vốn sống và vốn ngôn ngữ
của bản thân vào các hoạt động giao tiếp cụ thể, Sử dụng trò chơi đóng vai theo
chủ đề còn góp phần nâng cao tính tích cực, chủ động, hứng thú và tích cực với
hoạt động giao tiếp của trẻ, Tạo điều kiện giúp phát triển ở trẻ các năng lực
chung như năng lực giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp và hợp tác làm
việc,...Nó cũng góp phần làm giảm những rủi ro sau này cho trẻ khi tham gia
vào thực tiễn cuộc sống nhờ việc trẻ đã học được cách giải quyết tình huống từ
mô hình tương tự ở nhà trường mầm non.

Tóm lại, việc phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ mầm non có
mối quan hệ rất chặt chẽ với các lĩnh vực nhận thức, thẩm mỹ, thể chất, ngôn
ngữ, tình cảm đạo đức xã hội. Đó là mối quan hệ tác động qua lại một cách biện
chứng giúp phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Chính mối quan hệ tác động
này đã cho thấy vai trò vô cùng quan trọng của việc thực hiện các yêu cầu,
nhiệm vụ giáo dục phát triển giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm
non. Quá trình đó cần đảm bảo kết hợp chặt chẽ với tất cả các mặt giáo dục toàn
diện. Đó là sự định hướng giáo dục nhân cách toàn diện, hiện đại trên nền truyền
thống dân tộc. Phát triển khả năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ sẽ góp phần tạo ra
những con người mới, những công dân chân chính của tương lai. Điều đó chỉ có
21


thể hình thành nếu ngay từ tuổi mẫu giáo chúng ta biết đầu tư đúng lúc, vun
trồng công phu, biết phát huy tính chủ động sáng tạo của trẻ ngay từ khi đang ở
trường mầm non để giáo dục cho trẻ lĩnh hội được những tri thức khoa học, để
phát triển nhân cách con người đến sự hoàn mĩ.
1.2.4. Biện pháp sử dụng trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả
năng giao tiếp ngôn ngữ của trẻ 4-5 tuổi.
1.2.4.1. Khái niệm biện pháp
Theo từ điển tiếng Việt “Biện pháp là cách thức xử lý công việc hoặc
cách thức giải quyết vấn đề”.
Theo em hiểu thì “Biện pháp là cách làm cụ thể của giáo viên giúp trẻ đạt
được mục đích giáo dục đã đề ra”.
1.2.4.2. Biện pháp giáo dục
Theo từ điển giáo dục học “Biện pháp giáo dục là cách tác động có định
hướng,có chủ đích, phù hợp với tâm lý đến đối tượng giáo dục nhằm bồi dưởng
hoặc làm thay đổi những phẩm chất và năng lực của đối tượng”
1.4.3. Biện pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả
năng giao tiếp ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi

Biện pháp tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề phát triển khả năng giao
tiếp ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi là cách làm cụ thể mà giáo viên đưa ra để trẻ hoạt
động tự trải ngiệm trong trò chơi giúp trẻ đạt được mục đích giáo dục là phát
triển khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ cho trẻ.
1.3. Đặc điểm khả năng giao tiếp ngôn ngữ của trẻ 4-5 tuổi
Từ khi mới sinh ra đứa trẻ dần dần lĩnh hội kinh nghiệm xã hội thông qua
giao tiếp xúc cảm với người lớn, qua đồ chơi và đồ vật xung quanh nó, qua ngôn
ngữ...
Nghiên cứu của M.I.Lixinna và các nhà khoa học khác đã chứng minh
rằng, đặc điểm giao tiếp của trẻ với người lớn và bạn cùng tuổi được thay đổi và
phức tạp dần trong suốt thời kì thơ ấu. Sự phát triển giao tiếp, sự phức tạp hóa
và làm giàu hình thức giao tiếp tạo nên những khả năng mới cho đứa trẻ tiếp thu
22


kiến thức và kĩ năng từ môi trường xung quanh. Điều này có ý nghĩa quan trọng
nhất đối với sự phát triển tâm lí và hình thành nhân cách của đứa trẻ.
C.Mác đã viết: “Người ta lúc đầu phải nhìn vào người khác mới soi thấy
bóng mình và nhận ra được mình”. Giao tiếp là cầu nối giúp trẻ hình thành mối
quan hệ, nhận ra chính bản thân mình, là phương tiện giúp trẻ tự do thể hiện bản
thân hình thành kĩ năng tự khẳng định. Một đứa trẻ khi mới sinh ra chí có “tiềm
năng” để trở thành con người. Muốn trở thành con người thật sự thì phải có quá
trình tiếp thu kinh nghiệm xã hội lịch sử đã được loài người tích lũy qua nhiều
thế hệ. Quá trình này chỉ có thể thực hiện trong hoạt động, bắt đầu từ giao tiếp
với người lớn xung quanh.
Ngay từ khi mới sinh ra, trẻ em đã có nhu cầu được giao tiếp đó là nhu
cầu được tiếp xúc trực tiếp, gắn bó với người mẹ. Sự yêu thương trong giao tiếp
với người lớn bắt đầu xuất hiện ở trẻ 2 tháng tuổi. Sự tác động và giúp đỡ của
người lớn làm cho nhu cầu giao tiếp của đứa trẻ được hình thành với bốn dấu
hiệu đặc trưng: Sự quan tâm đến người lớn, mối quan hệ xúc cảm với người lớn,

cường độ tiếp xúc với người lớn và biểu hiện xúc cảm với sự đánh giá của người
lớn. M.U.Lixinna gọi hình thức giao tiếp đầu tiên này là giao tiếp nhân cách tình
huống hay giao tiếp xúc cảm trực tiếp. Biểu hiện đầu tiên của dạng giao tiếp này
là “phức cảm hớn hở” ở đứa trẻ, nổi bật hơn là sự thể hiện bằng những những
xúc cảm tình cảm trực tiếp của người mẹ và trẻ, một bên đứa trẻ thể hiện sự tìm
kiếm, gần gũi còn người mẹ thể hiện sự nâng niu, âu yếm, vỗ về. Phương tiện
giao tiếp lúc này chủ yếu là phi ngôn ngữ. Nhà tâm lý học Xô viết D.B.Enconin
đưa ra kết luận và đã được kiểm tra, thực nghiệm một cách đa dạng và có tính
thuyết phục cao: “Rất sớm, ngay từ tháng thứ hai của cuộc sống ở trẻ đã xuất
hiện nhu cầu, đặc thù của con người, mang bản chất xã hội đó là nhu cầu của
người lớn”. Vì vậy, từ những ngày đầu đời của đứa trẻ, người lớn cần phải tổ
chức bầu không khí giao tiếp ấm áp, đầy tình yêu thương đối với trẻ.
Hình thức giao tiếp xúc cảm trực tiếp là hoạt động chủ đạo của trẻ tuổi hài
nhi, có nghĩa là xác định sự phát triển tâm lý và thể lực của đứa trẻ sau này.
Trong các mối quan hệ xúc cảm này, xuất hiện sự mong muốn chia sẻ với người
23


lớn những tình cảm của mình và khả năng đồng cảm với người lớn. Sự hình
thành các mối liên hệ xúc cảm giữa trẻ với người lớn có thể đảm bảo cho sự
hình thành mối quan hệ tốt giữa trẻ với mọi người và với thế giới xung quanh,
đồng thời hình thành lòng tự tin ở trẻ.
Cùng với sự phát triển về sinh lý, tâm lý của trẻ cũng có bước phát triển
đáng kể. Dưới tác động của người lớn đứa trẻ dần lĩnh hội các kĩ năng giao tiếp,
hình thành hình thức giao tiếp mới đó là giao tiếp công việc, loại giao tiếp này
phát triển mạnh vào năm trẻ lên hai và đầu năm thứ ba. Tất cả những giao lưu
tình cảm với người lớn trước đây không làm cho trẻ hài lòng nữa, lúc này trong
cuộc sống của trẻ hoạt động với đồ vật chiếm vị trí chủ đạo. Giao tiếp được diễn
ra dưới sự chi phối của hoạt động đó. Ở trẻ xuất hiện mong muốn được hợp tác
thực hành với người lớn, sự cộng tác này có ảnh hưởng rất lớn đối với đứa trẻ.

Lúc này, giao tiếp tham gia vào hoạt động thực hành của đứa trẻ và dường như
phục vụ cho “những nhu cầu công việc” của nó. Tất cả những gì mà trẻ chưa
làm được như lấy đồ vật, hoạt động với đồ vật...trẻ rất muốn người lớn cùng
tham gia và rất nhiều sự viện trợ của họ. Hành động với đồ vật của đứa trẻ trở
thành hành động cùng nhau với người lớn, trong đó yếu tố hỗ trợ của người lớn
giữ vai trò chủ đạo.
Nội dung cũng như nhu cầu hợp tác với người lớn trong phạm vi giao tếp
công việc tình huống bị thay đổi. Từ 1 tuổi đến 1,5 tuổi là giai đoạn tiền ngôn
ngữ, đứa trẻ có nhu cầu giúp đỡ trong hành động với đồ vật. Sau đó là giai đoạn
ngôn ngữ, đứa trẻ hướng đến sự cộng tác với người lớn. Nó không chỉ chờ đợi
sự giúp đỡ của người lớn mà nó muốn hành động như người lớn, nó để ý và làm
theo người lớn. Lúc đầu người lớn đóng vai trò giúp đỡ, người trợ lý của trẻ, sau
đó có vai trò là người làm mẫu, là người đánh giá những hành động làm theo của
trẻ. Nhờ đó, trẻ mới có thể nắm vững được những hành động chuyên biệt với các
đồ dùng, đồng thời nhờ sự hợp tác công việc với người lớn trẻ nắm được ngôn
ngữ và giúp cho sự hiểu biết của trẻ cũng được phát triển.
Bước vào tuổi mẫu giáo, ở trẻ xuất hiện hình thức giao tiếp mới với người
lớn. Nó mang tính dán tiếp và được lồng vào hoạt động nhận thức của trẻ.
24


M.I.Lixinna gọi là giao tiếp “hợp tác trí tuệ.”. Bởi dạng giao tiếp này có đặc
điểm hợp tác trong hoạt động nhận thức của người lớn. Giai đoạn này ngôn ngữ
đã xuất hiện và trở thành phương tiện giao tiếp chính thức. Xuất hiện đồng thời
với ngôn ngữ là sự ham hiểu biết, tính tò mò với rất nhiều câu hỏi được đặt ra
cần sự giải đáp của người lớn xung quanh các hiện tượng, sự vật và các mối
quan hệ của nó trong thế giới tự nhiên. Sự giải đáp của giáo viên trở thành động
lực giúp trẻ tích cực, chủ động trong quá trình giao tiếp nhận thức với người lớn.
Nhờ đó mà cuộc sống của trẻ được bổ sung thường xuyên và trở nên phong phú.
Song song với dạng giao tiếp nhận thức cùng người lớn là dạng giao tiếp

nhận thức ngoài tình huống. Loại giao tiếp này có ý nghĩa quan trọng với sự
phát triển tâm lý của trẻ mầm non. Trẻ 4 tuổi là thời kì trí tưởng tưởng phát triển
mạnh trẻ rất muốn được chia sẻ với người lớn những hình ảnh mà trẻ tưởng
tượng ra. Một câu chuyện, một hình ảnh hay một hành động đều được trẻ tái
hiện lại, Vẽ lên, tưởng tượng ra trong các hoạt động học tập, lao động, vui chơi
ở trường mầm non. Trong cái nhìn đó của trẻ, người lớn là sự thể hiện mẫu mực
hành vi, là chuẩn mực đạo đức trong việc xây dựng mối quan hệ với mọi người
xung quanh. Vì vậy, người lớn cần có thái độ nghiêm túc và tôn trọng những gì
trẻ thể hiện, tưởng tượng ra, luôn động viên, khích lệ trẻ giao tiếp và nó lên
những suy nghĩ ý tưởng của mình.
Như vậy, sự hình thành giao tiếp của trẻ với người lớn là chỉ số rất quan
trọng, bởi vì chính giao tiếp kéo theo yếu tố phát triển các chỉ số khác của sự
chuẩn bị cho trẻ học tập ở trường phổ thông.
Đặc điểm giao tiếp giữa trẻ với nhau: Khoảng 2 tuổi trở về trước, quan hệ
của đứa trẻ này với đứa trẻ khác giống như với đồ chơi hay đồ vật nào đó. Đứa trẻ
đối xử với bạn cùng tuổi như là đồ vật mà nó ưa thích. Nó tìm hiểu và sờ mó vào
bạn như sờ một đồ vật chứ không phải là một con người. Chẳng hạn như trẻ đánh
vào con gấu bông chẳng khác gì đánh vào một em bé ngồi cạnh. Trẻ chưa nhận
thức được em bé đó cũng là một con người như chính bảm thân mình. Trẻ không
quan tâm đến thái độ của các trẻ khác ngay cả khi chính bản thân trẻ gây phiền hà
đối với chúng. Nhưng ngay trong độ tuổi này người lớn có thể tạo điều kiện giáo
25


×