Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MARKETING ONLINE CHO CÔNG TY TNHH EVD THIẾT BỊ VÀ PHÁT TRIỂN CHẤT LƯỢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.73 KB, 48 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MARKETING
••❧

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
Phát triển hoạt động marketing online cho công ty
TNHH EVD thiết bị và phát triển chất lượng

Giảng viên hướng dẫn : TH.S NGUYỄN THỊ THU HIỀN
Sinh viên thực hiện
Lớp

: PHẠM THỊ THANH TUYẾT
: QUẢN TRỊ MARKETING 55

MSV

: 11134437

Hà Nội – 2017


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết

TÓM LƯỢC
Sự phát triển của mạng internet không chỉ mang lại cho đời sống xã hội
những tiện ích to lớn, đồng thời mở ra một cơ hội kinh doanh với thị trường vô cùng
rộng lớn. Minh chứng cho sự phát triển đó là doanh số của hoạt động kinh doanh trực
tuyến không ngừng tăng mạnh cả về quy mô và luôn dẫn đầu về tỉ lệ tăng trưởng. Với


tiềm năng to lớn đó, rất nhiều những doanh nghiệp, tập đoàn xuyên quốc gia đã ra đời
và phát triển trong tất cả các ngành, lĩnh vực, mang lại những mức lợi nhuận khổng lồ
cùng với khả năng mở rộng địa bàn kinh doanh dễ hơn bao giờ hết. Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu thế phát triển của thế giới khi nước ta luôn nằm trong top đầu
những nước có tỉ lệ tăng trưởng nhanh nhất về tỉ lệ và số lượng người sử dụng internet.
Cùng với sự phát triển đó dẫn đến sự thay đổi hành vi tiêu dùng của khách hàng, các
nhà marketer cũng phải thay đổi chiến lược marketing của doanh nghiệp để phù hợp
với xu thế đó, các hoạt động marketing online của doanh nghiệp ngày càng được ứng
dụng mạnh mẽ. Mặc dù đã có những kết quả tích cực, song không thể phủ nhận rằng
việc ứng dụng hoạt động marketing online ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập
như hệ thống viễn thông, hạ tầng kỹ thuật còn lạc hậu, yếu kém, trình độ của nhân viên
chưa cao so với yêu cầu của ngành nghề, các doanh nghiệp vẫn hoạt động theo tình
trạng hớt váng nổi mà chưa chưa thực sự chú trọng đầu tư lâu dài.... Đây là thực trạng
chung và cũng là tình trạng mà Công Ty TNHH EVD đang gặp phải trong quá trình
đẩy mạnh hoạt động marketing online của mình. Đó chính là lý do em quyết định lựa
chọn đề tài “ Phát triển hoạt động marketing online tại công ty TNHH EVD thiết bị và
phát triển chất lượng”
Qua đề tài khóa luận tốt nghiệp này, ngoài mong muốn được nâng cao nhận
thức, hiểu biết của bản thân về marketing online, em còn mong muốn những nghiên
cứu của mình có thể đóng góp phần nào cho quá trình cái thiện hoạt động marketing
online tại Công Ty TNHH EVD.

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 2


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết

LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp chính là kết quả của những kiến thức em tích lũy được
trong bốn năm học tập tại trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, và cả những kinh

nghiệp thực tế có được trong thời gian thực tập tại doanh nghiệp. Sự tận tình của các
thầy, cô cùng sự nhiệt tình của những anh chị đồng nghiệp trong Công Ty TNHH EVD
là những yếu tố vô cùng quan trọng giúp em hoàn thành bản khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn những thầy cô trong khoa Marketing trường đại học
Kinh Tế Quốc Dân đã tận tình giảng dạy, trang bị cho em những kiến thức quý báu
đồng thời tạo điều kiện cho em được thực tập và hoàn thành đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
Em cũng xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới cô giáo - Th.S Nguyễn Thị Thu Hiền,
cô đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình em thực hiện đề tài nghiên
cứu này. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ban lãnh đạo cùng toàn thể anh, chị tại
Công Ty TNHH EVD đã hướng dẫn, giúp đỡ, chia sẻ cũng như hết sức tạo điều kiện
cho em để có thể hoàn thành đề tài tốt nghiệp của mình.
Với thời gian nghiên cứu giới hạn cũng như trình độ và khả năng của bản thân
còn hạn chế do đó khoá luận của em chắc chắn vẫn còn nhiều sai sót. Kính mong các
thầy cô giáo góp ý, chỉ bảo để khoá luận của em trở nên hoàn thiện hơn và có giá trị
hơn về mặt lý luận và thực tiễn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 4 năm 2017
Sinh viên
Phạm Thị Thanh Tuyết

MỤC LỤC

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 3


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài

Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ như ngày nay thì
Internet có một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống cũng như các hoạt động kinh
tế xã hội. Theo tổ chức thống kê số liệu người dùng Internet quốc tế
(Internetworldstats), tính đến tháng 6/2015, Việt Nam có 45,6 triệu người dùng
internet, chiếm 48% dân số, với con số này Việt Nam đứng thứ 6 tại Châu Á, và 17/20
những quốc gia có mức độ người dùng lớn nhất thế giới.
Với việc internet trở nên ngày càng trở nên phồ biến trong đời sống của người
dân, thì hành vi tiêu dùng của khách hàng ngày càng thay đổi. Họ không ngồi hàng giờ
trước màn hình tivi để xem các mẫu quảng cáo, hay xem các mẩu quảng cáo trên
báo/tạp chí nữa…mà thay vào đó họ sử dụng internet như một công cụ hỗ trợ đắc lực.
Trước sự thay đổi hành vi của người tiêu dùng thì hoạt động marketing của các công ty
cũng thay đổi để bắt kịp xu hướng.
Công ty TNHH EVD Thiết bị và phát triển chất lượng là công ty kinh doanh các
thiết bị hàn cắt với mong muốn tìm ra giải phát để tăng sự nhận diện của khách hàng,
bắt kịp với xu thế phát triển của người tiêu dùng. Qua quá trình thực tập tại công ty tôi
nhận thấy rằng công ty chưa tận dụng được hết hiệu quả của hoạt động marketing trực
tuyến cho hoạt động marketing. Mặc dù công ty đã có website nhưng sự hiện diện của
website trong tâm chí người tiêu dùng còn hạn chế, công ty chủ yếu hoạt động kinh
doanh theo hướng truyền thống nhưng hành vi của người tiêu dùng đang dịch chuyển
theo hướng internet hóa.
Hiểu rõ được tầm quan trọng của marketing trên internet cho hoạt động kinh
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 4


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
doanh với doanh nghiệp EVD Thiết bị và phát triển chất lượng nên tôi xin được thực
hiện đề tài: “Phát triển hoạt động marketing online cho công ty TNHH EVD thiết bị
và phát triển chất lượng.”
Vấn đề nghiên cứu
Trước sự thay đổi về hành vi, phong cách tiêu dùng, khách hàng ngày càng sử

dụng internet là một công cụ đắc lực khi khi lựa chọn sản phẩm, và nhà cung cấp.
Trước sự thay đổi về hành vi tiêu dùng đó của khách hàng và mong muốn nâng cao
mức độ nhận biết thương hiệu, phát triển hoạt động kinh doanh, công ty EVD Thiết bị
và phát triển chất lượng cần phải xác định các kênh marketing online nào có thể tiếp
cận người tiêu dùng, và đưa ra các chiến lược marketing online để nâng cao hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Câu hỏi nghiên cứu
Các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra để giải quyết cho vấn đề nghiên cứu:
+ Nhu cầu, hành vi của người tiêu dùng về thì trường hàn cắt đang được diễn ra
như thế nào?
+ Các hoạt động kinh doanh nói dung, marketing online nói riêng của công ty
EVD như thế nào? (Các hoạt động đó có ưu điểm, nhược điểm gì?)
+ Các chiến lược, chiến thuật nào để giúp nâng cao hoạt động kinh doanh nói
chung và marketing online nói riền của công ty EVD.
Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu chung của đề tài là để xác định, đánh giá, đo lường các hoạt động kinh
doanh của công ty EVD nói chung và hoạt động marketing online nói riêng để từ đó
xây dựng các chiến lược marketing online cho công ty, giup công ty nâng cao mức độ
nhận diện thương hiệu và phát triển hoạt động kinh doanh.
Mục tiêu cụ thể
+ Xác định nhu cầu, hành vi của người tiêu dùng về thị trường hàn/cắt ở Việt
Nam hiện nay.
+ Phân tích, đánh giá về hoạt động kinh doanh của công ty EVD nói chung và
hoạt động marketing nói riêng.
+ Xây dựng chiến lược phát triển hoạt động marketing online cho công ty EVD.
Phạm vi nghiên cứu
+ Nội dung: Nghiên cứu về việc phát triển hoạt động marketing online của
Công ty TNHH EVD thiết bị và phát triển chất lượng.
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 5



SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
+ Không gian: Xem xét, tìm hiểu website cũng như các hoạt động marketing
online tại Website hay Công ty TNHH EVD thiết bị và phát triển chất lượng.
+ Thời gian: Nghiên cứu trong thời gian 2 tháng (từ 26/2 - 28/4)
Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần: Tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, hình vẽ,
danh mục từ viết tắt và phần mở đầu, kết cấu bài chuyên đề thực tập có 3 chương, bao
gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về marketing online và ứng dụng của
marketing online
Chương 2: Phân tích thực trạng và hiệu quả của ứng dụng marketing online vào
duy trì và phát triển thị trường tại công ty TNHH EVD
Chương 3: Đề xuất giải pháp về ứng dụng các công cụ marketing online trong
việc duy trì và mở rộng thị trường tại công ty TNHH EVD

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN DỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MARKETING ONLINE
VÀ ỨNG DỤNG CỦA MARKETING ONLINE
1.1 Những khái niệm cơ bản
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 6


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
1.1.1 Những khái niệm chung
Khái niệm marketing online
Sự phát triển mạnh mẽ của Internet dẫn đến sự ra dời của một thuật ngữ mới đó
là marketing online (hay còn được biết đến là electronic marketing, E-marketing, hay
internet marketing). Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu về marketing online dưới nhiều
góc nhìn của nhiều tác giả khác nhau, dưới đây là các định nghĩa về marketing online

của một số tác giả trên thế giới:
Theo Pilip Kotler – giáo sư marketing nổi tiếng của Mỹ định nghĩa : “Marketing
online là quá trình lập kế hoạch về sản phẩm, giá, phân phối và xúc tiến đối với sản
phẩm, dịch vụ và ý tưởng để đáp ứng nhu cầu của tổ chức và cá nhân - dựa trên các
phương tiện điện tử và Internet”.
Joel Reedy và đồng nghiệp định nghĩa marketing online như sau: Marketing
online bao gồm tất cả các hoạt động để thoả mãn nhu cầu và mong muốn của khách
hàng thông qua Internet và các phương tiện điện tử.
Một số định nghĩa khác về marketing online:
Marketing online là quá trình lập kế hoạch về sản phẩm, giá, phân phối và xúc
tiến đối với sản phẩm, dịch vụ và ý tưởng để đáp ứng nhu cầu của tổ chức và cá nhân
dựa trên các phương tiện điện tử và Internet.
Marketing online là hoạt động ứng dụng mạng Internet và các phương tiện điện
tử để tiến hành các hoạt động marketing nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức và
duy trì quan hệ khách hàng thông qua nâng cao hiểu biết về khách hang, các hoạt động
xúc tiến hướng mục tiêu và các dịch vụ qua mạng hướng tới thoả mãn nhu cầu của
khách hàng.
Theo Ghosh Shikhar và Toby Bloomburg thì marketing online là lĩnh vực tiến
hành hoạt động kinh doanh gắn liền với dòng vận chuyển sản phẩm từ người sản xuất
đến người tiêu dùng, dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và Internet.
Marketing online bao gồm tất cả các hoạt động để thoả mãn nhu cầu và mong muốn
của khách hàng thông qua Internet và các phương tiện điện tử. Marketing online là
việc ứng dụng mạng Internet và các phương tiện điện tử (web, e-mail, cơ sở dữ liệu,
multimedia, PDA...) để tiến hành các hoạt động marketing nhằm đạt được các mục
tiêu của tổ chức và duy trì quan hệ khách hàng thông qua việc nâng cao hiểu biết về
khách hàng (thông tin, hành vi, giá trị, mức độ trung thành... từ đó tiến hành các hoạt
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 7


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết

động xúc tiến hướng mục tiêu và các dịch vụ qua mạng hướng tới thoả mãn nhu cầu
của khách hàng.
Từ những cách tiếp cận với các quan điểm trên, có thể đưa ra một định nghĩa
chung cho marketing điện tử như sau: “Marketing online được hiểu là các hoạt động
marketing được tiến hành thông qua việc ứng dụng các công nghệ số trong các hoạt
động thương mại nhằm đạt được mục tiêu phát hiện nhu cầu, đưa sản phẩm/dịch vụ ra
thị trường và duy trì khách hàng thông qua việc tăng cường hành vi mua của khách
hàng.”
1.2 Một số lý thuyết về marketing online và các ứng dụng của marketing online
1.2.1 Đặc điểm của marketing online
Một là, thời gian hoạt động liên tục không bị gián đoạn
Thể hiện ở việc tiến hành hoạt động marketing trên Internet có thể loại bỏ
những trở ngại nhất định về sức người. Chương trình marketing thông thường chưa có
ứng dụng Internet, dù có hiệu quả đến đâu, cũng không thể phát huy tác dụng 24/24
giờ mỗi ngày. Nhưng điều đó lại hoàn toàn có thể đối với hoạt động marketing điện tử
vì nó có khả năng hoạt động liên tục tại mọi thời điểm, khai thác triệt để thời gian 24
giờ trong một ngày, bảy ngày trong một tuần, hoàn toàn không có khái niệm thời gian
chết (Death of Time). Ví dụ như hệ thống máy tính trên Internet có thể cung cấp dịch
vụ hỗ trợ khách hàng mọi lúc và mọi nơi. Các đơn đặt hàng sản phẩm hay dịch vụ có
thể được thoả mãn vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu. Do đó, marketing online có
một ưu điểm hơn hẳn so với marketing thông thường là nó đã khắc phục được trở ngại
của yếu tố thời gian và tận dụng tốt hơn nữa các cơ hội kinh doanh.
Hai là, tốc độ nhanh hơn
Tốc độ trong marketing online nhanh hơn nhiều so với marketing truyền thống,
đặc biệt là với hoạt động giao hàng của các loại hàng hóa số hóa, việc giao hàng được
thực hiện nhanh chóng, thuận tiện và không tốn kém chi phí đồng thời với đặc điểm
nổi bật của Internet, thông tin về sản phẩm dịch vụ cũng như thông tin về khuyến mại
của doanh nghiệp được tung ra thị trường nhanh hơn. Khách hàng tiếp cận những
thông tin này cũng nhanh hơn, doanh nghiệp dễ dàng và nhanh chóng nhận được thông
tin phản hồi từ phía khách hàng. Doanh nghiệp có thể tiếp nhận các phản hồi hay nhu

cầu của khách hàng (ngược lại) một cách dễ dàng, nhanh chóng, thuận tiện.
Ba là, không gian phạm vi toàn cầu
Marketing online có khả năng thâm nhập đến khắp mọi nơi trên toàn thế giới.
Thông qua Internet, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng quảng bá sản phẩm
của mình đến với người tiêu dùng Mỹ, EU, Nhật… với chi phí thấp và thời gian nhanh
nhất. Marketing online đã hoàn toàn vượt qua mọi trở ngại về khoảng cách địa lý, thị
trường trong marketing online không có giới hạn, cho phép doanh nghiệp khai thác
được triệt để cơ hội thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích còn ẩn chứa
những thách thức đối với doanh nghiệp. Khi khoảng cách về địa lý giữa các khu vực
thị trường được rút ngắn thì việc đánh giá các yếu tố của môi trường cạnh tranh cũng
trở nên khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Môi trường cạnh tranh càng trở nên gay gắt
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 8


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
hơn khi marketing online mở rộng ra phạm vi quốc tế. Chính vì vậy đòi hỏi các doanh
nghiệp phải luôn sáng suốt trong quá trình lập kế hoạch marketing online của mình.
Bốn là, đa dạng hóa sản phẩm
Khách hàng có thể tiếp cận nhiều sản phẩm và dịch vụ hơn. Với việc giới thiệu
sản phẩm và dịch vụ trên các cửa hàng ảo (Virtual Stores) ngày càng hoàn hảo, chỉ cần
ngồi ở nhà, trước máy vi tính kết nối Internet, không phải tốn công đi lại, khách hàng
vẫn có thể thực hiện việc mua sắm như tại các cửa hàng thật. Còn đối với nhà cung
cấp, họ cũng có thể cá biệt hóa sản phẩm phù hợp với các nhu cầu khác nhau của
khách hàng nhờ khả năng khai thác và chia sẻ thông tin qua Internet.
Năm là, khả năng tương tác cao và trở ngại của khâu giao dịch trung gian đã được
loại bỏ
Trong marketing truyền thống, để đến được với người tiêu dùng cuối cùng,
hàng hoá thường phải trải qua nhiều khâu trung gian như các nhà bán buôn, bán lẻ, đại
lý, môi giới...Trở ngại của hình thức phân phối này là doanh nghiệp không có được
mối quan hệ trực tiếp với người tiêu dùng nên thông tin phản hồi thường kém chính

xác và không đầy đủ, bởi vậy phản ứng của doanh nghiệp trước những biến động của
thị trường thường kém kịp thời. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải chia sẻ lợi nhuận thu
được cho các bên trung gian....Nhưng với marketing online, những cản trở bởi khâu
giao dịch trung gian đã hoàn toàn được loại bỏ. Doanh nghiệp và khách hàng giao dịch
trực tiếp với nhau dễ dàng và nhanh chóng hơn thông qua các website, gửi e-mail trực
tiếp, các diễn đàn thảo luận…
Sáu là, hàng hoá và dịch vụ số hoá
Khác với marketing thông thường, khách thể trong marketing online có thể là
hàng hoá và dịch vụ số hoá. Chúng thường được phân phối dưới các hình thức như:
các tài liệu (văn bản, sách báo...), các dữ liệu ( số liệu thống kê...), các thông tin tham
khảo hay các phần mềm máy tính...Các phần mềm, báo và đĩa CD âm nhạc rồi sẽ
không cần thiết phải đóng gói và phân phối tới các kho hàng, các kiốt bán hàng hay
đến nhà nữa, chúng có thể hoàn toàn được phân phối qua mạng Internet dưới dạng
hàng hoá số hoá (digital goods). Tuy còn hạn chế nhưng các ngành khác như dịch vụ
tư vấn, giải trí, ngân hàng, bảo hiểm, giáo dục và y tế... cũng đang sử dụng Internet để
làm thay đổi phương thức kinh doanh của họ. Những người đi nghỉ giờ đây có thể tìm
thấy thông tin về các thành phố mà họ dự định đến thăm trên các trang web, từ những
thông tin hướng dẫn giao thông, thời tiết cho đến các số điện thoại, địa chỉ....Những
khách sạn có thể mô tả về vị trí cùng với các bức ảnh về tiền sảnh, phòng khách và các
phòng ngủ của họ. Các hãng kinh doanh bán vé máy bay có thể cung cấp các công cụ
đặt chỗ thông qua các trang web cho khách hàng sử dụng...
1.2.2 Lợi ích và hạn chế của E-marketing
1.2.2.1 Lợi ích của E-marketing
Lợi ích đối với doanh nghiệp
Thứ nhất, giúp cho các doanh nghiệp có được các thông tin về thị trường và đối
tác nhanh nhất và ít tốn kém hơn so với markting truyền thống. Việc có được thông tin
nhanh chóng giúp cho doanh nghiệp hoạch định chiến lược marketing tối ưu, khai thác
kịp thời những cơ hội và hạn chế tối đa những thách thức của thị trường trong nước,
khu vực và quốc tế.
Thứ hai, marketing điện tử giúp cho quá trình chia sẻ thông tin giữa người mua

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 9


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
và người bán diễn ra dễ dàng hơn. Doanh nghiệp có thể nhanh chóng đưa ra các thông
tin về sản phẩm mới, các thông tin về khuyến mãi, các chương trình xúc tiến và các
thông báo thay đổi của mình đến khách hàng nhanh hơn. Đồng thời, khách hàng có thể
dễ dàng có được các thông tin này vào bất cứ lúc nào, giúp cho việc tìm hiểu và thu
thập các thông tin về doanh nghiệp, các sản phẩm và các chương trình xúc tiến của
doanh nghiệp hiệu quả và đầy đủ hơn.
Thứ ba, marketing online giúp doanh nghiệp giảm được nhiều chi phí như giảm
thiểu các chi phí bán hàng và giao dịch. Thông qua Internet, một nhân viên bán hàng
có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng. Các catalogue điện tử (electronic
catalogue) trên website phong phú hơn nhiều và thường xuyên được cập nhật, trong
khi các catalogue in ấn có khuôn khổ bị giới hạn và rất nhanh lỗi thời. Theo thống kê,
chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng khoảng 5% chi phí qua giao dịch chuyển phát
nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng khoảng 10% đến 20% chi phí
thanh toán thông thường. Ngoài ra, việc giao dịch nhanh chóng, sớm nắm bắt được
nhu cầu còn giúp cắt giảm được chi phí lưu kho, cũng như kịp thời thay đổi phương án
sản phẩm, bám sát được với nhu cầu của thị trường. Điều này đặc biệt có ý nghĩa to
lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng tươi sống như rau quả, thủy hải
sản... Ngoài ra các chi phí quảng cáo, tổ chức hội chợ xúc tiến thương mại, trưng bày
giới thiệu sản phẩm, các văn phòng không giấy tờ (paperless office) chiếm diện tích
nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần vì không giấy
tờ, không in ấn. Như vậy, các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công
đoạn giấy tờ, có thể tập trung vào khâu nghiên cứu và phát triển, đưa đến các lợi ích to
lớn lâu dài cho doanh nghiệp.
Thứ tư, marketing điện tử đã loại bỏ những trở ngại về mặt không gian và thời
gian. Thông qua mạng Internet, các thành viên tham gia có thể giao dịch một cách trực
tiếp (liên lạc “trực tuyến”) và liên tục với nhau như không có khoảng cách về mặt địa

lý và thời gian nữa. Nhờ đó, sự hợp tác và quản lý đều được tiến hành một cách nhanh
chóng và liên tục. Các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát hiện nhanh
chóng trên phạm vi toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới và có nhiều cơ hội hơn cho
doanh nghiệp lựa chọn.
Thứ năm, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhiều cơ hội chưa từng có để tiến
hành buôn bán với thị trường nước ngoài. Chi phí giao dịch thấp cũng giúp tạo ra cơ
hội cho các cộng đồng ở vùng sâu vùng xa, nông thôn cải thiện các cơ sở kinh tế.
Internet có thể giúp người nông dân, các doanh nghiệp nhỏ và các cộng đồng giới
thiệu hình ảnh về mình ra toàn thế giới.
Thứ sáu, cá biệt hóa sản phẩm đến từng khách hàng. Với công nghệ Internet,
doanh nghiệp có thể đáp ứng yêu cầu của cộng đồng người tiêu dùng rộng lớn. Đồng
thời vẫn có thể “cá nhân hoá” từng khách hàng theo hình thức marketing một tới một
(Marketing One to One).
Ngoài ra, marketing online còn giúp cho các doanh nghiệp xây dựng được các
cơ sở dữ liệu thông tin rất phong phú, làm nền tảng cho loại hình giao dịch “một tới
một” mà các hãng hàng không hiện nay đang áp dụng rất phổ biến.
Lợi ích với khách hàng
Sự liên kết
Công nghệ cho phép người dùng kết nối với nhau dễ dàng hơn, có thể là qua email, tin nhắn hoặc qua các nền tảng xã hội như facebook, twitter…Người tiêu dùng
có thể tương tác với những người có cùng sở thích và quan điểm trên toàn thế giới, bất
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 10


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
chấp sự khác biệt về thời gian, hay khu vực địa lý. Hoạt động tương tác giữa bạn
bè/đồng nghiệp giúp thúc đẩy sự phát triển của các mạng xã hội và các cộng đồng ảo.
Người tiêu dùng đăng ý kiến của bản thân lên mạng để tất cả mọi người có thể thấy và
xin ý kiến của mọi người trước khi quyết định mua sản phẩm/dịch vụ.
San phẳng sân chơi thông tin
Với công nghệ số, nội dung có thể được tạo ra, xuất bản, truy cập và tiêu thụ

một cách nhanh chóng và dễ dàng. Kết quả là phạm vi tin tức, ý kiến và thông tin có
sẵn cho người tiêu dùng trở nên rộng hơn và sâu hơn bao giờ hết. Người tiêu dùng có
thể tự so sánh, đối chiếu các sản phẩm/dịch vụ trước khi mua. Kiến thức là sức
mạnh…và công nghệ đang làm thay đổi cán cân quyền lực hướng đến sự có lợi cho
người tiêu dùng. Khách hàng có thể dễ dàng tìm được thông tin nhanh chóng và dễ
dàng thông qua các công cụ tìm kiếm; đồng thời các thông tin đa phương tiện (âm
thanh, hình ảnh) giúp quảng bá, giới thiệu sản phẩm tốt hơn.
Sự nổi lên của thị trường người tiêu dùng kiêm nhà sản xuất
Người tiêu dùng trực tuyến đang ngày càng tham gia nhiều hơn vào việc tạo ra
các sản phẩm và dịch vụ mà họ mua, thay đổi cán cân từ nhà sản xuất sang người tiêu
dùng. Họ để nhà sản xuất biết những gì họ muốn trong điều kiện chắc chắn: có sự
tương tác mạnh mẽ giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất. Khách hàng tham gia nhiều
hơn vào việc làm rõ, sáng tạo và tùy biến các sản phẩm sao cho phù hợp với yêu cầu
của họ và có thể hình thành hoặc tạo nên những trải nghiệm và thông tin mà họ nhận
được từ nhà sản xuất.
Theo yêu cầu, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu
Khi công nghệ số trở nên phổ biến hơn trong cuộc sống của mọi người, khả
năng tăng tốc tương ứng của quy trình kinh doanh có nghĩa là người tiêu dùng có thể
thỏa mãn các nhu cầu của họ nhanh chóng hơn, dễ dàng hơn và với ít các rào cản hơn.
Trong nền kinh tế số, những mối quan tâm như thời gian, địa lý, địa điểm, và không
gian lưu trữ vật lý đang dần trở nên không thích hợp. Đó là thế giới của sự hài lòng
gần như tức thời - và ngày càng nhiều người dùng nhận được nó, họ càng muốn có nó
ngay lập tức.
1.2.2.2 Hạn chế của marketing online
Hạn chế về kỹ thuật
Chưa có tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn và độ tin cậy: Một vấn đề đặt
ra mới marketing online là rất khó để xây dựng được tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng
chính vì vậy khi các doanh nghiệp sử dụng marketing online thường khó có được sự
tin cậy tuyệt đối ở phía người sử dụng.
Tốc độ đường truyền Internet vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người dùng:

Không chỉ trong marketing điện tử mà kể cả trong các ứng dụng cần tới Internet thì
vấn đề tốc độ truy cập luôn được người dùng quan tâm. Trong thời đại công nghệ số,
thời gian của người tiêu dùng là tài sản quý, nên họ muốn thông tin được định dạng
sao cho họ có thể lướt qua để xác định mức độ phù hợp trước khi đầu tư thời gian
kiểm tra chi tiết. Vì vậy, các chiến lược marketing của doanh nghiệp không đáp ứng
được giá trị thời gian cũng như giá trị tiền bạc của người tiêu dùng.
Tính minh bạch và tức thời của internet không loại trừ khái niệm về sự trung
thành với thương hiệu, và nó cũng làm suy yếu đi khái niệm này. Trong một môi
trường mà người tiêu dùng ngồi một chỗ có thể tiếp cận nhiều các thương hiệu và so
sánh các thương hiệu với nhau thì giới hạn trung thành là rất mong manh.
Chi phí truy cập Internet vẫn còn cao: Hiện nay trên thế giới việc phổ cập
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 11


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
Internet đã không còn là vấn đề xa xôi, tuy nhiên ở mỗi quốc gia khác nhau thì mức
phí mà người tiêu dùng phải trả cho việc truy cập Internet cũng khác nhau. Đặc biệt là
với các nước chưa phát triển chi phí này là khá cao so với thu nhập của họ.
Thực hiện các đơn đặt hàng trong marketing online đòi hỏi phải có hệ thống
kho hàng tự động lớn: Để xây dựng được một hệ thống kho hàng tự động yêu cầu
doanh nghiệp phải có đầy đủ chi phí về vốn, kĩ thuật cũng như con người nhưng không
phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được các yêu cầu trên chính về thế điều này làm
cản trợ khả năng cung cấp hàng hóa của doanh nghiệp đến người tiêu dùng.
Khó khăn khi kết hợp các phần mềm marketing online với các phần mềm ứng
dụng và các cơ sở dữ liệu truyền thống.
Hạn chế về thương mại
An ninh và riêng tư là hai cản trở về tâm lý đối với người tham gia marketing
online: Vấn đề bảo mật về thông tin luôn là vấn đề được các doanh nghiệp cũng như
người tiêu dùng quan tâm. Đối với doanh nghiệp tham gia marketing online thì vấn đề
an ninh có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, một phần

ảnh hưởng đến cạnh tranh một phần sẽ ảnh hưởng đến thương hiệu của doanh nghiệp
đó. Còn đối với người tiêu dùng, họ luôn đặt ra yêu cầu rằng thông tin của họ phải
luôn được bảo mật, tránh những vấn đề bị bán thông tin hay làm phiền.
Thiếu lòng tin vào marketing online và người bán hàng: Lòng tin vào sản phẩm
luôn là cơ sở quan trọng giúp khách hàng đưa ra quyết định mua. Nhưng môi trường
internet hiện nay không tạo được niềm tin đủ lớn cho khách hàng để nhanh chóng đưa
ra quyết định mua, đặc biệt đối với marketing online điều đó càng trở nên khó khăn
hơn khi mà người tiêu dùng không gặp trực tiếp người bán mà họ chỉ nắm được thông
tin sản phẩm thông qua website hoặc diễn đàn, họ sẽ đặt ra các nghi ngờ về sản phẩm
và về doanh nghiệp trước khi đưa ra quyết định mua cuối cùng của mình.
Nhiều vấn đề về luật, chính sách, thuế chưa được làm rõ: Hiện này thì luật pháp
của các quốc gia về thương mại điện tử đã được đặt ra. Nhưng để có thể kiểm soát
được điều này còn là một vấn đề khó khăn đối với các nhà quản lí. Chính vì vậy các
điều luật, chính sách được áp dụng vào marketing online khó để cụ thể được, ngoài ra
thì việc người bán và người mua hàng không nắm được các điều luật và chính sách
cũng tạo ra nhiều khó khăn trong giao dịch điện tử.
Chuyển đổi thói quen tiêu dùng cần thời gian: Con người luôn có thói quen mua
sắm là khi họ tin tưởng chắc chắn vào sản phẩm rồi mới tiến hành mua hàng, chính vì
vậy việc chuyển đổi thói quen của người tiêu dùng từ mua sắm truyền thống sang mua
sắm online là rất khó khăn và cần nhiều thời gian cũng như những nỗ lực để tạo ra
lòng tin từ phía nhà kinh doanh.
Số lượng gian lận ngày càng tăng do đặc thù của marketing online: Vấn đề gian
lận trong thương mại luôn là vấn đề nhức nhối, đặc biệt là trên môi trường mạng
internet và càng ngày càng nhiều hình thức tinh vi hơn. Chính vì thế khi số lượng gian
lận trong marketing online tăng lên nó tạo ra khó khăn cho doanh nghiệp trong việc
tiếp cận và tạo niềm tin cho khách hàng của mình.
Trong một môi trường mà ở đó người tiêu dùng có thể kết nối với nhau một
cách dễ dàng và nhanh chóng, thì chỉ cần một thông tin bất lợi của doanh nghiệp sẽ
được lan truyền một cách mạnh mẽ. Doanh nghiệp nếu không kiểm soát hoạt động
kinh doanh tốt, kiểm soát các luồng thông tin bên ngoài và các phản ứng trước các

luồng thông tin không nhanh và hiệu quả thì tác động rất lớn đến doanh nghiệp.
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 12


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
1.2.3 Ứng dụng của marketing online
1.2.3.1 Quảng cáo trực tuyến
Marketing online là các phương án quảng cáo trực tuyến để website của doanh
nghiệp có đông khách. Marketing một sản phẩm trực tuyến đồng nghĩa với việc trang
web đó là phương tiện duy nhất để khách hàng liên hệ với người bán.
Quảng cáo qua thư điện tử
Là một loại hình quảng cáo trực tuyến rẻ nhất, quảng cáo qua thư điện tử
thường chỉ đặt một nội dung quảng cáo ngắn được lồng vào nội dung của các doanh
nghiệp khác. Những nhà quảng cáo mua khoảng không gian trong thư điện tử mà được
tài trợ bởi những doanh nghiệp khác.
Quảng cáo không dây
Là hình thức quảng cáo sử dụng banner hoặc các nội dung trên website mà
người sử dụng đang truy cập thông qua các phương tiện thông tin di động. Các quảng
cáo không dây thường sử dụng mô hình quảng cáo dạng kéo. Tuy nhiên, việc quảng
cáo này có thể bị ảnh hưởng bởi các vấn đề như băng thông rộng không dây hiện nay
còn khá hạn chế, sẽ làm ảnh hưởng đến tốc độ tải các thông tin được yêu cầu. Với kích
cỡ màn hình nhỏ của các phương tiện truy cập không dây gây nên hạn chế lớn về kích
cỡ các chương trình quảng cáo. Và với việc xem quảng cáo này đa số người sử dụng di
đông phải cho các dịch vụ theo đơn vị thời gian trong khi kết nối truy cập Internet và
rất nhiều người không muốn trả tiền cho thời gian mà họ nhận các chương trình quảng
cáo.
Đặt banner quảng cáo
Là hình thức quảng cáo mà doanh nghiệp đưa ra các thông điệp quảng cáo qua
website của một bên thứ ba dưới dạng văn bản, đồ họa, âm thanh, các đường link, siêu
liên kết… Các banner bao gồm 5 mô hình quảng cáo sau: mô hình quảng cáo tương

tác; mô hình quảng cáo tài trợ; mô hình quảng cáo lựa chọn vị trí; mô hình quảng cáo
tận dụng kẽ hở thời gian; mô hình quảng cáo shoskele.
SEO: Seo hay Search Engine Optimization (Tối ưu trang web trên công cụ tìm
kiếm) là tối ưu cho máy tìm kiếm, hay ngầm hiểu là tối ưu hóa website cho Google là
bài toán làm thế nào để tối ưu khả năng người dùng tìm đến một website bằng việc sử
dụng công cụ tìm kiếm của Google. Hay nói cách khác, SEO là tập hợp những phương
pháp nhằm nâng hạng (ranking) của một website trong danh sách trả về của Google,
và nhờ đó người dùng sẽ dễ dàng tìm thấy website được SEO hơn khi tìm kiếm trên
Google.
Đặc điểm: Thực chất SEO là phương pháp nâng hạng dựa trên những hiểu biết
sâu sắc về nguyên tắc đánh giá thứ hạng website của Google. - SEO là một trong
những con đường chính cho kinh doanh trực tuyến để cố gắng lượng người truy cập
trang web. SEO không giới hạn trong tìm kiếm dạng văn bản mà còn trong tìm kiếm
ảnh, sách, nhạc và các tìm kiếm ngành dọc khác để cải thiện vị trí một trang web trên
một công cụ tìm kiếm hoặc số truy cập. Cho dù hiểu cách nào đi nữa thì SEO là công
cụ hỗ trợ đắc lực cho marketing điện tử. SEO tạo sự tin tưởng và làm SEO thể hiện sự
chuyên nghiệp, đẳng cấp của website.
Quảng cáo trả tiền theo click (CPC)
Xu hướng hiện nay là quảng cáo trả tiền theo click của người dùng. Để tham gia
quảng cáo CPC cần đăng kí một tài khoản với các công ty quảng cáo CPC (Google,
Yahoo,…) chọn các từ khóa thích hợp với sản phẩm, các công ty này sẽ đưa đường
link website đến những khách hàng tiềm năng thông qua từ khóa. Do đó, cần chọn một
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 13


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
bộ từ khóa phù hợp với sản phẩm. Không nên chọn từ quá chung chung, ít người tìm
kiếm dẫn đến lãng phí tiền để thu hút khách hàng có nhu cầu đến với website của
mình.
1.2.3.2Xúc tiến bán online

Xúc tiến bán điện tử là hình thức khuyến khích ngắn hạn dưới hoạt động tặng
quà hoặc tặng tiền giúp đẩy nhanh quá trình đưa sản phẩm từ nhà sản xuất tới tay
người tiêu dùng.
Các hoạt động chủ yếu của xúc tiến bán hàng: Phát coupon, hạ giá, sản phẩm
mẫu, các chương trình khuyến mại khác như thi đua có thưởng và giải thưởng. Các
nhà phân tích thị trường nhận thấy việc xây dựng các chương trình xúc tiến bán qua
Internet có tỉ lệ hồi đáp cao gấp ba đến năm lần so với xúc tiến bán truyền thống.
Trong khi hầu hết các chương trình xúc tiến bán ngoại tuyến đều hướng đến những
doanh nghiệp trong kênh marketing, thì xúc tiến online hướng trực tiếp đến người tiêu
dùng. Mục tiêu của xúc tiến bán điện tử bao gồm xây dựng thương hiệu, xây dựng các
cơ sở dữ liệu và hỗ trợ cho hoạt động bán hàng trực trực tuyến và ngoại tuyến tăng lên.
Sử dụng coupon: Cung cấp các coupons là một hình thức kinh doanh trực tuyến
phổ biến mà các doanh nghiệp hiện nay thường áp dụng. Các doanh nghiệp sử dụng
coupon điện tử cũng gửi các bản thông báo qua thư điện tử khi mà những coupon mới
xuất hiện trên trang web, những nỗ lực này nhằm xây dựng lòng trung thành của khách
hàng với thương hiệu.
Khuyến khích dùng thử hàng mẫu: Một vài trang web cho phép người sử dụng
dùng thử các sản phẩm số hóa của mình trước khi họ mua hàng. Rất nhiều các doanh
nghiệp phần mềm cung cấp dịch vụ tải miễn phí một đoạn chương trình trong các phần
mềm của mình, tuy nhiên nó bị giới hạn thời gian sử dụng sau đó người sử dụng lựa
chọn việc mua các phần mềm này.
Hàng khuyến mại: Rất nhiều các trang web tổ chức các hoạt động khuyến mại,
thi đua có thưởng và giải thưởng để kéo một số lượng lớn người sử dụng đến với họ và
giữ họ quay lại với trang web. Các cuộc thi có thưởng yêu cầu các kĩ năng trong khi
các chương trình phần thưởng chỉ có một cơ hội duy nhất dành cho người chiến thắng.
Các chương trình phần thưởng phải luôn được thay đổi thường xuyên, những người sử
dụng sẽ quay trở lại trang web để tìm kiếm cơ hội chiến thắng mới cho mình.
1.2.3.3 Marketing online trực tiếp
Marketing online trực tiếp bao gồm tất cả các hoạt động truyền thông trực tiếp
đến người nhận là khách hàng của doanh nghiệp được sử dụng để giúp doanh nghiệp

nhận được những phản ứng đáp lại dưới hình thức đơn đặt hàng, lời yêu cầu cung cấp
thêm thông tin, hay một cuộc đến thăm gian hàng của doanh nghiệp nhằm mục đích
mua sản phẩm, dịch vụ đặc thù của doanh nghiệp.
Các hoạt động marketing trực tiếp:
Email marketing
Các doanh nghiệp có thể sử dụng email gửi đi để thông báo, để gửi lời chào
hàng xúc tiến, hoặc để truyền thông các vấn đề quan trọng và có liên quan đến các
nhân vật hữu quan. Rất nhiều doanh nghiệp đã sử dụng biện pháp gửi thông báo định
kì bằng email- một công cụ tuyệt vời cho việc giao tiếp với khách hàng. Thư thông báo
qua email ngày càng được sử dụng rộng rãi vì nó cung cấp những lợi ích: tên doanh
nghiệp gửi email được ghi rõ ràng và đầy đủ; cá nhân hóa hoạt động truyền thông với
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 14


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
những nội dung được biến đổi cho phù hợp với nhu cầu; chỉ ra cho người nhận đường
link để quay lại với website của doanh nghiệp; người nhận có thể chuyển tiếp email
cho bạn bè của mình… Ngoài ra việc gửi email còn có những ưu điểm như không mất
bưu phí và các phí in, đưa ra cách thức thuận tện và tính ngay lập tức cho những phản
ứng đáp lại trực tiếp, email có thể tự động gửi mail đã được cá nhân hóa theo từng đối
tượng sử dụng để đáp ứng được những nhu cầu của họ.
Marketing lan truyền
Marketing lan truyền là hoạt động marketing sử dụng những mạng xã hội sẵn có
để tác động và làm tăng cường sự nhận biết nhãn hiệu của công chúng, thông qua các
quá trình tự nhân bản của virus, tương tự như quá trình nhân bản của virus.
Email opt-in và opt-out
Khi thuê các danh sách địa chỉ email từ những nhà môi giới danh dách, những
nhà phân tích thị trường nên tìm kiếm những danh sách mà đảm bảo 100% đó là optin. Opt-in được hiểu là việc người sử dụng đồng ý tự nguyện nhận các email thương
mại về những chủ đề phù hợp với quan tâm, sở thích của họ. Người sử dụng website
có rất nhiều cách để dễ dàng opt-in, viết lại các địa chỉ tại các trang web, người sử

dụng có thể tìm thấy một mục nhỏ ghi rõ là muốn nhận email của công ty, click vào đó
và điền địa chỉ email của mình. Với phương pháp này, những nhà phân tích thị trường
đang chuyển đổi các chi phí cho hoạt động marketing sang cho người tiêu dùng dưới
hình thức phần thưởng thay cho việc dùng chi phí này để mua không gian cho quảng
cáo.
Opt- out là việc người sử dụng không muốn tiếp tục nhận email của doanh
nghiệp nữa. Họ sẽ click vào biểu tượng không nhận thư nằm trong nội dung thư điện
tử mà doanh nghiệp gửi đến cho họ. Với việc sử dụng opt-out, doanh nghiệp sẽ biết
chắc chắn được người này muốn hay không muốn tiếp tục nhận thư điện tử của mình
để đảm bảo hiệu quả cao nhất của email marketing.
Mobile-marketing
Mobile Marketing là việc sử dụng các phương tiện di động như một kênh giao
tiếp và truyền thông giữa thương hiệu và người tiêu dùng.
Với sự phát triển mạnh mẽ của các dòng điện thoại thông minh ngày nay, những
chiếc điện thoại có thể kết nối internet dễ dàng thông qua wifi hoặc 3G, điều này mở
một cơ hội rất lớn cho thị trường mobile-marketing bởi số lượng người sở hữu
smartphone không ngừng tăng mạnh và thời gian sử dụng điện thoại di động đang có
xu hướng cao hơn máy vi tính.
Những loại hình mobile-marketing phổ biến hiện nay:
SMS marketing
Là tin nhắn dạng văn bản ngắn được gửi từ người sử dụng này đến người sử
dụng khác qua Internet, qua điện thoại di động hoặc qua PDA. SMS sử dụng công
nghệ lưu và gửi lại tin nhắn trong vài ngày, thường thu hút những người sử dụng di
động bởi họ có thể trao đổi thông thông tin nhanh chóng mà chi phí lại khá rẻ. Khi
người sử dụng gửi những tin nhắn ngắn dạng văn bản, họ phải trả phí cho thời gian sử
dụng qua điện thoại di động, nhưng chi phí này vẫn còn là nhỏ nếu so sánh với việc sử
dụng điện thoại để nói chuyện. SMS rất dễ dàng bởi người sử dụng không phải mở thư
điện tử hay các chương trình phần mềm khác để gửi hay nhận thông tin. Thay vào đó,
người sử dụng có thể soạn các tin nhắn qua điện thoại di động.
MMS marketing

Cùng với sự phát triển công nghệ sản xuất điện thoại thông minh thì những ứng
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 15


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
dụng trong nhắn tin đa phương tiện – MMS không còn bị hạn chế như trước nữa. Việc
gửi tin nhắn bằng âm thanh, hình ảnh hay cả đoạn video tới khách hàng được thực hiện
dễ dàng hơn bao giờ, đồng thời mang tới sự mới mẻ về thông điệp, gia tăng nhận biết
về thương hiệu và thu hút hơn sự chú ý của khách hàng. Việc sử dụng dịch vụ MMS
hiện nay đặc biệt hiệu quả trong chiến dịch marketing lan tỏa với những trò chơi, hình
ảnh hay những chương trình khuyễn mãi hấp dẫn
Trò chơi di động
Người dùng thiết bị di động tải và cài đặt một trò chơi trực tuyến về máy điện
thoại. Khi sử dụng, các banner quảng cáo sẽ được hiển thị trước hoặc sau khi trò chơi
kết thúc về một sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Những nhà lập trình trò chơi di động
cho phép các doanh nghiệp quảng cáo trên sản phẩm của mình và thu tiền của họ.
Ứng dụng trên di động – mobile App
Các doanh nghiệp hoặc cá nhân có thể tạo các ứng dụng sử dụng trên thiết bị di
động nhằm thu hút người dùng cài đặt và sử dụng nó. Thông qua việc người dùng sử
dụng các ứng dụng mà bạn tạo ra, bạn có thể truyền tải thông tin quảng cáo sản phẩm,
dịch vụ của mình trên những ứng dụng này.
Quảng cáo qua bluetooth
Tính đến nay, số người sở hữu thiết bị điện tử có kết nối bluetooth như điện
thoại, laptop, máy nghe nhạc... lên tới hàng trăm triệu người nên nó cũng mở ra cơ hội
vô cùng lớn cho các doanh nghiệp muốn thực hiện marketing qua bluetooth. Với công
nghệ hiện nay, thông qua bluetooth người dùng có thể download coupon giảm giá,
video ngắn hoặc các file nhạc, hoặc kết nối với thiết bị khác qua kết nối P2P. Chỉ cần
đặt một điểm kết nối bluetooth là nó có thể tự động gửi kết nối tới các thiết bị khác và
gửi tới họ những thông tin quảng cáo của doanh nghiệp. Theo như báo cáo của hãng
quảng cáo Prime Point Media thì tỉ lệ người tiêu dùng phản hồi rất cao, rơi vào khoảng

15 – 20%. Điều này minh chứng cho tiềm năng cực hữu ích của loại hình quảng cáo
này.
1.2.3.4 Marketing quan hệ công chúng
Marketing quan hệ công chúng là hoạt động bao gồm một loạt các hành động
được thực hiện nhằm tạo cái nhìn tích cực và thiện chí về hình ảnh sản phẩm, dịch vụ
và công ty với các đối tượng có liên quan đến doanh nghiệp. Mục tiêu của marketing
quan hệ công chúng là quảng bá thương hiệu và tổ chức các chương trình sự kiện
nhằm tạo được sự ủng hộ tích cực từ phía các nhân vật hữu quan. Quan hệ công chúng
bao gồm các hoạt động mà ảnh hưởng tới các ý kiến chung và tạo ra sự tín nhiệm cho
một tổ chức nhất định. Marketing quan hệ công chúng online sử dụng công nghệ
Internet bao gồm ba công cụ chủ yếu sau:
Xây dựng nội dung trên website của doanh nghiệp: Mỗi một tổ chức, một doanh
nghiệp hay một website đều được coi là một công cụ marketing quan hệ công chúng
bởi vì nó cung cấp thông tin cần thiết như là những tài liệu cung cấp thông tin quảng
cáo trực tuyến, trong đó bao gồm những thông tin về công ty và về sản phẩm của
doanh nghiệp. Mặc dù doanh nghiệp cũng phải trả tiền cho việc xây dựng và duy trì
trang web nhưng tự bản thân website không được coi là hoạt động quảng cáo. Các
trang thông tin về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sử dụng chỉ để cung cấp thông
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 16


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
tin cho khách hàng về các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Những lợi thế khi sử
dụng trang web cho việc cung cấp các thông tin về sản phẩm bao gồm: sử dụng
website có chi phí thấp hơn so với việc tạo ra các tài liệu giới thiệu bằng giấy in; các
thông tin về sản phẩm được cập nhật thường xuyên theo cơ sở dữ liệu của doanh
nghiệp vì các nội dung của trang web có thể được thay đổi dễ dàng; trang web có thể
giúp cho những người muốn tìm những sản phẩm cụ thể một cách nhanh chóng và dễ
dàng.
Xây dựng cộng đồng trực tuyến: Rất nhiều trang web xây dựng cộng đồng trực

tuyến thông qua các chatroom, các nhóm thảo luận, và các sự kiện trực tuyến. Cộng
đồng những nhóm người sử dụng trực tuyến có cùng sở thích đến từ nhiều vùng địa lí
khác nhau đều có triển vọng sẽ được mang lại sự thỏa mãn. Điều này bao gồm cả cộng
đồng kinh tế cũng như những nhóm người tiêu dùng. Cộng đồng trực tuyến yêu cầu
lập ra một bảng thông tin điện tử để giúp người sử dụng có thể đưa lên những thông
điệp, thông tin dưới dạng thư điện tử trên những chủ đề đã được chọn sẵn để cho
những người sử dụng khác có thể đọc được… Trao đổi qua thư điện tử là hình thức
nhóm thảo luận qua thư điện tử với những người đăng kí thành viên thường xuyên.
Xây dựng các sự kiện trực tuyến: Các sự kiện trực tuyến được tạo ra để tập hợp
những sở thích và sự quan tâm của người sử dụng và thu hút số lượng người đến với
trang web. Doanh nghiệp có thể tổ chức các chương trình, sự kiện trực tuyến thông
qua các buổi thảo luận, hội thảo trực tuyến nhằm thu hút khách hàng điện tử trực tuyến
tiền năng và khách hàng điện tử hiện tại, từ đó hiểu rõ hơn nhu cầu của họ.

CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA ỨNG
DỤNG MARKETING ONLINE VÀO DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG CỦA CÔNG TY TNHH EVD
2.1 Tổng quan về công ty TNHH EVD
2.1.1 Quá trình hình thành và lĩnh vực hoạt động
- Tên đầy đủ: Công ty trách nhiệm hữu hạn EVD thiết bị và phát triển chất lượng
- Tên giao dịch quốc tế: Equipments and Values Development.
- Tên viết tắt: EVD EQUIPMENT Co, Ltd
- Mã số thuế: 0105318470
- Địa chỉ: Tòa Nhà EVD, Số 431 Tam Trinh, Hoàng Mai, Hà Nội , Việt Nam
- Số điện thoại: (04) 39715287/ 39716343
- Số fax: 04.39873898
- Email:

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 17



SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết

-

Logo:
Triết lý kinh doanh: Đối tác tin cậy trong công việc của bạn
Năm 1993, thương hiệu thiết bị và vật liệu hàn cắt hàng đầu thế giới ESAB

thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Ngày 4/11/1998: Thành lập Công ty Thiết bị và Phát triển chất lượng EVD
(theo giấy phép số 3802 GP/TLDN của UBND Thành phố Hà Nội) thay thế văn
phòng đại diện trở thành Nhà phân phối chính thức của ESAB tại Việt Nam.
19/5/2011:Công ty TNHH EVD Thiết bị và Phát triển chất lượng được tách ra
chuyên kinh doanh trong lĩnh vực hàn cắt. Sau 15 năm hoạt động, công ty EVD đã
phát triển kinh doanh thêm nhiều lĩnh vực khác, mang đến nhiều dịch vụ và sản phẩm
phân phối tới khách hàng trên phạm vi rộng hơn cả về kỹ thuật, kinh tế và dịch vụ sau
bán hàng. Công ty luôn nỗ lực để cung cấp các sản phẩm và giải pháp tốt nhất cho
khách hàng.

Lĩnh vực kinh doanh
Những lĩnh vực chính công ty EVD đang hoạt động kinh doanh:
-

Đại diện cho hãng ESAB tại Việt Nam: Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ

trong lĩnh vực hàn và cắt kim loại.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty
2.1.2.1

Sơ đồ bộ máy của công ty

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 18


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết

Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch công ty: Ông Trần Đình Khang
Nhân danh chủ sở hữu tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
công ty; có quyền nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty;
chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ sở hữu công ty về việc thực hiện các quyền và
nhiệm vụ được giao theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
Giám đốc: Ông Nguyễn Minh Giáp
Tổ chức thực hiện quyết định của Chủ tịch công ty; quyết định các vấn đề liên
quan đến hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty; tổ chức thực hiện kế hoạch
kinh doanh và phương án đầu tư của công ty; ban hành quy chế quản lý nội bộ công ty;
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức
danh thuộc thẩm quyền của Chủ tịch công ty; ký kết hợp đồng nhân danh công ty, trừ
trường hợp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch công ty; kiến nghị phương án cơ cấu tổ
chức công ty; trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên Chủ tịch công ty; kiến
nghị phương án sử dụng lợi nhuận hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh; tuyển dụng lao
động.
Phòng kinh doanh:
-

Bộ phận kinh doanh:
+ Là lực lượng quan trọng nhất của công ty, chịu trách nhiệm chủ yếu đối với
doanh thu của công ty;
+ Nhiệm vụ: Tìm kiếm, tư vấn thuyết phục, thực hiện các giao dịch, chăm sóc
khách hàng;

+ Đặc điểm: Phần lớn đều là kỹ sư bán hàng (nhân viên bán hàng xuất phát từ
chuyên viên kỹ thuật)
+ Tuy không có vai trò phải thực hiện các hoạt động xúc tiến hỗn hợp nhưng lực
lượng này lại sử dụng nhiều các công cụ của xúc tiến hỗn hợp (đặc biệt là bán
hàng cá nhân) để tìm kiếm khách hàng và thúc đẩy khách đưa ra quyết định
mua hàng.

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 19


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
-

Bộ phận hỗ trợ: Hỗ trợ cho bộ phận kinh doanh thực hiện các hoạt động như chuẩn
bị hồ sơ giấy tờ giao dịch, báo giá, liên hệ khách hàng, cùng kế toán theo dõi công

-

nợ .
Bộ phận nhập khẩu: Phụ trách liên lạc và thực hiện các giao dịch với nhà cung cấp
nước ngoài
Phòng kế toán:

Chịu trách nhiệm thu chi tài chính của công ty, đảm bảo chi phí cho các hoạt
động lương, thưởng, ngân sách cho các chiến dịch hoạt động,... . Chịu trách nhiệm ghi
chép, phản ánh chính xác, kịp thời tình hình hiện có, thực hiện các chính sách, chế độ
theo đúng quy định của Nhà Nước,... . Các hoạt động, chiến dịch Marketing của công
ty chỉ có thể tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao nhất khi được phòng tài chính cấp
ngân sách đầy đủ và kịp thời.
Phòng service:

Chịu trách nhiệm về các hoạt động bảo hành, bảo trì, sửa chữa máy móc, tư vấn
kỹ thuật, lắp đặt thiết bị, chuyển giao công nghệ cho khách hàng.
Bộ phận kho:
Chịu trách nhiệm về việc bảo quản, xuất nhập hàng hóa, án ninh kho bãi; thực hiện
công tác giao nhận, vận chuyển hàng hóa theo kế hoạch.
2.1.2.2
ST
T
1
3
4
5

Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty

Danh mục

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Doanh thu thuần

50332767223

75544632000

87766233210


Chi phí kinh doanh
Lợi nhuận trước
thuế
Lợi nhuận sau thuế

44901234000

68003247089

80102400568

5431533223

7541384911

7663832642

1194937309

1659104680

1532766528

2015/2014

2016/2015

1.5
0.11


1.16
0.145

1.39

1.02

1.39

0.92

Bảng 1: Bảng kết quả hoạt động kinh doanh của công ty (đơn vị: VNĐ)
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính kế toán của Công ty)
Từ bảng số liệu, thấy rằng:
+ Doanh thu tăng qua các năm từ 2014 đến 2016. Tuy nhiên, mức tăng tưởng
không đều: doanh thu thuần (2015/2014) là 1.5, doanh thu thuần (2016/2015) là
1.16. Qua đó thấy được đã có sự sụt giảm tăng trưởng qua các năm.
+ Chi phí kinh doanh tăng qua các năm: chi phí kinh doanh (2015/2014) là 0.11;
chi phí kinh doanh (2016/2015) là 0.146.
+ Lợi nhuận trước thuế tăng qua các năm. Tuy nhiên, mức tăng trưởng không đều,
xuất hiện sự sụt giảm tăng trưởng của lợi nhuận trước thuế.
➢ Qua bảng số liệu thấy được rằng: Công ty đang gặp khó khăn với hoạt
động kinh doanh trong những năm gần đây.
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 20


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
2.2 THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.2.1

2.2.1.1

Phương pháp hoạt động kinh doanh của công ty EVD
Thương hiệu ESAB

Công ty EVD là nhà phân phối độc quyền các thiết bị và vật liệu hàn cắt mang
thương hiệu ESAB. Hãng ESAB được thành lập tại Thụy Điển từ năm 1904 bởi ông
Oscar Kjellberg - Người phát minh ra que hàn có vỏ bọc, đặt nền tảng cho ngành công
nghiệp hàn cắt của thế giới. Từ đó cho đến nay ESAB không chỉ là hãng lâu năm, kinh
nghiệm nhất, mà còn phát triển thành một tập đoàn dẫn đầu về nhiều mặt trong lĩnh
vực hàn/cắt kim loại.
Ngày nay tập đoàn ESAB có nhà máy sản xuất thiết bị và vật liệu hàn ở châu
Âu, châu Mỹ và châu Á với khoảng 10 000 nhân công. Cung cấp sản phẩm và công
nghệ hàn trong hầu hết các ngành công nghiệp. Từ công nghiệp vũ trụ, năng lượng,
hàng không, giao thông, đóng tàu biển - ôtô, chế tạo máy… cho đến sửa chữa nhỏ lẻ ở
xưởng và gia đình cá nhân. Khách hàng có thể tin cậy sử dụng sản phẩm của ESAB
không chỉ ở những hệ thống máy hiện đại nhươ: dàn cắt CNC (Laser, plasma khô /
plasma dưới nước, tia nước …), máy hàn Laser, máy hàn / cắt Plasma, thiết bị hàn
chuyên dụng - tự động, bán tự động… Mà còn ở những dụng cụ nhỏ bảo hộ, trợ giúp
hay phụ tùng thay thế…
Theo nguồn tài liệu đối thủ cạnh tranh của công ty EVD thì trên thế giới thị
trường thiết bị và vật liệu chia làm 3 phân khúc như sau:
Tiêu chí đánh giá

Phân khúc cao

Phân khúc trung

Phân khúc thấp


Thương hiệu

ESAB, Miller,

Máy hàn của Hàn

Các máy hàn của

Lincol

Quốc, Nhật Bản

Trung Quốc

Vượt qua các tiêu

Máy hàn của các

Máy hàn của Trung

chuẩn quốc tế về

hãng từ Hàn Quốc

Quốc chủ yếu có

chất lượng máy hàn và Nhật Bản được

chất lượng kém,


Chất lượng

như: ISO 9001, ISO đánh giá là làm việc tuổi thọ thấp.
14001, ISO 18001

mạnh mẽ, khỏe,

Không đảm bảo các

về chất lượng máy

chất lượng ổn định.

tiêu chuẩn về tiết

cũng như mối hàn

Tuy nhiên, không

kiệm điện và an

cắt, khả năng an

tích hợp nhiều

toàn trong quá trình

toàn và bảo vệ môi

phương pháp làm


sử dụng.

trường. Máy có thể

việc.

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 21


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
làm việc trong
nhiều điều kiện
khác nhau: ống,
dưới nước và tích
hợp nhiều phương
pháp hàn cắt
Giá

Giá cao

Giá tầm trung

Mức độ phổ biến tại Các sản phẩm của
Phổ biến cả nước
Lincol, Miller thuộc
Việt Nam
khu vực miền Nam
Việt Nam, chủ yếu
ở các công ty lọc

dầu.
ESAB thuộc thị
trường đóng tàu,
sản xuất xi măng,
than… thuộc thị
trường miền Bắc
Việt Nam

Giá thấp
Phổ biến cả nước

Theo bảng đánh giá ở trên, thương hiệu ESAB là thương hiệu thuộc phân khúc
cao, tại thị trường Việt Nam thương hiệu ESAB mới chỉ đi vào các mảng thị trường
nhất định, mức độ nhận diện rất thấp, rất nhiều các doanh nghiệp cơ khí, luyện kim,
công nghiệp phụ trợ… lớn khác mà công ty chưa thể tiếp cận.
2.2.1.2

Ngành công nghiệp hàn cắt

Công nghệ hàn đóng một vai trò quan trọng trong công nghiệp sản xuất, nâng
cao vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, vượt qua các rào cản kỹ thuật
trong thương mại và đáp ứng các chuẩn mực quốc tế.
Công nghệ hàn cắt được sử dụng rộng rãi trong quá trình sản xuất nhiều loại sản
phẩm và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, như: công nghiệp dầu khí, công nghiệp
chế tạo tàu thủy, tàu đường sắt cao tốc, công nghiệp máy bay, hóa dầu, hóa chất, ngành
chế tạo máy công nghiệp. Ngoài ra, hàn là một phương pháp sản xuất thường được sử
dụng để liên kết các sản phẩm kim loại; cắt là phương pháp cắt đứt sự liên kết của kim
loại; chúng có tác động đáng kể đến chi phí và chất lượng sản phẩm.,
Với tầm quan trọng này, theo ông Lê Khánh Tường - Phó Giám đốc Trung tâm
đào tạo và chuyển giao công nghệ Việt Đức: Việc thực hiện các hoạt động hàn cắt một

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 22


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
cách hiệu quả, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chất lượng là hết sức quan trọng. Bởi hiện
nay, chất lượng phần lớn các sản phẩm cơ khí như: Nồi hơi, bình, bồn áp lực, các thiết
bị nông nghiệp và dân dụng… phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của các mối hàn cắt.
Theo ông Lê Khánh Tường, các sản phẩm cơ khí nói trên có khả năng gây mất
an toàn rất cao vì đó là các sản phẩm chịu tải cao, chịu áp lực lớn. Chính vì vậy, chất
lượng của các liên kết hàn có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm cuối cùng,
an toàn của con người, thiết bị và công trình.
Ông Lê Khánh Tường cho biết thêm, hiện Việt Nam là quốc gia đang phát triển,
với định hướng phát triển theo hướng công nghiệp hóa (trong các chủ trương của nhà
nước thì các ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo luôn được ưu tiên hàng đầu); trong đó
công nghệ hàn, cắt đóng vai trò quan trọng trong phát triển ngành công nghiệp cơ khí,
chế tạo. Mặt khác, theo ông Lê Khánh Tường, hiện các nước công nghiệp phát triển,
vấn đề kiểm soát chất lượng hàn được quan tâm đặc biệt để đảm bảo an toàn cho con
người và công trình. Tại châu Âu, việc áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 3834 (yêu cầu chất
lượng đối với hàn nóng chảy kim loại) và các tiêu chuẩn khác có liên quan là một yếu
tố bắt buộc, và được áp dụng rộng rãi cho các doanh nghiệp sản xuất cơ khí, chế tạo
thiết bị nhằm kiểm soát chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn, giảm thiểu chi phí và
nâng cao năng lực cạnh tranh. Còn tại Mỹ và một số quốc gia liên quan, quá trình hàn
phải tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật (code) của Mỹ một cách chặt chẽ, nhằm đảm bảo
an toàn sản phẩm. Vậy để các sản phẩm của Việt Nam có thể thâm nhập vào thị trường
quốc tế, hay thu hút sự đầu tư nước ngoài thì việc pháp triển công nghiệp hàn cắt là rất
cần thiết.
Hiện nay, doanh nghiệp cơ khí chế tạo tại Việt Nam, ngoài các nhu cầu về vốn,
trình độ quản lý các công trình lớn, các công nghệ tiên tiến, còn đang thiếu rất nhiều
đội ngũ nhân sự hàn có trình độ cao, đáp ứng các yêu cầu của các nhà thầu quốc tế
như: kỹ sư hàn, giám định hàn, các cán bộ kỹ thuật, quản lý chất lượng hàn. Và đặc

biệt là đội ngũ thợ hàn có tay nghề cao để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của các nhà
thầu trong và ngoài nước. Vì vậy, thời gian tới các doanh nghiệp cần rất nhiều đội ngũ
nhân sự hàn đáp ứng được các yêu cầu theo các chuẩn mực quốc tế.
Từ thực tế đó, ông Lê Khánh Tường cho rằng, việc các doanh nghiệp áp dụng
thành công một hệ thống quản lý chất lượng hàn sẽ góp phần nâng cao năng suất, chất
lượng và đảm bảo an toàn sản phẩm cho các doanh nghiệp sản xuất, chế tạo có sử
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 23


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
dụng hàn là quá trình sản xuất chính. Đồng thời nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường, vượt qua các rào cản kỹ thuật trong thương mại và đáp ứng các
chuẩn mực quốc tế.
2.2.1.3

Phương pháp hoạt động kinh doanh

Hiện nay, công ty EVD chưa có phòng marketing, phòng chịu trách nhiệm về
doanh thu của công ty là phòng kinh doanh và người chịu trách nhiệm chính là các
nhân viên kinh doanh. Do đặc tính của lĩnh vực kinh doanh của công ty là các thiết bị
và vật liệu hàn cắt nên các nhân viên kinh doanh chủ yếu là những người kỹ thuật, có
mức độ am hiểu lớn về ngành công nghiệp nặng. Các nhân viên kinh doanh thực hiện
tất cả các hoạt động từ tìm kiếm khách hàng, phát hiện nhu cầu của khách hàng, tư vấn
cho khách hàng sản phẩm phù hợp nhất, kí hợp đồng, chăm sóc sau bán hàng. Hai hình
thức bán hàng chủ yếu của công ty là đấu thầu, bán hàng tư vấn. Nhân viên bán hàng
sẽ sử dụng các mối quan hệ, báo đấu thầu để tìm khách hàng, sau đó sẽ tiến hành gọi
điện, gửi email, chào hàng tận nơi đến khách hàng. Với hai hình thức bán hàng này có
các ưu điểm và nhược điểm như sau:

1. Ưu điểm:

Lượng khách hàng ổn định, khả năng khách hàng mua lặp lại cao, giá trị đơn
hàng lớn. Do công ty kinh doanh các sản phẩm hàn cắt có giá trị cao, với tính chất của
các sản phẩm này là: mua các máy hàn, máy cắt thì thường chỉ mua một lần (máy có
khả năng sử dụng lâu dài); tuy nhiên mua các vật liệu như que hàn, dây hàn…thì
thường xuyên, và khách hàng đã mua sản phẩm của công ty EVD thì sẽ phải mua các
sản phẩm đi theo. Đặc biệt với bán hàng công nghiệp mức độ trung thành rất cao, khi
họ đã quan tâm và tin tưởng thì mức độ mua và mua lặp lại rất cao vì đây là sản phẩm
có giá trị lớn, sử dụng lâu dài, quyết định đến hoạt động kinh doanh của khách hàng.
2. Nhược điểm:
Số lượng khách hàng mới không nhiều. Công ty chỉ sử dụng 2 hình thức bán
hàng là đấu thầu và bán hàng cá nhân mà chưa có hoạt động truyền thông khuếch
trương thương hiệu nên mức độ nhận diện thương hiệu là rất thấp, chỉ những khách
hàng đã sử dụng sản phẩm của ESAB mới biết đến thương hiệu.
Khả năng mở rộng thị trường thấp, chưa khai thác được khách hàng cá nhân.
Với việc chủ yếu dựa vào mối quan hệ để tìm kiếm khách hàng, công ty ở thế bị động
trong việc tìm kiếm khách hàng, nên lượng khách hàng mới là rất ít.
Các khách hàng trung thành của công ty EVD: Khách hàng thường xuyên sử
dụng thiết bị, vật liệu và dịch vụ do Công ty EVD cung cấp: các đơn vị đóng tàu:
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 24


SVTH: Phạm Thị Thanh Tuyết
thuộc quân đội, thuộc VINASHIN, các đơn vị đóng tàu SBIC; các công ty xi măng;
các công ty điện; các công ty than;…
Công ty chưa xây dựng được các chiến lược marketing tổng thể , các hoạt động
marketing thường mang tính nhỏ lẻ, do các nhân viên bán hàng tự xây dựng. Mặc dù,
tham gia thị trường rất lâu nhưng thương hiệu công ty EVD, hay thương hiệu thiết bị
và vật liệu hàn cắt ESAB có mức độ nhận diện rất thấp. Theo tính toán của hãng
ESAB, hiện nay thương hiệu ESAB chỉ chiếm 1% thị phần toàn ngành hàn cắt và
chiếm 5% thị phần cao cấp. Như vậy, từ kết quả trên thương hiệu ESAB chiếm một

phần rất nhỏ trong toàn bộ thị trường các thiết bị và vật liệu hàn cắt tại Việt Nam.

2.2.2 Ứng dụng marketing online vào doanh nghiệp B2B
Theo báo của trang web “We are social” năm 2016 về việc sử dụng internet tại
Việt Nam:

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thu HiềnPage 25


×