Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP: SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN NÂNG CAO KHẢ NĂNG GHI NHỚ TRUYỆN KỂ CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 88 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
--------

--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN
NÂNG CAO KHẢ NĂNG GHI NHỚ TRUYỆN KỂ
CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI

Sinh viên: Nguyễn Hồng Nhung
Lớp A – K62 – GDMN
Giảng viên hƣớng dẫn: PGS. TS Nguyễn Thị Nhƣ Mai

HÀ NỘI - 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................. 2
4. Giả thuyết khoa học ...................................................................................... 2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
6. Giới hạn nghiên cứu ...................................................................................... 3
7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG
TRỰC QUAN NÂNG CAO KHẢ NĂNG GHI NHỚ TRUYỆN KỂ CHO
TRẺ 4 – 5 TUỔI .............................................................................................. 5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................... 5


1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới .................................................. 5
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước .................................................... 6
1.2. Một số khái niệm cơ bản.......................................................................... 8
1.2.1. Khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi ........................................ 8
1.2.2. Sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi........... 8
1.3. Đặc điểm ghi nhớ của trẻ 4 – 5 tuổi ........................................................ 9
1.4. Hoạt động kể chuyện ở trƣờng mầm non ............................................ 12
1.4.1. Các thể loại truyện kể ở trường mầm non............................................. 12
1.4.2. Hoạt động cô kể cho trẻ nghe truyện .................................................... 16
1.4.3. Hoạt động cô dạy trẻ kể lại truyện ........................................................ 18
1.5. Biểu hiện của khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi............. 19
1.6. Ảnh hƣởng của biện pháp sử dụng ĐDTQ đến khả năng ghi nhớ
truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi ........................................................................... 21
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 23
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN
NÂNG CAO KHẢ NĂNG GHI NHỚ TRUYỆN KỂ CHO TRẺ 4 – 5
TUỔI Ở TRƢỜNG MẦM NON .................................................................. 25
2.1. Tổ chức nghiên cứu ................................................................................ 25
2.1.1. Mục đích nghiên cứu thực trạng ........................................................... 25


2.1.2. Đối tượng khảo sát ................................................................................ 25
2.1.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu thực trạng................................. 25
2.2 Kết quả nghiên cứu ................................................................................. 28
2.1.1. Thực trạng sử dụng biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi
nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi ở trường mầm non. ...................................... 28
2.1.2. Thực trạng khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi ở trường mầm
non ................................................................................................................... 33
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 37
CHƢƠNG 3 : ĐỀ XUẤT VÀ THỬ NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ

DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN NÂNG CAO KHẢ NĂNG GHI NHỚ
TRUYỆN KỂ CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI ......................................................... 39
3.1. Đề xuất một số biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ
truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi. .......................................................................... 39
3.1.1. Nguyên tắc xây dựng biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi
nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi. ..................................................................... 39
3.1.2. Một số biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể
cho trẻ 4 – 5 tuổi.............................................................................................. 42
3.2. Tổ chức thử nghiệm ............................................................................... 45
3.2.1. Mục đích thử nghiệm ............................................................................ 45
3.2.2. Nội dung thử nghiệm ............................................................................ 45
3.2.3. Đối tượng thử nghiệm ........................................................................... 45
3.2.4. Cách tiến hành thử nghiệm ................................................................... 46
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 56
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ SƢ PHẠM................................................... 58
1. Kết luận ....................................................................................................... 58
2. Kiến nghị ..................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 60
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐDTQ

Đồ dùng trực quan

LQVTPVH

Làm quen với tác phẩm văn học


TN

Thử nghiệm

ĐC

Đối chứng

TB

Trung bình


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tuổi mẫu giáo là độ tuổi có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình
phát triển chung của trẻ em. Đặc biệt quá trình phát triển tâm lý của trẻ có tốc
độ rất nhanh mà ở những năm tháng về sau dường như không thấy.
Trong các hiện tượng tâm lý thì trí nhớ có tầm quan trọng đặc biệt, nó
có mối quan hệ mật thiết với các quá trình tâm lý khác như: cảm giác, tri giác,
tư duy, tưởng tượng,…
Ghi nhớ là một quá trình của trí nhớ, trí nhớ là một phần quan trọng của
trí tuệ. Trong thời kì xã hội phát triển với những tiến bộ vượt bậc của khoa
học và công nghệ đòi hỏi con người phải có trình độ, có khả năng sáng tạo
mới có thể hội nhập được. Có khả năng ghi nhớ tốt sẽ giúp phát triển óc tư
duy sáng tạo của con người. Vì vậy rèn luyện khả năng ghi nhớ ngay từ
những ngày đầu đặc biệt là tuổi mẫu giáo là điều vô cùng quan trọng và cấp
thiết của ngành giáo dục nói chung và giáo dục mầm non nói riêng.
Ở trường mầm non có nhiều hoạt động như: hoạt động cho trẻ làm quen
với môi trường xung quanh, hoạt động tạo hình, hoạt động cho trẻ làm quen

với biểu tượng toán học sơ đẳng,…trong đó có hoạt động cho trẻ LQVTPVH.
Cho trẻ LQVTPVH thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là giáo dục thẩm mỹ và
phát triển ngôn ngữ, góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Phương
pháp được coi là cơ bản chủ đạo khi cho trẻ LQVTPVH là phương pháp đọc
và kể tác phẩm có nghệ thuật, bao gồm việc đọc và kể diễn cảm kết hợp với
các hình thức nghệ thuật khác. ĐDTQ tác phẩm văn học là nguồn thông tin
thẩm mỹ với tư cách là một phương tiện dạy học, nó hỗ trợ đắc lực trong việc
kết hợp ngôn ngữ đọc và kể của giáo viên.
Trẻ mẫu giáo thường ghi nhớ những gì gây ấn tượng mạnh mẽ với
chúng và làm chúng thích thú. Để đem lại hiệu quả giáo dục cao, giáo viên
mầm non cần sử dụng phối hợp các phương pháp, biện pháp giảng dạy nhằm
tác động mạnh đến hứng thú và chú ý của trẻ nhằm nâng cao khả năng ghi
nhớ.
1


Sử dụng ĐDTQ trong hoạt động LQVTPVH đặc biệt là hoạt động kể
chuyện ở trường mầm non là một trong những biện pháp gây hứng thú và chú
ý cho trẻ. Bởi tư duy của trẻ mẫu giáo là tư duy trực quan – hình tượng.
Tuy nhiên, trên thực tế, biện pháp sử dụng ĐDTQ trong hoạt động kể
chuyện ở trường mầm non hiện nay còn chưa phù hợp. Thực trạng này có thể
do giáo viên chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của ĐDTQ với khả năng
ghi nhớ truyện kể của trẻ, đồng thời lựa chọn ĐDTQ và thời điểm sử dụng
ĐDTQ chưa phù hợp.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Sử dụng đồ dùng trực quan
nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi” được lựa chọn
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp sử
dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ cho trẻ 4 – 5 tuổi trong hoạt động

LQVTPVH, góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi ở
trường MN.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ
4 – 5 tuổi.
4. Giả thuyết khoa học
Khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi được nghiên cứu còn
chưa tốt do biện pháp sử dụng ĐDTQ của giáo viên chưa phù hợp. Nếu
nghiên cứu và đề xuất được một số biện pháp sử dụng ĐDTQ trong hoạt động
kể chuyện như cô kể cho trẻ nghe truyện kết hợp quan sát “Sơ đồ cây bàn tay”
minh họa nội dung truyện, biện pháp cô kể cho trẻ nghe truyện kết hợp quan
sát “Truyện tranh”,... phù hợp với lứa tuổi, với nội dung câu chuyện và điều

2


kiện cơ sở vật chất của trường, lớp, sẽ góp phần nâng cao khả năng ghi nhớ
truyện kể cho các em.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao
khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi
5.2. Nghiên cứu thực trạng biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao khả
năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi
5.3. Đề xuất và thử nghiệm một số biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao
khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi
6. Giới hạn nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng

ghi nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi.
- Khách thể nghiên cứu: 50 trẻ và 30 giáo viên mầm non.
- Địa bàn nghiên cứu: Trường mầm non Hoa Hồng – Nghĩa Tân và
trường mầm non Họa Mi.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Thu thập tài liệu, nghiêu cứu, phân tích, tổng hợp những nguồn tài liệu
có liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở lí luận, định hướng
cho việc nghiên cứu thực tiễn.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
- Mục đích:
 Điều tra mức độ hứng thú và khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi.
 Điều tra biện pháp sử dụng ĐDTQ của giáo viên trong hoạt động kể chuyện.
- Cách sử dụng: Đối với phương pháp này, chúng tôi quan sát giáo
viên và trẻ trong hoạt động kể cho trẻ nghe truyện của giáo viên, sau đó ghi
nhận lại kết quả.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
- Mục đích: Điều tra khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ.
3


- Cách sử dụng: Với phương pháp này, chúng tôi tiến hành đàm thoại
với trẻ qua hệ thống câu hỏi đã được chuẩn bị trước (áp dụng phương pháp
cho cả quá trình điều tra thực trạng và quá trình tiến hành TN) và ghi chép lại
câu trả lời.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Mục đích:
 Điều tra thực trạng biện pháp sử dụng ĐDTQ trong hoạt động kể
chuyện của giáo viên.

 Điều tra nhận thức của giáo viên về biện pháp sử dụng ĐDTQ trong
hoạt động kể chuyện.
 Điều tra khó khăn của giáo viên trong việc ứng dụng các biện pháp
sử dụng ĐDTQ trong hoạt động kể chuyện.
- Cách sử dụng: Chúng tôi tiến hành gửi phiếu hỏi đã chuẩn bị trước
đến 40 giáo viên trong trường sau đó thu lại, tổng hợp và ghi nhận kết quả.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm
- Mục đích:
 Tìm hiểu thực trạng khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi.
 Làm rõ tính hiệu quả và khả thi của các biện pháp đề xuất.
- Cách sử dụng:
 Chúng tôi tiến hành ứng dụng các biện pháp sử dụng ĐDTQ trong
hoạt động kể chuyện đã đề xuất với nhóm TN.
 Sau đó sử dụng hệ thống câu hỏi liên quan đến câu chuyện trẻ vừa
được nghe để đàm thoại với trẻ, sau đó ghi nhận kết quả. Ba ngày sau kiểm
tra lại kết quả.
7.3. Phương pháp xử lí số liệu
- Mục đích: Phân loại, đánh giá kết quả thực trạng và kết quả TN
- Cách sử dụng: Chúng tôi tiến hành thu thập số liệu, thông tin (kết
quả trước và sau TN) và sử dụng một số công thức thống kê toán học để xử lý
số liệu.

4


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP
SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN NÂNG CAO KHẢ NĂNG
GHI NHỚ TRUYỆN KỂ CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI
1.1.


Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mục tiêu của bậc học mầm non là phát triển toàn diện cho trẻ cả về thể

chất, tinh thần, trí tuệ cũng như đạo đức – thẩm mĩ. Một trong những yếu tố
tác động mạnh mẽ đến chất lượng giáo dục trẻ chính là phương pháp giáo
dục. Các nhà nghiên cứu về giáo dục mầm non đã và đang cố gắng tìm kiếm
và xây dựng hệ thống phương pháp giáo dục nhằm đáp ứng được mục tiêu
trên, giúp trẻ nhanh chóng hòa nhập vào cuộc sống xã hội và chuẩn bị vào học
ở trường phổ thông. Phương pháp trực quan là một trong những phương pháp
được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm.
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
M.Montessori, nhà giáo dục lỗi lạc người Ý đã nhiều lần đề cập đến
vấn đề trực quan trong phương pháp giáo dục của bà. Bà luôn đề cao ảnh
hưởng của môi trường đến sự phát triển của trẻ em. Bà đã sáng tạo ra nhiều
giáo cụ, đặc biệt bà chú trọng tạo “Môi trường chuẩn bị” để trẻ phát triển theo
con đường “Tay và não cùng hoạt động” với chủ chương rèn luyện các giác
quan (giáo dục cảm giác) và tính độc lập. Phương pháp giáo dục của bà một
trong những phương pháp giáo dục quan trọng trong giáo dục mầm non thế
giói nói chung và giáo dục mầm non Việt Nam nói riêng. Trong phương pháp
giáo dục này, M.Montessori đã khẳng định tầm quan trọng của phương tiện
trực quan đối với sự phát triển trí não của trẻ.
K.D.Usinxki và A.Đ.Uxova, hai nhà giáo dục người Nga cũng khẳng
định tầm quan trọng của trực quan đối với sự phát triển của trẻ trong các
nghiên cứu của mình. K.D.Usinxki cho rằng: “Trẻ tư duy bằng hình tượng,
âm thanh, màu sắc.”. Trong việc dạy học ở mẫu giáo, ngôn ngữ của cô giáo
có vai trò rất to lớn để giáo dục tư duy sáng tạo của trẻ. Nếu lời nói thiếu hình
ảnh cụ thể thì sẽ làm cho trẻ khó hiểu, đôi khi không hiểu được. Sự truyền thụ
5



bằng ngôn ngữ, kết hợp với sự giải thích của cô giáo, với việc sử dụng hình
tượng trực quan trong việc dạy học ở mẫu giáo, cho phép mở ra những viễn
cảnh to lớn về sự phát triển của trẻ. A.Đ.Uxova, cũng chỉ ra rằng: trong việc
giảng dạy cho trẻ, làm sao lời nói phải có hình ảnh cụ thể. Việc giảng dạy
bằng ngôn ngữ cần phải dựa vào tri giác trực tiếp hiện thực khách quan.
J.A.Komenxki, nhà giáo dục vĩ đại người Tiệp Khắc coi trực quan là
“Quy tắc vàng” trong giáo dục và dạy trẻ. Theo ông, khi cảm nhận tác phẩm
văn học, trẻ mẫu giáo rất cần sự có mặt của các hình tượng trực quan. Đối với
trẻ, đặc biệt là trẻ bé, minh họa bằng tranh được coi như một quy tắc vô cùng
quan trọng, phù hợp với tư duy trực quan của trẻ.
Một thực nghiệm mang tính kinh điển của nhóm các nhà Tâm lí học nổi
tiếng Nga là Vưgốtxki, Luria, Lêônchiep thực hiện từ những năm 30 của thế
kỉ trước, mang tên “Phương pháp kích thích chức năng kép”. Thực nghiệm
cho thấy trẻ 5 – 7 tuổi đã biết sử dụng các bức tranh làm phương tiện hay
điểm tựa để nhớ từ. Thực nghiệm đã khẳng định tầm quan trọng của đồ dùng
tực quan đối với khả năng ghi nhớ của trẻ, đặc biệt là trẻ mẫu giáo.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Bàn về vai trò của ĐDTQ, không thể không nhắc đến tác giả Hà
Nguyễn Kim Giang. Ông đã có rất nhiều nghiên cứu về tầm quan trọng của
trực quan trong hoạt động cho trẻ LQVTPVH.
Trong cuốn “Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm
văn học” Hà Nguyễn Kim Giang đã khẳng định rằng: “Việc sử dụng đồ dùng
trực quan tốt sẽ gây hứng thú, tạo tình huống, củng cố những biểu tượng, khắc
sâu ấn tượng nghệ thuật”. Theo ông, ĐDTQ vô cùng hữu hiệu với trẻ trong
quá trình lĩnh hội tác phẩm văn học.
Trong cuốn “Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học – một số vấn đề lí
luận và thực tiễn”, tác giả Hà Nguyễn Kim Giang đã viết “Với tư duy trực
quan – hình tượng chiếm ưu thế, trẻ mẫu giáo có nhiều ưu thế trong việc lĩnh
hội tác phẩm văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, việc tiếp thu ngôn ngữ để hình
thành ở trẻ biểu tượng về cuộc sống được thể hiện trong tác phẩm còn nhiều

6


hạn chế nên trẻ rất cần nhờ đến hình tượng trực quan, đặc biệt là tranh minh
hoa thể hiện bức tranh cuộc sống mà ngôn ngữ văn học đã diễn tả.”. Tác giả
chỉ ra rằng, xem tranh minh họa có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành
những biểu tượng nghệ thuật văn học của trẻ.
Hay trong cuốn “Phương pháp kể sáng tạo truyện cổ tích thần kì cho trẻ
mẫu giáo”, Hà Nguyễn Kim Giang viết: “Mặc dù chưa phát biểu thành hệ
thống chặt chẽ nhưng những phương pháp được lưu ý trước tiên là: “Phương
pháp kể diễn cảm”, “Phương pháp đàm thoại với trẻ”, “Phương pháp sử dụng
đồ dùng dạy học như tranh ảnh, mô hình””. Có thể thấy sử dụng trực quan là
một trong những phương pháp giáo dục được bà chú trọng từ rất sớm.
Nhóm tác giả Phạm Thị Việt – Lê Ánh Tuyết – Cao Đức Tiến trong
cuốn “Văn học và phương pháp cho trẻ tiếp xúc với văn học” cũng đã khẳng
định tầm quan trọng của trực quan trong phương pháp giáo dục của mình. Các
tác giả chỉ ra rằng, việc sử dụng ĐDTQ trong việc cho trẻ làm quen với văn
học rất đa dạng, không chỉ là tranh minh họa, con rối, sa bàn,.... mà có thể
dùng nhạc đệm trong khi kể. Song đây là việc làm khá phức tạp, đòi hỏi phải
có phương tiện và trình độ chuyên môn nhất định về âm nhạc.
Thực nghiệm do một nhóm sinh viên khoa Giáo Dục Mầm Non, trường
Đại học Sư phạm Hà Nội tiến hành năm 1993 đã khẳng định tầm quan trọng
của đồ dùng trực quan với khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ. Họ tiến hành thực
nghiệm trên hai nhóm trẻ. Nhóm thứ nhất chỉ được nghe qua lời cô giáo kể, còn
nhóm thứ hai được nghe kể qua tranh và có cả hình ảnh những con rối. Kết quả
là sau ba ngày, trẻ nhóm thứ hai nhớ gần như toàn bộ câu chuyện, kể cả những
chi tiết (trang phục, đồ dùng,…) còn trẻ nhóm thứ nhất thì nhớ đại khái và quên
khá nhiều chi tiết. Sau một tuần thì độ chênh lệch còn rõ hơn.
Tác giả Vũ Thanh Vân trong cuốn “Hướng dẫn chuẩn bị đồ chơi – đồ
dùng dạy học cho trẻ em” cũng đề cập đến lợi ích của việc sử dụng đồ chơi –

đồ dùng dạy học trong giáo dục mầm non. Việc sử dụng đồ chơi – đồ dùng
dạy học phù hợp sẽ tạo động lực học tập, thu hút sự chú ý; kích thích và phát
triển sự tò mò, ham hiểu biết của trẻ; tăng cường trí nhớ, óc tưởng tượng và
khả năng thẩm mĩ cho trẻ.

7


Có thể thấy, có nhiều công trình nghiên cứu trong nước và trên thế giới
bàn đến vấn đề sử dụng ĐDTQ trong quá trình dạy học cho trẻ mầm non. Các
tác giả đều khẳng định tầm quan trọng của trực quan đối với sự phát triển toàn
diện của trẻ nói chung và khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ nói riêng.
Nghiên cứu sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ sẽ
kế thừa và phát huy những thành tựu của các công trình nghiên cứu trước đó,
đồng thời đưa ra những biện pháp giáo dục mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động cho trẻ LQVTPVH.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.

Khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi
1.2.1.1. Khả năng ghi nhớ
Khả năng ghi nhớ được hiểu là năng lực tạo nên dấu vết của đối tượng

trên vỏ não, gắn đối tượng với những tri thức đã có trong quá trình nhớ.
1.2.1.2. Truyện kể
Truyện kể là một tác phẩm văn học thuộc loại tự sự. Các thể loại truyện
dân gian, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài đều là những thể loại rõ rệt nhất
thuộc loại hình tự sự.
1.2.1.3. Khả năng ghi nhớ truyện kể
Có thể hiểu khả năng ghi nhớ truyện kể là năng lực tạo dấu vết của câu

chuyện trên vỏ não, gắn câu chuyện với những tri thức đã có trong quá trình nhớ.
1.2.1.4. Khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi
Khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi được hiểu là năng lực tạo
dấu vết của câu chuyện trên vỏ não, gắn câu chuyện với những tri thức đã có
của trẻ 4 – 5 tuổi trong quá trình nhớ.

1.2.2. Sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi
1.2.2.1. Đồ dùng trực quan
ĐDTQ là tất cả những gì có thể được lĩnh hội (tri giác) nhờ có sự hỗ trợ
của hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai của con người. ĐDTQ được hiểu là
những vật (sự vật) hoặc sự biểu hiện của nó bằng hình tượng (biểu tượng) với
những mức độ quy ước khác nhau.
ĐDTQ là phương tiện hướng dẫn, cung cấp tri thức, rèn luyện cho trẻ
những kĩ năng cụ thể.
8


1.2.2.2. Sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ
4 – 5 tuổi
Sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ 4 – 5 tuổi
là việc sử dụng những vật hoặc những biểu tượng của sự vật nhằm củng cố
cho trẻ hình tượng về các nhân vật trong truyện thông qua sự tri giác trực tiếp
bằng các giác quan, giúp trẻ 4 – 5 tuổi ghi nhớ truyện tốt hơn.
1.2.3. Biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể cho
trẻ 4 – 5 tuổi
Biện pháp sử dụng ĐDTQ nâng cao khả năng ghi nhớ truyện kể cho trẻ
4 – 5 tuổi được hiểu là cách làm cụ thể trong hoạt động cùng nhau giữa giáo
viên và trẻ trong việc sử dụng những vật hoặc những biểu tượng của sự vật
nhằm giúp trẻ 4 – 5 tuổi ghi nhớ truyện tốt hơn.
1.3.


Đặc điểm ghi nhớ của trẻ 4 – 5 tuổi
Ở tuổi mẫu giáo, năng lực ghi nhớ và nhớ lại phát triển rất mạnh. Nhờ

vào mức độ phát triển tâm lí đã đạt được và ảnh hưởng của những yêu cầu do
người lớn đặt ra cho trẻ trong quá trình tham gia vào các hoạt động mới, trí
nhớ của trẻ được phong phú và bền vững hơn.
Ở tuổi mẫu giáo, trí nhớ của trẻ thường mang tính chất máy móc,
không chủ định mà L.S.Vưgốtxki gọi đó là trí nhớ trực tiếp hay trí nhớ tự
nhiên được hình thành do tác động trực tiếp của các ấn tượng bên ngoài mà
ngày nay chúng ta là trí nhớ không chủ định. Thông qua làm quen với thế giới
xung quanh, trong khi tích cực tham gia vào các hoạt động, trẻ mẫu giáo ghi
lại nhiều ấn tượng một cách ngẫu nhiên.
Trẻ thường ghi nhớ những gì chúng thích thú hoặc gây ấn tượng mạnh
mẽ, rõ nét.
Nhiều công tình nghiên cứu cho thấy rằng trẻ càng tích cực hoạt động
thực tiễn, đặc biệt là tham gia vào hoạt động vui chơi bao nhiêu thì càng ghi
nhớ tốt những gì diễn ra trong đó bấy nhiêu. Trong một thí nghiệm, người ta
cho hai nhóm trẻ cùng xem tranh gồm nhiều bộ (bộ tranh vẽ hoa quả, bộ tranh
vẽ vật dụng nấu ăn, bộ tranh vẽ các công trình xây dựng). Đối với nhóm thứ
9


nhất, các cháu chỉ được xem tranh một cách tự nhiên; đối với nhóm thứ hai,
người ta gợi ý để trẻ sắp xếp các bức tranh thành bộ. Sau đó hỏi trẻ nhớ được gì
ở các bức tranh đó. Trẻ ở nhóm thứ nhất kể lại một cách không rõ ràng về những
gì chúng đã thấy trong bức tranh; còn trẻ ở nhóm thứ hai thì hầu hết nhớ được
khá đầy đủ và chính xác, vì khi chọn tranh để xếp theo bộ trẻ đã phải quan sát kĩ
càng, phân biệt được chỗ khác nhau và giống nhau giữa chúng.
Trí nhớ của trẻ được phát triển gắn liền với sự phát triển các hứng thú

của trẻ. Tùy theo hứng thú đối với các hiện tượng thiên nhiên và xã hội được
hình thành ở mức độ nào, vào lĩnh vực nào, trẻ sẽ tập trung quan sát những sự
vật và hiện tượng ở lĩnh vực ấy hơn, chú ý nghe những lời giải thích có liên
quan đến lĩnh vực ấy hơn, và do đó ghi nhớ về chúng tốt hơn.
Trẻ nhớ tốt những gì trong quá khứ nếu những sự vật và hiện tượng đó
mang tính trực quan hình tượng rõ nét. Những cái đó được trẻ nhớ lại một
cách sinh động và sáng tỏ như được tri giác sự vật và hiện tượng đó một lần
nữa. Thậm chí có những chi tiết nào đấy mà người lớn thì không để ý nhưng
trẻ lại nhớ rất rõ và rất lâu.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, tài liệu trực quan được ghi nhớ tốt hơn nhiều so
với tài liệu chỉ bằng ngôn ngữ. Trong một thực nghiệm có hai nhóm trẻ cùng
được nghe kể một câu chuyện. Nhóm thứ nhất chỉ được nghe qua lời cô giáo
kể, còn nhóm thứ hai được nghe kể qua tranh và có cả hình ảnh những con
rối. Kết quả là sau ba ngày, trẻ nhóm thứ hai nhớ gần như toàn bộ câu chuyện,
kể cả những chi tiết (trang phục, đồ dùng,…) còn trẻ nhóm thứ nhất thì nhớ
đại khái và quên khá nhiều chi tiết. Sau một tuần thì độ chênh lệch còn rõ
hơn. (xem bảng dưới đây)
Ngay sau đó

Sau 3 ngày

Sau 1 tuần

Nhóm 1
54%
36%
24%
Nghe kể bằng lời
Nhóm 2
91%

82%
75%
Nghe kể bằng tranh
Đối với tài liệu được thể hiện bằng ngôn ngữ, nếu giàu hình tượng, nhịp
điệu, vần điệu rõ ràng, lại được đọc bằng giọng truyền cảm, hấp dẫn thì trẻ vẫn
có khả năng nhớ nhanh và lâu bền. Nhiều nhà thơ, ngay từ hồi còn bé, đã nhập
10


tâm những câu thơ hay trong Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm,… trong ca dao,
tục ngữ,… Cũng chính vì thế mà các tác phẩm của họ thường mang được âm
hưởng và bản sắc dân tộc. Ở lứa tuổi mẫu giáo, trí nhớ ngôn ngữ cũng được tăng
lên một cách đáng kể với một tốc độ còn nhanh hơn cả trí nhớ trực quan.
Bên cạnh ghi nhớ không chủ định, ở trẻ 4 – 5 tuổi ghi nhớ có chủ định
bắt đầu được hình thành. Có những thay đổi đó là vì điều kiện hoạt động phức
tạp hơn, người lớn yêu cầu cao hơn, buộc trẻ không những định hướng vào
hiện tại mà cả quá khứ và tương lai nữa. Chẳng hạn trong khi tham quan công
viên Thủ Lệ, cô giáo bảo các cháu phải quan sát thật kĩ các con vật ở đó để về
nhà kể cho ông bà, bố mẹ nghe. Cháu nào cũng cố gắng xem kĩ và ghi nhớ
đặc điểm các con vật để về kể được đầy đủ.
Lúc đầu ghi nhớ có chủ định chưa hoàn chỉnh, trẻ chưa nắm được
những biện pháp ghi nhớ, trẻ chưa biết phải làm gì để ghi nhớ tốt hơn. Do đó
giáo viên dần dần phải bồi dưỡng cho trẻ những biện pháp ghi nhớ có chủ
định đơn giản. Để ghi nhớ có chủ định, trước hết cần dạy trẻ nhận rõ nhiệm
vụ đã đề ra là phải ghi nhớ tốt một cái gì đó. Nhiệm vụ đó sẽ được nhận ra
một các dễ dàng nếu khi thực hiện trẻ đạt được kết quả tốt. Đặc biệt, nếu
nhiệm vụ ghi nhớ được gắn liền với các trò chơi hấp dẫn thì chắc chắn trẻ sẽ
nhớ tốt hơn nhiều. Giáo viên dạy trẻ ghi nhớ một tài liệu trực quan hay ngôn
ngữ nào đó cần phải chú ý tìm hiểu tài liệu đó, suy nghĩ về nội dung tài liệu
đó, ôn luyện hành động và các từ ngữ được ghi nhớ. Khi ghi nhớ một bài thơ,

một câu chuyện trước tiên phải cho trẻ tri giác bài thơ, câu chuyện một cách
trọn vẹn bằng giọng đọc diễn cảm của cô kết hợp với hình tượng trực quan và
trẻ ghi nhớ bài thơ, câu chuyện ở một mức độ nào đó.
Ghi nhớ có chủ định được phát triển tiếp ở lứa tuổi mẫu giáo lớn, tuổi
đi học phổ thông và dần hoàn thiện. Tùy theo điều kiện sống và tính chất hoạt
động mà nó có thêm những đặc điểm mới.
Sự hoàn thiện trí nhớ ở trẻ em và người lớn phần lớn phụ thuộc vào sự
luyện tập của họ như thế nào, phát triển trí nhớ ra sao. Tìm hiểu những đặc

11


điểm của trí nhớ và nghiên cứu các quy luật của trí nhớ người ta có thể nắm
được cách thức ghi nhớ hoàn thiện hơn, nâng cao hiệu quả ghi nhớ hơn.
1.4.

Hoạt động kể chuyện ở trƣờng mầm non

1.4.1. Các thể loại truyện kể ở trường mầm non
Trong hoạt động kể chuyện ở trường mầm non, người kể sử dụng ngôn
ngữ nói của mình thể hiện lại điểm nhìn của nhà văn trọng một tác phẩm văn
học. Có nghĩa là, người kể phải giữ nguyên tinh thần, tư tưởng của tác phẩm,
không làm sai lệch điểm nhìn của tác giả. Do đó, hoạt động kể chuyện chấp
nhận sự khác biệt giữa những người kể chuyện.
Văn học dân gian với đặc điểm không tả nhiều, chú ý đến tình huống sự
kiện, do đó văn học dân gian chấp nhận dị bản. Vì vậy, văn học dân gian
thường được lựa chọn để kể ở trường mầm non.
Các thể loại truyện dân gian thường được sử dụng ở trường mầm non:
truyện truyền thuyết, truyện thần thoại, truyện cổ tích. Ngoài văn học dân
gian, truyện đồng thoại cũng có thể sử dụng để kể ở trường mầm non.

1.4.1.1. Truyện thần thoại
Thần thoại là thể loại truyện cổ dân gian ra đời sớm nhất. Truyện thần
thoại kể về các về các vị thần và các nhân vật anh hùng thần hóa, phản ánh
quan niệm ngây thơ của người thời cổ về các hiện tượng tự nhiên và khát
vọng của con người về một cuộc đời tốt đẹp hơn.
Đề tài chủ yếu của thần thoại là hướng tới thế giới thiên nhiên và mối
quan hệ của nó với cuộc sống của con người. Nhân vật chính trong truyện là
thần và bán thần. Thông qua thần thoại, trẻ bước đầu nhận thức được những
hiện tượng, những quy luật của tự nhiên, những mối liên hệ trong thế giới tự
nhiên với những ước mơ giải thích, chinh phục tự nhiên của người Việt cổ.
Trong cách giải thích sự hình thành vũ trụ, người xưa đã tạo nên hình tượng
Thần trụ trời đồ sộ, lớn lao, mang sức mạnh của thiên nhiên, vũ trụ. Hiện
tượng: cóc nghiến răng thì trời đổ mưa trong Cóc kiện trời, hiện tượng thủy
chiều như trong Thần biển,... đó là những hình tượng nghệ thuật rất hấp dẫn

12


trẻ em, nó kích thích sự ham muốn tìm kiếm, khám phá các hiện tượng tự
nhiên của các em.
1.4.1.2. Truyện truyền thuyết
Truyền thuyết ra đời sau thần thoại. Nó là những câu chuyện dân gian
kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ. Chính vì
thế truyền thuyết có cơ cấu lịch sử, cốt lõi lịch sử.
Đề tài truyền thuyết quan tâm nhiều nhất là những vấn đề có ảnh hưởng
đến số phận của toàn dân. Truyền thuyết giúp cho người đời sau hiểu biết về
lịch sử của dân tộc do nó phản ánh những sự kiện, những nhân vật có thật.
Truyền thuyết không chỉ ghi lại các sự kiện, nhân vật lịch sử mà con thể hiện
thái độ của nhân dân trước những sự kiện, nhận vật lịch sử đó. Thái độ công
bằng của nhân dân trong đánh giá lịch sử là nét quý trong giá trị nhận thức

của truyền thuyết, nó giúp cho đời sau hiểu đúng về lịch sử của dân tộc mình.
Truyền thuyết còn ca ngợi những nhân vật lịch sử có công xây dựng và bảo vệ
giang sơn. Tên tuổi của họ khắc sâu trong tâm khảm mỗi người dân. Nhiều
nơi đã lập đền, miếu thờ cúng những vị anh hùng dân tộc.
Qua không khí hào hùng, giàu chất sử thi trong những cuộc đấu tranh
giữ nước anh dũng của dân tộc, với những vị anh hùng được thần hóa, mĩ lệ
hóa, gắn với những chiến công hiển hách, trẻ sẽ cảm nhận được với một niềm
tự hào qua những truyện truyền thuyết Thánh Gióng, Sự tích hồ Gươm,....
1.4.1.3. Truyện cổ tích
Truyện cổ tích xuât hiện từ xưa và sống đến nay, được mệnh danh là
“Truyện trong nhà và cho trẻ nhỏ”, nó có sức hấp dẫn kì lạ đối với các em
chính bởi nội dung và hình thức nghệ thuật của nó. Truyện cổ tích là loại
truyện kể về cuộc đời của một số kiếp người, nhân vật (nhân vật bất hạnh,
nhân vật dũng sĩ, nhân vật có tài năng, nhân vật thông minh và nhân vật ngốc
nghếch, nhân vật là động vật).
Truyện cổ tích dân gian giúp trẻ nhận thức được phẩm chất của các
nhân vật, mối quan hệ của con người trong xã hội, cảm nhận được những quy
luât, những triết lí dân gian như: “ở hiền gặp lành”, “chính nghĩa thắng gian tà”.
13


Truyện cổ tích bao giờ cũng chứa đựng nội dung giáo huấn rất sâu sắc. Qua
những truyện kể, trẻ được làm quen với những quan niệm đạo đức và nền văn
hóa của dân tộc mình. Qua những tấm gương, những bài học từ truyện cổ tích,
trẻ tiếp thu được những cơ sở đầu tiên của nền giáo dục đạo đức nhân dân.
Truyện giáo dục cho trẻ những tính cách, những phẩm chất ưu tú của
con người, giúp các em từ những năm đầu tiên của cuộc đời biết nhận thức,
suy xét những vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Thông qua mối quan hệ giữa
con người với con người trong những hoàn cảnh, tình huống, từ đó các em
biết đánh giá hành vi của họ, biết đứng về phía thiện, lên án cái ác. Truyện cổ

tích giáo dục các em về tình thương. Đó là cơ sở, là nền tảng bản chất của
người lao động mà trẻ em cần tiếp thu và phát triển.
Thế giới cổ tích mang vẻ đẹp của một thế giới con người lí tưởng, một
thế giới đầy hoa thơm cỏ lạ, chính nghĩa thắng gian tà, con người được các
lực lượng siêu nhiên giúp đỡ để có cuộc sống hạnh phúc trong tình yêu
thương. Thế giới ấy đầy ắp những điều kì diệu, khác thường do con người
tưởng tượng ra để thỏa mãn ước mơ, đem lại niềm tin và sự thích thú cho
chính họ. Đó là thế giới của tình người, của cái đẹp mà mỗi một con người
trong chúng ta trong máu thịt đều có một phần của cổ tích – một quả thị - cô
Tấm, một Cây tre trăm đốt, một Con chim thần đến đậu cây khế,... để tin
tưởng, lớn lên.
Truyện cổ tích với đặc trưng chứa đựng yếu tố hoang đường, kì ảo, có
ảnh hưởng rất lớn đến sáng tạo thẩm mĩ của trẻ. Thế giới cổ tích vừa thực vừa
mộng ảo đó đầy ắp trí tưởng tượng và ước mơ, nó góp phần nuôi dưỡng
những khát vọng sáng tạo của trẻ.
1.4.1.4. Truyện ngụ ngôn
Truyện ngụ ngôn là bài thơ hoặc truyện ngắn mượn chuyện loài vật để
nói về việc đời, nhằm dẫn đến những kết luận về đạo lí, về kinh nghiệm sống.
Truyện ngụ ngôn phản ánh trí tuệ nhân dân dưới hình thức khôn ngoan,
kín đáo: hình thức ẩn dụ. Sử dụng hình thức này, truyện ngụ ngôn đã tạo cho
mình hệ thống nhân vật phong phú: đó có thể là con người, nhưng chủ yếu là
loài vật, cây cối, sông núi,.... Những vật vô tri vô giác, loài thú, loài chim
được giữ những đặc tính của chúng và thêm tính cách nhân loại. Qua các
14


nhân vật này, những triết lí, những kinh nghiệm xử thế, những quy luật xã hội
được truyền tải tới người nghe.
Tuy rất ngắn gọn, câu chuyện thường chỉ là một tình tiết, một cảnh nhưng
trong nó bao giờ cũng chứa đựng một bài học nhất định. Truyện thiên về giáo

dục hơn là phản ánh hiện thực. Mỗi câu chuyện khuyên dạy con người ta một
kinh nghiệm ứng sử, một lối sống phù hợp với đạo đức xã hội, với quy luật, tình
huống khách quan. Những truyện như “Quạ mặc lông công”, “Cáo mượn oai
hùm” khuyên người ta nên tự lực mà hành động, không nên vì hư danh mà
chuốc tai họa, làm trò cười cho thiên hạ. Truyện “Con giơi, loài chim, loài thú”
phê phán hạng người hai mặt, đồng thời cũng rút ra một kinh nghiệm thực tế:
mỗi người phải tự xác định cho mình một chỗ đứng, phải có lập trường nhất định
mới có thể tồn tại được,.... Trong xã hội cũ, những kinh nghiệm đúc kết trong
truyện ngụ ngôn giúp người ta tránh khỏi những thất bại trong cuộc đời.
Giá trị của truyện ngụ ngôn còn nằm ở những truyện có ý nghĩa triết học, thể
hiện sự nhận thức sâu sắc về thế giới của nhân dân lao động. Nhân dân đã nhận ra
tính chất tương đối của mỗi sự vật trong mối quan hệ với sự vật khác (Mèo lại hoàn
mèo). “Thầy bói xem voi” lại có ý nghĩa triết học là: khi xem xét một sự vật phải
xem xét một cách toàn diện mới có thể nhận thức đúng về sự vật đó.
Truyện ngụ ngôn là cách thể hiện, cách trình bày ý tưởng một cách
khéo léo, kín đáo, nên hầu hết các dân tộc đều sử dụng cách nói ngụ ngôn.
Truyện phù hợp với nhiều đối tượng, kể cả trẻ nhỏ. Tuy nhiên do trình độ
nhận thức, do kinh nghiệm còn hạn chế, trẻ chưa thể hiểu hết được ý nghĩa
tiềm ẩn trong mỗi câu chuyện. Song những bài học ấy sẽ theo các em suốt
đời, đến tuổi trưởng thành các em sẽ rút ra từ truyện ngụ ngôn những bài học
sâu sắc cho cuộc sống.
1.4.1.5. Truyện đồng thoại
Đồng thoại là thể truyện cho trẻ em trong đó loài vật và các vật vô tri
vô giác được nhân hóa để tạo nên một thế giới thần kì, thích hợp với trí tưởng
tượng của các em. Đây là một thể loại đặc biệt của văn học, có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa hiện thực và mơ tưởng, nhân vật chính thường là các vật
vô tri vô giác, được nhân hóa để tạo nên một thế giới vừa hư vừa thực. Qua

15



cái thế giới vừa hư vừa thực đó, truyện biểu hiện cuộc sống sinh hoạt của xã
hội loài người, nó làm giàu vốn sống cho trẻ.
Truyện đồng thoại có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp trẻ nhận thức thế
giới. Truyện nói về thế giới động vật gần gũi, nên cung cấp cho trẻ tri thức về
thể giới tự nhiên. Trẻ biết tên gọi, đặc điểm của vô vàn các loài vật trong nhà
cũng như loài động vật sống trên rừng, đến các loài vật bay trên trời, sống
dưới nước, như truyện “Mực con tìm mẹ”, “Trong một hồ nước”,...
Trong truyện đồng thoại, tất cả thế giới động vật, cỏ cây, hoa lá,... đều có linh
hồn. Mỗi câu chuyện đều nhen nhóm lên ở trẻ tình yêu thiên nhiên, cuộc sống,
khiến trẻ có thể hòa mình vào những trang viết, hòa mình vào thế giới tự nhiên.
Điều này làm giàu thêm kiến thức, phong phú đời sống tâm hồn, thôi thúc ở trẻ trí
tó mò, lòng ham hiểu biết, mong muốn khám phá thế giới tự nhiên quanh trẻ.
Qua các hình tượng nhân vật trong truyện đồng thoại, trẻ nhận ra mối quan hệ
con người trong xã hội, tình cảm cao đẹp giữa con người với con người. Đó là tình
cảm gia đình như truyện “Mắt giếc đỏ hoe”, tình bạn bè thắm thiết giúp đỡ nhau
trong hoạn nạn: “Đôi bạn tốt” và rất nhiều tình cảm cao quý khác nữa.
Trong truyện đồng thoại, tính chất mơ tưởng hoặc khoa trương là yếu tố
không thể thiếu. Sự tung hoành của trí tưởng tượng cùng với lối viết ngắn
gọn, vui tươi, dí dỏm, với nhiều yếu tố bất ngờ thú vị khiến đồng thoại trở nên
gần gũi với trẻ nhỏ, làm phong phú trí tưởng tượng các em.
Ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu tính tạo hình nhờ việc sử dụng từ ngữ
miêu tả âm thanh, màu sắc với những biện pháp so sánh đặc biệt, giúp trẻ dễ dàng
hình dung đặc điểm của sự vật hiện tượng. Nó cung cấp cho các em vốn từ giàu đẹp
với đầy đủ cơ cấu thể loại, nhận rõ tính chính xác của từ, sự hoàn hảo của câu và
văn phong trong sáng, giản dị. Qua ngôn ngữ đồng thoại, trẻ còn học được lối diễn
đạt ngôn ngữ hóm hỉnh, lối hội thoại sinh động, cụ thể, ví von, so sánh.
1.4.2. Hoạt động cô kể cho trẻ nghe truyện
1.4.2.1. Mục đích, yêu cầu
Cũng giống như hầu hết các hoạt động học ở trường mầm non, mục

đích yêu cầu của hoạt động cô kể cho trẻ nghe truyện thể hiện ở ba phương
diện: kiến thức, kĩ năng và thái độ.

16


Về kiến thức, trước hết trẻ phải biết được tên tác giả, tên tác phẩm. Tiếp
đến trẻ cần biết số lượng nhân vật có trong truyện, phân biệt được nhân vật
chính, nhân vật phụ. Không những thế, trẻ phải hiểu được đặc điểm, tính cách
của từng nhân vật trong truyện, từ đó phân tuyến nhân vật. Trẻ cần nắm được
số lượng tình tiết, sự kiện trong truyện, hiểu được logic của tình huống, sự
kiện trong truyện, từ đó hiểu được nội dung của truyện. Từ việc nắm được nội
dung của truyện, trẻ cần hiểu được tư tưởng của tác phẩm, từ đó đồng cảm với
tư tưởng mà tác giả muốn truyền tải.
Có thể sơ đồ hóa mục đích, yêu cầu về kiến thức của hoạt động cô kể
cho trẻ nghe truyện như sau:
Biết

Hiểu

Đồng
cảm

- Tên tên tác giả,
tên tác phẩm
(thể loại)

- Đặc điểm tính
cách nhân vật


- Tư tưởng của
tác phẩm

- Số lượng nhân
vật, nhân vật
chính, nhân vật
phụ
- Số lượng tình
tiết, sự kiện

- Phân tuyến
nhân vật
- Logic của tình
huống sự kiện
- Nội dung
truyện

Về kĩ năng, hoạt động chủ yếu hướng tới việc rèn luyện và phát triển
khả năng nghe có chủ đích cho trẻ. Bên cạnh đó tiếp tục rèn luyện các kĩ
năng: nói đúng ngữ pháp, nói mạch lạc rõ ý,.... giúp trẻ phát triển một cách
toàn diện.
Về thái độ, hoạt động chủ yếu hướng tới việc đồng cảm với tư tưởng
của tác phẩm đồng thời hình thành ở trẻ hứng thú, mong muốn được thể hiện
lại tác phẩm.
17


1.4.2.2. Phương pháp, biện pháp sử dụng khi tổ chức hoạt động
Trong quá trình tổ chức hoạt động, giáo viên thường sử dụng phối hợp
các phương pháp giáo dục nhằm mang lại hiệu quả cao. Trong đó, phương

pháp chính giữ vai trò chủ đạo là phương pháp dùng lời. Giáo viên kể tác
phẩm có nghệ thuật giúp trẻ hiểu nội dung tư tưởng của tác phẩm. Sự kết hợp
cử chỉ, điệu bộ, nét mặt trong khi kể diễn cảm cần hết sức tự nhiên, tránh phô
trương thái quá. Cử chỉ, điệu bộ, dáng vẻ, nét mặt của cô giúp trẻ hình dung
một cách đầy đủ hình tượng tác phẩm. Khi kể, giáo viên cần chú ý vào sự
giao tiếp giữa cô và trẻ, đặc biệt là giao tiếp qua đôi mắt.
Kể diễn cảm kết hợp với trao đổi gợi mở giúp là sâu sắc thêm quá trình
nhận thức của trẻ. Việc trao đổi với trẻ về tác phẩm có thể tiến hành ở đầu,
xem giữa những lần kể hoặc củng cố kết thúc tác phẩm.
Ngoài việc kể diễn cảm tác phẩm và trao đổi gợi mở, giáo viên có thể
kết hợp với các phương tiện trực quan trong khi kể, như: âm thanh, âm nhạc
phù hợp với truyện kể, các đồ dùng trực quan như: con rối, tranh ảnh, sa
bàn,... Bên cạnh đó, giáo viên cần chuẩn bị môi trường, không gian hợp lí,
mang màu sắc của truyện; tạo tâm thế vui tươi, thân thiện giữa cô với trẻ, giữa
các trẻ với nhau, giúp trẻ có tâm lí thoải mái, tự nhiên khi bước vào hoạt
động. Đồng thời, giáo viên cũng có thể sử dụng yếu tố chơi, các trò chơi
nhằm khắc sâu ghi nhớ của trẻ về tác phẩm.
1.4.3. Hoạt động cô dạy trẻ kể lại truyện
1.4.3.1. Mục đích, yêu cầu
Mục đích, yêu cầu của hoạt động cô dạy trẻ kể lại truyện cũng được thể
hiện ở ba phương diện: kiến thức, kĩ năng và thái độ. Nếu hoạt động cô kể cho
trẻ nghe truyện chủ yếu giúp trẻ nắm được nội dung tác phẩm, đặc điểm tính
cách nhân vật thì hoạt động cô dạy trẻ kể lại truyện chủ yếu nhằm mục đích
giúp trẻ thể hiện lại tác phẩm một cách có nghệ thuật.
Để thể hiện lại tác phẩm một cách có nghệ thuật, trước hết về kiến thức,
giáo viên phải giúp trẻ nắm được sự khác biệt về giọng điệu của các nhân vật,
phân biệt sự khác biệt trong giọng điệu của tác phẩm. Trẻ cần biết với nhân
18



vật tốt bụng, hiền lành, giọng kể như thế nào; với nhân vật xấu xa, độc ác,
giọng kể ra sao; hay đầu tác phẩm kể với giọng như thế nào, cuối tác phẩm kể
với giọng ra sao,…
Về kĩ năng, trẻ cần nhớ được nhân vật và các tình huống sự kiện trong
truyện; thể hiện được tính cách của nhân vật qua giọng kể của mình.
Về thái độ, hoạt động chủ yếu hình thành ở trẻ hứng thú và mong muốn
thể hiện tác phẩm.
1.4.3.2. Phương pháp, biện pháp sử dụng khi tổ chức hoạt động
Trong quá trình tổ chức hoạt động cô dạy trẻ kể lại truyện, phương
pháp chủ đạo là phương pháp dùng lời và phương pháp thực hành trải
nghiệm. Giáo viên tiến hành đàm thoại với trẻ thông qua hệ thống câu hỏi đã
chuẩn bị trước nhằm giúp trẻ thể hiện lại tác phẩm một cách có nghệ thuật.
Nội dung chính của hoạt động này là tạo cơ hội cho trẻ được thực hành trải
nghiệm. Chính vì vậy, giáo viên tận dụng tối đa thời gian, cơ hội để trẻ được
thể hiện lại tác phẩm. Có thể tiến hành cho trẻ kể theo nhóm, cá nhân, cần đặc
biệt chú ý đến hình thức hoạt động của cá nhân. Sau phần kể của trẻ, giáo
viên cần cho các trẻ nhận xét nhau và đưa ra nhận xét của mình và sửa sai cho
trẻ; khen thưởng, biểu dương những trẻ có thành tích tốt; đồng thời động viên
những trẻ còn yếu.
Bên cạnh phương pháp dùng lời và phương pháp thực hành trải nghiệm,
giáo viên có thể kết hợp các phương pháp, biện pháp khác nhằm đem lại hiệu
quả giáo dục cao, như: chuẩn bị đạo cụ, môi trường chu đáo; xây dựng không
gian, sân khấu hợp lí; tạo tâm thế vui tươi, thân thiện giữa cô với trẻ, giữa các
trẻ với nhau, giúp trẻ bước vào hoạt động một cách tự nhiên, thoải mái. Bên
cạnh đó, giáo viên có thể sử dụng yếu tố chơi, trò chơi nhằm khắc sâu ghi nhớ
của trẻ, như: tổ chức cuộc thi vẽ tranh minh họa cho truyện, hoặc cho trẻ đóng
vai các nhân vật trong truyện và cùng nhau kể lại truyện,...
1.5.

Biểu hiện của khả năng ghi nhớ truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi

Trong hoạt động kể chuyện ở trường mầm non, khả năng ghi nhớ của

trẻ 4 – 5 tuổi biểu hiện ở nhiều phương diện khác nhau.
19


Trước hết, nó biểu hiện ở khả năng nhớ cấu trúc của tác phẩm. Khả
năng này đòi hỏi trẻ phải xác định được tên tác giả, tên tác phẩm. Có nghĩa là,
sau khi nghe cô kể chuyện thì trẻ phải nhớ được cô vừa kể câu chuyện gì, tác
giả câu chuyện là ai (nếu có). Đồng thời khả năng nhớ cấu trúc của tác phẩm
còn thể hiện ở khả năng xác định được nhân vật trong truyện. Sau khi đã có
một vài ấn tượng về câu chuyện cô kể, nhớ được tên truyện và tên tác giả, thì
đòi hỏi trẻ phải nhớ được các nhân vật trong truyện. Không chỉ vậy, trẻ cần
biết được nhân vật nào là nhân vật chính, biết đặc điểm tính cách nhân vật,
phân tuyến nhân vật, đặc điểm giới tính,.... Khả năng nhớ cấu trúc của tác
phẩm còn được thể hiện ở khả năng nhắc lại được tình tiết, cốt truyện của trẻ.
Nếu trẻ được cho rằng đã nhớ cấu trúc của tác phẩm thì đòi hỏi trẻ phải nhớ
và nhắc lại được những tình tiết chính của tác phẩm. Đồng thời, trẻ phải nhắc
lại được nội dung chính của truyện (cốt truyện).
Thứ hai là khả năng nhớ ý nghĩa tác phẩm. Khả năng này đòi hỏi trước hết
trẻ phải có khả năng xác định những chi tiết trong tác phẩm. Điều này có nghĩa
là, sau khi nghe cô kể, trẻ phải xác định được những chi tiết chính trong tác
phẩm và ghi nhớ chúng. Nếu trẻ không xác định được những chi tiết này thì khó
có thể hiểu và ghi nhớ được ý nghĩa của tác phẩm được. Khả năng nhớ ý nghĩa
của tác phẩm còn được biểu hiện ở khả năng hiểu từ ngữ khó. Đa số những câu
chuyện được kể cho trẻ nghe đều là những câu chuyện dân gian với ngôn ngữ
mộc mạc, giản dị, phù hợp với trẻ nhỏ. Tuy nhiên, cũng có một số câu chuyện
chứa từ ngữ mới và khó với trẻ. Chính vì vậy, giáo viên phải giúp trẻ hiểu và ghi
nhớ được những từ ngữ mới đó. Có như vậy, trẻ mới có thể hiểu ý nghĩa của
truyện và ghi nhớ truyện tốt hơn. Các hành vi trần thuật cũng là một biểu hiện

của khả năng nhớ ý nghĩa của truyện của trẻ. Nếu trẻ được cho rằng nhớ ý nghĩa
của truyện, thì yêu cầu không thể thiếu là trẻ phải nhớ được nội dung chính của
tác phẩm và thể hiện lại tác phẩm bằng ngôn ngữ của mình.
Khả năng tương tác với hình minh họa cũng là một trong những biểu
hiện về khả năng ghi nhớ của trẻ. Khả năng này thể hiện ở chỗ, trẻ phải có
khả năng đặt câu hỏi cho hình minh họa. Điều này có nghĩa là, khi giáo viên
20


giới thiệu và sử dụng hình minh họa trong hoạt động cô kể cho trẻ nghe
truyện, thì trẻ phải biết đưa ra những thắc mắc hay suy nghĩ của mình về
những hình minh họa đó. Việc đặt câu hỏi cho hình minh họa sẽ giúp trẻ hiểu
và nhớ truyện tốt hơn. Bên cạnh đó, trẻ phải có khả năng nhận xét về hình
minh họa. Khả năng này đòi hỏi, trẻ phải đưa ra được ý kiến của mình về đặc
điểm của hình minh họa mà cô giới thiệu. Chẳng hạn như, trẻ đặt tên cho bộ
hình minh họa của cô, trẻ nói được trong hình minh họa của cô có những gì,
những nhân vật trong hình minh họa đang làm gì,.... Khả năng tương tác với
hình minh họa còn được thể hiện ở khả năng nhớ tác phẩm thông qua hình
minh họa. Có thể nói, đây là một trong những tác dụng lớn nhất của việc sử
dụng ĐDTQ trong hoạt động cô kể cho trẻ nghe truyện. Nếu trẻ có khả năng
tương tác với hình minh họa tốt, cùng với những ấn tượng về tác phẩm, thì
dựa vào việc quan sát hình minh họa, trẻ có thể nhớ lại được những nội dung
của tác phẩm một cách dễ dàng, chính xác.
1.6.

Ảnh hƣởng của biện pháp sử dụng ĐDTQ đến khả năng ghi nhớ
truyện kể của trẻ 4 – 5 tuổi
Sử dụng ĐDTQ trong quá trình giáo dục trẻ mầm non mang lại những

lợi ích vô cùng to lớn. ĐDTQ giúp trẻ dễ dàng tìm hiểu, khám phá những điều

chưa biết về thế giới xung quanh, tiếp thu những kinh nghiệm xã hội và dễ
dàng thích nghi với môi trường sống. Không những thế, ĐDTQ tạo động lực
học tập, thu hút sự chú ý của trẻ; kích thích sự tò mò, ham hiểu biết ở trẻ; tăng
cường trí nhớ và óc tưởng tượng sáng tạo của trẻ.
Hình tượng trực quan là nguồn thông tin thẩm mĩ với tư cách là một
phương tiện dạy học, nó hỗ trợ đắc lực trong việc cho trẻ LQVTPVH, trong
việc kết hợp ngôn ngữ đọc và kể để trẻ cảm thụ văn học.
Điều này càng đúng hơn với trẻ mẫu giáo, trẻ chưa thể tự đọc bằng mặt
chữ một văn bản nghệ thuật nào, cho nên trẻ tiếp nhận các thể loại văn học
nghệ thuật thông qua khâu trung gian là cô giáo – với tư cách là người đọc
trực tiếp rồi đọc lại và kể lại trung thành nội dung văn bản với ấn tượng sâu
đậm, rõ nét nhất và những hiểu biết kĩ càng giá trị toàn diện văn bản. Bằng
21


×