Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tóm tắt khóa luận: Viết lại Hà Nội: diễn ngôn về thành phố trong sáng tác của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Bình Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.03 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Cho đến nay, chúng ta có thể khẳng định sự tồn tại cả một dòng văn học nghệ thuật
về thành phố. Bởi sự hiện diện của thành phố trong tác phẩm nghệ thuật không còn đơn
giản chỉ là phông nền, bối cảnh cho những câu chuyện, những tâm tình mà nó chính là
“nhân vật chính” của những tác phẩm ấy. Sự hiện diện của thành phố trong văn chương
nghệ thuật cũng không đơn thuần là sự chuyển hóa hình ảnh thành phố vật chất vào tác
phẩm mà quan trọng hơn, hình ảnh thành phố được thể hiện như thế nào, bản thân nó đã là
một ý tưởng. Trong những tác phẩm đầu tiên về thành phố ở phương Tây, thành phố đã
hiện lên như một ý niệm tinh thần hơn là một thực thể vật chất. Người Germain đã xây
dựng hình ảnh Riga như một ngụy tạo văn hóa phục vụ cho mục đích mở rộng lãnh thổ của
mình. Trong sách Khải huyền của Thánh Augustine, thành phố hiện lên như là một đối cực
của thành phố trên cao- thành phố của Chúa- trật tự hoàn hảo, vì thế thành phố của con
người là một biểu tượng tha hóa, cái bất toàn. Thànnh phố như là những huyễn tưởng được
xây dựng trong Utopia của Thomas Moore hay Thành phố mặt trời của Thomas
Campanella. Paris thường xuyên hiện diện với huyền thoại về kinh đô ánh sáng, Rome với
huyền thoại về thành phố tình yêu… Do những khác biệt về điều kiện phát triển kinh tế xã
hội nên những thành phố ở châu Á xuất hiện muộn hơn và ít nhiều chịu ảnh hưởng từ
phương Tây. Tuy kém về bề dày lịch sử nhưng những thành phố châu Á vẫn tạo dựng một
dòng mạch riêng. Châu Á có những dòng văn học nghệ thuật về Bắc Kinh như là thành phố
của giấc mơ Xã hội chủ nghĩa, Hồng Kông như là một thành phố quốc tế… Hà Nội, với vị
trí của một thủ đô 1000 năm tuổi, cũng có một dòng mạch riêng viết về nó, khởi đầu từ
năm 1010, liên tục phát triển, tổng hợp, rẽ nhánh cho đến tận hôm nay. Khi lựa chọn đề tài
này, chúng tôi muốn nghiên cứu các tác phẩm văn chương về Hà Nội như là một phần của
dòng văn học thành phố.
Khi tiếp cận dòng văn chương viết về Hà Nội, chúng tôi nhận thấy một hình ảnh
Hà Nội không cố định và không thuần nhất ngay tại một thời điểm. Vì thế có thể thấy
rằng hình ảnh Hà Nội trong văn học nghệ thuật không thể hiểu đơn giản là sự phản ánh
đời sống vào tác phẩm. Các tác phẩm văn học nghệ thuật về Hà Nội cần được nhìn nhận
ở bản chất diễn ngôn- tức là mỗi hình ảnh Hà Nội được kiến tạo nên đều nhằm một mục


đích nào đó, chịu sự chi phối của một tư tưởng hệ, một mĩ cảm nào đó, thậm chí đi theo
một số công thức biểu đạt nhất định… Hà Nội trong văn học nghệ thuật là một kiến tạo
ngôn ngữ với nhiều ảo tưởng, nhiều tham vọng chứ không phải là một thực thể trong
suốt có thể quy chiếu về thành phố thực tại như ta vẫn tưởng.

1


Ba mươi năm 1945- 1975 là giai đoạn đầy biến động trong lịch sử dân tộc. Bão
táp chiến tranh đã cuốn vào trong nó cuộc đời của những cá nhân, lịch sử của những gia
đình và cả lịch sử của những thành phố như Hà Nội. Ba mươi năm khốc liệt ấy không
chỉ để lại dấu ấn trên cảnh quan của thành phố với sự hiện diện của những lỗ châu mai,
của những hầm trú ẩn, những mảng tường lở loét vì bom đạn chiến tranh, những tượng
đài quyết tử… mà còn để lại dấu ấn trong văn học nghệ thuật và vẫn còn hằn sâu trong
kí ức của những người Hà Nội hôm qua và hôm nay. Thời đại này đã sản sinh ra những
cảm thức hêt sức mới mẻ, trước đây chưa từng có về chốn kinh kì văn hiến, nơi đô thị
phồn hoa và tạo dựng cho thành phố này một diện mạo tinh thần mới.
2. Lịch sử vấn đề
2.1.

Lịch sử nghiên cứu về Hà Nội như một diễn ngôn trong văn học nghệ thuật
Hà Nội với bề dày lịch sử của mình đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất
nhiều ngành như địa lí, lịch sử, khảo cổ, xã hội học, kiến trúc, khảo sát văn hóa phong
tục… Các nhà nghiên cứu cũng đã nghiên cứu về Hà Nội, con người Hà Nội, bản sắc
văn hoá Hà Nội trong văn học nghệ thuật, tuy nhiên những nghiên cứu này chủ yếu
mang tính chất mô tả, quy chiếu về diện mạo của thành phố thực chứ không nhìn nó
như một thực thể tinh thần, không lí giải nguyên nhân hay cơ chế thẩm mĩ nào dẫn đến
sự kiến tạo hình ảnh Hà Nội qua các thời kì như ta thấy. Trong số các nghiên cứu về Hà
Nội trong văn học nghệ thuật, đáng kể nhất là hội thảo Về bản sắc văn hóa Hà Nội trong
văn học nghệ thuật thế kỉ XX do trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam tổ chức. Tuy nhiên

trong hội thảo này cũng chỉ có duy nhất bài tham luận “Nghệ thuật và thành phố- Chân
dung Hà Nội trong mắt nghệ sĩ Việt Nam” của TS Natalia Kraevskaya và Lisa
Drummond “xem xét những xu hướng trong việc diễn giải và khái niệm hóa Hà Nội
như một chủ thể nghệ thuật”. Các bài tham luận khác hầu hết có tính chất khái quát
những đặc điểm của Hà Nội được thể hiện qua sáng tác, nghĩa là nhìn nhận nó như là một
đối tượng phản ánh của nghệ thuật và quan tâm đến cách thức xử lí những hình ảnh đó
bằng phương tiện của các loại hình nghệ thuật.
Trong khóa luận tốt nghiệp Viết lại Hà Nội: diễn ngôn về thành phố trong sáng
tác của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Bình Phương, chúng tôi cũng đã bước đầu xác lập
Hà Nội với tư cách một văn bản liên tục được viết lại theo thời gian. Các diễn ngôn
song song tồn tại với nhau, thay thế nhau, giao thoa nhau trong từng thời kì tạo nên diện
mạo Hà Nội trong văn học nghệ thuật. Trong dòng mạch đó chúng tôi định vị và nhận
diện diễn ngôn về Hà Nội trong sáng tác của hai nhà văn. Tuy nhiên đây chỉ là những
bước đi ban đầu, chúng tôi cảm thấy cần phải có sự nghiên cứu sâu sắc hơn đối với diễn
ngôn về Hà Nội trong từng giai đoạn, đặc biệt là một giai đoạn có nhiều nhánh diễn
ngôn đa dạng, phong phú như giai đoạn 1945- 1975.
2


Lịch sử nghiên cứu diễn ngôn về Hà Nội trong văn học giai đoạn 1945- 1975

2.2.

Giai đoạn 1945- 1975 là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình văn học Việt
Nam thế kỉ XX, vì thế nó nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu văn học,
nghệ thuật. Tuy nhiên, do những đặc trưng về hoàn cảnh lịch sử xã hội, chủ trương văn
hóa văn nghệ đại chúng, thi pháp thời đại mà các nhà nghiên cứu chưa chú trọng đến
nghiên cứu diễn ngôn về các vùng miền trong văn học, nhất là diễn ngôn về thành phố.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các diễn ngôn về Hà Nội trong văn học

miền Bắc Việt Nam 1945- 1975
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi khảo sát các diễn ngôn về Hà Nội trong giai đoạn
từ 1945 đên 1975, tập trung khai thác những diễn ngôn văn chương tiêu biểu ở miền
Bắc (bao gồm các thể loại văn xuôi, thơ, kí)
5. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của chúng tôi khi lựa chọn nghiên cứu đề tài này là:
- Thứ nhất: nhận diện các diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền Bắc Việt Nam 19451975 trong dòng mạch các diễn ngôn liên tục viết tiếp và viết lại về Hà Nội trong hơn
1000 năm qua.
- Thứ hai: chỉ ra được những công thức diễn ngôn tiêu biểu, cơ chế kiến tạo và giá trị của
những công thức diễn ngôn này trong việc kiến tạo hình ảnh Hà Nội trong văn học nghệ
thuật cũng như trong tâm thức con người.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: nghiên cứu sự kiến tạo hình ảnh Hà Nội giai đoạn
1945- 1975 trên cơ sở kết hợp các diễn ngôn lịch sử, văn hóa, các diễn ngôn văn học,
mỹ thuật, âm nhạc , điện ảnh, các nghiên cứu trên lĩnh vực kiến trúc, quy hoạch đô thị.
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp tổng hợp
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích văn bản và liên văn bản
7. Cấu trúc luận văn
-

Phần nội dung chính của luận văn gồm có ba chương:
Chương I: Diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền Bắc Việt Nam 19451975- những vấn đề chung
Chương II: Thủ đô/ đô thị- hai diễn ngôn độc lập, tương tranh
Chương III: Thủ đô và đô thị- khi các diễn ngôn tìm được sự hòa giải.
3



4


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
DIỄN NGÔN VỀ HÀ NỘI TRONG VĂN HỌC MIỀN BẮC
VIỆT NAM 1945- 1975- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.

Thành phố- một thực thể diễn ngôn

Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự ra đời của những thành phố đầu tiên từ cách
đây mấy nghìn năm. “Thành phố là gì?” hiển nhiên là câu hỏi mà bất cứ ai cũng trả lời
được, thậm chí có thể trả lời rất nhanh chóng và dễ dàng. Nó đã quá đỗi quen thuộc
trong sự quan sát, trải nghiệm và suy nghĩ của chúng ta. Xác lập lại định nghĩa về thành
phố dường như đã trở thành một việc không cần thiết. Tuy nhiên chúng tôi sẽ bắt đầu từ
chính điểm dường như không cần thiết này để khám phá diện mạo và bản chất của thành
phố cũng như sự xuất hiện của thành phố trong văn học với tư cách diễn ngôn thay vì
chỉ là bối cảnh, phông nền cho những truyện kể.
1.1.1. Thế nào là một thành phố?
1.1.1.1.

Thành phố- một thực thể vật chất
Sở dĩ chúng ta có thể dễ dàng đưa ra một định nghĩa về thành phố bởi nó không
phải là một ý niệm trừu tượng, một sản phẩm thuần túy của suy tưởng. Thành phố là
một thực thể vật chất đang hiện hữu ngay bên cạnh chúng ta, thậm chí nó chính là
không gian bao bọc sự tồn tại của chúng ta, là cuộc sống thường ngày, gắn bó trong
những thói quen, trong từng bước đi, từng hơi thở. Trong từng tháng ngày đang sống, ta
vừa cảm nhận về thành phố mơ hồ trong cảm giác vừa sống động trong sự tiếp xúc của
tất cả các giác quan. Thành phố không phải là những hình dung xa xôi hay là một miền

tưởng tượng, thành phố ở rất gần và rất thực, là những hình ảnh mắt ta trông thấy,
những âm thanh tai ta nghe thấy, những cảm giác chật chội, nóng bức hay rộng dài,
thênh thang, bay bổng hàng ngày đọng lại thành những ấn tượng, lưu lại trong trí nhớ.
Trong cách hiểu phổ biến nhất, thành phố thường được định nghĩa là một khu
vực tập trung dân cư, được xác định bởi một diện tích giới hạn, quy mô dân số nhất
định, các hoạt động kinh tế, chính trị văn hóa xã hội đặc trưng và các công trình cơ sở
hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại… Thành phố vẫn được nhận diện rõ nét nhất
trong sự đối sánh với không gian trái ngược là nông thôn. Trong sự phân biệt muôn thuở
này, thành thị và nông thôn luôn là hai đối cực. Nông thôn luôn được nhắc đến là miền
không gian rộng lớn, dân cư thưa thớt, nhắc đến không gian nông thôn là nhắc đến sự
thoáng đãng và khoáng đạt. Trong khi đó, dù diện tích thường được đo bằng những con
số rất lớn nhưng không gian đô thị chưa bao giờ thôi đem đến cảm giác chật chội cho
5


1.1.1.2.

những cư dân của nó. Cho dù diện tích có được mở rộng đến đâu thì hình như vẫn cứ là
chưa đủ so với quy mô dân số ngày càng phình to và mật độ cư dân nơi đô thị. Nông
thôn là không gian liền khối còn không gian thành phố liên tục phân mảnh. Nông thôn
thôn giản dị, thành phố lộng lẫy, xa hoa. Sự nhận diện một thành phố có thể dựa trên
những tiêu chí tổng thể, vĩ mô, đôi khi có thể chỉ bắt đầu từ cảm nhận hết sức quen
thuộc giữa đời thường
Thành phố- một ý niệm tinh thần

1.1.1.3.

Diện mạo vật chất của thành phố chỉ là lớp vỏ, chỉ là cái áo ẩn chứa tận sâu bên
trong, phía sau bao nhiêu ý niệm tinh thần. Những ý niệm đó không chỉ là cái ẩn chứa,
cái được cất giấu mà có khi còn tạo thành chính không quyển tinh thần bao bọc thành

phố, cũng như giới hạn suy nghĩ và cảm nhận của con người. Trong ý thức văn hóa của
chúng ta, hai chữ “thành phố” chưa bao giờ đơn giản chỉ quy chiếu về một thực thể vật
chất, một loại địa bàn cư trú, một kiểu tổ chức đời sống xã hội. Có rất nhiều những suy
nghĩ, cảm giác theo cùng hai chữ “thành phố” ấy- đó chính là cảm thức đô thị. Cảm
thức này không chỉ gắn với trải nghiệm của một cá nhân, một cộng đồng mà tồn tại ở
tầng sâu của vô thức xã hội tạo thành vô thức đô thị. Từ đó, nảy sinh những khát vọng
đô thị, tâm thế chán chường đô thị hay nhìn nhận nông thôn và đô thị trong sự xâm lăng
và nguy cơ tha hóa.
Thành phố còn là một hiện tượng mang tính lịch sử. Thành phố nào cũng có quá
khứ của riêng nó và quá khứ ấy chưa bao giờ là cái đã xảy ra, đã kết thúc trọn vẹn tại
một thời điểm và vĩnh viễn không còn bất cứ mối quan hệ nào với hiện tại. Thành phố
nào cũng mang trong hiện tại của mình những dấu vết và âm vang của quá khứ. Thành
phố không chỉ gắn với kinh nghiệm của cộng đồng mà còn có mối quan hệ rất đặc biệt
với những kinh nghiệm cá nhân, đặc biệt là trải nghiệm của cá nhân với đời sống đô thị.
Thành phố- một phức hợp vật chất và tinh thần
Một thành phố luôn luôn được tạo nên bởi phần diện mạo vật chất và diện mạo
tinh thần. Tuy nhiên, phần diện mạo vật chất không đơn giản chỉ là phần nổi, là lớp vỏ
bên ngoài ẩn chứa bên trong diện mạo tinh thần và diện mạo tinh thần cũng không chỉ là
phần chìm giấu mình ở bên trong. Chúng không phải là hai phần tách rời, được đặt cạnh
nhau, kết nối một cách lỏng lẻo. Mối quan hệ giữa hai phần trong diện mạo một thành
phố là sự gắn bó chặt chẽ mang tính triết học. Ở đó diện mạo vật chất không thuần túy
là hình thức mà là hình thức mang tính tinh thần và cái tinh thần cũng không thuần túy
là phần linh hồn vô hình, trừu tượng, khó nắm bắt mà nó đã tìm được cách hiện diện
trong không gian vật chất cụ thể của thành phố. Cái tinh thần còn bao trùm lên toàn bộ
không gian, một cách vô thức chi phối đến sự cải tạo cảnh quan đô thị của chúng ta.
Không gian sống của chúng ta chính là sự chuyển hóa, sự hữu hình hóa những ý niệm
6


tinh thần và bất cứ sự thay đổi nào trên diện mạo vật chất của thành phố cũng ngay lập

tức sản sinh ra những cảm thức mới mẻ. Thành phố là một hiện tượng phức tạp tự thân,
vì thế sự xuất hiện của thành phố trong sáng tác văn chương sẽ không đơn giản chỉ là
phản ánh một không gian thực trên trang sách.
1.1.2. Diễn ngôn- những vấn đề chung

1.1.2.1.

Thế kỉ XX là thế kỉ chứng kiến nhiều biến động trên hầu hết các lĩnh vực của
đời sống xã hội và đặc biệt là văn hóa, tư tưởng. Từ khoảng giữa những năm 1960 đến
nay, có một hướng nghiên cứu thu hút được sự chú ý nhiều nhất của các học giả và cũng
có ảnh hưởng quan trọng, toàn diện đến nhiều ngành nghiên cứu khoa học xã hội thậm
chí dẫn đến sự phát triển của những nghiên cứu liên ngành như triết học khoa học, triết
học nghệ thuật, sự kết nối giữa nghệ thuật và khoa học, khoa học và tôn giáo… Đó
chính là hướng nghiên cứu diễn ngôn.
Bước ngoặt diễn ngôn.
Lí thuyết diễn ngôn thực sự đã tạo nên một bước ngoặt quan trọng không chỉ
trong lĩnh vực nghiên cứu mà còn làm thay đổi căn bản cái nhìn của chúng ta về thế giới
xung quanh. Nhiều nhà nghiên cứu còn đánh giá bước ngoặt diễn ngôn như một sự thay
đổi hệ hình tri thức và tư duy của con người.
Trước hết, việc thừa nhận thuật ngữ diễn ngôn đã thay đổi quan niệm của chúng
ta về bản thể. Phát hiện và đề cao thuật ngữ diễn ngôn, các nhà nghiên cứu không phủ
nhận thực tại khách quan. Thế giới xung quanh chúng ta là tồn tại có thực và độc lập với ý
muốn chủ quan của con người, dù ta muốn hay không muốn thì thế giới bên ngoài ta cũng
đã sinh thành và vận hành như thế. Tuy nhiên, ý thức của con người về thế giới không bao
giờ là trọn vẹn khách quan và chân thực tuyệt đối. Nhận thức của chúng ta luôn gắn bó chặt
chẽ với ngôn ngữ. Chúng ta nhận thức bằng ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ. Tất cả
những tri thức, quy luật mà con người đúc kết được về thế giới từ trước đến nay đều cho ta
thấy diện mạo đầy ảo tưởng về một thế giới như nó vốn có. Tất thảy chỉ là thế giới trong nỗ
lực thể hiện bằng ngôn ngữ, thế giới như ta nói về nó, như ta viết về nó. Thế giới khách
quan vẫn tồn tại bên ngoài con người, vẫn là đối tượng của nhận thức, tuy nhiên, nó chỉ

được biết đến thông qua diễn ngôn.
Hướng nghiên cứu diễn ngôn đồng thời tạo ra bước ngoặt quan trọng trong
nhận thức của con người về ngôn ngữ. Ngôn ngữ không còn đơn thuần được xem là
phương tiện chuyên chở ý nghĩa, một công cụ biểu đạt thông tin một cách chính xác,
chân thực trong hoạt động giao tiếp. Ngược lại, ngôn ngữ là một thứ “công cụ” đầy
quyền năng, một thiết chế quyền lực có khả năng can thiệp rất sâu, chi phối, thậm chí
giới hạn các hành vi biểu đạt của con người.

7


1.1.2.2.

Sự thay đổi trong quan niệm về nhận thức và ngôn ngữ tất yếu dẫn đến sự thay
đổi trong quan niệm của con người về văn chương. Ảnh hưởng từ lí thuyết phản ánh,
suốt một thời gian dài văn chương được quan niệm như là một hình thái ý thức xã hội.
Mặc dù được nhìn nhận như một dạng thức phản ánh với nhiều nét đặc thù của tư duy
nghệ thuật cũng như những đặc điểm về chất liệu, khác với chính trị, tôn giáo, khoa
học… nhưng về cơ bản, chúng ta vẫn hay quy chiếu văn chương về thực tại, vẫn lấy khả
năng khám phá, phản ánh hiện thực ra làm một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá
tác phẩm văn chương. Bước ngoặt diễn ngôn khiến chúng ta phải từ bỏ thói quen đánh
giá văn chương từ góc độ phản ánh và xác định lại bản chất của nó. Văn học xét cho
cùng là tập hợp những gì chúng ta coi là văn học. Văn học là một trong rất nhiều cách
mà con người nhận thức về đời sống nhưng nhận thức đó không đơn thuần chỉ là phản
ánh.
Khái niệm diễn ngôn
Diễn ngôn là một thuật ngữ với nội hàm phức tạp, ngoại diên trải ra trên một
phạm vi cực kì rộng lớn và quá trình vận động ý nghĩa vẫn chưa dừng lại. Vì thế trong
khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi không thể bao quát toàn bộ các phương diện của
thuật ngữ cũng như khả năng ứng dụng phong phú của nó trong nghiên cứu khoa học xã

hội và nhân văn. Chúng tôi sẽ lược thuật lại các hướng tiếp cận thuật ngữ diễn ngôn và
đi sâu vào những phương diện có liên quan trực tiếp đến quá trình tạo lập và diễn giải,
sự khởi sinh và được chấp nhận của diễn ngôn về thành phố trong văn học nói chung và
diễn ngôn về thành phố Hà Nội trong văn học miền Bắc Việt Nam giai đoạn từ năm
1945 đến 1975.
Trước hết, trong các từ điển ngôn ngữ phổ thông, diễn ngôn thường được hiểu
theo hai nghĩa. Thứ nhất, diễn ngôn là sự giao tiếp bằng tiếng nói (cuộc trò chuyện, lời
nói, bài phát biểu…). Thứ hai, diễn ngôn là sự nghiên cứu tường minh, có hệ thống về
một đề tài nào đó (luận án, luận văn, các sản phẩm của suy luận…) Cả hai định nghĩa
thông dụng này đều xem diễn ngôn là thực tiễn giao tiếp ngôn ngữ. Trong hai trường
hợp này diễn ngôn là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, được đồng nhất
với văn bản (bao gồm cả văn bản nói và văn bản viết). Tuy nhiên, văn bản chỉ là dạng
thức tồn tại cụ thể của diễn ngôn mà thôi. Và một diễn ngôn không chỉ tồn tại trên một
văn bản, diễn ngôn là hiện tượng xuyên văn bản, liên văn bản, thậm chí siêu văn bản.
Để nhận diện một diễn ngôn, cần có cái nhìn xuyên qua, kết nối các văn bản có cùng
một nội dung biểu đạt, cùng hướng tiếp cận đối tượng, sử dụng cùng một hệ biểu
tượng… Sự kết nối này cũng không phải là một phép cộng giản đơn cho ra kết quả là
diễn ngôn bằng các văn bản cộng lại. Đó phải là sự nhìn nhận văn bản trong tính liên kết
và liên tục tương tác với nhau và tương tác với các yếu tố ngoài văn bản có liên quan
8


1.1.1.1.

đến quá trình tạo lập văn bản. Diễn ngôn là sự tổng hòa các mối quan hệ của bối cảnh
lịch sử, môi trường xã hội, tâm lí chủ thể, những giới hạn ngôn ngữ, định kiến văn hóa,
… đến văn bản và quan hệ giữa các văn bản trong sự tương tác, ảnh hưởng, chi phối,
giới hạn lẫn nhau. Như vậy diễn ngôn không phải là văn bản nhưng luôn luôn có mặt
trong văn bản, nó là một siêu văn bản.
Và nếu như trước đây chúng ta nhìn nhận diễn ngôn trong mối quan hệ trực tiếp

với ngôn ngữ, xem nó là một sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ thì giờ
đây, khái niệm diễn ngôn đã được mở rộng tối đa. Không chỉ có những sản phẩm kiến
tạo ngôn ngữ mới là diễn ngôn mà tất cả đều là diễn ngôn. Mọi hoạt động mang bản
chất kiến tạo dù ở trên chất liệu gì cũng sẽ cho sản phẩm là diễn ngôn. Cho dù chất liệu
là những con chữ, âm thanh, giai điệu, màu sắc, đường nét hay mảng khối… thì không
khi nào là một sáng tạo không lựa chọn, một sự sắp đặt ngẫu nhiên hay là một kết hợp
vô nghĩa. Bao giờ nó cũng thể hiện một ý tưởng nào đó, nếu không phải là đem đến một
ý tưởng hoàn toàn mới mẻ thì cũng là trao cho những chất liệu quen thuộc những khả
năng biểu đạt mới. Như vậy từ định nghĩa ban đầu còn đơn giản và bị giới hạn trong
hành vi giao tiếp bằng ngôn ngữ, giờ đây “Tất cả đều là diễn ngôn’ (Jacques Derrida)
Đặc điểm, tính chất của diễn ngôn

1.1.1.2.

Từ cách hiểu rất rộng về khái niệm diễn ngôn như thế, việc mô tả đặc điểm của
diễn ngôn hay làm rõ tính diễn ngôn cũng rất khó có thể toàn diện và trọn vẹn được.
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi xin đưa ra những điểm cơ bản làm rõ đặc
điểm, tính chất của diễn ngôn.
Trước hết, diễn ngôn mang bản chất kiến tạo. Nó chống lại ảo tưởng về tính tự
nhiên mà con người thường gán cho những sự vật xung quanh và cho cả chính bản thân
mình. Thứ hai, diễn ngôn là một kiến tạo mang dấu ấn ý thức hệ. Thứ ba, diễn ngôn có
tính quyền lực. Cuối cùng chúng tôi muốn lưu ý đến bản chất đối thoại của diễn ngôn.
Nhà nghiên cứu Julia Kristeva từng nói về diễn ngôn: “Nguyên tắc đối thoại bao giờ
cũng đi đôi với các cấu trúc chiều sâu của diễn ngôn… Nguyên tắc đối thoại là nguyên
tắc của mọi phát ngôn”.
Những yếu tố tác động đến quá trình tạo lập và duy trì một diễn ngôn
Trong các phương diện liên quan đến sự hình thành, tạo lập các diễn ngôn,
chúng tôi xin được nhấn mạnh hai phương diện quan trọng: thứ nhất là môi trường- ngữ
cảnh của diễn ngôn và thứ hai là chủ thể tạo lập diễn ngôn. Môi trường- ngữ cảnh của
diễn ngôn chính là toàn bộ hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa cùng đặc điểm về tâm lý

của xã hội. Ngữ cảnh văn hóa này chính là xuất phát điểm của quá trình tạo lập diễn
ngôn, là môi trường bao bọc, chi phối đến quá trình tạo lập diễn ngôn, nơi mà trên đó,
diễn ngôn được diễn giải và chấp nhận, đồng thời là khách thể- đối tượng của diễn
9


ngôn. Chủ thể tạo lập diễn ngôn- người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm cùng tất cả những
đặc điểm về ý thức hệ, những quan niệm riêng về con người và thế giới, cách lựa chọn
ứng xử với ngôn ngữ và với những diễn ngôn trước đó, những trải nghiệm cá nhân và
lựa chọn ứng xử với kí ức… tất cả đều có tác động trực tiếp đến quá trình hình thành
diễn ngôn và để lại dấu ấn của mình trong các diễn ngôn đó. Mối quan hệ giữa môi
trường- chủ thể- diễn ngôn là một mối quan hệ hết sức phức tạp. Nó không chỉ đơn giản
và một chiều là ngữ cảnh tác động đến diễn ngôn và chủ thể tác động đến diễn ngôn mà
môi trường cũng có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến chủ thể tạo lập diễn ngôn. Như vậy
môi trường có thể tác động trực tiếp đến diễn ngôn cũng có thể ảnh hưởng gián tiếp thông
qua chủ thể. Bản thân diễn ngôn cũng không đơn giản là sản phẩm của môi trường và chủ
thể, nó tác động ngược lại đối với chủ thể và cả ngữ cảnh. Trong quá trình tác động ngược
lại đó, diễn ngôn lại có thể làm sản sinh những cơ chế văn hóa mới quyết định sự hình
thành một kiểu diễn ngôn mới với một kiểu chủ thể và ngữ cảnh mới gắn liền với nó.
Mối liên hệ trực tiếp giữa ngữ cảnh và diễn ngôn có thể diễn giải cụ thể như sau:
Trước hết, môi trường với những đặc điểm về hoàn cảnh lịch sử, văn hóa xã hội
chính là nơi phát sinh nhu cầu tạo lập diễn ngôn. Những đổi thay trong hoàn cảnh xã hội
tất yếu dẫn đến nhu cầu hình thành một kiểu diễn ngôn mới. Sau đó, chúng ta đều có thể
dễ dàng nhận thấy môi trường văn hóa, xã hội, hoàn cảnh lịch sử không chỉ là đường
viền bối cánh mà trở thành khách thể được khám phá và thể hiện trong diễn ngôn. Môi
trường không chỉ là nơi làm nảy sinh nhu cầu tạo lập diễn ngôn mà trên nền bối cảnh
đó, diễn ngôn được diễn giải và được chấp nhận. Mọi diễn ngôn đều có thể ra đời nhưng
nó chỉ có thể tồn tại được khi nó có được sự chấp nhận của một cộng đồng diễn giải.
Cộng đồng diễn giải này phải có quy mô đủ lớn và tiếng nói quyền lực đủ để đảm bảo
cho diễn ngôn tồn tại. Tuy nhiên cũng chính ngữ cảnh- nơi mở ra những khả năng tạo

sinh phong phú cho diễn ngôn lại đồng thời là nơi giới hạn những khả năng đó.
Không chỉ tác động trực tiếp đến quá trình tạo lập diễn ngôn, ngữ cảnh còn thể
hiện ảnh hường đến diễn ngôn thông qua chủ thể. Đời sống văn hóa xã hội bao giờ cũng
có ảnh hưởng rất lớn đến chủ thể. Nhà văn nào cũng là đứa con của thời đại mình. Họ
không thể tách rời khỏi không gian, thời gian của những ngày đang sống nơi họ đang
từng ngày quan sát, trải nghiệm và suy ngẫm để một lúc nào đó, toàn bộ những ấn
tượng, những suy tưởng ấy sẽ chuyển hóa vào trong tác phẩm.
Ý thức của chủ thể không chỉ là trung gian trong mối quan hệ ngữ cảnh tác
động đến diễn ngôn. Bản thân chủ thể cùng tất cả những gì thuộc về nó đều có ảnh
hưởng trực tiếp và rất quan trọng đối với việc tạo lập một diễn ngôn. Môi trường xét
cho cùng chỉ có vai trò thúc đẩy sự ra đời của diễn ngôn còn việc nó có được khai sinh
hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể- người sẽ biến ý tưởng thành tồn tại,
10


người sẽ lựa chọn cho nó dạng tồn tại này mà không phải là dạng tồn tại khác…Chủ thể
không bao giờ chỉ tồn tại trong một tư cách duy nhất là người s áng tạo và trong vai trò
là một mắt xích trong quan hệ môi trường, ngữ cảnh văn hóa- chủ thể- diễn ngôn. Chủ
thể tạo lập diễn ngôn là một con người đứng giữa môi trường văn hóa xã hội, một lịch
sử cá nhân đồng thời là mảnh ghép nên lịch sử xã hội, một cá nhân giữa cộng đồng, một
ý thức vừa độc lập vừa liên quan đến muôn vàn ý thức khác. Đó là con người như bao
người nhưng cũng là một bản thể riêng biệt, một bản thể có kí ức, có trải nghiệm không
trộn lẫn với bất kì ai, có những năng lực đặc biệt mà những chủ thể khác không thể có
được… Kí ức, trải nghiệm riêng của chủ thể mà chúng tôi nhắc đến cũng không chỉ là kí
ức lịch sử, trải nghiệm với những đổi thay trong đời sống xã hội mà còn là kí ức, trải
nghiệm văn hóa và ngôn ngữ. Hành động tạo lập diễn ngôn luôn luôn buộc chủ thể phải
đối diện với thế giới bên ngoài mình bao gồm đời sống văn hóa xã hội đương thời, ý
thức, quan niệm chung của cộng đồng, cả những định kiến có khi rõ rang có khi tồn tại
lơ lửng trong đời sống tinh thần của xã hội, lịch sử, vô thức tập thể… Nó đồng thời
buộc chủ thể phải đối diện với thế giới bên trong mình bao gồm ý thức, quan niệm của

cá nhân, kỉ niệm, những chấn thương tâm lí, những bước ngoặt trong nhận thức và tình
cảm… Tạo lập diễn ngôn, chủ thể còn phải đối diện với tâm thức sáng tạo của chình
mình: ứng xử với chất liệu, ứng xử với những văn bản đã có, với truyền thống biểu
đạt… Như vậy, ngay cả khi chủ thể để mặc mình trôi theo bản năng sang tạo thì tạo lập
diễn ngôn vẫn là một sự lựa chọn- lựa chọn từ trong vô thức. Không khi nào một diễn
ngôn ra đời lại hoàn toàn độc lập với ngữ cảnh và chủ thể tạo lập diễn ngôn. Hơn thế mối
quan hệ ảnh hưởng này không hề đơn giản. Đặc biệt với chủ thể, anh ta không chỉ là người
quyết định viết hay không viết, diễn ngôn có được tạo lập hay không mà quan trọng hơn
với sự lựa chọn của mình, anh ta sẽ tạo hình cho diễn ngôn ấy, cho nó một tồn tại thực sự.
Ý thức của chủ thể sẽ là nơi diễn ra xung đột giữa những yếu tố đến từ môi trường bên
ngoài và những đặc điểm thuộc về thế giới tinh thần của anh ta. Đó cũng là nơi anh ta sẽ
lựa chọn tạo lập diễn ngôn như một hành vi ứng xử đối với văn hóa xã hội, ứng xử với
ngôn ngữ, văn chương và ứng xử với chính bản thân mình.
Mối quan hệ giữa ngữ cảnh, chủ thể và diễn ngôn là mối quan hệ hai chiều.
Không chỉ có ngữ cảnh và chủ thể quyết định đến sự hình thành và tồn tại của một diễn
ngôn mà chính diễn ngôn cũng có tác động ngược trở lại đối với ngữ cảnh và chủ thể.
Chính những diễn ngôn sẽ định hình lại đặc điểm của ngữ cảnh văn hóa, giới hạn ý thức
của chủ thể, buộc họ trước hành động tạo lập diễn ngôn mới lại phải đối diện với nó
trong tình thế lựa chọn. Diễn ngôn chừng nào được chấp nhận và trở nên phổ biến sẽ làm
định hình những công thức diễn đạt, hình thành quán tính ngôn ngữ, tạo ra một không
quyển tinh thần mới cùng với những niềm tin khác. Diễn ngôn một khi đã được khai sinh
11


và được cộng đồng diễn giải thì không còn phụ thuộc vào ngữ cảnh sinh ra nó và chủ thể
tạo ra nó nữa. Nó trở thành một cơ chế văn hóa tinh thần độc lập, một thiết chế quyền lực
mà cả môi trường lẫn chủ thể tạo lập diễn ngôn không thể có bất kì can thiệp nào để thay
đổi nó, trái lại còn có thể trở nên lệ thuộc vào nó.
1.1.2. Thành phố trong văn học: bản chất diễn ngôn


1.2.

Như chúng tôi đã phân tích, thành phố mang bản chất kiến tạo, mang bản chất
diễn ngôn. Văn học cũng mang bản chất diễn ngôn. Như vậy sự xuất hiện của thành phố
trong các sáng tác văn chương không chỉ đơn thuần mang tính diễn ngôn mà cần phải
nhấn mạnh: đó là diễn ngôn về một diễn ngôn. Thành phố là một thực thể diễn ngôn
được kiến tạo không chỉ một lần, không chỉ được kiến tạo bằng diện mạo mà còn được
kiến tạo bởi rất nhiều năng lực tâm lí, tinh thần, bởi những năng lực thuộc về cả nhân và
cả những ý niệm thuộc về cộng đồng. Căn cứ vào sơ đồ các yếu tố tác động đến việc
hình thành và duy trì một diễn ngôn, chúng tôi đưa ra phân tích cụ thể về các yếu tố tác
động đến quá trình tạo lập diễn ngôn thành phố trong văn học như sau:
Trong mối quan hệ tác động từ ngữ cảnh đến diễn ngôn, mặc dù các yếu tố văn
hóa xã hội thường không hoàn toàn tách rời nhau và ảnh hưởng đến diễn ngôn thường
mang tính chất cộng hưởng nhưng chúng tôi vẫn cần nhấn mạnh ở đây ba phương diện.
Đây là những phương diện quan trọng của ngữ cảnh, có ảnh hưởng trực tiếp và để lại
dấu ấn, rõ nét trong diễn ngôn thành phố, đó là: lịch sử thành phố, diện mạo văn hóa đô
thị và nếp sống thị dân. Về chủ thể của diễn ngôn thành phố, phương diện đầu tiên mà
chúng tôi muốn nhấn mạnh là tư cách thị dân của chủ thể và vị trí, điểm nhìn mà anh ta
lựa chọn để tạo lập diễn ngôn về thành phố của mình. Bên cạnh đó, những mối quan hệ
giữa chủ thể- kí ức đô thị, chủ thể- ngôn ngữ, chủ thể- các diễn ngôn khác về thành
phố… vẫn rất quan trọng. Sau khi được khai sinh và được chấp nhận, diễn ngôn trở
thành một thiết chế quyền lực đối với chính ngữ cảnh và chủ thể tạo lập ra nó. Những hệ
quả của thứ quyền lực ấy không lặng lẽ nằm trong ý thức văn hóa, trong các diễn ngôn
sau đó mà có thể thấy ngay trên diện mạo vật chất và nếp sống của thành phố.
Diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền Bắc Việt Nam 1945- 1975

1.1.1. Diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền Bắc giai đoạn 1945- 1975 trong dòng chảy

diễn ngôn về Hà Nội trong văn học Việt Nam
Diễn ngôn Hà Nội giai đoạn 1945- 1975 nằm trong mạch diễn ngôn ở thời kì

hiện đại. Năm 1945 là một dấu mốc vô cùng quan trọng trong lịch sử chính trị xã hội
cũng như lịch sử diễn ngôn về Hà Nội, Nó là điểm khởi đầu cho một mạch diễn ngôn
mới- đó là diễn ngôn thủ đô. Mặc dù từng nhiều lần là kinh đô của quốc gia Đại Việt
trong thời kì phong kiến, đến đầu thế kỉ XX thì từng là thủ phủ của toàn xứ Đông

12


Dương thuộc Pháp nhưng chỉ đến ngày 2/9/1945, cùng với sự khai sinh của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, ý niệm thủ đô mới ra đời.
1.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền Bắc Việt Nam
1945- 1975
1.1.1.1.
Bối cảnh lịch sử văn hóa xã hội: môi trường tạo lập diễn ngôn
Bối cảnh lịch sử văn hóa của những năm 1945- 1975 có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự ra đời và tồn tại của cả diễn ngôn thủ đô ở dòng chính và cả diễn ngôn
đô thị ở dòng ngầm. Ba mươi năm chiến tranh và dựng xây gian khổ, diễn ngôn Hà Nội
tất yếu mang dấu ấn của những biến cố lịch sử lớn lao của Tổ quốc đồng thời mang dấu
ấn của những chấn động riêng trong lịch sử thành phố.
Trong phần bối cảnh lịch sử, xã hội văn hóa này, chúng tôi dành sự quan tâm
cho những biến cố đã tạo thành dấu ấn khó phai mờ trong tâm trí người Hà Nội cũng
như trong diễn ngôn Hà Nội đương thời. Biến cố đầu tiên là mùa đông năm 1946 gắn
với lời kêu gọi kháng chiến của Cụ Hồ và cuộc những ngày đêm người Hà Nội chuẩn bị
đối phó với kẻ thù, những ngày đêm “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Mùa đông năm
ấy, Hà Nội lặng đị nghe quân thù xả sung thảm sát trên những con phố. Hà Nội không
ngủ trong tiếng đục tường, tiếng đào hào đắp ụ, tiếng hô hào tập hợp đồ đạc, vũ khí,
tiếng reo hò động viên nhau chuẩn bị tinh thần chiến đấu. Mùa đông năm ấy Hà Nội đau
lòng chứng kiến những con phố tan hoang, đau lòng để thành phố lại sau lưng nhưng
cũng dạt dào hi vọng ngày về xây lại thủ đô.
Biến cố lớn thứ hai diễn ra vào năm 1954. Năm 1954 gắn với thắng lợi vẻ vang

của toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp chin năm. Năm 1954, thủ đỏ đón
những người con đã ra đi từ mùa đông năm 1946 đầu năm 1947 trở vể trong cờ và hoa.
Trong cuốn sách của mình, Philippe Papin đã lưu lại ấn tượng này bằng hình ảnh “thành
phố cờ đỏ sao vàng”, Văn Cao viết bài hát Tiến về Hà Nội với “năm cửa ô đón mừng nở
năm cánh đào” chan chứa niềm vui và niềm tự hào. Nhưng cũng chính năm 1954 với
Hiệp định Geneve
Biến cố lớn thứ ba, năm 1972 và cụ thể là mười hai ngày đêm cuối tháng 12
năm 1972 là một chấn thương ghê gớm trong kí ức Hà Nội. Hà Nội mặc dù không phải
là nơi trực tiếp diễn ra chiến tranh nhưng lại trở thành mục tiêu ném bom gây hấn về
quân sự của Mĩ đối với chính quyền Việt Nam. Tất nhiên, trong khoảng thời gian kháng
chiến chống Mĩ từ năm 1954 đến 1975, Hà Nội không chỉ bị ném bom một lần duy nhất
năm 1972 nhưng năm ấy là năm tột đỉnh của những đau thương và cũng là tột đỉnh sự
độc ác của kẻ thù. Có thể nói ba mươi năm từ 1945 đến 1975 đã đặt Hà Nội vào một
tình thế lịch sử khác. Hà Nội vừa là thủ đô, trung tâm của cả nước, đi đầu trong sự
nghiệp chiến đấu và dựng xây, vừa là niềm tự hào, kiêu hãnh đối với người dân Việt
13


1.1.1.2.

Nam lại vừa bị nghi ngờ về sự bất hợp tác với cách mạng. Hà Nội hào hoa cũng phải
trải qua những tháng ngày tột cùng gian khó, tột cùng thương đau. Hà Nội mất mát
nhiều nhưng vẫn còn giữ lại được chút phong khí, hồn vía của mình trong nếp sống, dù
đã buộc phải giản dị đi nhiều. Hình ảnh của Hà Nội với những gánh hàng hoa mỗi sớm
mai từ tiểu thuyết lãng mạn đầu thế kỉ của Tự lực văn đoàn vẫn cứ hiện diện giữa khói
lửa của chiến tranh phá hoại. Vẫn còn đó hình ảnh của những quán hàng, tuy không còn
sang trọng, lộng lẫy, chỉ là quán cà phê ngoại ô hay một quán rượu nho nhỏ Phố Huế…
nghèo nàn, cũ kĩ nhưng giữ một Hà Nội bình lặng trong không gian của nó. Từ một ngôi
nhà nào đó, thuộc tầng lớp tư sản hoặc trung lưu, vẫn vang lên tiếng dương cầm hay thứ
âm nhạc xưa cũ cất lên từ một chiếc máy quay đĩa… Văn hóa Hà Nội phải đổi thay để

thích nghi với bối cảnh của thời đại mới, Nhưng hồn cốt của nếp sống cũ thì vẫn còn,
được lặng lẽ cất giữ trong những nếp nhà, náu mình sau cái giản dị, đại chúng của văn
hóa thời kì chiến tranh cách mạng. Vẻ giản dị, đại chúng khiến cho Hà Nội hòa cùng
nhịp sống của bao nhiêu nơi trên mảnh đất này, hăng say đắm mình vào nhịp đời chung,
còn chút xưa cũ giữ lại níu cho Hà Nội một diện mạo bản sắc. Một đô thị kiêu hãnh đến
thế có khi nào chấp nhận từ bỏ thứ bản sắc đã được xây dựng từ nhiều thế kỉ? Bởi thế
Hà Nội là thủ đô- là Việt Nam- là trái tim của Việt Nam những Hà Nội thì vẫn cứ là Hà
Nội.- một đô thị giàu bản sắc.
Chủ thể tạo lập diễn ngôn
Trong phần giới thuyết về bản chất diễn ngôn của sự thể hiện thành phố trong
văn học, chúng tôi đã khẳng dịnh ai cũng có thể trở thành chủ thể của diễn ngôn về
thành phố. Ai cũng có quyền nói và viết về một thành phố theo cách của riêng họ. Diễn
ngôn Hà Nội giai đoạn này cũng vậy. Nếu như ở giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến 1945,
chủ thể của diễn ngôn đô thị nhất định phải là một thị dân, nếu không phải là thị dân gốc
thì cũng phải là người đã có ít nhiều trải nghiệm với không gian và nếp sống đô thị. Dù
là cư dân gốc hay người tứ xứ, đến với thành phố từ bốn phương xa lạ thì họ đều phải
bắt rễ vào đời sống chốn thị thành để hiểu nó, hào hứng dấn thân hay thất vọng về nó,
chán ghét nó. Trong khi đó, chủ thể của diễn ngôn Hà Nội giai đoạn 1945- 1975 lại đa
dạng hơn nhiều, họ có thể là bất cứ ai, không nhất định phải là thị dân, không nhất định
phải từng sống và có một kí ức nào đó dù xa xôi với Hà Nội. Bởi Hà Nội là thủ đô, là
không gian tinh thần chung của toàn thể dân tộc chứ không còn chỉ là không gian sống,
không gian kí ức của riêng người Hà Nội.
Tiểu kết chương I
Như vậy, trong chương này chúng tôi đã xác lập nền tảng lí thuyết để khai thác
các diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1945- 1975.
Những thành phố tồn tại xung quanh chúng ta, trong ý thức văn hóa của chúng ta chưa
14


bao giờ đơn giản chỉ là một không gian vật chất mà còn chất chứa những ý niệm tinh

thần được tạo dựng theo thời gian và chịu sự chi phối của nhiều cơ chế văn hóa. Thành
phố là một thực thể có tính diễn ngôn. Hà Nội với lịch sử hình thành và phát triển cả
nghìn năm cũng không phải là một ngoại lệ. Vì thế sự hiện diện của Hà Nội trong các
tác phẩm văn chương cũng là diễn ngôn được kiến tạo không chỉ một lần. Diễn ngôn Hà
Nội mang đầy đủ những đặc điểm của một diễn ngôn thành phố đồng thời gắn bó mật
thiết với bối cảnh lịch sử xã hội văn hóa của từng thời đại và ý thức lựa chọn ứng xử với
lịch sử, với trải nghiêm, kí ức, chất liệu và các diễn ngôn khác của chủ thể tạo lập diễn
ngôn.
CHƯƠNG II
THỦ ĐÔ/ ĐÔ THỊ- HAI DIỄN NGÔN ĐỘC LẬP TƯƠNG TRANH
Diễn ngôn thủ đô- dòng mạch chính trong diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền
Bắc Việt Nam giai đoạn 1945- 1975
2.1.1. Ngữ cảnh tạo sinh diễn ngôn thủ đô trong văn học miền Bắc Việt Nam giai đoạn
2.1.

1945- 1975
Ngữ cảnh tạo lập diễn ngôn thủ đô vẫn là ba mươi năm từ 1945 đến 1975 với
nền là cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm còn phần thời gian còn lại là chặng
đường song song cộng cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc và chiến đấu giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong đó công cuộc đẩy mạnh học tập, lao động
ở miền Bắc không đơn thuần chỉ nhằm xây dựng miền Bắc mà còn nhằm chi viện nhân
lực, vật lực cho cuộc kháng chiến lâu dài của nhân dân Nam Bộ. Các biến cố xảy ra
trong những năm 1946, 1954, 1972 đều được đánh giá và diễn giải theo hướng chính
thống và tích cực, nhấn mạnh hào khí của thời đại. Nền tảng lịch sử và tất cả các biến cố
đều được diễn giải từ góc nhìn chính thống, gạt đi sự phức tạp và những uẩn khúc để mọi
sự kiện đều trở nên sáng rõ, mọi giá trị đều được định hình và phân biệt một cách rõ ràng.
Trong diễn ngôn thủ đô, Hà Nội ở chặng đường nào cũng hào hùng, trong bất kì biến cố
lịch sử lớn lao nào cũng không ngừng trưởng thành, không ngừng mạnh mẽ và tỏa sáng.
2.1.2. Chủ thể của diễn ngôn thủ đô trong văn học miền Bắc Việt Nam giai đoạn 19451975
Chủ thể của diễn ngôn ở dòng chính này chính là tầng lớp trung tâm của thời

đại mới. Họ là chủ thể của diễn ngôn thủ đô và cũng đồng thời là chủ nhân của lịch sử
chính thống. Họ chính là những con người đã góp phần quan trọng làm nên lịch sử của
thủ đô, hòa chung vào dòng chảy của lịch sử dân tộc. Họ là lực lượng đông đảo nhất và
nắm trong tay quyền tổ chức và quản lí xã hội. Họ đại diện cho một hệ tư tưởng mới,
một cách nghĩ, một nếp sống mới khác biệt với lối sống, cách suy nghĩ của người Hà
15


Nội trước đây. Họ còn đại diện cho những ước mơ và khát vọng của một lớp người mớicon người xã hội chủ nghĩa.
2.1.3. Đặc điểm của diễn ngôn thủ đô
Diễn ngôn thủ đô với uy quyền chính thống trước hết sẽ xác lập Hà Nội là trung
tâm của cả nước. Hà Nội là hình ảnh đại diện cho toàn thể dân tộc. Vì thế, diễn ngôn thủ
đô sẽ theo sát những sự kiện lịch sử của đất nước. Trong diễn ngôn Hà Nội, người ta có
thể nhìn thấy một Việt Nam thu nhỏ. Trong lịch sử dân tộc, diễn ngôn Hà Nội lại để lại
những mốc son chói lọi. Công thức quen thuộc trong diễn ngôn thủ đô giai đoạn này là
xem thủ đô là trái tim, nơi cội nguồn yêu thương và sức mạnh của cả nước. Hà Nội là
trung tâm của sự nghiệp cách mạng hào hùng, người chiến sĩ nào cũng cảm thấy dường
như mình ra đi từ Hà Nội, hướng về Hà Nội để được tiếp thêm sức mạnh ý chí và lòng
tin để đi đến cùng sự nghiệp cứu nước. Trong diễn ngôn trung tâm này, Hà Nội hiện
diện với những biểu tượng định tâm như Ba Đình, sông Hồng, Hồ Gươm, Tháp Rùa, Hồ
Tây, Cột cờ, cầu Long Biên…,những con phố mang tên những bậc anh hùng trong lịch
sử. Những biểu tượng ấy hiện ra rõ nét trong kí ức và cả trong niềm ngưỡng vọng về Hà
Nội. Những biểu tượng này đã trở thành những công thức diễn đạt cố định trong các
diễn ngôn thủ đô, cứ nhắc đến Hà Nội tất yếu sẽ nhắc đến những biểu tượng này.
Đặc điểm thứ hai nổi bật trong các diễn ngôn thủ đô, đó là tính chất sử thi. Chất
sử thi được tạo nên bởi ấn tượng không gian và thời gian. Trong diễn ngôn thủ đô, Hà
Nội thường được đặt trong những biến cố lịch sử của thời kì cách mạng và dòng hồi
tưởng về Thăng Long, đất kinh kì ngàn năm văn hiến. Chất sử thi còn được tạo nên từ
ấn tượng về một thành phố với sức mạnh phi thường, đau thương nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh bại, thành phố tuy nhỏ bé nhưng không cam chịu khuất phục bao giờ.

Diễn ngôn thủ đô viết về những năm tháng chiến tranh không hề né tránh những thương
đau, nó không hoàn toàn nhìn chiến tranh bằng con mắt ảo tưởng. Tuy nhiên, những
diễn ngôn này có xu hướng khuếch trương sự hào hùng trong tinh thần đấu tranh cảm tử
của nhân dân thủ đô, những mất mát thương đau làm nền, làm đòn bẩy cho tinh thần
quyết tâm chiến đấu càng cao, càng trong đau thương Hà Nội càng trưởng thành, càng
mạnh mẽ.
Đặc điểm cuối cùng trong diễn ngôn thủ đô là sự ra đời của những huyền thoại
mới thay thế lớp huyền thoại cũ về đô thị. Sự xuất hiện của màu lá cờ đỏ sao vàng, hình
ảnh những nhà máy, những công trình thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa, của màu áo
xanh công nhân, màu xanh áo lính, những chiếc xe đạp…đã tạo nên một lớp huyền
thoại văn hóa mới- thành phố xã hội chủ nghĩa. Hà Nội lại có hơi hướng của Mat-xcơva, của Bắc Kinh… không còn dấu ấn của một giấc mộng Paris đầu thế kỉ nữa.

16


Diễn ngôn đô thị- những dòng ngầm trong diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền
Bắc Việt Nam giai đoạn 1945- 1975
2.2.1. Bối cảnh và chủ thể của diễn ngôn đô thị
2.2.

Diễn ngôn đô thị vẫn tạo sinh trên nền bối cảnh lịch sử những năm 1945- 1975
nhưng là một sự lựa chọn tư cách chủ thể khác, một cách ứng xử khác. Chủ thể của
những diễn ngôn ở dòng ngầm này là những thị dân muốn níu giữ lại hồn vía đô thị cho
thành phố này, chống lại sự đơn giản hóa, trong suốt hóa hình ảnh Hà Nội ở diễn ngôn ở
dòng chính. Diễn ngôn đô thị cùng vị trí bên lề này tất yếu không thuộc về lớp thị dân
mới, những con người tiêu biểu cho nhân cách lí tưởng của thời đại cách mạng và xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Nó thuộc về những thị dân cũ, những người Hà Nội gốc
và sau năm 1954 họ nằm trong số rất ít người Hà Nội gốc còn ở lại.
Diễn ngôn đô thị là một sự lựa chọn bên lề, lựa chọn kháng cự, lựa chọn ứng xử
với lịch sử bằng kí ức và trải nghiệm cá nhân, đối thoại với lịch sử chính thống với

quyền lực đám đông và cả niềm tin của con người vào một lịch sử duy nhất. Chủ thể của
những diễn ngôn này chối từ cả tư cách đại diện cho một kinh nghiệm phổ biến mà hầu
hết đều chỉ đặt mình vào vị trí chủ thể kí ức, chủ thể trải nghiệm, cảm nhận hay chủ thể
bị ám ảnh hay bị chấn thương để tạo lập diễn ngôn của mình. Bởi thế diễn ngôn đô thị
sẽ rẽ rất nhiều nhánh phong phú.
2.2.2. Đặc điểm của diễn ngôn đô thị
Diễn ngôn đô thị giai đoạn này có nguồn gốc từ diễn ngôn về đô thị đầu thế kỉ
XX khi trong đời sống văn hóa của chúng ta bắt đầu có sự xuất hiện của ý niệm thành
phố, sự xuất hiện của một tầng lớp mới là thị dân và cũng với nó là cảm thức về đô thị.
Diễn ngôn đô thị giai đoạn này tuy không còn nằm ở dòng chính mà bị dạt ra bên lề
trong lúc đời sống văn hóa đương thời đang làm tiêu vong những ý niệm đô thị, lối sống
đô thị. Định kiến văn hóa ấy khiến cho những thị dân gốc thu mình lại trong những
không gian riêng tư và âm thầm gìn giữ chất đô thị trong không gian của mình. Không
gian riêng tư ấy có thể là không gian vật chất cụ thể như những căn nhà, những ngõ phố
rất xưa, cũng có khi là không gian tinh thần- thế giới của những sáng tạo nghệ thuật: hội
họa, âm nhạc, văn chương...
Diễn ngôn này chịu sự chi phối của hồi ức hơn là cái đương thời. Một công thức
phổ biến của diễn ngôn đô thị là hoài niệm. Diễn ngôn hoài niệm đô thị xuất hiện nhiều
trong những sáng tác ở giai đoạn 1945- 1954 với chủ thể là những người con Hà Nội đi
xa, khắc khoải nhớ mong về thành phố đang tạm bị chiếm. Sau năm 1954, diễn ngôn
hoài niệm, mong nhớ một đô thị lãng mạn theo những người Hà Nội vào Nam. Họ duy
trì một Hà Nội trong kí ức và đồng nhất Hà Nội với kí ức đó- chỉ cần mang nó trong tim
thì họ ở đâu Hà Nội sẽ ở đó. Với những người ở lại và tiếp tục gắn bó với thành phố
17


2.3.

trong thời đại mới, diễn ngôn của họ thể hiện và níu giữ lại một hình ảnh Hà Nội tương
phản với diễn ngôn thủ đô. Đó không hoàn toàn là níu lại trong tâm thức trọn vẹn hình

ảnh của quá khứ. Tính chất hoài niệm trong những diễn ngôn này không phải là hoài
niệm mĩ lệ mà là hoài niệm phôi pha. Hà Nội hiện lên cũng ít nhiều có bóng dáng của
quá khứ nhưng mất mát nhiều hơn, nuối tiếc nhiều hơn.
Nếu như diễn ngôn thủ đô đem đến hình ảnh thủ đô với tầm vóc lớn lao và tinh
thần thời đại, thủ đô với những không gian rộng lớn thì diễn ngôn đô thị thường thu lại
trong những không gian nhỏ như những ngõ phố, những quán cà phê, quán rượu…Hình
ảnh của những con phố nhỏ các quán cà phê ngoại ô là hình ảnh rất hay xuất hiện trong
sáng tác của Văn Cao, Lưu Quang Vũ. Tranh Bùi Xuân Phái vẽ những con phố nhỏ, thưa
vắng người qua lại. Cảm giác về một Hà Nội đô thị thu lại trong việc gìn giữ một thói quen,
không gian một căn nhà Hà Nội và câu chuyện giữa những tâm hồn Hà Nội. Văn Cao viết
Đêm quán, Lưu Quang Vũ viết về “quán cà phê ngoại ô”, viết Lá thu nơi “quán cà phê dưới
gầm cầu xe lửa”… Những không gian ấy không đặc trưng cho một đô thị hào hoa mà chỉ
mang trong mình ý niệm về sự phôi pha. Nếu như trong không khí dựng xây tràn ngập diễn
ngôn thủ đô, ta thấy một Hà Nội đang thay da đổi thịt “năm cửa ô mỗi ngày thêm mới” thì
ở diễn ngôn đô thị Hà Nội lại thêm cũ càng, xơ xác. Nếu như trong diễn ngôn thủ đô, Hà
Nội vui tươi, nhộn nhịp thì trong diễn ngôn đô thị, phố phường cứ vắng mãi… Với mỗi chủ
thể, cảm thức về đô thị phôi pha lại khác nhau. Văn Cao viết về Hà Nội cũ càng. Bùi Xuân
Phái vẽ một Hà Nội vắng, phôi pha thời gian, Trần Dần viết về một đô thị hoang mang, lạc
lõng. Lưu Quang Vũ viết về một thành phố mất mát, trống rỗng, hoang tàn, Phan Vũ lại
viết về sự mất mát trong niềm nuối tiếc và nỗ lực níu giữ một cách tuyệt vọng.
Sự độc lập, tương tranh tạo nên giá trị
Như vậy trong văn học miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1945- 1975 có hai dòng
diễn ngôn song song tồn tại với nhau và luôn luôn bị đặt trong thế tương tranh. Đó là
diễn ngôn thủ đô và diễn ngôn đô thị. Sự tương tranh này khiến cho trong tâm thức văn
hóa của chúng ta song song tồn tại một Hà Nội thủ đô bên cạnh một Hà Nội đô thị, một
trung tâm của lịch sử bên cạnh một thân phận thành phố trong dòng chảy lịch sử đó,
một Hà Nội sử thi bên cạnh một Hà Nội đời thường mang dấu ấn đời sống thị dân, một
Hà Nội trong kí ức và sự ngưỡng vọng của công đồng bên cạnh một Hà Nội trong sự
chắp nối những hoài niệm, kí ức của thị dân, một Hà Nội của Việt Nam bên cạnh một
Hà Nội trong tim những người Hà Nội, một Hà Nội rực rỡ tỏa sáng hôm nay và ngày

mai bên cạnh một Hà Nội trầm mặc, khiêm nhường của quá khứ… Những cặp ý niệm
song song ấy sẽ luôn luôn nhắc nhở thành phố về vị thế của nó trong lịch sử dân tộc và
đồng thời nhắc nó về câu chuyện cuộc đời riêng- tự sự một thành phố.
Tiểu kết chương II
18


Trong chương này, chúng tôi đã chỉ ra nền tảng bối cảnh lịch sử văn hóa xã hội
chung của giai đoạn 1945- 1975 và phân tích những đặc điểm thuộc về chủ thể của hai
nhanh diễn ngôn về Hà Nội. Hai nhánh diễn ngôn này củng ra đời trong một ngữ cảnh
nhưng là sự lựa chọn ứng xử với lịch sử, với ngữ cảnh, với các diễn ngôn đã có… của
chủ thể. Đó chính là sự lựa chọn tâm thế văn hóa của chủ thể trong một giai đoạn có
nhiều đổi thay trong đời sống văn hóa xã hội. Hai diễn ngôn nằm ở hai vị thế khác nhau,
mỗi vị thế lại đem đến cho chúng những giá trị riêng và bản thân sự tồn tại song song,
độc lập, tương tranh, đối thoại với nhau nhưng không thể lấn át được hoàn toàn cũng tạo
nên giá trị riêng. Mỗi diễn ngôn kiến tạo và lưu giữ một ý niệm, một tâm thức văn hóa
về Hà Nội làm phong phú cho lịch sử của thành phố và giữ lại những cảm thức rất có
thể sẽ mất mát đi cùng với sự trôi chảy của thời gian.
CHƯƠNG III
THỦ ĐÔ VÀ ĐÔ THỊ - KHI CÁC DIỄN NGÔN
TÌM ĐƯỢC SỰ HÒA GIẢI

3.1.

Trong khuôn khổ của một luận văn, người viết không có tham vọng bao quát
được toàn bộ các diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền Bắc Việt Nam giai đoạn
1945- 1975, cũng không thể khai thác được hết những biến thể đa dạng của các nhánh
diễn ngôn. Chúng tôi chỉ đi vào xác định những kiểu diễn ngôn chính và phân tích
những trường hợp tiêu biểu cho công thức chung của nhánh đồng thời có những cảm
thức riêng mới mẻ. Ở nhánh diễn ngôn có xu hướng hòa giải sự tương phản, đối lập của

diễn ngôn thủ đô và diễn ngôn đô thị, chúng tôi lựa chọn khai thác các tác phẩm của nhà
văn Nguyễn Huy Tưởng như kịch bản sân khấu Những người ở lại, Lũy hoa và đặc biệt
là tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô. Được hoàn thành năm 1958 và ra mắt độc giả năm
1961, tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô viết về một sự kiện lịch sử diễn ra từ trước đó hơn
mười năm. Việc lựa chọn sự kiện Hà Nội mùa đông năm 1946 chắc chắn là một sự lựa
chọn đầy trăn trở của nhà văn. Nguyễn Huy Tưởng đã chọn viết về Hà Nội mùa đông
năm 1946 để cùng một lúc giữ được một thủ đô và một đô thị trong sáng tác của mình,
để Hà Nội luôn giữ được vẻ đẹp riêng, bản sắc riêng trong sự hài hòa của hai tư cách đó.
Hà Nội- hào hùng và hào hoa
Tinh thần sử thi hào hùng chính là đặc điểm nổi bật của diễn ngôn thủ đô còn
nét thanh lịch hào hoa là điểm nổi bật trong diễn ngôn đô thị từ đâu thế kỉ. Nét hào hùng
trong diễn ngôn của Nguyễn Huy Tưởng vừa có điểm chung với cảm hứng sử thi trong
diễn ngôn thủ đô đương thời vừa có sự tiếp nối cảm hứng về kinh đô Thăng Long với
truyền thống lịch sử vừa có những cảm thức vay mượn từ Paris và cảm thức thị dân.

19


3.1.1. Cảm hứng về Thăng Long nghìn năm văn hiến và cảm hứng về thủ đô của thời đại

cách mạng
Cảm hứng truyền thống lịch sử văn hóa của đất Thăng Long nghìn năm văn hiến
hòa quyện trong cảm hứng về một thủ đô của thời đại mới là cảm thức rất nổi bật trong tác
phẩm này khi tác giả lựa chọn nhân vật chính là Trần Văn đồng thời cũng đặt điểm nhìn ở
nhân vật này. Trần Văn vốn không phải là một người Hà Nội gốc nhưng anh đã có một
quãng thời gian đi dạy học gắn bó với thủ đô Hà Nội, có mối tình với một người con gái Hà
Nội. Đặc biệt, Trần Văn còn là một thầy giáo dạy lịch sử nên anh tuy không sinh ra và lớn
lên ở thủ đô nhưng lại gắn bó tâm hồn mình với những trang lịch sử vẻ vang của thủ đô và
đất nước.
Diễn ngôn về một thủ đô hào hùng trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng

không chỉ đặc biệt bởi nó được nhìn từ con mắt lịch sử của cá nhân. Vẫn là lịch sử mấy
nghìn năm âm vang hào hùng của thành phố nhưng qua cảm thức của một cá nhân, nó
không còn giống một thứ lịch sử được ghi lại nữa mà là kí ức của một thành phố cùng
thân phận của mình. Sự đặc biệt trong diễn ngôn Hà Nội ở Sống mãi với thủ đô còn
được tạo nên từ không khí thời đại được thể hiện trong tác phẩm. Không khí thời đại
như một luồng hơi thở chạy dọc thân mình thành phố. Ở bất cứ ngõ phố nào trong trang
văn Nguyễn Huy Tưởng người ta cũng đều cảm nhận được không khí này chứ không
chỉ riêng những biểu tượng định tâm như Tháp Rùa, Hồ Gươm, cầu Long Biên…
Cảm hứng về thủ đô của thời đại cách mạng được thể hiện rõ nhất trong hình
tượng tập thể những con người “quyết tử cho Hà Nội quyết sinh” trong những ngày đêm
cuối đông năm 1946 ấy. Vẫn là hình tượng tập thể con người Hà Nội nhưng khác với
những diễn ngôn thủ đô đương thời, diễn ngôn của Nguyễn Huy Tưởng có được sự xuất
hiện của tất cả những tầng lớp thị dân, mỗi người gắn bó với sự nghiệp đấu tranh vì Hà
Nội theo một cách riêng.
3.1.2. Cảm thức Paris và cảm thức thị dân
Chính cảm thức Paris và cảm thức thị dân tạo nên sự hài hòa giữa diễn ngôn thủ
đô và diễn ngôn đô thị trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Hà Nội trong Sống mãi
với thủ đô vẫn hiện lên với diện mạo thủ đô anh hùng nhưng đồng thời vẫn giữ được vẻ
đẹp của đô thị đầu thế kỉ.
Cảm thức Paris bao trùm tác phẩm và song song tồn tại với cảm hứng về Hà
Nội thủ đô- kinh đô. Cảm thức Paris hiện diện trên nhiều cấp độ của tác phẩm từ phong
khí đô thị cho đến hào khí thời đại và một số hình tượng nhân vật nổi bật. Hà Nội trong
diễn ngôn của Nguyễn Huy Tưởng không chỉ được kiến tạo bởi không gian mang tính
chất sử thi với những biểu tượng lịch sử định tâm như Ba Đình, Hồ Gươm, Cửa Bắc…,
các biểu tượng văn hóa như Cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn, đài Nghiên, tháp Bút, Văn
20


3.2.


Miếu… những không gian rộng mở như không gian của quảng trường, không gian con
đường thênh thang nối dài lịch sử. Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng còn có những góc
phố trầm tư, những căn biệt thự cổ kính, Nhà Thờ Lớn, những căn gác vọng ra tiếng
dương cầm…
Hà Nội trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng những ngày tháng 12 năm
1946 bàng bạc không khí của Paris trong tiểu thuyết Những người khốn khổ của Victor
Hugo. Nếu như cảm thức Paris khiến cho cuộc kháng chiến trong lòng thủ đô mang một
vẻ đẹp hết sức lãng mạn thì cảm thức thị dân sẽ giữ cho Hà Nội trước và trong cuộc
chiến vẫn hiện lên với những nét rất riêng của nó. Cảm thức thị dân trong tác phẩm hòa
cũng cảm hứng về thủ đô, về Paris, về Thăng Long trong những chi tiết nhỏ nhưng rất
có ý nghĩa. Đó là cảm giác về phố phường, không phải là cảm giác về những còn đường
dọc ngang của lịch sử như trong diễn ngôn thủ đô, chúng đơn thuần là cảm giác về
những con phố, những con phố xưa và nay, những con phố gắn với cuộc đời thị dân của
họ, không phải cuộc đời người cán bộ cách mạng, cũng không phải cuộc đời người
chiến sĩ tự vệ bảo vệ những con phố thủ đô. Cảm thức đô thị còn ẩn hiện trong giấc mơ
thoáng chốc của người nữ cán bộ cách mạng thủ đô sắc sảo, giỏi giang. Oanh mơ về một
ngày nào đó lại cùng mấy đứa bạn thân mặc áo dài thong thả tản bộ rong chơi bên bờ hồ
Gươm. Hình ảnh cô Nhân- cô con gái làng hoa Ngọc Hà vẫn ngày ngày từ vùng tản cư đi
vào thành phố mang theo lương thực, thực phẩm cho anh em tự vệ và còn mang theo vào
thành phố những bó hoa tươi là hình ảnh hết sức lãng mạn, đậm chất đô thị. Thành lũy của
Hà Nội những ngày mùa đông ảm đạm, căng thẳng năm ấy lại là những “lũy hoa”. “Lũy
hoa” làm cho Hà Nội dù trong chiến tranh khói lửa cũng không mất đi vẻ lãng mạn hào hoa
của mình. Thành lũy là chiến tranh khốc liệt, là đổ vỡ, mất mát đau thương cận kề còn
những đóa hoa tươi là sức sống mãnh liệt, là cái đẹp rạng rỡ, tinh khôi, ngời lên tình yêu
cuộc sống. “Lũy hoa” làm cho Hà Nội vẫn đẹp mơ màng giữa màu xám ảm đạm của chiến
tranh. “Lũy hoa” từ sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng đã trở thành biểu tượng quen thuộc
xuất hiện trong rất nhiều diễn ngôn Hà Nội thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Hà Nội- mất mát và hồi sinh
Trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô, có sự xuất hiện của một môtip rất đặc
biệt, đó là môtip “lửa kinh thành”. “Lửa kinh thành” là một biểu tượng văn hóa quan

trọng gắn với một huyền thoại trong lịch sử phương Tây- huyền thoại Néron đốt kinh
thành La Mã. Năm 1946, trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Huy Tưởng tái hiện Hà
Nội trong khói lửa đã ngời lên sức mạnh hồi sinh. Chưa bao giờ như năm 1946, người
Hà Nội nhìn thành phố của mình tan hoang mà trong lòng lại rộn lên niềm vui sướng,
người Hà Nội chờ đợi từng tiếng nổ, hân hoan reo hò khi nhìn thấy những mảng sáng
lóe lên trên bầu trời thành phố, háo hức xác định xem lửa cháy từ hướng nào, ta đã phá
21


3.3.

được những điểm trọng yếu nào của giặc. Trước ngọn lửa cháy rợp trời, đôi mắt người
Hà Nội không đau khổ, nuối tiếc mà sáng lên niềm tự hào và tin tưởng. Trong lời thề
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, họ đã thề với lòng mình đốt phá Hà Nội của hôm
nay để xây lại Hà Nội của ngày mai. Từ trong mất mát, Hà Nội sẽ hồi sinh mạnh mẽ.
Đó chính là niềm tin của người cách mạng, khát vọng của kẻ “sáng thế” sẽ theo người
Hà Nội lên chiến khu kháng chiến và trở về xây lại thủ đô vào những ngày tháng 10
năm 1954.
Ý nghĩa của sự hòa giải
Trong chương 2, chúng tôi đã chỉ ra đặc điểm của nhánh hai diễn ngôn quan
trọng của diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1945- 1975
đồng thời nhìn chúng như hai diễn ngôn tồn tại độc lập, ngầm tương tranh với nhau. Tuy
nhiên cũng trong văn học giai đoạn này, chúng tôi nhận thấy có những sáng tác có thể
dung hòa được sự đối lập ấy một cách hết sức đặc biệt. Sự hòa giải hai diễn ngôn tưởng
chừng như đối lập đã không chỉ tạo nên sức sống mãnh liệt cho các tác phẩm của riêng
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng mà còn góp phần làm nên sức sống cho chính vẻ đẹp của
thủ đô trong văn học nghệ thuật cũng như trong tâm thức con người. Lịch sử dân tộc đã
chứng kiến không chỉ một lần nỗi đau những giá trị bị hủy hoại. Thế kỉ XV, khi quân
Minh xâm lược nước ta, chúng đã đốt hết sách vở và thiêu hủy những công trình quan
trọng của chúng ta. Dưới “ngọn lửa hung tàn” của kẻ thù, Thăng Long thế kỉ XV đã

chứng kiến sự mất mát của những tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, ngay cả bộ Đại
Việt sử kí của Lê Văn Hưu cũng không giữ được. Thế kỉ XX, cùng với công cuộc khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp và sự hình thành những giá trị mới, chúng ta cũng để
mất đi rất nhiều giá trị truyền thống. Thời gian bao giờ cũng đi cùng với sự phôi pha,
những biến cố lịch sử lại càng thúc đẩy quá trình phôi pha, biến đổi thậm chí thay thể
hoàn toàn các giá trị. Những diễn ngôn văn học chính là một hình thức lưu giữ cho một
thành phố phần diện mạo có thể thay đổi, có thể biến mất và lưu giữ phần kí ức rất có
thể sẽ phôi pha cùng thời gian và sự sai lệch của trí nhớ. Sự hài hòa chất đô thị trong
diễn ngôn thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng chính là sự bảo lưu tuyệt vời cho kí ức của
một thủ đô. Trong diễn ngôn của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã đồng hiện nhiều lớp kí
ức không thể lãng quên của Hà Nội- Hà Nội hiện tại và quá khứ, thủ đô và kinh đô, thủ
đô và đô thị, bản sắc Hà Nội và ám ảnh về hình bóng của giấc mơ Paris.
Tiểu kết chương 3
Trong chương này, vẫn trên nền tảng bối cảnh lịch sử, văn hóa xã hội ba mươi năm
1945- 1975, chúng tôi đã khai thác diễn ngôn của một “nhà văn Hà Nội” theo nghĩa tuyệt
đối nhất của từ này để thấy một Hà Nội thủ đô hài hòa với một Hà Nội đô thị trong sáng tác
của ông. Sự hòa quyện của những cảm thức tưởng như đối lập đã khiến cho Hà Nội trong
22


tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng chập chờn trong ánh sáng của nhiều lớp huyền thoại để
một Hà Nội sử thi hào hùng và kiêu hãnh vị thế trung tâm của thời đại cũng là một thân
phận trong dòng chảy thời gian và lịch sử.

23


KẾT LUẬN
Cho đến nay, thành phố đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu
dài và lịch sử của thành phố gần như theo cùng lịch sử phát triển của nhân loại với

những thành tựu về kinh tế, xã hội, khoa học, kĩ thuật, văn hóa. Các thành phố đã ra đời
và biến đổi ngay trên nền những đổi thay toàn diện của xã hội. Và chúng ta phải thừa
nhận rằng thành phố không đơn giản chỉ là một hình thức tổ chức xã hội, không phải là
một vùng không gian có quy mô xác định và các đặc điểm vật chất nhất định, nó là một
hiện tượng văn hóa phức tạp hơn thế. Trong chương một của luận văn chúng tôi đã chỉ
ra thành phố không chỉ là một thực thể vật chất mà còn gắn với những ý niệm tinh thần.
Hơn thế nó là một phức hợp vật chất và tinh thần liên tục có sự vận động, biến đổi,
chuyển hóa theo dòng lịch sử và chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố xung quanh. Trên
cơ sở phân tích những đặc điểm đó, chúng tôi nhìn nhận thành phố như là một thực thể
diễn ngôn. Sự hiện diện của các thành phố trong tác phẩm văn học cũng mang bản chất
diễn ngôn. Nó là diễn ngôn về diễn ngôn, là sự kiến tạo lại một thực thể đã được nhiều
lần kiến tạo. Sự kiến tạo diễn ngôn thành phố trong văn học là một cơ chế văn hóa phức
tạp với nhiều hình thức tác động và ảnh hưởng giữa bối cảnh lịch sử văn hóa xã hộingữ cảnh của diễn ngôn, chủ thể tạo lập diễn ngôn và bản thân diễn ngôn đó. Trong cơ
chế ấy, có những quan hệ ảnh hưởng trực tiếp từ ngữ cảnh bao gồm các yếu tố lịch sử,
văn hóa đô thị, nếp sống thị dân đến diễn ngôn thành phố cũng có khi là quan hệ ảnh
hưởng gián tiếp thông qua chủ thể. Qua hệ ảnh hưởng này vừa là quan hệ tạo sinh
nhưng cũng đồng thời là một phạm vi giới hạn. Đối với chủ thể, hành động tạo lâp diễn
ngôn là một sự đối diện và lựa chọn ứng xử với ngữ cảnh, với lịch sử, kí ức cá nhân, với
những diễn ngôn khác và với bản thân chất liệu là những quán tính ngôn ngữ, hệ thống
biểu tượng và các công thức biểu đạt. Diễn ngôn từ chỗ là sản phẩm kiến tạo của ngữ
cảnh và chủ thể lại có thể tác động trở lại, giới hạn, thậm chí kiến tạo ngữ cảnh và chủ
thể. Là một thành phố với lịch sử 1000 năm nhiều thăng trầm, Hà Nội cũng là một thực
thể diễn ngôn phức tạp, một đối tượng gợi mở nhiều khả năng cho các ngành nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn nói chung cũng như nghiên cứu văn học nói riêng. Lựa
chọn tiếp cận diễn ngôn về Hà Nội trong văn học miền Bắc Việt Nam giai đoạn 19451975, chúng tôi ý thức được đây là một giai đoạn có nhiều biến động trong bối cảnh lịch
sử, văn hóa xã hội và dẫn tới sự phân hóa phức tạp của các diễn ngôn về thành phố này.
Trên cơ sở phân tích phông nền lịch sử ba mươi năm 1945- 1975 là sự song
song giữa chiến tranh vệ quốc và xây dựng cuộc đời mới- cuộc đời Xã hội Chủ nghĩa
cùng những biến cố quan trọng và những đổi thay căn bản trong văn hóa, đời sống thị
dân, chúng tôi khái quát thành hai nhánh diễn ngôn chính. Đó là diễn ngôn thủ đô ở vị

24


trí trung tâm, chính thống và diễn ngôn đô thị ở vị trí bên lề. Diễn ngôn thủ đô thường
xuyên có sự xuất hiện của các công thức trung tâm như Hà Nội là trái tim của cả nước,
Hà Nội là cội nguồn của ý chí chiến đấu, cội nguồn của yêu thương và sức mạnh, Hà
Nội là điểm xuất phát đồng thời là đích đến của khát vọng dựng xây. Từ diễn ngôn thủ
đô, một hệ biểu tượng của thời đại mới ra đời như Ba Đình, sông Hồng, hồ Gươm, cầu
Long Biên, Tháp Rùa… bên cạnh những biểu tượng kinh đô thuở trước. Diễn ngôn thủ
đô có sự kết nối đặc biệt với diễn ngôn Thăng Long- đất kinh kì tạo nên khung thời gian
sử thi cho diễn ngôn thủ đô Hà Nội. Ở vị trí chính thống đó, diễn ngôn thủ đô là một ý
thức quyền lực có tham vọng trong suốt ý niệm Hà Nội và quy giản nó về hệ giá trị mới
là thủ đô cách mạng, thủ đô kháng chiến, anh hùng trong chiến đấu và tiên phong trong
sự nghiệp lao động dựng xây Chủ nghĩa Xã hội. Diễn ngôn thủ đô khuếch trương vị thế
mới của thành phố đồng thời muốn xóa bỏ kí ức đô thị dưới chế độ thực dân của nó.
Trong khi đó, diễn ngôn đô thị ở bên lề là tiếng nói của một kí ức bị trấn áp, một kí ức
vẫn đang hiện hữu nhưng quyền lực chính thống lại muốn quên đi. Diễn ngôn đô thị tồn
tại độc lập ở dòng ngầm là nỗ lực níu giữ cho Hà Nội một phần kí ức, một phần giá trị,
một phần bản sắc của nó. Diễn ngôn này không cạnh tranh vị trí trung tâm với diễn
ngôn thủ đô, không có tham vọng lấn át diễn ngôn ở dòng chính. Diễn ngôn đô thị nhắc
thành phố về vị thế lịch sử còn diễn ngôn đô thị là tiếng nói thầm cần phải có để nhắc
nhở thành phố về thân phận đô thị của nó. Diễn ngôn đô thị trong hoài niệm phôi pha
với nhiều biến thể đã nhắc một Hà Nội sử thi về giá trị của những thương đau, mất mát
mà nó phải gánh chịu để có được hào quang và những điều mà thành phố này không thể
để mất.
Nếu như trong chương hai chúng tôi nhìn nhận diễn ngôn thủ đô và đô thị trong
sự tồn tại độc lập, tương tranh thì ở chương ba, chúng tôi phân tích sự hòa giải của
chúng trong các sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, đặc biệt là trường hợp tiểu thuyết
Sống mãi với thủ đô. Diễn ngôn của Nguyễn Huy Tưởng là một sự hòa giải tuyệt vời để
chất đô thị hòa quyện trong diễn ngôn hào hùng về thủ đô làm nên Hà Nội của thời đại

cách mạng với vẻ đẹp rất riêng. Vẻ đẹp riêng được tạo nên từ sự hài hòa cảm hứng kinh
kì văn hiến, cảm hứng thủ đô cách mạng, cảm thức Paris và cảm thức thị dân đã khiến
cho tác phẩm và tên tuổi của Nguyễn Huy Tưởng “sống mãi với thủ đô” và sống mãi
trong tâm thức người Việt khi hướng về mảnh đất này.
Có thể nói giai đoạn lịch sử đặc biệt 1945- 1975 đã sản sinh ra những diễn ngôn
Hà Nội hết sức đặc biệt. Nó không chỉ là ngữ cảnh tạo sinh những diễn ngôn mới mẻ về
Hà Nội mà ở đó còn có sự phối hợp, tái cấu trúc những diễn ngôn cũ để đem đến hơi thở
mới cho ý niệm thủ đô. Từ những diễn ngôn của thời kì này, có rất nhiều cảm thức đã in
sâu và trở thành một tâm thức xã hội, chi phối các diễn ngôn ở thời kì sau cũng như
25


×