Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tóm tắt luận văn: Tính truyền thống trong thơ Hữu Thỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.97 KB, 35 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do, mục đích chọn đề tài:
1. Đổi mới, cách tân là quy luật, là nhu cầu tất yếu của sáng tạo nghệ thuật,
trong đó có thơ. Khảo sát thơ Việt Nam từ sau 1975 đặc biệt từ sau 1986 đến nay, thơ
đã có những đổi mới cơ bản, theo những xu hướng khác nhau: Có xu hướng trở về
cần mẫn “cày xới” trên nền thơ truyền thống; có xu hướng đam mê đi tìm “bóng
chữ”, tìm những “bến lạ”cho thơ; có xu hướng mải miết tìm tòi, cách tân đổi mới trên
cơ sở truyền thống thơ dân tộc. Dẫu chưa có sự tổng kết thấu đáo về những xu hướng
phát triển của thơ từ sau 1986, nhưng có thể thấy xu hướng cách tân trên cơ sở tiếp
nhận, kế thừa tinh hoa của thơ truyền thống, kết hợp một cách khoa học sáng tạo
truyền thống và hiện đại đã thực sự tạo được hiệu quả nghệ thuật, tạo được những
thành tựu mới cho thơ - Hữu Thỉnh là một cây bút tiêu biểu của xu hướng này.
2. Là nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn thơ chống Mỹ, Hữu Thỉnh sớm
khẳng định được vị trí và phong cách sáng tạo độc đáo. Từ sau 1975, ông tiếp tục
sáng tác và ngày càng khẳng định được vị thế riêng qua nhiều giải thưởng cao quý
của Hội Nhà văn Việt Nam, của Bộ Quốc phòng, Giải thưởng Asean và Giải thưởng
Nhà nước, đặc biệt tạo được sự mến mộ thường trực của nhiều thế hệ độc giả. Nhiều
bài thơ của Hữu Thỉnh đã được phổ nhạc, được dịch và giới thiệu rộng rãi với công
chúng trong và ngoài nước. Có thể nói, truyền thống và cách tân thực sự là hai giá trị
thẩm thấu, hội tụ nhuần nhuyễn trong thơ Hữu Thỉnh, tạo nên cảm quan nghệ thuật và
giá trị riêng cho thơ ông.
3. Thực tế, Hữu Thỉnh sáng tác không nhiều nhưng thơ ông luôn tạo được sự
quan tâm đặc biệt của công chúng và giới nghiên cứu, phê bình. Cho đến nay vẫn
chưa có công tình nào đi sâu, nghiên cứu riêng về tính truyền thống và hiện đại trong
thơ Hữu Thỉnh. Bởi vậy chúng tôi chọn đi sâu nghiên cứu về Truyền thống và cách
tân trong thơ Hữu Thỉnh với hy vọng góp phần nhận diện đánh giá những nét đặc sắc
1


của thơ Hữu Thỉnh và những đóng góp đáng trân trọng của ông đối với sự phát triển
của nền thơ Việt Nam hiện đại. Từ đó, đúc rút được những bài học kinh nghiệm thẩm


mỹ quý báu cho việc tìm tòi, đổi mới thơ.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu:
Hữu Thỉnh là cây bút luôn thu hút được sự mến mộ, quan tâm của các nhà
nghiên cứu phê bình và đông đảo công chúng. Đến nay số bài viết, công trình nghiên
cứu về thơ Hữu Thỉnh khá nhiều. Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi tập trung
khảo sát những công trình, bài viết về thơ Hữu Thỉnh trên hai phương diện chính:
Đánh giá chung về thơ Hữu Thỉnh và tính truyền thống, hiện đại trong thơ Hữu Thỉnh.
2.1. Đánh giá chung về thơ Hữu Thỉnh
Về trường ca: Rất nhiều bài viết của các nhà thơ Xuân Diệu, Tế Hanh, Phạm
Tiến Duật, Thanh Thảo, Vũ Quần Phương, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Thị Mây, Đỗ Trung
Lai...và các nhà nghiên cứu phê bình: Thiếu Mai, Trường Lưu, Đào Thái Tôn, Mai
Hương...đều thống nhất đánh giá cao thành công cả về nội dung và nghệ thuật của
trường ca Hữu Thỉnh, đồng thời khẳng định những nét đặc sắc riêng trong phong cách
sáng tạo của Hữu Thỉnh ở thể trường ca.
Về các tập thơ: Cùng với những bài viết chung về thơ Hữu Thỉnh của Hoài Anh,
Nguyễn Đăng Điệp, Lý Hoài Thu, Lưu Khánh Thơ... là nhiều bài viết của Tô Hoài, Vũ
Nho, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Trúc Thông, Đỗ Ngọc Yên, Thiên Sơn, Trần
Mạnh Hảo... về các tập thơ Thư mùa đông, Thơ Hữu Thỉnh, Thương lượng với thời
gian, Thơ với tuổi thơ...
2.2. Nghiên cứu về truyền thống và cách tân trong thơ Hữu Thỉnh
Nhìn chung, vấn đề truyền thống và cách tân trong thơ Hữu Thỉnh mới chỉ
được kết hợp đề cập trong một số bài viết chung về thơ Hữu Thỉnh. Cho đến nay chưa
có công trình nào nghiên cứu trực tiếp, toàn diện, hệ thống về vấn đề này. Chính vì vậy
chúng tôi chọn đi sâu nghiên cứu về truyền thống và cách tân trong thơ Hữu Thỉnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Toàn bộ sáng tác thơ và trường ca của Hữu Thỉnh là đối tượng khảo sát của luận
văn, cụ thể các tập thơ và trường ca:
- Âm vang chiến hào, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1975, (in chung với
Lâm Huy Nhuận).


2


- Trường ca: Sức bền của đất, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1998.
- Thơ Hữu Thỉnh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1998.
- Thơ với tuổi hoa, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 2000.
- Thương lượng với thời gian, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006.
- Tiếng hát trong rừng, tập thơ
- Đường tới thành phố, trường ca
- Thư mùa đông, tập thơ
- Trường ca Biển.
Bên cạnh đó, để có cơ sở so sánh làm nổi bật những nét đặc sắc riêng trong thơ
Hữu Thỉnh, chúng tôi mở rộng khảo sát một số thơ và trường ca của các tác giả cùng
thời.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh.
5. Đóng góp mới của luận văn:
- Luận văn góp phần đánh giá một phương diện quan trọng trong văn nghiệp của
Hữu Thỉnh, từ đó khẳng định được vai trò, đóng góp đáng trân trọng của nhà thơ trong
công cuộc sáng tạo và xây dựng nền thơ dân tộc.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Về khái niệm truyền thống – cách tân và hành trình sáng tạo thơ
của Hữu Thỉnh
Chương 2: Tính truyền thống trong thơ Hữu Thỉnh
Chương 3: Hữu Thỉnh và những nỗ lực cách tân thơ


PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: Về khái niệm truyền thống – cách tân và Hành trình sáng
tạo thơ của Hữu Thỉnh
1.1. Về khái niệm truyền thống – cách tân trong văn học
1.1.1. Về khái niệm truyền thống văn học
3


1.1.1.1. Truyền thống:
Theo Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên) và Sổ tay từ Hán Việt (do
Nxb Giáo dục ấn hành 1990), “truyền thống” được xác định là: Các nhân tố xã hội
đặc biệt truyền từ đời này sang đời khác ví như: Truyền thống lịch sử, truyền thống
cách mạng, truyền thống văn hóa...
1.1.1.2. Truyền thống văn học:
Theo Từ điển thuật ngữ văn học “Truyền thống văn học” là “những thành tựu
chung, đặc sắc tương đối bền vững, ổn định trên cả hai phương diện nội dung và
hình thức của văn học được lưu chuyển, kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác trong
quá trình văn học. Có những truyền thống văn học của một dân tộc hoặc một vùng,
một khu vực gồm nhiều dân tộc có quan hệ mật thiết với nhau, có truyền thống văn
học của cả nhân loại” [64, 299].
Truyền thống văn học là những giá trị văn học tinh túy của mỗi dân tộc được
chắt lọc, kết tinh, gìn giữ trong tiến trình văn học dân tộc. Mỗi thời đại, mỗi thế hệ
người cầm bút do vậy vừa được tiếp nhận, kế thừa những truyền thống văn học quý
báu, đồng thời vừa lại cũng sáng tạo những giá trị “truyền thống” mới góp phần làm
giàu có, phong phú truyền thống văn học.
1.1.2. Về khái niệm cách tân trong văn học:
1.1.2.1. Cách tân:
Theo Đại từ điển tiếng Việt, cách tân được định nghĩa là “quá trình vận động
loại bỏ cái cũ, sáng tạo cái mới như các hành vi hoặc quá trình sáng tạo trong khoa

học kỹ thuật, quá trình sáng tạo các sự vật. Cách tân là cải cách và càng làm mới
thêm tất cả các sự vật, hiện tượng”.
Giống như khái niệm “Truyền thống” Cách tân cũng được sử dụng rộng rãi
trong hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu về văn hóa nghệ thuật.
1.1.2.2. Cách tân trong văn học:
Trong văn học nói đến cách tân là nói đến sự đổi mới tìm kiếm cái mới, sáng
tạo ra cái mới. “Cách tân là lẽ sống” của sáng tạo văn học nghệ thuật.
Nhìn như vậy có thể thấy, “kế thừa truyền thống và cách tân nghệ thuật là
những phương diện không bao giờ tách rời của quá trình văn học” [64, 230].
4


1.2. Hành trình sáng tạo thơ của Hữu Thỉnh:
1.2.1. Quan niệm của Hữu Thỉnh về thơ:
Hữu Thỉnh thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Khi Hữu Thỉnh đến với thơ, đội ngũ nhà thơ chống Mỹ đã rất đông đảo từ những
nhà thơ lớp trước với những phong cách sáng tạo già dặn, độc đáo cho đến lớp nhà
thơ trẻ ít nhiều đã ổn định về cá tính sáng tạo. Có thể nói, mỗi nhà thơ bằng kinh
nghiệm sống, bằng tài năng và tâm huyết đã đem đến một cách nhìn, một cách cảm
nhận và từ đó cách thể hiện riêng về cuộc chiến tranh, về con người, về cuộc đời... tạo
nên sự phong phú, đa dạng của nền thơ chống Mỹ.
Đến với thơ Hữu Thỉnh, do vậy người đọc dễ dàng cảm nhận được “chất”
riêng, những dấu ấn sáng tạo riêng hệ quả của những suy tư, trăn trở, những quan
niệm sâu sắc, nghiêm túc của nhà thơ về thơ.
1.2.1.1. “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”
Thơ của Hữu Thỉnh là thơ của “người trong trận”. Thơ đến một cách tự nhiên,
như từ trong lòng, từ trong cảm xúc tràn trào ra ở mọi nơi, mọi trạng huống, mọi thời
khắc. “Thơ cứ đến” ngay trên đường hành quân giúp người lính vơi quên đi những
gian khó, nhọc nhằn, “Thơ cứ đến” ngay trong Đêm chuẩn bị, ngay trước trận đánh
đầy cam go, “Thơ cứ đến” ở cái khoảnh khắc người lính “Ôm súng bò lên với trái tim

tình nguyện”, “Thơ cứ đến” ngay giữa đại ngàn Trường Sơn.
Chính vì thế, thơ Hữu Thỉnh đã thật sự trở thành những “Bài ca người lính”,
trở thành cội nguồn sức mạnh, đủ để mỗi người lính “vịn” vào những câu thơ ấy “...
Sưởi trên những câu thơ ấy/ Cứ thế qua đi nhiều mừa mưa” và đi tới chiến thắng.
Thơ ấy là thứ thơ “gan ruột” - Thơ của người trong cuộc viết về người trong
cuộc. Trong quan niệm của Hữu Thỉnh, thơ không thể thờ ơ, xa lạ với cuộc sống và
con người.
1.2.1.2. “Tôi rất tin: Thơ là kinh nghiệm sống”
Đến với thơ Hữu Thỉnh dù là những tập. trường ca dài hay một bài thơ ngắn
chỉ bốn câu người đọc luôn được “sống” với những suy nghĩ, tâm trạng, tình cảm,

5


những trải nghiệm, chiêm nghiệm của chính nhà thơ mà chỉ trực tiếp sống, ngụp lặn
trong đời sống mới có thể có được.
Đường tới thành phố như nhà thơ tâm sự được viết “từ chính những kinh
nghiệm của cá nhân mình. Trường ca biển là những trải nghiệm máu thịt của Hữu
Thỉnh sau những năm tháng “neo mình vào biển” “Tôi qua mấy tầng mặn chát” của
biển và “Biển và tôi trong tiếp xúc toàn thân” – “ tôi gần như hóa biển”.
Có thể nói, giống như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh là người đã “mang được
Trường Sơn nhiều nhất vào thơ” (Vũ Quần Phương). Mỗi bài thơ, mỗi câu thơ của
Hữu Thỉnh đều là trải nghiệm sống của người lính ở chiến trường, đều thấm mồ hôi,
nước mắt và máu của chính ông và đồng đội.
Thơ Hữu Thỉnh giàu ưu tư, suy nghĩ – sự ưu tư, suy nghĩ của người từng trải.
Nếu như ở mảng thơ chiến trận, bằng sự trải nghiệm của mình Hữu Thỉnh đã có được
những đúc kết về chiến tranh về những mất mát, hy sinh, về những suy tư trăn trở của
người lính thì sau chiến tanh, cũng từ những trải nghiệm của mình nhà thơ đã có
được những chiêm nghiệm, suy tư thức ngộ sâu xa về nhân tình thế thái.
“Tôi rất tin: Thơ là kinh nghiệm sống”. Hữu Thỉnh tin như vậy và nhà thơ đã

gắng “Sống mỗi ngày nguyên chất cho thơ” (Nói chuyện với XaIn) để thơ đủ sức neo
đậu trong tâm cảm của người đọc.
Cá tính sáng tạo của nhà thơ: Như trên đã nói, Hữu Thỉnh đến với thơ ở chặng
cuối của thơ chống Mỹ, do đó, một trong những điều nhà thơ quan tâm sâu sắc trước
hết là phải tìm cho mình, tạo lập cho thơ mình có được một “giọng điệu riêng, “một
tiếng nói riêng”, một “cá tính sáng tạo” theo quan niệm của Khrapchenkô... Biểu
hiện tập trung ở cái nhìn nghệ thuật độc đáo, ở cách cảm, cách nghĩ của nhà văn, có
khả năng đề xuất những nguyên tắc nghệ thuật mới mẻ, tạo thành một ngôn ngữ
nghệ thuật mới trong việc biểu hiện những nội dung mới của đời sống tư tưởng”.
Hữu Thỉnh không trực tiếp bàn về cá tính sáng tạo, không lập thuyết nhưng qua
cách nhà thơ bàn về thơ, về vẻ đẹp của thơ và đặc biệt qua thực tiễn sáng tạo thơ của
Hữu Thỉnh, có thể thấy ngay từ khi đến với thơ Hữu Thỉnh đã có ý thức phải sáng tạo
và khát khao tạo được tiếng nói mới lạ cho thơ mình.

6


1.2.2. Hành trình sáng tạo thơ của Hữu Thỉnh.
1.2.2.1. Thơ viết về chiến tranh
Hai trường ca Sức bền của đất (hoàn thành dịp Tết Ất Mão, 1975) và Đường
tới thành phố (viết từ 8/1977, hoàn thành 4/1978) ghi nhận những thành công và đóng
góp mới, đặc sắc, đáng trân trọng của nhà thơ.
Với quy mô nhỏ gồm 188 câu thơ trường ca Sức bền của đất được chia thành
ba khúc: Mẹ chiến hào, Đất đai truyền thuyết, Những đứa con và những bài hát mới
ghi lại tâm tình của những người lính giữa chiến trường.
Đường tới thành phố gồm 5 chương, 1539 câu thơ được ghi nhận là tác phẩm
quan trọng nhất của đời thơ Hữu Thỉnh và cũng là tác phẩm giá trị của nền thơ Việt
Nam hiện đại. Đường tới thành phố đánh dấu sự chín muồi của thơ Hữu Thỉnh cả
trong ý thức nghệ thuật và thể loại. Viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống
Mỹ, chặng cuối cùng toàn dân tộc đi tới toàn thắng, Đườngtới thành phố có thể coi là

bản “tổng phổ” của biết bao số phận, cảnh ngộ, cùng những hy sinh chịu đựng và suy
tư trăn trở của cả một dân tộc trên chặng đường “dằng dặc đau đớn mất mát” để đi tới
chiến thắng.
1.2.2.2. Thơ viết về đời sống hậu chiến
Thơ viết về đời sống hậu chiến của Hữu Thỉnh gồm hai tập Thư mùa đông,
Thương lượng với thời gian và Trường ca Biển. Được viết trong bối cảnh mới: đất
nước hòa bình, ở giai đoạn cuối của thời kỳ bao cấp và thời mở cửa, đổi mới, sáng
tác của Hữu Thỉnh thời kỳ này cũng có những chuyển đổi mới.
Trường ca Biển là số phận cá nhân của những người lính đảo thời bình.
Thư mùa đông là hành trình đi “tìm người”, tìm trong tâm thế “Tôi nháo nhác
đi tìm người” trong cái xô bồ, bộn bề của thời hậu chiến.
Cũng như Tự thú, Hỏi, Hạnh phúc, Nghe tiếng cuốc kêu... và hầu hết Thư mùa
đông, Thương lượng với thời gian tiếp tục là những trăn trở, suy tư đằm sâu của Hữu
Thỉnh về cói nhân sinh, về nhân tình thế thái.
Chương 2: Tính truyền thống trong thơ Hữu Thỉnh
2.1.1.1. Cảm hứng về quê hương

7


Sinh ra ở quê, sống gắn bó với quê, “hồn thơ Hữu Thỉnh đá thấm đẫm chất dân
gian vừa bay bổng lãng mạn vừa mặn mòi gian khó của quê hương”. Và vì thế, quê
hương hiển hiện trong thơ Hữu Thỉnh cũng thấm đượm sắc vẻ riêng với những Sang
thu, Chiều sông Thương, Thảo nguyên, Bình yên... đầy sức ám ảnh.
Ông đã đưa vào thơ những hình ảnh mang đậm hồn quê với những cỏ hội hè,
những đám mây mùa hạ, những cỏ đội bờ, cau ấp bẹ, những trởi bỏ ngỏ, những chiều
bỏ không, những cây rơm gầy, rơm rạ nằm mơ... Ông nhớ đến từng tháng ở quê
hương, Nhớ đến từng mùa, Nhớ đến từng nét sinh hoạt dung dị ở làng quê, từng ngọn
khói “mẹ nhóm lên nghi ngút ở mé đồi”; “Những quả chuối chín mòng trẻ lại ríu chân
lên”; “những đồi cỏ may, những bờ trống ếch”... Nỗi nhớ quê triền miên trong thơ

Hữu Thỉnh.
Một trong những nét đặc sắc trong thơ Hữu Thỉnh là tình cảm quê hương
không phải là tình cảm chung chung, trìu tượng mà được lắng lọc qua tình cảm, tâm
trạng của người lính xa quê đi chiến đấu và bởi thế là tình cảm thường trực đau đáu,
thấp thỏm nhiều khi đến xa sót.
Quê hương trong thơ Hữu Thỉnh chính là phần hồn, phần kí ức - nơi nhà thơ
gửi gắm những hồi ức, những kỉ niệm, những dấu ấn không thể phai nhòa.
Quê hương với Hữu Thỉnh luôn là cái nôi đưa, là “nhà ga”, là điểm dừng chân
cho mỗi người con.
2.1.1.2. Cảm hứng về đất nước
Với Hữu Thỉnh, đất nước trường tồn trong những giá trị chìm khuất nhất, sâu
thẳm nhất, đó là những giá trị ta không nhìn thấy được, không hiện hữu, không trực
tiếp bộc lộ, lại vừa hiển hiện trong từng hình ảnh giản dị, cụ thể, xuyên suốt trong thơ
của ông. Đất nước tiềm ẩn những giá trị không thể đánh giá, đó là âm vang, là dư vị,
là hồn cốt của những gì đau xót nhất, thiêng liêng nhất, vang dội nhất, là mạch ngầm
thẩm thấu trong từng con chữ.
Đất nước là những gì thân thuộc, bình thường nhất, nhưng vĩnh cửu nhất.

8


Đất nước là sự sống thiêng liêng cao quý và giá trị nhất để mỗi người con sẵn
sàng hy sinh tất cả cho cái giá trị vô giá đó.
Đất nước là những dấu ấn không thể nào mờ nhạt dù cho khi giặc đến, giặc
lùng “Mẹ vẫn đỏ miếng trầu/ Ấm một vùng tin cậy phía sau”. Đó là sự nung nấu, sự
gìn giữ không bao giờ có thể xóa nhòa, khuất lấp, luôn trong tư thế chủ động “Đắp
nắm đất cho người ở lại/ Trận đánh hiểm nghèo: tất cả giơ tay”.
Đất nước chính là sự hy sinh của đồng đội, là mảnh hồn quê, là những nấm mồ
đồng đội đã ngã xuống, những gì đã mất, đã qua nhưng lại trở thành những gì vĩnh
hằng nhất, bền chặt nhất. Cả một đất nước trong tiềm thức, của những giá trị không

phải ai cũng nhìn thấy nhưng lại bền vững không gì có thể lay chuyển nổi.
2.1.2. Cốt cách của con người Việt Nam
2.1.2.1. Trọng tình nghĩa, nhân nghĩa
Từ xa xưa, tư tưởng trọng tình nghĩa, nhân nghĩa đã là một trong những truyền
thống quý báu của dân tộc. Hữu Thỉnh đã kế thừa và góp phần làm sâu đậm tư tưởng
nhân văn đó qua những câu thơ chan chứa cảm xúc, sâu nặng ân tình. Con người tình
nghĩa trong thơ Hữu Thỉnh luôn mang một tấm lòng thơm thảo với quê hương, hiếu
nghĩa với cha mẹ và nhân nghĩa với bạn bè, đồng bào đồng chí. Với Hữu Thỉnh, đó
chính là những người thân trong cuộc sống và chiến đấu, dù thời bình hay thời chiến
tư tưởng này vẫn “làm ta day dứt mãi”.
Với tấm lòng trắc ẩn, Hữu Thỉnh rung động một cách mãnh liệt và phản ánh
sâu đậm những khía cạnh thể hiện phẩm chất, tình nghĩa cao đẹp của con người Việt
Nam. Thơ Hữu Thỉnh đã kế thừa sâu sắc, triệt để và góp phần khắc đậm phẩm chất
truyền thống cao đẹp... trọng tình nghĩa của con người Việt Nam.
2.1.2.2. Sống đồng cảm, hy sinh, nhường nhịn, xẻ chia:
Một trong những nét đẹp đáng khâm phục của những người lính trong thơ Hữu
Thỉnh như một phẩm chất đáng tự hào của những người lính bộ đội cụ Hồ ở sự đồng
cảm, biết hy sinh. Họ chia sẻ, nhường nhịn, họ nâng niu từng kỷ niệm, họ che chở,
bảo vệ và đỡ đần nhau vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc chiến.
9


Người mẹ hiểu những khó khăn khắc nghiệt của đất nước, những gian nan
hiểm nguy người lính phải chịu đựng nơi chiến trận nên gắng một mình mòn mỏi,
còm cõi, vất vả xẻ chia cùng những người con vì Tổ quốc. Người vợ thấu hiểu thời
cuộc mà đồng cảm cùng chồng gánh vác việc nước, việc nhà, chấp nhận sự cô đơn,
tủi nhục, sắt son, kiên định đợi chờ. Người đồng chí thấu hiểu cho nhau những nỗi
nhớ nhung da diết, những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần, những sự mất mát, tổn
thương, thiếu thốn về tình cảm, tình mẹ, tình yêu, tình bạn. Người lính giãi bày, chia
sẻ tâm tình cho nhau cả về vật chất và tình thần.

Thậm chí với những người không quen biết, không chung cội nguồn, lí tưởng
nhưng chỉ cần có sự đồng điệu về tâm hồn thì mọi khác biệt không còn là trở ngại,
bởi cái tôi đã hóa thành cái ta.
Phẩm chất đáng tự hào đó của con người Việt Nam đã được Hữu Thỉnh kế thừa
và bồi đắp dày dặn thêm, sáng đẹp thêm.
2.1.2.3. Sống lạc quan, tin tưởng, bền bỉ, dẻo dai:
Một tinh thần chủ đạo xuyên suốt trong thơ Hữu Thỉnh là khẳng định sức sống
lạc quan, yêu đời trong thời loạn lạc, sức chống chọi bền bỉ, dẻo dai trước mọi vấp
ngã, khó khăn, thử thách. Dù trong hoàn cảnh nào, tinh thần đó vẫn sáng ngời như
ngọn đuốc dẫn lối chỉ đường.
Sự lạc quan của những người lính hiện lên trong chính cuộc sống thường ngày.
Người lính trong thơ Hữu Thỉnh luôn sáng ngời những phẩm chất của bộ đội
cụ Hồ. Sống trong hoàn cảnh sự bình yên, tính mạng của mình, của đồng đội luôn bị
đe dọa, người lính vẫn “khoen lựu đạn anh cắn vào lặng lẽ”. Sự gan dạ, đanh thép
biến họ thành keo cứng trước mọi nỗi đau, thù hận để cống hiến hết mình cho dân
tộc, đất nước: “ Anh đanh lại, anh nấu nung như thể/ Lõi lim già mưa nắng lẩn vào
trong”, dù kẻ thù có trăm mưu ngàn kế, dã man, tàn bạo, thì với ý chí quyết tâm kiên
định của người lính chiến trường, mọi thử thách chỉ như hạt muối bỏ biển, ý chí làm
nên lòng tự hào của dân tộc.
2.1.2.4. Sống cởi mở giãi bày, tâm tình:
10


Trong thơ Hữu Thỉnh, bên cạnh hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống, chiến
tranh, đạn lửa, bên cạnh những niềm vui, nỗi đau do chiến tranh mang lại, chia sẻ
những khó khăn của cuộc sống vật chất con người trong thời chiến còn ẩn chứa
những tâm tình sâu lắng “những tâm tình đằng sau tâm tình” (Nguyễn Duy), đó là
những tâm sự về gia đình, vợ chồng, về tình yêu đôi lứa, về những gì chỉ lưu giữ
trong tâm hồn “nhạy cảm với trái tim chiến sĩ” mà Hữu Thỉnh đã kế thừa từ truyền
thống thơ của dân tộc.

Đó là nỗi lòng của người con xa quê không thể đoàn tụ với gia đình, với người
mẹ già vẫn hàng ngày phải tự chật vật mưu sinh cho cuộc sống, phải tự là trụ cột, là
sức mạnh, chỗ dựa, thay vì phải được phụng dưỡng chu toàn. Là người vợ mòn mỏi
thủy chung với người chống chiến trận.
2.2. Tiếp nhận sáng tạo những trầm tích lịch sử văn hóa dân tộc
2.2.1. Trầm tích lịch sử , văn hóa dân tộc – một mạch nguồn đặc sắc trong thơ
Hữu Thỉnh
Hữu Thỉnh rất có ý thức trong việc đi sâu khai thác những cái hay, cái đẹp của
dân gian, dân tộc, vừa biết dồn tâm lực, vừa biết sử dụng tài năng một cách tài tình
trong việc sáng tạo cái mới. Trong thơ, Hữu Thỉnh đưa một cách khéo léo vào thơ
những sáng tạo đầy tràn của chiều sâu tâm trạng, đem đến một bộ mặt hoàn toàn mới
cho thơ. Những câu hát giặm nghệ tĩnh, câu đồng giao, hát ví, hát xoan, hát ghẹo, ca
dao, tục ngữ, hàng loạt những hình ảnh về người mẹ,cây đa, giếng nước, sân đình…
được Hữu Thỉnh khéo léo đưa vào thơ một cách hài hòa và tao nhã. Điều đặc biệt ở
đây là Hữu Thỉnh rất tài tình trong việc khai thác vận dụng: chỉ với một nét của
những giá trị truyền thống đó, người ta đã có thể mường tượng ra, hiểu ra giá trị của
những trầm tích lịch sử, văn hóa đó.
Chính sự kế thừa, tiếp nhận và khai thác sáng tạo những trầm tích lịch sử văn
hóa truyền thống tạo nên những điểm nhấn, sự hấp dẫn đặc biệt cho thơ Hữu Thỉnh,
đồng thời tạo khoảng trống cho sự liên tưởng đầy sáng tạo của người đọc. Đây cũng

11


là một trong những phương diện tạo nên phong cách sáng tạo độc đáo cho thơ Hữu
Thỉnh.
2.2.2. Tiếp nhận sáng tạo từ nghệ thuật thơ truyền thống
2.2.2.1. Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi, gợi cảm:
Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ thấm nhuần giá trị truyền thống dân
gian một cách sâu sắc và toàn diện. Một trong những phương diện nghệ thuật Hữu

Thỉnh tiếp nhận và thực sự tạo được hiệu quả là cách xây dựng hình ảnh của thơ
truyền thống: giản dị, gần gũi, gợi cảm nhưng hàm ẩn chiều sâu ngữ nghĩa. Trong thơ
Hữu Thỉnh tràn ngập những hình ảnh của cuộc sống đời thường giản dị gần gũi
nhưng đầy sức gợi cảm, lôi cuốn. Trong thơ viết về chiến tranh là những hình ảnh
bom đạn, đường rừng, con suối, hầm đất, giấc ngủ chập chờn trên đường ra trận, nắm
cơm ăn vội, cháy than, những đống lửa hắt hiu, giường chiếu chăn tạm bợ, máu lửa,
chết chóc, hy sinh… tất cả đều tái hiện hiện thực một cách chân thực, sinh động theo
guồng quay của chiến trận.
2.2.2. Giọng điệu thơ truyền thống
Nói về giọng thơ Hữu Thỉnh, điều đầu tiên độc giả cảm nhận ở trong những
vần thơ ông là lối dẫn dắt mang âm hưởng thơ trữ tình sâu lắng và giãi bày, Nhạc tính
trong thơ Hữu Thỉnh qua đó có thể thấy bộc lộ rất rõ qua giọng thơ.Giọng thơ trữ
tình, nhẹ nhàng, man mác. Chất giọng này giữ vai trò chủ đạo trong thơ Hữu Thỉnh
giai đoạn sáng tác trong chiến tranh. Chất giọng trữ tình ngọt ngào, đó là những dòng
thơ viết về người lính, người mẹ, về cuộc chiến tranh…
Xuyên suốt mạch thơ qua những giai đoạn, thời kì thơ, giọng trữ tình giãi bày
như một dòng chảy nhẹ nhàng, hài hòa, êm đềm và lặng lẽ, chi phối manh mẽ đến kết
cấu và mạch trữ tình trong thơ và trường ca của Hữu Thỉnh. Giọng điệu trữ tình nổi rõ
nhất trên cảm hứng trữ tình của thơ Hữu Thỉnh, bộc lộ rõ trên hình tượng người lính –
tình đồng chí, đồng đội sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, sẵn sàng hiến dâng tính mạng
cho dân tộc mà họ vẫn sáng ngời lòng tự tôn, hãnh diện, tràn đầy tinh thần lạc quan

12


tin tưởng. Tất cả hài hòa trọn vẹn và sâu lắng mà thơ Hữu Thỉnh đã đem lại trong
giọng điệu thơ trữ tình ngập tràn cảm xúc.
2.2.2. Giọng chiêm nghiệm, triết lý:
Đây là một giọng điệu đặc sắc của thơ ca truyền thống.
Khảo sát qua thơ Hữu Thỉnh chúng tôi nhận thấy: Nếu trước và trong chiến

tranh, giọng điệu tâm tình, giãi bày cảm xúc là giọng điệu chủ đạo làm nên phần hồn
cho thơ Hữu Thỉnh, thì sau chiến tranh đã có thay đổi, thơ Hữu Thỉnh nghiêng về trải
nghiệm và đúc kết triết lý. Giọng trữ tình giãi bày sâu lắng dần nhường chỗ cho giọng
suy tư, triết lí ở giai đoạn sau. Vẫn là những đề tài quen thuộc nhưng từ cảm hứng
đến giọng điệu đều có một sự đổi mới đáng kể. Sau chiến tranh không còn phải đối
diện với mất mát hy sinh, con người tập trung chú ý đến bản chất hiện thực cuộc sống
và đồng thời cũng có cái nhìn hiện thực hơn, bắt đầu đúc kết, chiêm nghiệm, đánh giá
về cuộc sống thực tại, về con người, về cách ăn ở, về những giá trị mang tầm khái
quát, triết lý của đời sống.
Không còn sự lãng mạn, giãi bày tâm tư tình cảm như trước, thay vào đó là sự
đúc kết kinh nghiệm sống, sự từng trải, chất triết lý ưu tư. Sự chuyển đổi này thể hiện
trong nhiều tập thơ viết sau chiến tranh của Hữu Thỉnh
Giọng chiêm nghiệm thể hiện trên rất nhiều phương diện. Tiêu biểu nhất là về
người mẹ, về cá nhân, về thiên nhiên đất trời về sự đổi thay của thời cuộc, của nhân
tình thế thái.
Tính triết lý còn bộc lộ qua nghệ thuật ẩn dụ được thể hiện hiệu quả trong các
tập thơ. Ở Thư mùa đông, Hữu Thỉnh đã hé lộ cho độc giả thấy tầng bậc ẩn ý đằng
sau mỗi bài thơ, mỗi câu thơ đều có sức gợi riêng của nó, điều đó đã tạo nên sự đa
tầng ngữ nghĩa cho thơ.
Bên cạnh việc thể hiện những suy tư chiêm nghiệm, giọng thơ đầy tính triết lý
nhân sinh thì cách tổ chức lời thơ, câu thơ cũng mang tính triết lí rõ rệt. Có thể thấy,
cùng thời với những nhà thơ thời chống mỹ nhưng ở Hữu Thỉnh bộc lộ khía cạnh đa
13


dạng và khắc khoải của một hồn thơ chân thực với cuộc sống, chân thực với đời, chân
thực với lòng người. Bởi vậy giọng thơ triết lý, đúc kết mang tính chiêm nghiệm cũng
trở nên sâu đậm, đó là sự chiêm nghiệm về cuộc đời, hiện thực cuộc sống, về nhân
dân, các số phận cá nhân, về sự suy thoái của các giá trị nhân sinh.
2.2.2.3. Giọng suy tư, trăn trở

Suy tư, trăn trở, cũng là chất giọng đặc sắc trong thơ Hữu Thỉnh.
Trước hết, là những trăn trở về cuộc sống đầy thử thách.
Giọng trăn trở suy tư còn được thể hiện khá thành công khi thể hiện những
nghiệm suy về những thân phận người trong xã hội.
Không chỉ suy tư về hiện thực cuộc sống, về những giá trị nhân sinh, Thơ Hữu
Thỉnh còn là nơi bộc bạch giãi bày tình cảm – tình yêu đôi lứa, bởi lẽ đó trăn trở về
tình yêu cũng là một khía cạnh khá rộng và sâu sắc được nói đến trong thơ Hữu
Thỉnh.
Nhìn chung cảm thức trăn trở đã đi vào thơ Hữu Thỉnh tạo nên một diện mạo
hoàn toàn mới, nổi bật là cả về giọng điệu, âm hưởng thơ.

Chương 3: Hữu Thỉnh và những nỗ lực cách tân thơ
3.1. Kiểu tư duy thơ hiện đại, đậm cá tính sáng tạo
3.1.1. Sáng tạo trường liên tưởng độc đáo:
Liên tưởng là một năng lực thiết yếu trong tư duy sáng tạo nghệ thuật, góp
phần quan trọng trong việc tạo nên gương mặt riêng của người nghệ sĩ. Trường liên
tưởng là một trong những yếu tố hình thành nên phong cách nghệ thuật và tư tưởng
nghệ thuật của người nghệ sĩ. Hữu Thỉnh đã sử dụng rất mới mẻ đặc trưng này trong
việc góp phần khẳng định phong cách thơ của ông.
Ở bài thơ Hỏi, tính trí tuệ nằm ngay trong kết cấu, thể hiện vừa sâu sắc, tinh tế,
vừa khái quát, chi tiết những tình cảm, suy ngẫm của tác giả.
14


Để nói đến sự hy sinh, mất mát, cô đơn không gì đo đếm được của những
người vợ - phải dồn nén khát khao, đằng đẵng đợi chờ chồng, Hữu Thỉnh đã sáng tạo
nhiều hình ảnh giàu sức liên tưởng độc đáo.
Trong Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh đã có những câu thơ độc đáo giàu sức
liên tưởng. Đó là cách cảm nhận về thời gian quá khứ đan xen thời gian tương lai đầy
lạ lẫm, sắc sảo, tính hàm ẩn cao, tạo sự liên tưởng sâu xa từ ý thơ: “Cau vườn rụng

một tàu đã cũ”.
Những thành ngữ, tục ngữ “trở trời trái gió”, “áo gấm đi đêm”, đến trong thơ
Hữu Thỉnh như là một cách tình cờ, bất chợt nhưng mang ý nghĩa liên tưởng sâu xa.
Đó là những mảnh tâm tư che đậy một cách khéo léo tinh tế nhưng vẫn đủ sức gợi
liên tưởng đến nỗi trống vắng cô quạnh của người vợ chờ chồng.
Nhiều khi sự liên tưởng trong mạch thơ được thể hiện ở những câu thơ liên
tiếp ý miên man từ vấn đề này sang vấn đề khác, tưởng chừng không có liên hệ gì với
nhau. Nhưng lại bộc lộ một sức khái quát cao trong ý thơ, nêu bật nội tâm trong sự
sâu sắc và phong phú. Như hình ảnh gốc sim trong trường ca Đường tới thành phố.
Bên cạnh những liên tưởng đơn từ A liên tưởng trực tiếp đến B, Hữu Thỉnh còn
có những liên tưởng kép, liên tưởng “chuỗi”: Từ A qua rất nhiều liên tưởng ngầm mới
đến B. Bài thơ Chạm cốc với Xa-In, mang lại cho người đọc sự bất ngờ bởi những
liên tưởng kết nối liên tiếp. Hay ở Chương 1 của Trường ca Biển, Đối thoại Biển,
Hữu Thỉnh cũng xây dựng những liên tưởng kép độc đáo qua lối đối thoại giữa Người
lính và Biển:
Người lính nói:
- Hôm nay tôi thấy biển lần đầu
Biển nói:
-Mái gianh nhà anh không nói thế
Vại nước gốc cau nhà anh không nói thế.
Ở đây phải qua rất nhiều liên tưởng ngầm về sự luân chuyển của giọt nước trên
mái gianh mới tới được mối liên hê khăng khít bền chặt giữa biển đảo với đất liền.
15


Cũng như vậy cả trường ca Sức bền của đất với rất nhiều liên tưởng mới đến
được tầng nghĩa sức bền của đất – sức bền bỉ của dân tộc. Các hình ảnh liên tưởng thể
hiện một kiểu tư duy thơ hiện đại của Hữu Thỉnh “mang lại các phát hiện rất bất ngờ,
khiến cho những câu thơ tài hoa của anh phát sáng ở nhiều chiều kính” (Nguyễn Việt
Chiến).

3.1.2. Khả năng chuyển đổi cảm giác
Chuyển đổi cảm giác là sự tương giao giữa các giác quan: “Mùi hương, màu
sắc, âm thanh tương giao cùng nhau” (Bô-dơ-le). Hữu Thỉnh đã vận dụng thành công
thủ pháp này trong việc thể hiện sức gợi – tả trong thơ. Vận dụng sự tương giao của
các giác quan, Hữu Thỉnh đã đem đến một cái nhìn mới, tạo dựng được một kiểu tư
duy mới, hiện đại để biểu hiện những cung bậc đa dạng của cảm xúc.
Sự nhạy cảm về trực giác – từ đó tạo được ấn tượng và liên tưởng độc đáo cho
thơ. Cảm nhận bằng vị giác đã tạo nên những hình tượng thơ mới mẻ, những câu thơ
trở nên tinh tế, diễn tả tài tình các xao động trong tâm tình của con người. Những suy
nghĩ vốn trừu tượng, nhưng qua cảm nhận của nhà thơ lại được hình khối hóa. Đặc
biệt thủ pháp gán những biểu hiện, chỉ trạng thái hành động của con người sang sự
vật, tạo nên một nét rất riêng và sâu sắc.
Nhân cách hóa sự vật là thi pháp được vận dụng phổ biến trong thơ Hữu Thỉnh.
Nhân cách hóa kết hợp với sự giao thoa của các giác quan, đem đến một cái nhìn
mới; một cách tạo hình mới cho thơ Hữu Thỉnh.
Có thể thấy, nghệ thuật chuyển đổi cảm giác đem đến cho thơ Hữu Thỉnh một
sự tinh tế và điểm nhấn lạ thường trong việc tạo hình ảnh thơ, đặc biệt là bộc lộ chiều
sâu tâm hồn một cách tế nhị mà thấm nhuần tư tưởng nhân văn của tác giả. Những
“nhát bút” chạm khắc kiểu ấy thực sự đã mang đến cho thơ ông dáng dấp tạo hình
và một kiểu tư duy thơ hiện đại, mới mẻ.
3.1.3. Bút pháp tạo hình hiện đại:
Nói đến nghệ thuật tạo hình là nói đến các yếu tố nhận thức của thị giác: hình
khối, đường nét, hình dạng, màu sắc, chất liệu, không gian và sắc độ. Để đưa được
16


những nét tinh tế của nghệ thuật này vào thơ ca không phải dễ. Với những nỗ lực tìm
tòi sáng tạo, Hữu Thỉnh đã có được những thành công trong bút pháp tạo hình.
Sự kết hợp tinh tế giữa cái vô hình và cái hữu hình là một trong những phương
thức hữu hiệu để Hữu Thỉnh có được những hình ảnh lạ và bất ngờ.

Cùng với cảm giác là ảo giác. Nhiều hình ảnh thơ của Hữu Thỉnh được tạo
dựng từ ảo giác – đặc sắc và mới lạ.
Sự phá vỡ cấu trúc cân đối, hài hòa, tạo nên những xô lệch chao đảo về hình
khối do những chuyển đổi cảm giác hoặc những áp lực của cảm xúc. Sự kết hợp giữa
cái tĩnh và cái động, giữa cái không khí bảng lảng cổ sơ với không khí hiện đại thực
sự mang đến những nét vẻ mới lạ cho hình ảnh thơ của Hữu Thỉnh.
Hữu Thỉnh đặc biệt cũng thành công và tạo được ấn tượng cho người đọc ở
những đường nét khắc họa cảnh chiều xuống, đêm buông. Đó không phải là sự kết
thúc của nhịp sống, đó không phải là kết thúc hoạt động sống của con người, mà đêm
xuống đồng nghĩa với việc mở ra một khung trời mới, đó là những khung trời của nỗi
nhỡ, khung trời của con người trong suy nghĩ, tình cảm bắt đầu trỗi dậy
Trong thơ Hữu Thỉnh, thiên nhiên và con người có sự hòa hợp, hòa hợp để tồn
tại, hòa hợp để cùng thăng hoa. Mọi sắc thái, cảnh vật của thiên nhiên đều được Hữu
Thỉnh đưa vào thơ với một tầng bậc nhất định, có khi đơn giản là cảm nhận trước
thiên nhiên choáng ngợp, có khi mượn hoa nói tình, mượn cây nói tuổi, mượn chiều,
đêm nói lên tâm sự trong lòng.
Những tìm tòi trong bút pháp khắc họa hình ảnh ghi nhận tâm huyết, sự trăn trở
của nhà thơ để thơ mình song hành được trong hành trình đổi mới thơ hiện nay.
3.2. Những nỗ lực cách tân về thể thơ
3.2.1. Sáng tạo của Hữu Thỉnh ở những thể thơ mới:
3.2.1.1. Thể trường ca
Nói về sự nghiệp thơ Hữu Thỉnh không thể không nói về trường ca và nói về
trường ca không thể không nhắc đến hai trường ca nổi tiếng, để lại nhiều tiếng vang
trong lòng độc giả là Trường ca Biển và trường ca Đường tới thành phố. Đây là hai
17


tập trường ca điển hình cho hai chặng đường của dân tộc, thể hiện một cách chân
thực sâu sắc và cảm động về thời gian trước, trong và sau kháng chiến chống Mỹ của
dân tộc. Có thể thấy trường ca Hữu Thỉnh thể hiện rất rõ nội dung và chủ đề trên hai

phương diện: Trường ca tự sự và trường ca trữ tình.
Thứ nhất, nói về mảng tự sự, trường ca Đường tới thành phố là một nhật kí
toàn vẹn, tái hiện đầy đủ và chân thực trong việc chọn lựa và khai thác chủ đề về
người lính và hiện thực cách mạng, với những tình huống gay cấn; cách thể hiện sự
hòa quyện giữa cá nhân và cộng đồng.
Trường ca chiếm một tỉ lệ khá lớn trong toàn bộ sự nghiệp thơ Hữu Thỉnh.
Thống kê theo số lượng câu trong toàn bộ thơ Hữu Thỉnh thì thể Trường ca chiếm tỉ
lệ 55%. Trường ca Hữu Thỉnh không chỉ bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của giá trị
truyền thống mà còn mang trong mình hơi thở của thời đại, có sự đan xen giữa con
người và thời cuộc.
Trường ca Hữu Thỉnh vừa mang chất tự sự lại vừa thể hiện yếu tố trữ tình sâu
sắc, phản ánh con người trong cái nhìn đa diện, đó là một điểm mới mang tính thời
đại được bộc lộ trong những tác phẩm dài hơi với sự đa diện trong nhìn nhận, đánh
giá và trải nghiệm. Trong trường ca Hữu Thỉnh, cái tôi đóng vai trò như một chủ thể
quan trọng, có vị trí đặc biệt trong việc nhận thức về cảm tính lẫn lý tính đối với sứ
mệnh của mình trong dòng lịch sử. Cái tôi cá nhân được đề cao nhưng cái mà họ
hướng đến là dân tộc và thời đại chứ không phải để thể hiện những tình cảm cá nhân.
Đây chính là điểm đặc biệt, chất hiện đại trong trường ca Hữu Thỉnh.
Chất trữ tình trong trường ca Hữu Thỉnh còn bộc lộ ở sự phân mảnh vấn đề, sự
việc, sự kiện, câu chuyện, dòng cảm xúc. Đó là sự xen kẽ, đan cài nhiều sự việc với
nhau.
Tựu trung lại, dưới góc độ nhận thức nào trường ca Hữu Thỉnh cũng đều phản
ánh hai vấn đề mang tính thời cuộc rõ nét.
3.2.1.2. Thơ tự do – thơ văn xuôi

18


Trong các tập thơ của Hữu Thỉnh, thơ tự do chiếm tỉ lệ cao. Ở tập Tiếng hát
trong rừng có 13/22 bài, tiêu biểu là Đêm chuẩn bị, Chuyến đò đêm giáp ranh. Trong

tập Thư mùa đông có 22/36 bài, tiêu biểu: Tạp cảm, Phan Thiết có anh tôi, Hỏi, Thơ
viết ở biển., Trong tập Thương lượng với thời gian là 17/49 bài, phải kể đến Thương
lượng với thời gian, Thợ lặn cầu Thăng Long, Gửi người bộ hành lặng lẽ. Thơ tự do
linh hoạt trong từng từ, câu thơ, ý thơ cho đến bài thơ
Đọc thơ Hữu Thỉnh, bắt gặp khá nhiều bài thơ có dạng thức như vậy, thậm chí
sự co dãn linh hoạt của câu thơ được nhà thơ tận dụng một cách triệt để, trong việc
bộc lộ ý đồ, cảm xúc.
Sự biến hóa trong thể loại không chỉ giúp cho nhà thơ thỏa sức thể hiện, bộc
bạch, mà sự khoáng đạt về ngôn ngữ, nhịp điệu còn làm cho câu thơ trở nên linh loạt,
tránh cảm giác sáo mòn, cứng nhắc, đơn điệu. Diễn đạt phóng khoáng, thể hiện phóng
khoáng, nhưng bộc lộ sâu sắc và tô đậm sự cảm nhận của người đọc chính là hiệu quả
của thể thơ này.
Thứ hai, nói về thể thơ văn xuôi, Hữu Thỉnh cũng bộc bạch: “là một loại thơ
trữ tình có cấu trúc câu giống văn xuôi, câu nọ tiếp nối câu kia không xuống dòng,
gần như không vần, nhịp điệu không mang đầy đủ tính chất cố định, mạch câu chảy
tràn không chịu ràng buộc theo niêm luật nào, là sự dãn ra của các hình thức thơ tự
do, rất dào dạt tình ý và cảm xúc”. Thể loại này tựa như thơ tự do, được sử dụng đan
xen trong những sáng tác của Hữu Thỉnh, chỉ có 1 bài thơ viết hoàn chỉnh dưới thể
loại này là Văn xuôi một người lính. Lợi thế của thể thơ này là nhà thơ có thể bộc lộ
những tâm sự chất chứa được viết lên dưới hình thức thơ một cách trọn vẹn.
3.2.2. Sáng tạo trên những thể thơ truyền thống
3.2.2.1. Thể lục bát
Khảo sát về thơ Lục Bát trong thơ Hữu Thỉnh ta thấy: Trong tập Tiếng hát
trong rừng có 2/22 bài, tập Thư mùa đông là 3/36 bài: Trước tượng Bay-on, Vu vơ,
Trông ra bờ ruộng năm nào, tiêu biểu là bài thơ Trông ra bờ ruộng năm nào. Tập

19


Thương lượng với thời gian là 5/49 bài, Hữu Thỉnh dùng Lục bát như một chiếc cầu

nối duyên.
Nét đặc trưng của thơ Lục bát Hữu Thỉnh chính là ở sự giản dị, dung nạp
nguyên liệu từ chính môi trường sống một cách tự nhiên, giản dị.
Thơ Hữu Thỉnh cũng hài hòa, mượt mà và sâu lắng như những bản tình ca du
dương, đầy sức gợi, vừa chập chờn, man mác, tạo nên nét duyên ngầm đầy ý nhị.
Bên cạnh âm hưởng thơ Lục bát nói chung là đượm buồn, với giọng giãi bày
tâm tình, Hữu Thỉnh đã có những sáng tạo mới, Hữu Thỉnh đã cho người đọc trở về
với thơ xưa qua kiểu nói cách điệu, mô phỏng như ca dao mà không phải ca dao, như
dân gian truyền thống mà lại phảng phất chút lãng mạn hiện đại.
Bằng những sáng tạo nghệ thuật, Hữu Thỉnh đã sử dụng những yếu tố của thi
pháp ca dao truyền thống để diễn đạt những nội dung mới: Tâm sự của cái tôi trữ tình
– nỗi ưu tư, tình cảm với quê hương đất nước, với cuộc khảng chiến, đặc biệt là với
mẹ - một hình tượng luôn thường trực và mờ tỏ trên mỗi bước đường hành quân ra
trận: “Quanh quanh vẫn một mảnh bờ/ Bao nhiêu toan tính đến giờ chưa yên”(Trông
ra bờ ruộng).
Trong thơ Lục bát truyền thống, cách ngắt nhịp luôn là nhịp chẵn, vần lưng và
vần chân. Ở thơ Hữu Thỉnh chúng ta bắt gặp một sự sáng tạo, linh hoạt trong nghệ
thuật hiệp vần, cách ngắt nhịp của mỗi cặp lục bát mang âm hưởng hiện đại, linh
hoạt, tạo được giá trị biểu cảm sâu sắc và góp phần nhấn mạnh ý chủ đạo của toàn bài
thơ. Thể hiện trong bài Trông ra bờ ruộng.
Sự cách tân thể thơ còn xuyên thấm vào trong từng vế câu của mỗi một cặp lục
bát. Thơ Lục bát của Hữu Thỉnh không hẳn mới mẻ, cũng không phải tiêu biểu,
nhưng đã góp phần không nhỏ vào dòng chảy Lục bát chung của dân tộc. Với những
sự kế thừa giá trị truyền thống và đổi mới, thơ Lục Bát Hữu Thỉnh đã thể hiện một
nhãn quan mới trên con đường kế thừa và đổi mới thơ Việt Nam.
3.2.2.2. Thể thơ đường luật

20



Khảo sát các tập thơ của Hữu Thỉnh, thể thơ Đường luật trong tập Thư mùa
đông có 2/36 bài, tập Thương lượng với thời gian có 4/49 bài. Trong thơ Hữu Thỉnh,
số lượng thơ Đường luật không nhiều, Hữu Thỉnh sử dụng lối thơ 7 chữ chủ yếu để
bộc lộ những chiêm nghiệm, suy nghĩ mang tính triết lý có tầng sâu.
Dễ dàng nhận thấy ngôn ngữ thơ đã đậm hơi thở cuộc sống, đó không phải là
những chân lý đúc kết cao xa, uyên bác mà đơn giản chỉ là cuộc sống - những trải
nghiệm của cuộc sống muôn màu được khắc họa một cách giản dị trên thể thơ Đường
luật. Đây chính là điểm mới đưa thơ Đường gần với độc giả.
3.2.2.3. Thể thơ 5 chữ, 6 chữ
Thơ năm chữ là một trong những thể thơ mang tính dân gian, ngắn và dễ thể
hiện cảm xúc một cách chân thật và giàu nhạc tính. Thơ năm chữ đậm chất dân ca,
uyển chuyển theo vần điệu. Hữu Thỉnh đã vận dụng ưu thế này của thể thơ năm chữ
để bộc lộ tâm tư, tình cảm một cách giản dị mà sâu sắc, Trong tập Tiếng hát trong
rừng có 7/22 bài, tiêu biểu Chiều sông Thương, Mùa xuân đi đón, Những tiếng chim
xuân, Sang thu. Tập Thư mùa đông có 7/36 bài. Tập Thương lượng với thời gian có
12/49 bài. Ngoài ra thể 5, 6 chữ được nhà thơ xen kẽ rất nhiều trong các bài thơ tự do.
Thơ năm chữ chuộng ngôn từ mộc mạc, không khoa trương góc cạnh, nhưng
khéo léo. Cùng với thể thơ năm chữ, thể sáu chữ cũng được vận dụng khá tinh tế như
một nét chấm phá làm phong phú thêm cho vườn thơ Hữu Thỉnh.
Ngôn ngữ trau chuốt, nhạc tính, trẻ trung và gần gũi là những gì thơ năm chữ,
sáu chữ của Hữu Thỉnh bộc lộ. Nếu thơ năm chữ của nhà thơ có nhịp thơ 2/3 hoặc
3/2 nghiêng về những mạch thơ có đôi phần là những vần thơ chiêm nghiệm, thường
là nói về những khía cạnh chìm khuất có chút đượm buồn của chiến tranh, tình cảm,
giọng thơ cũng có sự chiêm nghiệm, đúc kết, trầm lắng thì thơ sáu chữ là một sự bổ
sung hài hòa và hợp lý, nhịp thơ chẵn nhẹ nhàng uyển chuyển, giọng thơ đa phần thể
hiện sự lạc quan, hai thể thơ này đã tạo nên một sự tổng hòa, một bảng màu hoàn
chỉnh.

21



Thơ 6 chữ có số lượng không nhiều trong thơ Hữu Thỉnh, chủ yếu được xen kẽ
trong các bài thơ để làm mới cho thơ. Tuy nhiên những điểm nhấn ấy cũng phần nào
thể hiện cái mới đầy tính kế thừa và phát triển mà Hữu Thỉnh thể hiện.
3.2.2.4. Sự đan xen sáng tạo các thể thơ
Bên cạnh các thể thơ chính, ở thơ Hữu Thỉnh còn có sự đan xen tổng hợp các
thể thơ trong một bài thơ.
Trong bài Gửi từ đảo nhỏ, có sự đan xen của hai thể thơ: Thể thơ tám chữ và
Đường luật.
Hay trong Tự thuật của người lính (Trường ca Biển) nhà thơ đã liên tiếp xen kẽ
nhiều thể thơ trong toàn bài thơ với mật độ dày đặc, lúc là Lục bát thân thuộc gần gũi
giãi bày.
Trước sự thay đổi linh hoạt và điêu luyện của thể thơ, giọng thơ, mạch thơ, tâm
trạng của nhân vật trữ tình dường như cũng thay đổi, mỗi sự đổi thay là một sự cải
biến đầy mới lạ mà vẫn hài hòa và phù hợp với mạch nguồn của cảm xúc, tâm trạng,
tạo được hiệu quả nghệ thuật.
3.3. Nỗ lực hiện đại hóa ngôn ngữ thơ
3.3.1. Mở rộng trường ngôn ngữ của thơ
3.3.1.1. Gia tăng vốn từ vựng
Thơ Hữu Thỉnh dành một số lượng lớn viết về chiến tranh, bởi vậy ngôn ngữ
chiến tranh được Hữu Thỉnh sử dụng một cách triệt để và phong phú. Vốn từ vựng sử
dụng cho mảng sáng tác này cũng phong phú và mở rộng hơn về trường ngữ nghĩa và
sức gợi, nội dung biểu đạt.
Sự gia tăng về vốn từ vựng bộc lộ rõ nhất khi chiến tranh qua đi, ngôn ngữ thế
sự, đời tư chuyển sang sự trăn trở, suy tư, trước những thăng trầm của cuộc sống. Nổi
bật chính là sự suy tư trong mối quan hệ về tình người, đúng hơn là giữa người với
người, về đạo đức xã hội qua bài thơ Hỏi, Bất hạnh: “Luật nhân quả/ Ngủ gật/ Trên
bậc cửa”. Đó là sự trăn trở cho những giá trị bình đẳng, hài hòa, bác ái trong xã hội.

22



Hữu Thỉnh tạo được sự kết hợp đầy mới lạ, mở ra sự cân xứng mới cho ngôn
ngữ Việt.
Có thể thấy sự đan xen giữa ngôn ngữ của chiến trường, thế sự, đời tư trước và
sau chiến tranh đem lại nhiều cái mới, đặc biệt, nhiều cảm nhận mới mẻ, độc đáo và
chắt lọc. Mở rộng thêm trường ngữ nghĩa cho mảng thơ này, thổi vào đó một làn gió
mới, một diện mạo mới, một sự kết hợp mới làm nên nét riêng của thơ Hữu Thỉnh.
3.3.1.2. Mở rộng trường ngữ nghĩa
Với kết cấu thơ theo mạch liên tưởng tác giả đã tạo nên một trường nghĩa mới
vô cùng vô tận, biên độ nghĩa không chỉ mở rộng theo biên độ của từ ngữ, hàm ý, mà
còn thể hiện ở cả chiều rộng và chiều sâu về thời gian và không gian.
Một thủ pháp góp phần quan trọng trong việc mở rộng tầng ngữ nghĩa của thơ
là biện pháp trùng điệp. Tác dụng nghệ thuật của nó mở ra một biên độ dài hơi cả về
không gian và thời gian.
Tư duy, chọn lọc và mở rộng trường ngữ nghĩa cho ngôn từ, Hữu Thỉnh đã tạo
được sự mới lạ, độc đáo và đầy táo bạo trong ngôn ngữ thơ. Với việc mở rộng trường
ngôn ngữ và tạo ra một trường ngữ nghĩa đa chiều cho ngôn ngữ thơ.
3.3.2. Những biện pháp tu từ đặc sắc
3.3.2.1. So sánh
Một trong những điều làm thơ Hữu Thỉnh vừa nhẹ nhàng, thanh thoát bình dị
lại sinh động và hấp dẫn là nhờ ở nghệ thuật ví von, so sánh được ông vận dụng tài
tình và hiệu quả. So sánh trong thơ Hữu Thinrhh bộc lộ ở các cấp độ:
Ở phương diện – cấp độ thứ nhất, sự xuất hiện đầy đủ bốn yếu tố trong một
phép so sánh.
Ở cấp độ thứ hai, Hữu Thỉnh đã cách điệu ngôn ngữ thơ, cách kết hợp và thể
hiện hình ảnh thơ một cách độc đáo với việc ẩn đi phương diện so sánh được trong
câu.

23



Ở cấp độ thứ ba, trong phép so sánh Hữu Thỉnh ẩn đi từ so sánh, nhiều khi còn
ẩn đi cả phương diện so sánh.
Ở cấp độ thứ tư, một số trường hợp được thay thế bởi những từ thành, biến
thành, hóa: Cả thành phố biến thành trẻ nhỏ, Chiếc xe tăng thành một quả bom hơi,
Những hạt thóc đã biến thành thuốc quý/ Thóc hóa con đê ngăn cái chết dần mòn…
Sự hoán đổi này thường đem lại một âm hưởng thơ hào hùng, hừng hực khí thế.
3.3.2.2. Trùng điệp
Trùng điệp được coi là một biện pháp nghệ thuật vô cùng quan trọng trong việc
tạo âm hưởng thơ, tạo âm vang giữa các chữ, các câu, các khổ cho bài thơ.
Chúng ta có thể thấy Hữu Thỉnh sử dụng phép lặp từ vựng dưới rất nhiều hình
thức, song chủ yếu là kiểu lặp cách quãng, lặp đầu và lặp từ. Còn lại lặp vòng tròn,
lặp đầu – cuối, và lặp ngữ chiếm tỉ lệ thấp hơn. Hữu Thỉnh sử dụng nhiều phép lặp
đủ.
Ở cấp độ thứ nhất, điệp nguyên khổ thơ, với cấu trúc đặc biệt, bài thơ Hỏi
mang một giá trị nhân sinh sâu sắc, mỗi khổ thơ cấu trúc theo lối hỏi đáp, đặc biệt câu
hỏi ở khổ cuối lặp lại đến 3 lần: “Tôi hỏi người:/ Người sống với người như thế
nào?” (Hỏi - Thư mùa đông), nhưng đều khuyết lời đáp.
Ở cấp độ thứ hai, Bên cạnh hiện tượng điệp toàn vẹn, còn bắt gặp những hiện
tượng tương tự trong cả khổ thơ, dòng thơ.
.
Ở cấp độ thứ ba, tập trung điệp câu thơ liền nhau hoặc cách quãng trong từng
bài thơ gợi lên dư âm vọng lại, rải rác, man mác tạo cảm giác gợi sâu cho độc giả như
một sự nuối tiếc, vấn vương, buồn lưu luyến.
Ở cấp độ thứ tư, xuất hiện hiện tượng lặp cấu trúc câu, có thể là nửa câu thơ, có
thể là mô típ dẫn dắt của câu thơ, khổ thơ trong bài tạo điểm nhấn cho toàn bài. Đây
là hiện tượng phổ biến và rộng khắp trong thơ Hữu Thỉnh, có thể thấy, xuyên suốt hầu
hết các tập thơ đều sử dụng biện pháp này như một sự nhấn mạnh, nhấn mạnh ý thơ


24


toàn bài nói chung, nhấn mạnh chủ đề toàn tập thơ, bài thơ đồng thời nhấn mạnh một
ý thơ độc đáo trong từng tác phẩm.
Ở cấp độ nhỏ nhất là điệp từ trong câu thơ, trong khổ thơ nhằm gây sự chú ý
cho yếu tố được nói đến trước đó, nhấn mạnh vấn đề đề cập trong câu thơ, bài thơ
như một sự lưu tâm. Cấp độ này và cấp độ bốn mang tính phổ quát và rộng khắp các
tập thơ Hữu Thỉnh.
Trùng điệp là biện pháp nghệ thuật hết sức quan trọng trong thơ Hữu Thỉnh, nó
góp phần tạo nên tính nhạc và nhịp điệu hài hòa cho câu thơ, tạo nên giá trị miêu tả,
tạo sức gợi cho toàn tác phẩm, đồng thời qua đó nhấn mạnh thêm chủ đề, nội dung, ý
đồ, tư tưởng của nhà thơ trong bài thơ, hay cấu tứ câu thơ, giúp người đọc có một sức
cảm chính xác và đi sâu vào ý đồ nghệ thuật thể hiện của tác giả.
3.3.2.3. Ẩn dụ, hoán dụ
Trong thơ, nhà thơ sử dụng những thủ pháp nghệ thuật nhằm làm câu thơ
không trở nên khô khan, cục mịch, triết lý mà vẫn nhẹ nhàng bay bổng, cô đúc mà
vẫn khoa học, trữ tình, đó là một điều khó, không phải bất kỳ nhà thơ nào cũng thành
công, nhất là khi thử tài trên những thể thơ của dân tộc mang tính thuần phong mỹ tục
mà lại có thể hài hòa và ý nhị, phảng phất những dấu vết của hiện đại. Dùng ẩn dụ để
gợi lên chiều sâu của bức tranh hiện thực cũng như là chiều sâu nội tâm con người
được hàm ẩn đi.
Ơ cấp độ từ, tính hàm ẩn được sử dụng một cách dày đặc nhưng ý thơ, chủ đề
thơ lại không bị cứng nhắc, cục bộ. Ở cấp độ câu, Hữu Thỉnh vẫn dùng chính những
đối tượng cụ thể, thực thể gắn bó với đời sống để hàm ẩn biểu thị đối tượng trừu
tượng nhằm làm cụ thể hóa cái trừu tượng được nói đến, đem lại một hình ảnh thơ
vừa mới lạ, độc đáo lại vừa gần gũi giản dị thân thuộc. Theo đó, khả năng mã hóa đơn
vị ngôn ngữ của ẩn dụ là vô cùng to lớn, cho phép nhà thơ có thể từ một yếu tố ẩn dụ
trong câu thơ mà vươn tới bao quát cả khổ thơ, bài thơ, thậm chí cả giai đoạn thơ
đương đại đó. “Tập thơ Thư mùa đông Hữu Thỉnh đã sử dụng biện pháp ẩn dụ để tạo

hinh tượng cho toàn chương, toàn bài”.
25


×