Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

Luận án tiến sĩ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 181 trang )

Header Page 1 of 132.

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản
thân, được xuất phát từ yêu cầu phát sinh trong công việc để hình
thành hướng nghiên cứu. Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng tuân
thủ đúng nguyên tắc và kết quả trình bày trong luận án được thu
thập trong quá trình nghiên cứu là trung thực chưa từng được ai
công bố trước đây.
Hà Nội, tháng 9 năm 2013
Tác giả

Trần Hưng Bình

Footer Page 1 of 132.


Header Page 2 of 132.

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt trong luận án
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU


9

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

9

1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

9

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

15

1.1.3. Đánh giá

19

1.2. MỘT SỐ NỘI DUNG CẦN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT TRONG LUẬN ÁN

21

1.3. CÁC CÂU HỎI ĐẶT RA KHI NGHIÊN CỨU

22

1.4. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

23


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

25

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. KHÁI NIỆM

27
27

2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của người chưa thành niên

27

2.1.2. Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên

35

2.1.3. Khái niệm Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự Việt Nam

46

2.2. CÁC PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM

60


2.2.1. Xây dựng thể chế tố tụng hình sự

60

2.2.2. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng

61

2.2.3. Bảo vệ thông qua các thiết chế gia đình và xã hội

63

Footer Page 2 of 132.


Header Page 3 of 132.

2.3. KINH NGHIỆM BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA
MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

63

2.3.1. Khái quát về một số phương thức bảo vệ người chưa thành niên
trong tố tụng hình sự trên thế giới

63

2.3.2. Một số mô hình Tòa án chuyên trách người chưa thành niên trên

thế giới
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

68
71

Chương 3: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

73

3.1. CÁC QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

73

3.1.1. Trong việc thực hiện quy định những điều cần chứng minh trong
điều tra, truy tố, xét xử vụ án người chưa thành niên phạm tội (Điều
302 BLTTHS)

73

3.1.2. Trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên

79

3.1.3. Trong việc tham gia tố tụng của luật sư, người bào chữa


82

3.1.4. Việc thực hiện quy định bảo đảm quyền riêng tư của người chưa
thành niên trong quá trình xét xử

88

3.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

89

3.2.1. Nhận thức hạn chế về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự ở các cơ quan/người
tiến hành tố tụng

90

3.2.2. Về năng lực cán bộ tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự
liên quan đến người chưa thành niên

93

3.2.3. Việc đảm bảo cơ sở vật chất cho tổ chức hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ án liên quan đến người
chưa thành niên còn hạn chế

Footer Page 3 of 132.


96


Header Page 4 of 132.

3.3. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TỪ PHÍA GIA ĐÌNH - XÃ HỘI

99

3.3.1. Về phía gia đình

99

3.3.2. Về phía nhà trường, tổ chức
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

102
104

Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM BẢO VỆ CÓ HIỆU QUẢ QUYỀN
VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

106

4.1. XU HƯỚNG QUỐC TẾ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ


106

4.1.1. Xu hướng quốc tế

106

4.1.2. Quan điểm cuả Đảng, Nhà Nước về bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự

107

4.2. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP NHẰM BẢO VỆ HIỆU QUẢ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

110

4.2.1. Giải pháp về tăng cường thể chế

110

4.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng
4.2.3. Nhóm giải pháp về tăng cường hiệu quả các thiết chế gia đình, xã hội

132
139

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4


145

KẾT LUẬN

147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

PHỤ LỤC

Footer Page 4 of 132.


Header Page 5 of 132.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BLHS

:

Bộ luật Hình sự


BLTTHS :

Bộ luật Tố tụng hình sự

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

CƯQTE

:

Công ước quyền trẻ em

ĐTV

:

Điều tra viên

HTND


: Hội thẩm nhân dân

KSV

: Kiểm sát viên

NCTN

:

NCTNPT :
TAND

Người chưa thành niên
Người chưa thành niên phạm tội

: Tòa án nhân dân

TANDTC :

Tòa án nhân dân tối cao

TTHS

:

Tố tụng hình sự

TTLT


:

Thông tư liên tịch

VAHS

:

Vụ án hình sự

VKSND

:

Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

Footer Page 5 of 132.


Header Page 6 of 132.

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài
người, là một trong những giá trị tinh thần quý báu và cao cả nhất của nền văn
minh nhân loại trong thời đại hiện nay. Quyền con người bao gồm những
quyền không thể tước bỏ, do đó, bảo vệ quyền con người chính là những bảo
đảm pháp lý toàn cầu, có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại
những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến quyền con người. Ở Việt
Nam, bảo vệ quyền con người đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt
quan tâm, chú trọng. Điều này được thể hiện ở thành quả về xây dựng lý luận
về bảo vệ quyền con người cũng như thực tiễn bảo đảm quyền con người, như
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã chỉ rõ: “Con
người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.
Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi
ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” [31, tr.76]; “Nhà
nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo
hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người” [31, tr.85]. Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) tại Đại hội lần thứ XI của Đảng
khẳng định: “Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích
chính đáng của mọi người dân” [31, tr.247]. Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011 - 2020 cũng nhấn mạnh: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố
con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự
phát triển”; “Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện
để mọi người được phát triển toàn diện” [31, tr.100].
Đối tượng người chưa thành niên (nói chung) và trẻ em (nói riêng), bộ
phận chiếm tỷ lệ khá lớn, là những chủ thể đặc biệt (có những đặc điểm riêng về
tâm sinh lý và sự phát triển), do chưa biết cách tự bảo vệ mình khi đứng trước
những sự kiện pháp lý (là những tình huống, hiện tượng, quá trình xảy ra trong

Footer Page 6 of 132.



Header Page 7 of 132.

2
đời sống có liên quan với sự xuất hiện, thay đổi và chấm dứt các quan hệ pháp
luật) có liên quan, nên cần phải có những bảo đảm pháp lý đầy đủ, cần thiết và
đáp ứng phù hợp. Nhận thức được tầm quan trọng này, trong những năm qua,
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm thúc đẩy
việc bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên. Việt Nam là quốc gia thứ 2 trên thế
giới ký Công ước về quyền trẻ em. Việt Nam cũng đã xây dựng được một hệ
thống pháp luật khá đầy đủ tạo căn cứ pháp lý quan trọng cho các cơ quan bảo
vệ pháp luật để bảo vệ trẻ em nói chung và người chưa thành niên trong các vụ
án hình sự nói riêng.
Liên quan đến lĩnh vực tư pháp hình sự, trong thời gian qua, NCTNPT
đang có xu hướng gia tăng về số lượng và mức độ nguy hiểm của hành vi (theo
VKSND tối cao "tỷ lệ tội phạm vị thành niên bị VKSND truy tố đã tăng lên; tỷ
lệ tăng bình quân 10% hàng năm"). Do đó, khi phải đối mặt với những sự kiện
pháp lý như đã nêu, NCTN cần một sự bảo đảm vững chắc và hữu hiệu từ phía
những quy định của pháp luật TTHS. Yêu cầu này đòi hỏi, bên cạnh các biện
pháp nhằm bảo đảm và bảo vệ NCTN trong xã hội, thì Nhà nước, các cơ quan
tiến hành tố tụng cần có những điều chỉnh kịp thời, thích hợp (về chính sách hình
sự cũng như thủ tục tố tụng) dành cho đối tượng này để bảo đảm quyền, lợi ích
chính đáng của họ khi tham gia tố tụng. Điều này không ngoài mục đích bảo vệ
quyền con người trong tố tụng hình sự; phù hợp với xu thế nhân đạo hóa của
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong nhà nước pháp quyền.
Hiện tại Việt Nam chưa có hệ thống tư pháp dành riêng cho NCTN theo
đúng ý nghĩa của thuật ngữ này. Về thể chế, chúng ta mới chỉ có Chương XXXII
(từ Điều 301 đến Điều 310) BLTTHS quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN.
Tuy nhiên, các quy định này chưa đủ chi tiết, cụ thể để các cán bộ tiến hành tố
tụng bảo đảm hệ thống được vận hành phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Do
đó, trên thực tế, như nhận định của của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 08/NQTƯ ngày 02/01/2001: Công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu

và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người

Footer Page 7 of 132.


Header Page 8 of 132.

3
vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Điều này đồng nghĩa
với việc quyền, lợi ích của con người (trong đó có thể có NCTN) chưa thực sự
được bảo vệ.
Chính vì vậy, tác giả chọn việc nghiên cứu đề tài Luận án "Bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam" với mong muốn có những đóng góp không chỉ cho việc
bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của NCTN mà còn thực hiện thắng
lợi công cuộc cải cách tư pháp, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp
quyền XHCN.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích tổng quan: Luận án giải quyết toàn diện, đầy đủ sâu sắc và có
hệ thống những vấn đề lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong tố
tụng hình sự; thông qua việc phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt
động tố tụng hình sự liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên và đề ra các giải pháp. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần
hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; nâng cao nhận thức của các chủ
thể tiến hành tố tụng, cũng như toàn xã hội trong việc bảo vệ tốt hơn quyền và
lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS.
- Mục tiêu cụ thể:
Hướng tới việc hoàn thiện hệ thống tư pháp trong việc bảo vệ các quyền

và lợi ích hợp pháp của NCTN. Chỉ ra những yêu cầu của việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của NCTN trong điều kiện xây dựng xã hội công bằng, tất cả vì
giá trị của con người; theo đó:
+ Đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật thực định
trong lĩnh vực tư pháp hình sự bảo vệ quyền của NCTN tại Việt Nam;
+ Đề xuất những giải pháp hoàn thiện hệ thống tư pháp hình sự bảo vệ
quyền của NCTN của Việt Nam và các thiết chế gia đình - xã hội bảo đảm khác.

Footer Page 8 of 132.


Header Page 9 of 132.

4
2.2. Nhiệm vụ
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, đề tài hướng tới các
nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ hệ thống quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam;
Hai là, làm rõ những quy định và yêu cầu của pháp luật tư pháp hình sự
Quốc tế trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN;
Ba là, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, cũng như
những tồn tại trong thực tiễn áp dụng của hệ thống tư pháp hình sự trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
Bốn là, kiến giải hướng tới hoàn thiện các quy định của pháp luật thực
định và hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng đặc thù nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của NCTN.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Căn cứ trên mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, đối tượng mà đề tài Luận án tập
trung nghiên cứu là những vấn đề sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam trong lĩnh
vực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người chưa thành niên;
Nếu căn cứ quy định của pháp luật Việt Nam, khái niệm “người chưa
thành niên” hoàn toàn khác với “trẻ em”. Mặc dù còn nhiều quan điểm khác
nhau, nhưng trong Luận án, tác giả nghiên cứu về “người chưa thành niên” là
người dưới 18 tuổi, do độ tuổi này phù hợp với quy định chung về “trẻ em” theo
pháp luật quốc tế (Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989), đồng thời, độ tuổi này cũng được
yêu cầu bảo vệ khá phổ biến trong các văn kiện pháp luật quốc tế. Do đó, khi
nghiên cứu các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chuẩn mực

Footer Page 9 of 132.


Header Page 10 of 132.

5
quốc tế, thuật ngữ “trẻ em” nhằm chỉ nhóm đối tượng tất cả những người dưới
18 tuổi, hoàn toàn phù hợp với đối tượng NCTN mà tác giả nghiên cứu trong
luận án.
Khi xem xét đánh giá đối với hệ thống pháp luật TTHS Việt Nam, mặc dù
tên Đề tài chỉ phạm vi “theo pháp luật TTHS Việt Nam” nhưng do pháp luật
TTHS là luật hình thức, việc nghiên cứu không thể toàn diện nếu không gắn với
việc nghiên cứu các quy định của luật nội dung - pháp luật Hình sự. Do đó, trong
Luận án, tác giả sẽ nghiên cứu các quy định của cả hai Bộ luật này để làm rõ các
quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN.
Thứ hai, nghiên cứu về cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên phạm tội theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

NCTN tham gia trong TTHS với các tư cách chủ thể khác nhau như người
phạm tội, người bị hại, người làm chứng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan... Tuy nhiên, do TTHS thực chất là mối quan hệ quyền lực, trong đó bên có
quyền lực áp dụng các biện pháp cưỡng chế là Nhà nước mà đại diện là các cơ
quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị tình
nghi, bị can, bị cáo là những người thuộc phía yếu thế (do trong quan hệ này,
quyền lực nhằm vào họ, họ phải đối mặt với cả bộ máy các cơ quan nhà nước
buộc tội họ với đội ngũ cán bộ được trả lương và cung cấp các trang bị cần
thiết, có các kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức pháp luật, người
bị buộc tội có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn và khó có khả năng bình
đẳng với bên buộc tội trong việc chứng minh, thu thập chứng cứ và trình bày
chứng cứ; không dễ dàng gì trong việc sử dụng quyền tiếp cận công lý như thuê
luật sư, tìm và hiểu các quy định của pháp luật, các thủ tục tố tụng). Mặt khác,
do những đặc điểm riêng biệt về tâm sinh lý, nhận thức của lứa tuổi, nên đối
với người chưa thành niên vi phạm pháp luật, nguy cơ bị các cơ quan tiến hành
tố tụng/người tiến hành tố tụng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
họ là có biểu hiện rõ rệt nhất trong suốt quá trình tiến hành tố tụng. Do đó,

Footer Page 10 of 132.


Header Page 11 of 132.

6
trong phạm vi nghiên cứu của Đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu về nhóm đối
tượng NCTN phạm tội, và trong Luận án, tác giả sử dụng cụm từ NCTN trong
quá trình phân tích các thủ tục TTHS chính là nói đến nhóm chủ thể này.
Mặt khác, theo pháp luật TTHS Việt Nam, TTHS gồm các giai đoạn:
Điều tra - Truy tố - Xét xử - Thi hành án. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm thi
hành án không phải là một khâu trong chuỗi các hoạt động tố tụng hình sự mà

cần phải tách ra thành một hệ thống pháp luật, ngành khoa học nghiên cứu riêng
và do giai đoạn Thi hành án đã được điều chỉnh chi tiết bằng Luật Thi hành án
hình sự, nên trong Luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về quyền và lợi ích
hợp pháp của NCTN phạm tội trong ba giai đoạn: Điều tra, Truy tố và Xét xử
sơ thẩm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian:
+ Quốc tế: Đặc điểm của quyền con người là có tính phổ biến (cái chung),
tuy nhiên quyền của NCTN lại có tính đặc thù (cái riêng). Do đó, phạm vi
nghiên cứu trước hết là quyền của NCTN nói chung trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội trên phạm vi quốc tế, được ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc tế
như các công ước, điều ước quốc tế. Trong phạm vi này, tác giả sẽ phân tích nội
dung, tính chất, đặc điểm các quyền của NCTN trong Tư pháp hình sự quốc tế;
những biện pháp, cơ chế bảo vệ các quyền này. Những nghiên cứu này sẽ làm cơ
sở để so sánh, đánh giá pháp luật, thực tiễn Việt Nam trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS.
+ Việt Nam: tác giả nghiên cứu về quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN
trong phạm vi các quy định của Việt Nam, bao gồm: các quan điểm của Đảng,
Nhà nước về vấn đề quyền con người, quyền của NCTN, quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN trong TTHS; về vai trò, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người
(trong đó có quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN) của pháp luật TTHS trong
nhà nước pháp quyền…; những quy định của PLHS và TTHS về vấn đề bảo vệ

Footer Page 11 of 132.


Header Page 12 of 132.

7
quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, cũng như các vướng mắc, tồn tại trong

thực tiễn áp dụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ
án liên quan đến NCTN.
- Phạm vi về thời gian: Việc nghiên cứu được tác giả phạm vi trong mốc
thời gian từ thời điểm có hiệu lực của BLTHS 2003 (ngày 1/7/2004) đến thời
điểm hiện tại.
4. Ý nghĩa và các đóng góp mới của luận án
4.1. Ý nghĩa
- Ý nghĩa về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án làm giàu thêm lý
luận về quyền của NCTN nói chung và quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN
trong tố tụng hình sự nói riêng. Góp phần luận giải tính phổ biến và tính đặc thù
của quyền con người, đó là: đồng thời với việc coi quyền con người là giá trị
được thừa nhận chung, thì nó cũng được cụ thể hóa trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội (như tố tụng hình sự), với từng đối tượng cụ thể (người chưa thành
niên) và ở từng quốc gia (Việt Nam).
- Ý nghĩa về thực tiễn: Thực tiễn công tác tư pháp hình sự của chúng ta
trong thời gian qua cho thấy, quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS
vẫn chưa được bảo vệ tốt nhất. Điều này xuất phát từ việc xã hội, nhà nước nói
chung và các nhân viên tư pháp hình sự chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của
vấn đề bảo vệ quyền của NCTN trong TTHS. Với việc đưa ra nhận thức đầy đủ,
toàn diện, có hệ thống lý luận về quyền của NCTN trong TTHS và phân tích
thực trạng của vấn đề này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS, đem đến sự
nhận thức đúng đắn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm mục đích cuối
cùng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong thực tế.
4.2. Những đóng góp mới của luận án
Với phương pháp tiếp cận hiện đại, phương pháp tiếp cận liên ngành khoa
học xã hội: Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Tội phạm học, Nạn nhân học, Xã
hội học, Giáo dục học, Tâm lí học… tác giả mong muốn trên cơ sở luận giải

Footer Page 12 of 132.



Header Page 13 of 132.

8
những vấn đề lý luận và thực tiễn cần thiết, Luận án sẽ đưa ra những giải pháp,
kiến nghị có giá trị thực tiễn cao nhằm hoàn thiện thể chế, thiết chế (các cơ quan
tiến hành tố tụng) cũng như các thiết chế gia đình - xã hội, bao gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu, đề xuất một số khái niệm về " Quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" và "Bảo vệ Quyền và
lợi ích hợp pháp của NCTN theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam";
Thứ hai, đánh giá đầy đủ, hoàn chỉnh qua đó làm rõ những bất cập, thiếu
sót, vướng mắc đối với các quy định của BLTTHS 2003 trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của NCTN cũng như thực tiễn áp dụng;
Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng bổ sung những quy định thể
chế; thiết chế TTHS; gia đình - xã hội đặc thù cho NCTN nhằm tăng cường hiệu
quả bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN vi phạm pháp luật.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
Chương 3: Thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 4: Các giải pháp nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Footer Page 13 of 132.



Header Page 14 of 132.

9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Quyền con người (nói chung) và quyền của NCTN là một trong những
vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong suốt các giai đoạn
phát triển của lịch sử nhân loại. Trong luận án này, khi nghiên cứu vấn đề bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, tác giả sẽ tập trung xem xét trong khoa
học pháp lý Quốc tế và Việt Nam: vấn đề này đã được đặt ra từ khi nào? ở đâu?
đã giải quyết được đến đâu? Còn những vấn đề gì về lý luận cũng như thực tiễn
cần tiếp tục đặt ra và giải quyết? Đây chính là cơ sở cho việc đưa ra những kết
quả nghiên cứu mới trong lĩnh vực này.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trước tiên, phải kể đến Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (ngày
26/08/1789) được các nhà cách mạng Pháp công bố, đánh dấu sự phát triển lên
một bậc thang mới của quyền con người. Tuy nhiên, thành tựu quan trọng cho sự
phát triển quyền con người đó chính là sự ra đời của Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người (UDHR) - được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày
10/12/1948, tại Palaisde Chaillot, Paris, Pháp. Ngày 16/12/1966, Liên Hợp Quốc
thông qua hai Công ước quốc tế về quyền con người, là Công ước về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) và Công ước về các quyền dân sự, chính trị
(ICCPR). Có thể khẳng định, đây là ba văn kiện quốc tế quan trọng đặt nền tảng
cho khung pháp luật quốc tế về quyền con người.
Về vấn đề bảo vệ quyền NCTN (trẻ em) bằng tư pháp hình sự, ngoài ba
văn kiện nêu trên, Liên Hợp Quốc đã thông qua một loạt các văn bản như sau:
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiếu của Liên Hợp Quốc về quản lý tư pháp đối với
NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) 1985; Quy tắc của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa

NCTN bị tước quyền tự do, 1990; Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng
ngừa phạm pháp của NCTN (Hướng dẫn Riyadh), 1990; Tuyên bố về các

Footer Page 14 of 132.


Header Page 15 of 132.

10
nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi của trẻ em,
đặc biệt là việc bảo trợ và nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài, 1986;
Hướng dẫn về hành động đối với trẻ em trong Hệ thống luật hình sự, phụ lục của
Nghị quyết số 1997/30 của Hội đồng kinh tế và xã hội về việc quản lý tư pháp
với NCTN (ICCPR, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 16/12/1966,
có hiệu lực từ ngày 23/3/1976).
Lĩnh vực bảo vệ quyền của NCTN nói chung và bảo vệ quyền của NCTN
liên quan tới tư pháp hình sự nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu tiêu
biểu sau:
- Cuốn sách: "American juvenle Justice" (Tư pháp NCTN của Hợp chủng

Commented [L1]: Lý luận, lịch sử tư pháp NCTN ở Hợp
Chúng Quốc Hoa Kỳ

quốc Hoa Kỳ) là công trình của Franklin E.Jimring được Oxford University xuất
bản năm 2005. Tác giả đã đề cập đến các giai đoạn phát triển của tư pháp
NCTN, đặc biệt là sự hình thành và phát triển của tòa án NCTN ở Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ qua các giai đoạn lịch sử. Với 4 phần chính, bao gồm: Trẻ em
phạm tội: Thực trạng và quan điểm pháp luật, thành lập tư pháp NCTN Hợp
chủng quốc Hoa kỳ, bảo vệ NCTN phạm tội và các vấn đề chính sách trong tư
pháp NCTN hiện đại. Với 193 trang viết, tác giả đã xuyên suốt quá trình hình

thành hệ thống tư pháp NCTN ở Mỹ; đặc biệt đã đi sâu vào phân tích các quan
điểm khác nhau về tư pháp NCTN, nhất là những quan điểm đối lập. Trên cơ sở
các quan điểm, tác giả lý giải nguyên nhân của sự cần thiết thiết lập tòa án
NCTN, sự xử lý chuyển hướng đối với tội phạm NCTN,... Trên cơ sở này tác giả
đã xem xét vấn đề tư pháp NCTN trên góc nhìn đối chiếu giữa lý thuyết và thực
tiễn, từ đó đặt ra những đòi hỏi phải hoàn thiện tư pháp NCTN trên cơ sở cân
bằng lợi ích của xã hội, người giám hộ và NCTN.
- Cuốn sách "Child protect in America: Past, Present and Future, John"
(Bảo vệ trẻ em ở Mỹ: Quá khứ, hiện tại và tương lai) do E. B, Myers thực hiện
được Oxford University xuất bản năm 2006. Trong cuốn sách tác giả tập trung
vào đối tượng nghiên cứu là trẻ em bị lạm dụng và bị bỏ rơi, trên cơ sở đó tìm

Footer Page 15 of 132.

Commented [L2]: Lịch sử và thực trạng


Header Page 16 of 132.

11
kiếm những giải pháp làm giảm tình trạng trẻ em bị lạm dụng, bị xao nhãng
trong xã hội Mỹ thông qua việc đề xuất các biện pháp cải cách hệ thống bảo vệ
trẻ em. Với hai mục đích trên, tác giả đã chia cuốn sách thành hai phần, cụ thể:
Phần 1 tập trung vào việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển hệ thống
pháp luật bảo vệ trẻ em tại Mỹ; Phần 2, tập trung phân tích những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng lạm dụng và bỏ mặc trẻ em từ quá khứ đến hiện tại. Trên cơ
sở chỉ ra những thay đổi trong xã hội và nguyên nhân dẫn đến việc bảo vệ trẻ
em bị ngược đãi không đạt hiệu quả như mong muốn, tác giả đưa ra những giải
pháp cần thiết để hoạt động bảo vệ trẻ em bị lạm dụng và bị bỏ mặc đạt hiệu
quả bền vững.

- Cuốn: "Juvenile Court: A Judge's Guide for young adults and Their
Parents" (Tòa án NCTN: Hướng dẫn pháp lý cho NCTN và cha mẹ do Leora
Krygier công bố được The Scarecrow phát hành năm 2009. Công trình đã giới
thiệu một cách có hệ thống về khái niệm NCTN, mục đích của việc thành lập
tòa án NCTN, cơ cấu tổ chức hệ thống tòa án NCTN. Sự cần thiết phải thành
lập tòa án NCTN độc lập với tòa án thành niên. Phần 2 của cuốn sách, tác giả
đã giới thiệu những kỹ năng cần thiết khi nhận được Giấy triệu tập của Tòa án
đối với NCTN và cha mẹ của họ; những kiến thức cần biết về các nhân viên
thực thi pháp luật; những kỹ năng cần thiết khi làm việc với những nhân viên
thực thi pháp luật, chẳng hạn như cảnh sát đang thi hành công vụ ở các tình
huống khác nhau. Đồng thời tác giả cũng giới thiệu các quyền của NCTN khi
bị tạm giữ hoặc bị tham gia quá trình tố tụng hình sự. Mặt khác, cuốn sách tập
trung làm rõ tiến trình tố tụng của tòa án NCTN, những kỹ năng cần thiết cho
NCTN khi tham gia tố tụng hình sự để có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích
chính đáng của họ. Với kinh nghiệm của một thẩm phán đã 15 năm làm việc tại
Tòa án NCTN, tác giả đã khá thành công trong việc hướng dẫn các kiến thức
pháp lý và kỹ năng cần thiết cho những NCTN và cha mẹ của NCTN khi gặp
những vấn đề với pháp luật để NCTN và cha mẹ của họ có những kiến thức và
kỹ năng cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của NCTN và đồng

Footer Page 16 of 132.

Commented [L3]: Hướng dẫn


Header Page 17 of 132.

12
thời giúp cho NCTN tránh được nguy cơ gặp những vấn đề với pháp luật trong
tương lai.

- Cuốn "Protecting the world's children: Impact of the Convention of the
Rights of the Child in Diverse Legal Systems" (Bảo vệ trẻ em trên thế giới: Tác

Commented [L4]: Đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật
NCTN trên toàn cầu

động của Công ước về quyền trẻ em tới các hệ thống pháp luật) do UNICEF ấn
hành năm 2007 lại xem xét vấn đề tư pháp NCTN dưới góc nhìn so sánh các
kinh nghiệm lập pháp trong việc đưa CRC vào khung pháp luật của các quốc gia
và cung cấp thực tiễn thực thi CRC tại 191 quốc gia với bốn hệ thống pháp luật
điển hình: Hệ thống pháp luật Common Law, hệ thống pháp luật Civil Law, hệ
thống pháp luật Muslim và hệ thống pháp luật Châu Phi thuộc khu vực tiểu sa
mạc Sahara.
- Cuốn: "Child Protection and Juvenile Justice system for juvenile in
conflict with law" (Bảo vệ trẻ em hệ thống tư pháp NCTN đối với trẻ em xung

Commented [L5]: Lý luận

đột với pháp luật), Tác giả Ms. Maharukh Adenwalla, do Inconpaper xuất bản.
Cuốn sách đã làm rõ khái niệm NCTN, NCTN xung đột với pháp luật, tuổi chịu
trách nhiệm hình sự của NCTN; vai trò của cảnh sát, của người giám sát NCTN
thực thi hình phạt cải tạo không giam giữ; vai trò của nhân viên công tác xã hội,
của các tổ chức phi chính phủ, của luật sư, của các phương tiện truyền thông đối
với NCTN xung đột với pháp luật tại Ấn Độ. Tác giả đã thông qua 13 nghiên
cứu trường hợp điển hình về NCTN xung đột ở Ấn Độ để làm rõ các luận điểm
của mình.
- Cuốn: "Justice for Children: Autonomy Development and the State" (Tư
pháp cho trẻ em: Sự phát triển tính tự quản của trẻ em và sự can thiệp của Nhà
nước) do Harry Adams thực hiện nghiên cứu và Đại học New York ấn hành năm
2008. Với hơn 197 trang viết, tác giả đã đề cập đến sự thay đổi của lứa tuổi

NCTN thông qua những biến đổi về tâm sinh lý. Đây là giai đoạn NCTN có sự
biến đổi lớn về nhận thức và hành vi, trẻ chuyển từ trạng thái luôn gắn bó với
cha mẹ, coi cha mẹ là thần tượng sang trạng thái muốn thoát dần ảnh hưởng của
cha mẹ, có khuynh hướng độc lập. Qua đó tác giả đề xuất những khu vực mà

Footer Page 17 of 132.

Commented [L6]: Các biện pháp tác động trong quản lý
hành vi của trẻ em dựa tren yếu tố tâm, sinh lý


Header Page 18 of 132.

13
NCTN có thể "tự quản", và đồng thời xác lập những giới hạn cần thiết thông qua
sự can thiệp của gia đình, nhà trường và pháp luật đối với hành vi của trẻ. Mặt
khác, tác giả cũng khẳng định không có học thuyết pháp lý nào là hoàn hảo tuyệt
đối để áp dụng duy nhất.
- Cuốn: "Justice for Children: Detention as a Last Resort" (Innovative

Commented [L7]: Trừng phạt trẻ em làm trái phpas luật

Initiatives in the East Asia and Pacific Region) (Tư pháp cho trẻ em: Phạt tù như
là biện pháp cuối cùng (Sáng kiến ở khu vực Đông Nam Á và Thái Bình
Dương), do tổ chức Unicef East Asia And Pacific Regional Office (EAPRO) ấn
hành. Công trình tiếp cận vấn đề tư pháp NCTN thông qua thực tiễn ba quốc gia:
Philipin, Thái Lan, Campuchia. Tư pháp NCTN không chỉ nhằm mục đích
hướng tới NCTN phạm tội mà còn giải quyết các vấn đề liên quan đến trẻ em là
nạn nhân của nghèo đói, lạm dụng, bóc lột sức lao động, trẻ em là nạn nhân của
việc buôn người, nạn nhân của công nghiệp tình dục,...Trên cơ sở tiếp cận dưới

góc độ những tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế, đối chiếu với những hoạt động
lập pháp của các quốc gia, thực tiễn thực thi pháp luật bảo vệ quyền trẻ em tại
các quốc gia này thông qua các mô hình tư pháp hình sự được thiết lập, và ở đó
việc áp dụng hình phạt tù đối với NCTN như là biện pháp cuối cùng.
- Cuốn: "Handbook for Professionals And Policymakers on Justice
Matters Involving Child Victims and Witnessed of Crime" (Sổ tay cho những
người làm công tác pháp luật và xây dựng chính sách liên quan đến nạn nhân
và nhân chứng trẻ em), là một trong số series các cuốn sổ tay tư pháp hình sự
do Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về ma túy và hình sự phát hành năm
2009. Cuốn sách đã cung cấp các kiến thức nền tảng về tư pháp NCTN cho các
nhà hoạt động chuyên nghiệp: Thẩm phán, luật sư,...nhằm bảo đảm tốt nhất
quyền của trẻ em khi buộc phải tham gia vào hoạt động tư pháp hình sự trên hai
phương diện: nạn nhân của tội phạm và nhân chứng. Các nguyên tắc được đưa
ra xây dựng trên nền tảng các nguyên tắc của pháp luật quốc tế: Quy tắc Bắc
Kinh, Hướng dẫn Ryard và được cụ thể hóa trong các bộ luật của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ.

Footer Page 18 of 132.

Commented [L8]: Lý luận


Header Page 19 of 132.

14
- Cuốn: "Canadian Child Welfare Law: Children, Famillies and the State"
(Luật bảo vệ, chăm sóc trẻ em Canada: Trẻ em, gia đình và Nhà nước do các
tác giả: Nicholas Bala, Michale Kim Zapf, R.James Williams, Robin Volg,
Joseph p. Hornick do nhà xuất bản Thompson Educational Publishing ấn hành
năm 2004. Công trình đã trình bày một cách hệ thống pháp luật Canada trong

việc quy định và thực thi việc bảo vệ trẻ em, được viết bởi các giáo sư luật học,
giáo sư xã hội học, nhà nghiên cứu thuộc các trường đại học: Queen's
University, Kingston, Ontario, University of Calgary, Alberta và các thẩm
phán, luật sư có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực hỗ trợ và tiếp xúc với
NCTN liên quan tới tư pháp hình sự. Sách đã đề cập đến những vấn đề tư pháp
hình sự liên quan đến NCTN như: Pháp luật chăm sóc trẻ em của Canada, các
quyền của trẻ em tham gia tố tụng hình sự như: quyền được lắng nghe, vấn đề
bảo vệ mãi dâm NCTN, trẻ em bị lạm dụng, bị bỏ mặc, trẻ em là nhân chứng,
trẻ em bị cáo buộc phạm tội.
Từ việc tham khảo các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, Luận án sẽ
kế thừa, tiếp tục phát triển những ưu điểm sau:
Một là, các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận của
việc bảo vệ quyền con người trong TTHS, trước hết là xuất phát từ mối quan hệ
giữa quyền con người, quyền công dân và những bảo đảm quyền con người
trong các quan hệ phát sinh trong TTHS. Hoạt động TTHS có đặc thù là mang
tính cưỡng chế và được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước, do đó gắn liền với
các hoạt động TTHS luôn là sự phát sinh, hạn chế hoặc chấm dứt một số quyền
cơ bản của công dân. Trong TTHS, các biện pháp bảo đảm pháp lý của các
quyền chủ thể tham gia tố tụng bao gồm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình
sự, các quy định về thủ tục, trình tự tố tụng, các giai đoạn của TTHS, các hoạt
động kiểm sát tuân theo pháp luật và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng.
Đây là điểm xuất phát rất quan trọng, là cơ sở lý luận mang tính tiền đề để tác
giả luận án tiếp tục đi sâu phân tích cơ sở lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp

Footer Page 19 of 132.

Commented [L9]: Lý luận của Canada


Header Page 20 of 132.


15
của NCTN trong TTHS và các biện pháp mang tính xuất phát điểm về mặt lý
luận nhằm bảo vệ hiệu quả quyền của NCTN trong TTHS Việt Nam.
Hai là, các công trình nghiên cứu đã cung cấp cho tác giả một cái nhìn
toàn diện về khái niệm quyền của NCTN và tiếp cận được với khái niệm quyền
và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS dưới góc độ luật học so sánh. Mặc
dù các nước với các hệ thống pháp luật khác nhau, tiếp cận khái niệm quyền của
NCTN dưới các góc độ khác nhau nhưng tổng quan các tài liệu này cho phép tác
giả có cơ sở khái quát khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong
TTHS một cách đa chiều và có tính so sánh, đối chiếu.
Ba là, những kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với
Luận án là đã khái quát được một cách khá đầy đủ thực trạng pháp luật quốc tế
về quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, từ đó giúp tác giả có cơ sở để nghiên
cứu so sánh với thực trạng pháp luật Việt Nam về việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NCTN trong TTHS và có thể luận giải đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Quyền con người từ lâu đã là đối tượng quan tâm của nhiều ngành khoa
học xã hội, trong đó có khoa học pháp lý. Trong đó, quyền của NCTN trong
TTHS đã được được xem xét và đề cập dưới nhiều cấp độ:
- Quyền con người nói chung, bảo vệ Quyền con người;
- Quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN;
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS.
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài
này, tác giả tập hợp, phân loại và đánh giá các tài liệu thành ba nhóm theo các
vấn đề trên. Cụ thể như sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo vệ quyền
con người nói chung gồm có: Sách chuyên khảo “Quyền con người - Tiếp cận
đa ngành và liên ngành luật học” - GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb

KHXH, Hà Nội, 2010 (3 tập, 1010 tr), “Quyền con người” (Giáo trình giảng dạy

Footer Page 20 of 132.


Header Page 21 of 132.

16
sau đại học) - GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (487 tr), Sách
chuyên khảo: “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ Quyền con người” -GS.TS. Võ Khánh
Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (431 tr), Giáo trình “Lý luận và pháp luật về
Quyền con người”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009, Nxb CTQG
(670 tr); Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự và tố tụng hình sự ở Việt
Nam, Trần Quang Tiệp, NXB Chính trị Quốc gia 2004; Đảm bảo quyền bào
chữa của người bị buộc tội, Phạm Hồng Hải, NXB CAND năm 2004; Quyền
con người trong quản lý tư pháp - Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền
con người và hội luật sư quốc tế - Nxb CAND, 2009.
Các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này đã tiếp cận vấn đề quyền con
người đa ngành, đa lĩnh vực và nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản
về quyền con người; chỉ ra được nội dung của các quyền con người nói chung,
quyền con người trong các lĩnh vực cụ thể, trong đó khẳng định quyền con người
là giá trị đã được nhân loại thừa nhận chung; đề cập đến các tính chất của quyền
con người như tính bất khả tước đoạt, bất khả phân chia, tính phổ biến, tính đặc
thù của quyền con người; nghiên cứu pháp luật quốc tế về quyền con người
trong đó so sánh pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về vấn đề quyền con
người, khả năng tiếp thu và nội luật hóa pháp luật quốc tế vào pháp luật quốc
gia... Tuy nhiên, trong các công trình trên, quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN
chưa được thể hiện rõ, mới chỉ dừng lại ở mức đặt vấn đề hoặc trích dẫn giới
thiệu với tư cách là một bộ phận của quyền con người nói chung.
Nhóm nghiên cứu về quyền của trẻ em, trong đó có Quyền và lợi ích

hợp pháp của NCTN
Có một số công trình tiêu biểu: Quyền, lợi ích của phụ nữ và trẻ em trong
quan hệ hôn nhân và gia đình, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 1999;
Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam, Hoàng Thế Liên, NXB Giáo dục
1996; Vì quyền trẻ em và sự bình đẳng của phụ nữ, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2000; Quyền của trẻ em và phương tiện thông tin đại chúng, NXB
Chính trị quốc gia, 2000; Thúc đẩy các phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trẻ

Footer Page 21 of 132.


Header Page 22 of 132.

17
em, kinh nghiệm và sáng kiến từ các nước châu Á, NXB Chính trị quốc gia năm
2006; Quyền trẻ em (Sách chuyên đề nghiên cứu và giảng dạy và thực hiện
quyền trẻ em), Trung tâm nghiên cứu quyền con người năm 2000; Vì quyền trẻ
em và sự bình đẳng của phụ nữ, Viện Thông tin khoa học xã hội 1999; Quyền và
bổn phận của trẻ em - những vấn đề đặt ra cho xã hội hiện nay, Đặng Cảnh
Khanh, Tạp chí Cộng sản số 16/2003;
Các công trình nghiên cứu trên đây đã nghiên cứu quyền của NCTN (Trẻ
em) dưới giác độ là một bộ phận của quyền con người với những nội dung, tính
chất đặc điểm cụ thể; trong đó đã triển khai các vấn đề về bảo vệ chăm sóc trẻ
em; đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về bảo vệ quyền trẻ em; hỗ trợ nâng
cao năng lực nghiên cứu và tổ chức thực hiện quyền trẻ em; tư vấn cho các cấp
xây dựng cơ chế quản lý Nhà nước về thực hiện quyền trẻ em; hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực thực hiện và bảo vệ quyền trẻ em, nhằm tạo điều kiện cho trẻ em
Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền: học tập, lao động, vui chơi, phát triển,
bình đẳng... trong cộng đồng. Đặc biệt có đề cập đến các cơ chế bảo đảm, bảo vệ
quyền trẻ em nói chung.

Trong các nghiên cứu này, vấn đề quyền của NCTN trong TTHS vẫn
chưa được đề cập trực tiếp. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên đây là cơ sở đáng
tin cậy để tiếp tục nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN trong TTHS - đây được coi là một phương thức bảo vệ riêng.
Nhóm nghiên cứu về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN
trong TTHS
Quyền con người (nói chung) và quyền của NCTN trong TTHS được
quan tâm nghiên cứu không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới. Bởi lẽ trong lĩnh
vực TTHS, quyền con người dễ bị xâm phạm, điều đó có thể dẫn đến hậu quả
nặng nề và sẽ nghiêm trọng hơn nếu người bị xâm phạm là NCTN (do chưa đầy
đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi). Các công trình nghiên cứu về quyền
con người trong TTHS bao gồm các công trình tiêu biểu sau: Phòng ngừa vi
phạm pháp luật trong thanh thiếu niên - N.I.Vetrốp, Nhà xuất bản pháp lý, Hà

Footer Page 22 of 132.


Header Page 23 of 132.

18
Nội, 1986; Phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội - PTS. Vũ Đức Khiển
chủ biên, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội, 1987; Vấn đề trách nhiệm Hình sự của
vị thành niên phạm tội theo luật Hình sự việt Nam - Luận án PTS pháp lý - Đinh
Xuân Nam, Kiev, 1994; Tư pháp với người chưa thành niên và quyền trẻ em Vũ Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; Phòng ngừa và
đấu tranh với tội phạm của người chưa thành niên trong điều kiện ngày nay ở
Việt Nam - Luận án PTS Luật - Nguyễn Xuân Thủy, Hà Nội, 1997; Tư pháp về
người chưa thành niên, Juvenile Justics 2000; Phòng, chống buôn bán và mại
dâm trẻ em, Vũ Ngọc Bình, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2002;
Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật
học, Đỗ Thị Thơm, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003; Tội phạm

mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng và giải pháp - Đặng
Xuân Khang, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Công an, 2004; Bảo vệ
quyền con người trong TTHS Việt Nam - Nguyễn Quang Hiền, Luận án tiến sĩ
luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, 2009; Thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đỗ Thị Phượng, Luận án Tiến
sỹ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, 2008; Nguyên tắc suy đoán vô
tội trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Đinh Thế Hưng, Luận văn thạc sỹ luật
học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2007; Bảo đảm quyền trẻ em trong
KSĐT các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, Trương Thị Hương Mai,
Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, 2008…
Trong các công trình trên, các tác giả đã nghiên cứu NCTNPT dưới những
góc độ và phạm vi khác nhau.
Một là, dưới góc độ pháp luật TTHS, các công trình đã tham khảo các
chuẩn mực của pháp luật quốc tế về vấn đề quyền con người trong TTHS, đã
làm sáng tỏ về mặt nội dung, đặc điểm, tính chất của các quyền con người
trong đó có quyền của NCTN trong TTHS Việt Nam; đồng thời đề xuất các
biện pháp nhằm bảo vệ quyền con người trong TTHS. Theo đó, có việc bảo

Footer Page 23 of 132.


Header Page 24 of 132.

19
vệ các quyền con người thông qua các nguyên tắc của luật TTHS, thông qua
các quy định về nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và hệ thống quyền
tố tụng của người tham gia tố tụng (trong đó có NCTN). Trong các công trình
nghiên cứu này, vấn đề quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN chỉ được giới
thiệu minh họa cho những nghiên cứu về quyền con người trong TTHS hoặc

chỉ xem xét dưới góc độ quyền tố tụng (trong khi, quyền tố tụng và thực hiện
quyền tố tụng chỉ là phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN trong TTHS);
Hai là, cho đến nay, xu hướng của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền
con người trong tư pháp hình sự đều coi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
người bị kết án là trọng tâm của vấn đề quyền con người trong tố tụng hình sự.
Người bị buộc tội là những chủ thể “yếu thế” khi đối trọng với các cơ quan tư
pháp, các quyền của họ “có nguy cơ bị xâm phạm cao nhất” [41, tr.59] nên họ là
“ưu tiên số 1” trong việc áp dụng các biện pháp nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền
con người bằng pháp luật hình sự, TTHS.
1.1.3. Đánh giá
Qua nghiên cứu các công trình nêu trên, chúng tôi có thể đưa ra một số
nhận xét như sau:
Thứ nhất, vấn đề quyền con người là vấn đề cơ bản, mang tính thời sự có
ý nghĩa quan trọng về tư tưởng, lý luận và thực tiễn. Nó đã và đang được quan
tâm nghiên cứu không chỉ dừng lại ở phạm vi chuyên môn hẹp của ngành khoa
học nào đó mà đang trở thành đối tượng nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực của
khoa học xã hội, trong đó có khoa học pháp lý, cũng đi theo hướng nghiên cứu
này. Các công trình nghiên cứu về quyền con người sẽ là nền tảng để tác giả tiếp
cận sâu hơn quyền con người của nhóm “yếu thế” là NCTN và trong lĩnh vực cụ
thể là TTHS.
Thứ hai, quyền con người trong khoa học pháp lý có thể tiếp cận
theo lĩnh vực pháp luật hoặc theo đối tượng cụ thể (như phụ nữ, trẻ em,
người bị buộc tội...) hoặc kết hợp cả hai xu hướng này, vấn đề "quyền và

Footer Page 24 of 132.


Header Page 25 of 132.


20
lợi ích hợp pháp của NCTN trong TTHS" là một ví dụ cho xu hướng
nghiên cứu kết hợp này.
Thứ ba, vẫn còn "khoảng trống" trong nghiên cứu với đối tượng đặc biệt
là NCTN; cụ thể là: chưa có nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, chuyên sâu, có hệ
thống cả về lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn TTHS các vấn đề liên quan
đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN. Các công trình nghiên cứu về
NCTN chỉ tập trung vào các quyền tố tụng của họ trong so sánh với các quyền
của người đã thành niên. Từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện thủ tục tố tụng
cho NCTN mà không chỉ rõ cơ sở lý luận của việc quy định những đặc thù về
thủ tục tố tụng với NCTN xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nói
cách khác chỉ tiếp cận vấn đề quyền của NCTN dưới góc độ TTHS mà chưa có
cách tiếp cận rộng hơn dưới góc độ quyền con người. Bởi lẽ, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của NCTN trong TTHS hoàn toàn rộng hơn so với bảo vệ bằng
pháp luật TTHS, bởi còn phải xuất phát từ yêu cầu bảo đảm thực hiện bằng các
thiết chế gia đình - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu thủ tục TTHS với NCTN
nhằm hoàn thiện nó chỉ là một trong nhiều giải pháp khác nhau.
Chính vì vậy, liên quan đến lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN trong TTHS, tác giả thấy cần phải làm rõ một số vấn đề như: quyền con
người nói chung và quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN trong lĩnh vực TTHS;
Tác động qua lại trong mối quan hệ giữa quyền con người và quyền của NCTN
trong TTHS... Những nghiên cứu này được đặt ra trên cơ sở mối quan hệ giữa
cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù. Do đó, khi chưa làm rõ những
vấn đề lý luận này thì tất yếu không thể có những đánh giá khoa học, có sức
thuyết phục về thực trạng vấn đề này trong thực tiễn và đề ra biện pháp, cơ chế
hữu hiệu nhằm bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm đối
tượng này trong tố TTHS. Nếu không tiếp cận dưới góc độ quyền con người thì
việc đề xuất hoàn thiện các thủ tục TTHS đối với NCTN sẽ khó toàn diện và
thiếu thuyết phục.


Footer Page 25 of 132.


×