LUẬN VĂN:
Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quyền con người là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản và cũng luôn luôn
là khát vọng của toàn thể nhân loại. Quyền con người được sinh ra và đồng thời cũng phải
bảo đảm thực hiện như một lẽ tự nhiên. Cho nên, nó không chỉ là vấn đề trọng yếu trong
luật pháp quốc tế mà còn là chế định pháp lý cơ bản trong pháp luật của các quốc gia.
ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, quyền con người được chính thức tuyên bố và ghi nhận bằng pháp. Quá trình
phát triển của cách mạng Việt Nam, với những nhiệm vụ nặng nề mà vinh quang, xét cho
cùng cũng chỉ là vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội mà cốt lõi của nó là bảo đảm thực
hiện quyền con người. Phản ánh các quá trình phát triển đó, từ Hiến pháp 1946, 1959,
1980 đến Hiến pháp 1992 đều thể chế hoá quyền con người, từng bước mở rộng quyền con
người. Trên cơ sở đó, hệ thống chính sách pháp luật bảo đảm quyền con người ngày càng
được củng cố hoàn thiện.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước ta đã chuyển
hoá nhiều nội dung về quyền con người trong các tuyên bố, công ước quốc tế mà Nhà
nước ta tham gia phê chuẩn, ký kết. Bên cạnh các hoạt động "lập pháp" đó, Nhà nước ta đã
có nhiều chính sách, biện pháp và hoạt động thực tế bảo đảm thực hiện quyền con người.
Các cơ quan bảo vệ pháp luật không ngừng được củng cố, phát triển, xã hội ngày càng
công bằng, văn minh, tạo cho mọi người có môi trường tự do, bình đẳng để thực hiện
quyền, nghĩa vụ của mình, đồng thời bảo vệ con người khỏi các hành vi xâm hại.
Song, quyền con người luôn là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp nên bảo đảm thực hiện
nó không phải chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền con người mà còn phải thực thi nhiều
biện pháp đồng bộ, được mọi cấp, mọi ngành, mọi người tham gia. Trong đó, Toà án có
vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì, một trong những nhiệm vụ cơ bản trong xét xử
của Toà án chính là hoạt động trực tiếp bảo vệ quyền con người đôí với bên bị hại và cả
bên bị cáo - là những người mà quyền con người của họ dễ có nguy cơ bị xâm hại. Nhiều
năm qua, theo quy định của pháp luật, Toà án đã tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống
vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Song, trong xét xử vẫn còn oan sai; quyền con người của bị cáo có
lúc có nơi chưa được tôn trọng còn bị vi phạm, chưa có biện pháp bảo đảm hữu hiệu. Điều
đó, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, song sự hạn chế, thiếu đồng
bộ của pháp luật có tác động đáng kể.
Như vậy, thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đặt ra nhiệm vụ cấp bách - phải hoàn thiện pháp
luật, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm quyền con người nhất là pháp luật trong lĩnh vực xét xử
hình sự của Toà án.
2. Tình hình nghiên cứu:
Quyền con người được các tổ chức Quốc tế, các nước trên thế giới nói chung, Việt
Nam nói riêng quan tâm nghiên cứu.
ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà khoa học về
quyền con người, quyền công dân. Nổi bất trong các công trình này là hai tập chuyên khảo
"quyền con người, quyền công dân" của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xuất
bản năm 1993. Đi sâu nghiên cứu tìm hiểu để đề ra các phương hướng, giải pháp cụ thể
nhằm "xây dựng và hoàn thiện bảo đảm pháp lý thực hiện quyền con người trong điều kiện
đổi mới ở nước ta hiện nay" là luận án PTS của thày giáo Nguyễn Văn Mạnh. Trung tâm
nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn
cuốn sách "Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị", xuất bản năm 1997. PGS. TS
Trần Ngọc Đường có một số bài viết về quyền con người, trong đó có bài "Hành vi hợp
pháp - nhân tố bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân" in trong
tập 1 chuyên khảo "quyền con người, quyền công dân". Tạp chí cộng sản tháng 5-1993 có
đăng bài "Quyền con người và quyền công dân" của PGS. TS (hiện nay là Giáo sư, Tiến
sỹ) Hoàng Văn Hảo và Chu Thành. PTS (nay là Tiến sỹ) Lê Minh Thông viết bài "Hoàn
thiện pháp luật về quyền con người trong điều kiện phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay"
trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 12-1998. Tác giải Nguyễn Văn Hiện có bài
"Toà án và việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân và tổ chức" - Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, tháng 8-1999.
Các công trình khoa học, bài viết này hoặc là tổng quát, hoặc đi sâu nghiên cứu,
phân tích, luận giải một số nội dung về quyền con người, các biện pháp bảo đảm quyền
con người, vấn đề bảo vệ quyền con người
Tiến sĩ Phạm Hồng Hải có bài: "Mấy ý kiến về bảo vệ quyền con người trong tố
tụng hình sự ở nước ta" (tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3 năm 1998) nêu lên một số vấn
đề về vi phạm quyền con người từ phía cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị can, bị cáo và
từ phía các phần tử xấu đối với những người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống quy định của
pháp luật nước ta hiện nay về bảo đảm quyền con người trong xét xử hình sự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
* Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực
hiện quyền con người trong xét xử hình sự.
* Phạm vi: Đề tài chỉ nghiên cứu về pháp luật bảo đảm thực hiện quyền con người
đối với bị cáo bị truy tố trước Toà mà không đi sâu phân tích về pháp luật bảo đảm quyền
con người đối với các đối tượng khác trong các vụ án dân sự, kinh tế, hôn nhân, gia đình
cũng như các bên khác tiến hành hoặc tham gia tố tụng hình sự.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
* Mục đích: Đưa ra các nội dung hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người
trong xét xử hình sự.
* Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về quyền con người và nghiên cứu những đặc trưng của quyền
con người trong xét xử hình sự.
- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật bảo đảm quyền con người trong xét xử
hình sự.
- Xác định phương hướng, đề xuất những nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật bảo
đảm thực hiện quyền con người trong xét xử hình sự.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phân tích - tổng hợp, khảo sát, so
sánh.
6. Đóng góp khoa học của đề tài:
Góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con người, đặc biệt là quyền
con người trong xét xử hình sự. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề xuất phương
hướng, nội dung hoàn thiện pháp luật trong xét xử hình sự.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương, 6 tiết.
Mục lục
Trang
Mở đầu 4
Chương 1: Quyền con người và vai trò của pháp luật
trong việc bảo đảm quyền con người 8
1.1 Khái lược quyền con người và vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền
con người 8
1.2 Đặc trưng quyền con người của bị cáo trong xét xử hình sự 16
Chương 2. Quy định của pháp luật bảo đảm quyền con người
trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay 20
2.1 Quy định về tội phạm và hình phạt với việc bảo đảm quyền con người của
người phạm tội 20
2.1. 1 Quy định trách nhiệm hình sự 20
2.1. 2 Quy định phân loại tội phạm 22
2.1.3 Quy định hình phạt, mục đích, hệ thống hình phạt 33
2.1.4 Quy định hệ thống chế tài đối với các cấu thành tội phạm 40
2.2 Quy định về xét xử hình sự vớiviệc bảo đảm quyền con người đối với bị cáo44
2.2.1. Các nguyên tắc xét xử 44
2.2.2 Các nguyên tắc quyết định áp dụng hình phạt
(quyết định hình phạt) 59
2.2.2.1. Nguyên tắc pháp chế 59
2.2.2.2. Nguyên tắc nhân đạo 61
2.2.2.3. Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt 62
2.2.2.4. Nguyên tắc công bằng 63
2.2.3. Quyền của bị cáo khi tham gia tố tụng (xét xử) 68
2.2.3.1. Quyền được coi là vô tội khi chưa có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. 69
2.2.3.2. Quyền được đưa ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục
được pháp luật qui định 69
2.2 3.3. Quyền được giao nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử 69
2.2.3.4. Quyền được tham gia phiên toà 70
2.2.3.5. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng 70
2.2.3.6. Quyền đưa ra chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của bào chữa 71
2.2.3.7. Quyền được nói lời sau cùng 72
2.2.3.8. Quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm 73
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người trong xét
xử hình sự ở nước ta hiện nay 75
3.1. Quan điểm chung về phương hướng hoàn thiện 75
3.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người
trong xét xử hình sự. 77
Kết luận 93
Danh mục tài liệu thao khảo 95
Chương I
Quyền con người và vai trò của pháp luật
trong việc bảo đảm quyền con người
1.1. Khái lược quyền con người
Mặc dù "quyền con người" mãi sau này (thế kỷ 18) mới được khẳng định, nhưng
những ý tưởng về nó lại ra đời rất sớm cùng với sự phân chia giai cấp trong xã hội và hình
thành Nhà nước. Khi mà trong các Nhà nước chiếm hữu nô lệ, con người bị coi là những
"công cụ biết nói" thì những tiếng kêu cứu đòi quyền được sống, được tự do, được quyền làm
người cũng xuất hiện.
Quyền con người , ngay từ đầu là một thuộc tính bản chất tự nhiên, là "đặc quyền".
Cho nên, khi các "đặc quyền" đó bị vi phạm, bị chà đạp thô bạo trong các Nhà nước cổ đại
thì đã có những cuộc khởi nghĩa của tầng lớp bị trị nổ ra đòi lại những đặc quyền vốn sơ
khai đó. Do có những cuộc đấu tranh "làm cho công lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ mạnh
không làm hại kẻ yếu" mà đã xác lập nên Bộ luật Hamurabi. Mặc dù còn nhiều hạn chế: là
công cụ phục vụ mục đích thống trị, song Bộ luật đó đã nêu lên được tư tưởng về bình
đẳng, dân chủ, pháp luật hoá tư tưởng về quyền con người.
Xã hội loài người ngày càng phát triển, các trường phái triết học, pháp luật dần hình
thành, lớn mạnh. Các trường phái này đi vào nghiên cứu giải thích các vấn đề tự nhiên, xã
hội, con người. Đáng chú ý là thế kỷ 17 - 18 trường phái pháp luật tự nhiên với các đại
diện như: Spinoda, Hobbes, Kant đã mở ra một trang mới cho sự phát triển tư tưởng bảo
vệ quyền cá nhân chống lại sự vi phạm từ phía quyền lực, tức là bảo vệ các quyền hiển
nhiên, có sẵn của con người, không phải quyền do Nhà nước, pháp luật ban phát. Tư tưởng
này góp phần thắng lợi vào cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến tàn bạo, thiết lập
Nhà nước mà ở đó con người với những giá trị đích thực của nó được nâng lên một bước -
công dân của xã hội Nhà nước chứ không phải thần dân của ông vua.
Khác với các Nhà nước phong kiến và tư bản phương tây, chế độ Nhà nước phong
kiến Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nói chung vẫn mang tính hà khắc. Song,
thời kỳ đó "phép vua" và "lệ làng" có tính dân tộc, nhân đạo, tiến bộ và được thể hiện rõ
nét trong Quốc triều Hình luật là Bộ luật do Nguyễn Trãi soạn thảo, được ban hành năm
1843 có kế thừa, bổ sung những luật lệ được ban hành từ rất nhiều năm trước và được
nhiều Bộ luật, luật sau này tiếp thu những tư tưởng tiến bộ. Và suốt các triều đại phong
kiến Việt Nam, vua mệnh danh là con trời, cai trị trên nền tảng tư tưởng nho giáo bị các
triết lý nho giáo, điều chỉnh hành vi của mình. Vua là cha mẹ của dân, buộc phải thích cái
dân thích, ghét cái dân ghét bởi "ý trời là lòng dân". Do đó, vương quyền của vua bị hạn
chế, dân cũng có được một số yếu tố về các quyền dù còn nhỏ nhặt mang tính cộng đồng.
Như vậy, trong các thời kỳ cổ đại và phong kiến, tư tưởng về quyền con người đã
được đề cập đến nhưng còn rời rạc. Khi cách mạng tư sản nổ ra thắng lợi với những tiền đề
tư tưởng và thành tựu của khoa học tự nhiên thì vấn đề quyền con người mới được đặt ra
như một học thuyết, hay nói cách khác, quyền con người bắt đầu được chính thức công
khai thừa nhận. Có thể nói rằng, sự kiện này được đánh dấu bằng Tuyên ngôn độc lập của
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776 và sau đó là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Pháp 1789. "Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại , quyền con người chuyển từ phạm vi
thỉnh cầu, yêu sách sang phạm vi thực hiện, từ lĩnh vực triết học sang lĩnh vực pháp lý thực
tiễn".[40,27]
Sau chiến tranh Thế giới thứ 2, cộng đồng quốc tế thông qua Liên hiệp quốc tuyên
bố chính thức về các quyền và tự do của con người bằng Hiến chương Liên hiệp quốc
1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948. Cụ thể hoá quyền con người
trong các văn bản trên, năm 1966, Liên hiệp quốc thông qua Công ước Quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (ngày 24/9/1982 Việt Nam gia nhập 2 Công ước này). ở
Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho thời kỳ
phát triển mới về quyền con người trên đất nước ta.
Quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất đồng thời là vấn đề
rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa học nghiên cứu, do đó có nhiều quan
điểm, định nghĩa khác nhau về quyền con người. Song, trước hết, quyền con người được
hiểu là những đặc quyền mà con người sinh ra là tự nhiên có. Đó là những đặc quyền mang
tính tự nhiên mà nổi bật là quyền được sống, được bảo vệ, được tự do phát triển. Mặc dù,
những đặc quyền đó có trước, song chừng nào chưa được công nhận thì chúng không thể
được đưa ra áp dụng. Do đó, để đạt tới cái gọi là quyền cần phải có sự ghi nhận mà cụ thể
là bằng pháp luật. Các đặc quyền được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh thì mới chính thức
trở thành quyền của con người.
Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp
luật đảm bảo do cá nhân con người nắm giữ trong các quan hệ của mình với các cá nhân
khác và với chính quyền.
Như vậy, quyền con người là hệ thống các quyền của con người được xã hội thừa
nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Chính vì vậy, quyền con người mang hai đặc tính cơ bản
là tính nhân đạo và tính pháp luật. "Quyền con người tuy mang đặc tính tự nhiên nhưng có
nội dung xã hội, bị chế ước bởi từng hoàn cảnh lịch sử, từng chế độ xã hội, từng Nhà
nước" [32,57] và được "mở rộng và cụ thể hoá cùng với sự phát triển của xã hội loài
người" [49,21].
Thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng, quyền con người là quyền của cá nhân con người,
nhưng quyền đó chỉ có thể có được trong quan hệ gắn bó với các con người khác trong tập
thể, cộng đồng. Hay nói cách khác quyền con người trở nên vô nghĩa khi con người tách
khỏi tập thể, cộng đồng và ở trong tập thể, cộng đồng nên quyền của cá nhân con người
không thể tách rời nghĩa vụ của họ đối với xã hội, Nhà nước. Vì rằng:"Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội" [19,11].
Quyền con người là giá trị xã hội cao quí nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân" [48,276]. Nhân dân là những con
người cụ thể có những quyền thiêng liêng, không ai có thể xâm phạm được.
Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác động qua
lại lẫn nhau một cách biện chứng. Mặc dù quyền con người có tính"bẩm sinh" nhưng nó
không thể chính thức tồn tại nếu không có pháp luật. Trước hết, vai trò quan trọng của
pháp luật đối với quyền con người là nó ghi nhận (xác lập), củng cố, hoàn thiện quyền con
người.
Pháp luật ghi nhận các quyền của con người được xã hội thừa nhận. Thông qua
pháp luật, quyền con người được lên tiếng bảo vệ. Để bảo đảm quyền con người, pháp luật
đưa ra những điều cấm và những hành vi bắt buộc phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại
các hành vi vi phạm quyền con người. Quyền con người được pháp luật xác lập là thiêng
liêng, không thể xâm hại một cách tuỳ tiện và được bảo vệ bằng các biện pháp giáo dục,
thuyết phục và cưỡng chế của xã hội, Nhà nước. Quyền con người được pháp luật xác lập
mang tính tối cao, ổn định không dễ dàng thay đổi. Điều 50 Hiến pháp 1992 khẳng định:
quyền con người được quy định trong Hiến pháp và luật - là những văn bản có giá trị pháp
lý cao nhất, nó buộc mọi người phải tôn trọng, phục tùng.
Theo tiến trình phát triển của lịch sử loài người, trên phương diện pháp luật, quyền
con người ngày càng được củng cố, hoàn thiện. Từ chỗ các ý tưởng về quyền được sống
như một con người nhằm thoát khỏi "công cụ biết nói", tư tưởng về quyền con người dần
phát triển lên thành những học thuyết, thành các bộ luật riêng lẻ và trở thành tiếng nói
chung của cả cộng đồng quốc tế, không phân biệt màu da, địa vị, thành phần. Nhờ có pháp
luật mà quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại, được loài người cùng nhau
tôn trọng, bảo vệ. "Chỉ thông qua pháp luật quyền con người mới trở thành ý chí và mục
tiêu hành động chung của toàn xã hội, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội" [49,47].
"Lịch sử Nhà nước và pháp luật hàng nghìn năm qua và thực tiễn quốc tế của thế kỷ
XX đã và đang chứng minh xác đáng một hiện thực sinh động rằng: được xây dựng trên
nền tảng của các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền văn minh nhân loại: công bằng, nhân
đạo, dân chủ và pháp chế nên Nhà nước pháp quyền coi các quyền và tự do của con người
là những giá trị xã hội cao quý nhất đồng thời là khách thể hàng đầu ghi nhận, tôn trọng và
bảo vệ bằng pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự" [70;9,10]. Vì vậy, hoàn thiện pháp
luật bảo đảm quyền con người có ý nghĩa đặc biệt trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Nó "phải được xem là hoạt động thường xuyên của Nhà nước để một mặt đảm bảo cho
mỗi một bước phát triển của quyền con người, của dân chủ đều được ghi nhận và củng cố
bởi các quy định luật pháp phù hợp. Mặt khác, các quy định pháp lý phải mở đường, định
hướng thực hiện phát triển và thúc đẩy quyền con người trong đời sống quốc gia và quốc
tế" [59,12]
Song, pháp luật không dừng lại ở việc ghi nhận bước tiến của quyền con người mà
nó còn là phương tiện, công cụ không chỉ của Nhà nước mà cả của công dân để bảo vệ và
thực hiện quyền con người.
Nhà nước ban hành pháp luật là tạo cơ sở vững chắc cho mọi người tôn trọng,
nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện các giá trị xã hội được thừa nhận, bảo vệ, mà nổi bật
trong các giá trị đó là quyền con người "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật" (Điều 12
Hiến pháp 1992). Pháp luật là công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để bảo đảm thực
hiện quyền con người. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có tính bắt buộc
cứng rắn nhất bằng cách xác lập những điều cấm mà bất cứ ai cũng không được vi phạm.
Đồng thời, pháp luật được bảo đảm thi hành bằng bộ máy Nhà nước cùng với sức mạnh
(dư luận) xã hội. Vì thế, các quy định của pháp luật về quyền con người còn được bảo đảm
bằng sự cưỡng chế của Nhà nước tránh mọi hành vi xâm hại. Trên cơ sở của pháp luật,
mọi hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân đều phải được xử lý nghiêm minh.
Như vậy, pháp luật còn là thước đo việc bảo đảm thực hiện quyền con người. Qua công tác
thực thi pháp luật mà rút ra những bài học bổ ích cho việc bảo đảm ngày một tốt hơn quyền
con người.
Cũng chính từ việc ghi nhận các quyền cơ bản của con người mà pháp luật trở thành
phương tiện để công dân có điều kiện bảo vệ mình. Quyền con người đã được pháp luật
ghi nhận tất yếu phải được bảo vệ khỏi bất cứ hành vi xâm hại nào. Do đó, pháp luật trước
hết là cơ sở vững chắc để công dân đòi quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó,
pháp luật không thể không ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước, công chức, viên chức Nhà
nước, các tổ chức và cá nhân trong việc bảo đảm quyền con người. Pháp luật là chuẩn mực
chung, công bằng đối với mọi người. Do vậy, pháp luật còn là đại lượng để kiểm tra, đánh
giá các quyết định, hành vi của Nhà nước, công chức, viên chức Nhà nước, các tổ chức và
các thành viên khác trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người.
Nhà nước ban hành pháp luật để quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Con người với
các mối quan hệ của nó là đối tượng của sự quản lý Nhà nước. Do đó, có thể xảy ra việc
lộng quyền từ phía Nhà nước và đối diện với nó, quyền của người dân bị hạn chế. Nhờ có
các chuẩn mực, tiêu chí của pháp luật mà các sai phạm trên dễ bị phát hiện để khắc phục,
sửa chữa. Đối với công dân, để khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
hại, không có phương tiện nào bảo đảm hữu hiệu hơn là bằng pháp luật. Vì vậy, cùng với việc
xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ vì con người, cho con người thì việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp
luật cho mọi người dân để họ bảo vệ riêng mình và bảo vệ xã hội nói chung. Vậy nên
"nhân dân phải bảo vệ luật như bảo vệ chốn nương thân của mình" [xem 48,6].
Là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò quan trọng hàng đầu
trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển các mặt của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế,
văn hoá ) - là điều kiện thiết yếu để thực hiện quyền con người. Bởi vì, quyền con người
không thể được tôn trọng, bảo vệ trong một xã hội có nền kinh tế, văn hoá và chính trị
khủng hoảng; mà chính trị muốn ổn định thì đường lối chính sách phải được thể chế hoá
thành pháp luật mới có đủ sức mạnh thực hiện trong xã hội. Chính vì điều đó mà Hiến
pháp, luật của các nước không thể không nhắc đến việc bảo vệ chế độ chính trị xã hội như
một trong những mục tiêu chính của mình. Hay nói cách khác để thực hiện đường lối bảo
vệ, xây dựng và phát triển đất nước, quyền con người phải được thể chế hoá trong pháp
luật.
Đối với kinh tế-điều kiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người - pháp
luật tạo khuôn khổ và môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi để phát huy mọi tiềm năng cho
sản xuất, kinh doanh phát triển đúng hướng, có hiệu quả. Đối với các quyền của con người
về kinh tế cũng được quy định bằng pháp luật. "Pháp luật là phương tiện làm cho các quan
hệ kinh tế trở thành quan hệ pháp luật" [19,196] và cũng là phương tiện hữu hiệu để các
bên tham gia hoạt động kinh tế bảo vệ lợi ích của mình.
Sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ tất yếu cũng đòi hỏi
phải được thể chế hoá bằng pháp luật và vì mục tiêu cho con người. Văn hoá giáo dục,
khoa học công nghệ phải tạo ra môi trường xã hội lành mạnh, tự do để con người có điều
kiện phát triển. Trong môi trường ấy, vừa có điều kiện cho việc phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, vừa có điều kiện để mọi người học tập, vừa thuận tiện cho mọi người được hưởng
quyền thông tin đồng thời cũng hội tụ được những khả năng để đấu tranh không bị
"đồng hoá" bởi những yếu tố độc hại lai căng từ bên ngoài.
Ngoài việc điều chỉnh hành vi con người, pháp luật còn là phương tiện đăng tải thế
giới quan khoa học, các tư tưởng tiến bộ, có tác dụng giáo dục các thành viên trong xã hội
có ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý để họ biết tôn trọng và bảo vệ quyền của các cá nhân
con người trong đời sống cộng đồng.
Ngày nay, pháp luật không phải chỉ đóng vai trò tích cực trong bình diện của mỗi
một quốc gia mà nó còn là phương tiện quan trọng trong hội nhập quốc tế. Vấn đề quyền
con người không thể chỉ là của một người, một cộng đồng, một quốc gia mà còn là của
toàn thể nhân loại. Do đó, pháp luật là phương tiện để các quốc gia tham gia hội nhập quốc
tế và thực hiện các cam kết quốc tế, bảo đảm cho quyền con người được tôn trọng thực
hiện ở mỗi quốc gia đồng thời phù hợp với luật pháp quốc tế.
Vì mục tiêu chung là tạo điều kiện, môi tường thuận lợi cho con người phát triển
toàn diện mà loài người hiện nay đang phải đối đầu với những thách thức vô cung to lớn:
đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, giải quyết ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, chống đói nghèo mà đòi hỏi phải có sự nỗ lực đấu tranh chung
của cộng đồng thế giới.
Nhằm thực hiện điều đó, Liên hiệp quốc - Tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh - đã
thông qua hơn 50 văn kiện quốc tế bảo vệ quyền tự do của con người.
Với quá trình đó, mỗi một quốc gia phải xây dựng nghĩa vụ của mình trong việc
bảo đảm thực hiện quyền con người, trong đó có việc xây dựng hệ thống pháp luật quốc
gia phù hợp với pháp luật quốc tế và đặc biệt là nghiêm chỉnh thực hiện các cam kết nêu
trong Công ước, tuyên bố và điều ước Quốc tế mà nước mình ký kết hoặc tham gia.
Trước tình hình khu vực hoá, quốc tế hoá hiện nay việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân đặt ra cho pháp luật các yêu cầu phát triển bức bách, thích hợp, một mặt
bảo vệ được quyền lợi chính đáng của công dân nước mình, mặt khác không được tạo ra
những phiền hà không đáng có cho người nước ngoài và kể cả người không quốc tịch. Như
vậy, pháp luật là phương tiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người giữa các
quốc gia và trong cộng đồng quốc tế.
1.2. Đặc trưng quyền con người của bị cáo trong xét xử hình sự.
Quyền con người không những được pháp luật ghi nhận mà còn được pháp luật bảo
vệ. Do đó, bất cứ một hành vi vi phạm quyền con người nào cũng phải được xử lý theo
pháp luật. Song, tất nhiên quyền con người còn có quan hệ chặt chẽ với chủ quyền quốc
gia, lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức, trật tự xã hội là những khách thể được pháp
luật nói chung và luật hình sự nói riêng bảo vệ. Cho nên, những khách thể trên bị xâm hại
do bất cứ ai thì người đó phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Quyền con người của
bị cáo chỉ có thể được coi là bảo đảm khi xét trong một tổng thể các mối quan hệ khác liên
quan đến tội phạm do họ thực hiện. Như vậy, việc xử lý đối với họ buộc phải tuân thủ
những trình tự, thủ tục được quy định chặt chẽ trong pháp luật, vì dẫu sao, quyền con
người của họ vẫn phải được tôn trọng. Đối với bị cáo, quyền con người của họ là vấn đề
hết sức nhạy cảm và có một số đặc trưng sau:
Là người bị Toà án quyết định đưa ra xét xử trên cơ sở kết luận điều tra và cáo trạng
của viện kiểm sát quyền con người của bị cáo dễ có nguy cơ xâm hại từ phía các cơ quan
tiến hành tố tụng. " Sự xâm hại đó có thể do trình độ non kém trong tổ chức quản lý, do
năng lực làm việc hoặc do thiếu tinh thần trách nhiệm và cũng có thể do một bộ phận công
chức thoái hoá biến chất, vô đạo đức" [48,49]. Đồng thời một số cán bộ có thẩm quyền
chưa nắm vững pháp luật và tính thiếu chặt chẽ, cụ thể của pháp luật cũng là những nguyên
nhân dẫn đến việc xâm hại quyền con người.
Trong thực tiễn cuộc sống, với cách thức tổ chức thật uy nghiêm một phiên toà, vị
thế của bị cáo thường là yếu hơn so với các cơ quan tiến hành tố tụng. "Có vụ ngay tại
công đường mà Thẩm phán, công tố cũng công khai mớm cung, đe doạ nếu ngoan cố sẽ
tăng hình phạt để ép buộc bị cáo nhận tội không đúng sự thật" [61,60]. Do chỗ vị thế của
họ như vậy nên cũng có vụ người tiến hành tố tụng hỏi to tiếng làm bị cáo sợ nên cứ gật
đầu hoặc dạ. Nghiêm trọng hơn là có trường hợp, việc tổ chức phiên toà chưa dân chủ nên
đã kết tội oan bị cáo, như vụ Bùi Minh Hải bị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt tù
chung thân về tội giết người và hiếp dâm nhưng chính tên Tèo mới là thủ phạm gây ra vụ
án này. Tại cơ quan điều tra Bùi Minh Hải khai nhận tội (???) nhưng tại phiên toà bị cáo
không nhận tội, song Hội đồng xét xử vẫn buộc tội bị cáo.
Hơn ai hết, bị cáo là người có nguy cơ cao bị tước một hoặc một số quyền. Đành
rằng chỉ có người nào phạm tội thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự, song việc tước bỏ
hoặc hạn chế một số quyền công dân của bị cáo như thế nào cho tương xứng, phù hợp,
đúng pháp luật là vấn đề vẫn được dặt ra bức xúc.
Cũng chính vì quyền con người của bị cáo dễ có nguy cơ bị xâm hại cho nên nó cần
phải có một loạt các quy định bảo đảm nhằm tránh nguy cơ bị tước bỏ hoặc hạn chế trái
pháp luật.
Khác với các quan hệ pháp luật khác (hành chính, dân sự, kinh tế), trong quan hệ
pháp luật hình sự (cả hình sự và tố tụng hình sự), hàng loạt các quy định riêng được đặt ra
nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân của các bên tham gia tố tụng nói chung
và của bị cáo nói riêng. Đó là các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của công dân,
nghĩa vụ của Nhà nước, của các cơ quan, người tiến hành tố tụng, quy định về tội phạm,
hình phạt, trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng. Tổng thể các quy định đó được tập hợp thành
những tư tưởng, nguyên tắc: công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế mà hướng tới mục
tiêu chung là bảo đảm quyền con người. Của bị cáo không bị tước bỏ trái pháp luật. Các
quy định đó không chỉ nhằm tạo cơ sở pháp luật cần thiết cho các cơ quan, cá nhân tiến
hành tố tụng và tránh được lạm dụng mà trước hết và chủ yếu là để bảo vệ con người, giúp
mọi người biết rõ pháp luật để phòng tránh việc vi phạm điều cấm của pháp luật, đồng thời
cũng biết được quyền của mình mà thực hiện, bảo vệ.
Vì giá trị cao quý của quyền con người được xã hội thừa nhận, vì quyền con người
được bảo vệ bằng pháp luật, cho nên quyền con người của bị cáo chỉ có thể bị hạn chế theo
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở pháp luật. ở nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ có Toà án là cơ quan duy nhất được nhân danh Nhà nước ra
quyết định áp dụng các biện pháp hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
Ngoài Toà án, không một cá nhân hay tổ chức nào có quyền được tước bỏ các quyền của
bị cáo. Sự phán quyết của Toà án phải dựa trên cơ sở pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật.
"Khi quyết định hình phạt, Toà án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại
hình phạt cụ thể và chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong luật" [71,36].
Việc hạn chế quyền của bị cáo do Toà án quyết định và phải dược tiến hành bằng
việc xét xử theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt đã được pháp luật quy định. Vì thế mà pháp
luật tạo ra các trình tự, thủ tục khác nhau nhằm khôi phục lại các quyền, lợi ích của bị cáo
bị xâm hại. Cụ thể là, các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Các giai đoạn này được tiến hành theo trình tự chặt chẽ nhằm hạn chế tới mức thấp nhất
các quyền, lợi ích của bị cáo bị xâm hại, khôi phục lại các quyền, lợi ích bị tước bỏ hoặc
hạn chế trái pháp luật "Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử
gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh" (Điều 72, Hiến pháp 1992).
Đồng thời "người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất và khôi phục danh dự" (Điều 72, Hiến pháp 1992). Không
những thế các trường hợp bị cáo bị kết án tử hình vẫn có quyền viết đơn xin ân giảm.
Như vậy, quyền con người của bị cáo là vấn đề rất nhạy cảm, dễ có nguy cơ xâm
hại, cho nên pháp luật bằng những quy định của mình tạo ra các điều kiện, trình tự khác
nhau, một mặt buộc các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tuân theo, mặt khác tạo cơ sở
vững chắc cho bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích của mình.
Chương 2
Quy định của pháp luật đảm bảo quyền con người
trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay
Để bảo đảm quyền con người của bị cáo, pháp luật đưa ra một loạt các quy định
buộc các bên tiến hành và tham gia tố tụng phải tuân thủ. Pháp luật bảo đảm quyền con
người trong xét xử hình sự là tổng thể các qui phạm pháp luật qui định về tội phạm, hình
phạt và xét xử hình sự cùng các quy định khác nhằm bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp
pháp của bị cáo và các bên có liên quan không bị xâm hại trái pháp luật.
Như vậy, việc bảo đảm quyền con người trong xét xử hình sự phải được thể hiện trên tất
cả các phương diện vừa nêu. Nó không dừng lại ở việc qui định tội phạm, hình phạt mà còn qui
định việc xét xử các vụ án hình sự. Có nghĩa là nó phải được bảo đảm ở trong cả lĩnh vực lập
pháp và áp dụng pháp luật, ở cả trong luật nội dung và luật hình thức. ở đó, quyền, nghĩa vụ của
các bên tiến hành và tham gia tố tụng được khẳng định, sự thật của vụ án và trách nhiệm hình sự
phải được xác định một cách khách quan, chính xác nhất. ở đó, quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm
hại phải được khôi phục lại, người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm do họ gây ra.
2.1. Quy định về tội phạm và hình phạt với việc bảo đảm quyền con người đối với
người phạm tội.
2.1.1. Quy định trách nhiệm hình sự
Với phương châm " biết để không thực hiện" và "phòng tội hơn trị tội", cho nên
pháp luật hình sự , một mặt liệt kê cụ thể, rõ ràng những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
cấm, mặt khác đưa ra các quy định buộc mọi người phải tuyệt đối tuân thủ. Theo nghĩa đó,
Điều 2 Bộ luật hình sự quy định" chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy
định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Đây là cơ sở thống nhất, duy nhất của trách
nhiệm hình sự. Nó khẳng định "chủ thể của một hành vi tội phạm chỉ có thể là một thể
nhân cụ thể - tức là một cá nhân chứ không phải là một tập thể hay một kiểu cộng đồng
nào" [67,4]. Nếu ai đó (bị cáo) đã phải chịu trách nhiệm hình sự thì ít nhiều, quyền con
người, quyền công dân của họ cũng phải bị hạn chế. Cho nên, ở đây pháp luật quy định là:
trách nhiệm hình sự chỉ được đưa ra áp dụng đối với người phạm tội, tức là khi mà người
đó thực hiện hành vi vi phạm điều mà pháp luật hình sự cấm, hay nói cách khác một người
chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự bởi những hậu quả do hành vi của chính người đó gây ra.
Ngoài việc vi phạm điều cấm của pháp luật hình sự - phạm tội ra, thì bất luận trong trường
hợp nào, trách nhiệm hình sự cũng không thể được đưa ra áp dụng. Không những thế, chỉ
có những dấu hiệu của hành vi được mô tả trong luật mới là cơ sở cho việc giải quyết trách
nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, là
sự phản ứng của Nhà nước đối với hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự
quy định, tức là đối với tội phạm. Hành vi có thể được coi là tội phạm nếu có các yếu tố
của một cấu thành tội phạm và được luật hình sự quy định. Các yếu tố cấu thành tội phạm
theo luật hình sự Việt Nam bao gồm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan.
Vậy, cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm. "Cấu thành tội phạm là
hệ thống các dấu hiệu cần và đủ cho việc thừa nhận rằng người nào đó đã thực hiện một tội
phạm nhất định và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chúng cần ở nghĩa rằng, thiếu sự
có mặt của tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm ở sự tổng thể của chúng thì không
thể buộc tội người đã thực hiện tội phạm và do đó không thể truy cứu trách nhiệm của
người đó. Chúng đủ là vì rằng, không cần phải xác định thêm những số liệu bổ sung vào
đó để có cơ sở buộc tội người tương ứng trong việc thực hiện tội phạm [38,291]. Như vậy
"hành vi của người nào không có đầy đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm - cơ sở của trách
nhiệm hình sự thì người đó không phải chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt" [57, 45].
Đây là một bảo đảm quan trọng cho trách nhiệm hình sự không thể đặt ra tràn lan, vô cớ.
Tuy vậy, cấu thành tội phạm mới chỉ là cơ sở cần và đủ cho việc thừa nhận con
người có lỗi và phải chịu trách nhiệm đối với hành vi, còn chưa đủ đối với việc lựa chọn
biện pháp trách nhiệm đối với người đó. Để cho việc cân nhắc, quyết định biện pháp trách
nhiệm đối với người phạm tội - bị cáo, Toà án không thể không xem xét nhân thân của họ.
Nhưng ở đây, để bảo đảm công bằng của pháp luật đối với tất cả mọi người, cũng có nghĩa
là bảo vệ mọi người nói chung thì pháp luật chỉ thừa nhận cơ sở trách nhiệm hình sự là
hành vi phạm tội.
Khác với các hệ thống pháp luật khác, pháp luật hình sự nước ta không chấp nhận
nguyên tắc "tương tự", "án lệ" có thể trừng phạt con người một cách tràn lan, mà khẳng
định, mô tả tất cả mọi tội phạm vào một đạo luật duy nhất: Bộ luật hình sự. Do đó mà
quyền con người, quyền công dân được bảo đảm vững chắc hơn.
Song Bộ luật hình sự mới dừng lại ở việc quy định "Cơ sở của trách nhiệm hình sự"
(Điều 2 BLHS) mà chưa đưa ra được định nghĩa thế nào là trách nhiệm hình sự. Nếu đưa
ra định nghĩa về chế định này bên cạnh các chế định "tội phạm" và "hình phạt" đã được
định nghĩa thì sức thuyết phục của Bộ luật hình sự sẽ cao hơn.
2.1.2. Quy định phân loại tội phạm
Việc đặt ra các quy phạm pháp luật hình sự không phải là để trừng phạt mà các quy
phạm này "có khả năng tác động lên ý thức và ý chí của cá nhân, một mặt chúng kích thích
các hoạt động hợp pháp, khuyến khích các hành vi tích cực pháp luật; mặt khác lại có tác
động kìm chế, đe doạ các động cơ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân"
[21,204]. Do vậy, việc quy định tất cả mọi tội phạm trong một Bộ luật hình sự là quan
trọng, nhưng quan trọng hơn đối với việc quy định tội phạm là xác định rõ ràng giới hạn
giữa hành vi bị coi là tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Bởi vì, nếu không
xác định cụ thể giới hạn đó thì có hành vi tuy chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm
hình sự lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc ngược lại, có trường hợp phạm tội lại coi
là vi phạm pháp luật khác. Điều đó vi phạm nguyên tắc công bằng - là nguyên tắc quan
trọng được thừa nhận trong pháp luật Việt Nam.
Trước hết, phải khẳng định được rằng, tội phạm xuất phát từ những hành vi (hành
động hoặc không hành động) nguy hiểm cho xã hội. Bởi vì theo Mác "Chỉ theo mức độ tôi
tự biểu hiện ra, theo mức độ tôi bước vào lĩnh vực thực tế, thì tôi mới bước vào phạm vi
nằm dưới quyền lực của nhà lập pháp. Ngoài những hành vi của mình ra, tôi hoàn toàn
không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là đối tượng của nó. Những hành vi
của tôi đó là lĩnh vực duy nhất trong đó tôi đụng chạm tới pháp luật, bởi vì hành vi là cái
duy nhất vì nó mà tôi đòi quyền tồn tại, quyền hiện thực, và như vậy là do nó mà tôi rơi
vào quyền lực của pháp luật hiện hành" [42, 513]. Do đó, các yếu tố khác như: thái độ, ý
định, âm mưu, quan điểm của con người khi chưa được thể hiện trong thực tế bằng hành vi
thì không thể coi là tội phạm được. Còn tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu vật chất
tổng hợp của mọi hành vi trái pháp luật. Việc phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật
khác dựa trên mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi, từ đó đưa tới các phản ứng
khác nhau của Nhà nước đối với từng loại vi phạm pháp luật - pháp luật hình sự xác định
chính xác giới hạn của hành vi phạm tội và hành vi không phạm tội và được khẳng định tại
Điều 8 BLHS "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do,
tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của pháp luật xã hội chủ nghĩa
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác".
Việc xác định giới hạn hành vi phạm tội và hành vi không phải là tội phạm trong Bộ
luật hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, nó quy định dứt khoát trong Bộ luật
hình sự hành vi nào nguy hiểm cho xã hội hiện nay bị cấm (tội phạm hoá) mà sự vi phạm
điều cấm đó phải bị xử lý bằng chế tài hình sự (hình sự hoá) hoặc ngược lại, loại bỏ ra khỏi
Bộ luật hình sự hành vi nào nguy hiểm cho xã hội trước đây bị cấm (phi tội phạm hoá) mà
việc thực hiện hành vi đó trong giai đoạn hiện nay không còn nguy hiểm nữa nên không
cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự nữa (phi hình sự hoá). Việc xác định giới hạn
chính xác hành vi phạm tội với hành vi không phạm tội còn có ý nghĩa đặc biệt trong việc
bảo đảm quyền con người, ở chỗ "nó quyết định hàng ngàn số phận con người và xác định
bộ mặt đạo đức của xã hội" [45,516]Chính vì vây, Mác viết "nhà làm luật có đạo đức trước
hết phải cho rằng đối với mình việc làm nguy hiểm, bệnh hoạn nhất và nghiêm trọng nhất
là khi đưa vào lĩnh vực các tội phạm một hành vi mà không bị coi là tội phạm" [43,132]
Bộ luật hình sự năm 1985 của nước ta được thi hành trong 15 năm đã đóng vai trò
quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, song cũng bộc lộ những bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn hiện
nay. Trước tình hình đó ngày 21/12/1999 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua Bộ luật hình sự (1999), thay thế Bộ luật hình sự (1985) được Quốc hội
thông qua ngày 27/6/1985. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong công tác
lập pháp hình sự nước ta đồng thời cũng là bước tiến trong việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân.
Trước hết nó khắc phục được một số yếu điểm của Bộ luật hình sự trước đó như:
"chưa có điều kiện thực tế để cá thể hoá hết hành vi phạm tội, cá thể hoá trách nhiệm hình
sự và hình phạt vốn là một nguyên tắc quan trọng trong kỹ thuật lập pháp hình sự chưa
có điều kiện để thể hiện đầy đủ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa của luật hình sự"
[40,21].
Theo Nghị quyết số 32/1999/QH10 của Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thì, việc áp dụng, thi hành Bộ luật hình sự sẽ tạo những điều kiện cơ sở thuận
lợi hơn cho việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, chẳng hạn như:
a. Các điều luật xoá bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình
phạt nhẹ hơn và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với
cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0h ngày 1/7/2000.
b. Ngược lại, các điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt mới và các
quy định khác không có lợi cho người phạm tội thì không áp dụng đối với những hành vi
phạm tội xảy ra trước 0h ngày 1/7/2000 mà áp dụng quy định tương ứng của các văn bản
pháp luật trước đây để giải quyết.
c. Không xử lý về hình sự (kể từ ngày Bộ luật được công bố - 04/01/2000) đối với
người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự trước đây quy định là tội phạm nhưng Bộ luật
hình sự 1999 không quy định là tội phạm
Như vậy, để bảo đảm quyền con người, quyền công dân của mọi người nói chung
và bị cáo nói riêng thì trước hết đòi hỏi phải quy định dứt khoát, rõ ràng hành vi bị coi là
tội phạm và hành vi không phải là tội phạm. Từ đó làm cơ sở cho việc phân hoá trách
nhiệm tương ứng: trách nhiệm hình sự và các trách nhiệm khác.
Đồng thời, ngay trong trách nhiệm hình sự, để bảo đảm quyền con người, quyền
công dân cũng đòi hỏi phải có sự phân hoá đối với tội phạm và những người phạm tội. Bởi
vì, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm và nhân thân của người phạm
tội trong các trường hợp (vụ án) khác nhau thì khác nhau. Phân loại tội phạm một cách có
căn cứ, đúng đắn là vô cùng quan trọng và cần thiết trong việc phân hoá trách nhiệm hình
sự.
Bộ luật hình sự năm 1985 đã phân các tội phạm thành 2 loại: tội phạm nghiêm trọng
và tội phạm ít nghiêm trọng. Cách phân loại này đã bộc lộ những mặt hạn chế, trong đó
hạn chế lớn nhất là quy định khoảng cách quá rộng giữa mức khởi điểm và mức cao nhất
của khung hình phạt định cho mỗi loại tội phạm (từ trên 5 năm tù đến chung thân, tử hình;
từ 5 năm tù trở xuống đến 3 tháng tù), do đó ảnh hưởng đến chính sách xử lý đối với người
phạm tội, gây khó khăn cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và việc bảo vệ quyền, lợi
ích của bị cáo.
Để khắc phục hạn chế này và cũng là tạo cơ sở cho việc áp dụng chính sách xử lý
thích hợp cho từng loại tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1999 tại khoản 2 Điều 8 đã phân tội
phạm thành 4 loại như sau:
- Tội phạm ít nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù.
- Tội phạm nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù.
- Tội phạm rất nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc
tử hình.
Việc phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự 1999 có ý nghĩa to lớn trong việc
hoàn thiện các chế định quan trọng trong luật hình sự Việt Nam, chẳng hạn, quy định về
nguyên tắc xử lý (Điều 3), tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12), chuẩn bị phạm tội
(Điều 17), thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 23), tái phạm, tái phạm nguy hiểm
(Điều 19 BLHS)
Cách phân loại tội phạm thành 4 loại là tạo cơ sở để cụ thể hoá trách nhiệm hình sự
và để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể thành nhiều khung trên cơ sở căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, bảo đảm tốt hơn cho việc cá
thể hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt. Cũng chính từ việc phân loại tội phạm sẽ tạo ra
cơ sở để xây dựng nhiều chế định của Bộ luật tố tụng hình sự, chẳng hạn như thủ tục rút
gọn, mở rộng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện
Việc phân loại tội phạm phản ánh được nội dung của tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của mọi tội phạm, đồng thời nó được "đo lường" bởi các loại và mức hình
phạt tương ứng. Chính vì vậy "việc đánh giá mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm với tính cách là cơ sở thống nhất của việc phân loại tội phạm và được cân nhắc trong
khi xây dựng các chế định của phần chung và phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự
là thẩm quyền của nhà làm luật khi xây dựng và ban hành luật hình sự, chứ không phải là
thẩm quyền của Toà án khi áp dụng luật" [73;82,83]. Các loại, mức hình phạt quy định
trong Bộ luật hình sự là biểu hiện tập trung giữa các yếu tố chủ thể, mặt khách thể, khách
quan, mặt khách quan của tội phạm và đồng thời phù hợp với mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm. Do đó, việc phân loại tội phạm phải được dựa trên các căn cứ khoa học
khác nhau, là cơ sở cho việc cá thể hoá hình phạt, tìm ra loại và mức hình phạt phù hợp,
tương ứng với tội phạm. Và có như vậy mới tạo ra được những tiền đề cần thiết cho việc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, của bị cáo khỏi các hành vi xâm hại trái pháp
luật, cũng là một trong các yếu tố thể hiện nguyên tắc công bằng, nhân đạo trong luật hình
sự Việt Nam.
Việc đưa ra định nghĩa pháp lý về tội phạm hay "khái niệm tội phạm" trong Bộ luật
hình sự là vô cùng cần thiết. Nhưng khái niệm đó cần được quy định một cách ngắn gọn
hơn, không cần liệt kê một cách dài dòng như khoản 1, Điều 8 BLHS hiện nay. Mặt khác,
để cho "khái niệm tội phạm" được hiểu theo đúng nguyên nghĩa và nội dung của nó thì
không nên đưa các quy định về phân loại tội phạm vào Điều 8 này. Hơn nữa pháp luật đã
quy định "tội phạm" thì chỉ là tội phạm, chứ không thể là "không phải là tội phạm" như khoản
4, Điều 8 BLHS được. Do đó, cần có sự điều chỉnh Điều 8 cho hợp lý hơn.
Quy định chủ thể và lỗi của chủ thể:
Điều 8 Bộ luật hình sự quy định "tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý ".
Người có năng lực trách nhiệm hình sự đạt đến độ tuổi nhất định do luật hình sự
quy định thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là chủ thể của tội phạm và trách
nhiệm hình sự cũng chỉ được đưa ra áp dụng đối với chủ thể của tội phạm khi người đó có
lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Không có chủ thể của tội phạm thì sẽ không thể có hành vi phạm tội và càng không
thể có thái độ chủ quan (lỗi) của con người thực hiện hành vi phạm tội. Hay nói cách khác,
không có chủ thể của tội phạm thì cũng không có lỗi, việc phạm tội và trách nhiệm hình sự
chỉ là những khái niệm trên giấy mà thôi.
Chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là người
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi và có khả năng điều khiển được hành vi đó theo ý định của
mình nhằm đạt được mục đích đã xác định. Bởi vì, trong trường hợp đó, con người mới có
khả năng nhận thức được đòi hỏi của pháp luật, của xã hội, nhận biết được đúng sai, nhận
thức được việc làm của mình và như vậy cũng mới có khả năng tự chịu trách nhiệm về
hành vi của mình. Còn những người không có năng lực trách nhiệm hình sự thì cho dù
người đó có thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng được coi là người không có lỗi
trong việc thực hiện hành vi đó và do đó, không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình phải là người
đạt đến độ tuổi nhất định (được quy định tại Điều 12 BLHS) và không thuộc trường hợp
quy định tại Điều 13 (tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự) BLHS .
Các dấu hiệu như: năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự là
bắt buộc chung cho mọi chủ thể của tội phạm.
Năng lực trách nhiệm hình sự của con người, không phải có từ lúc sinh ra hay còn
nhỏ mà nó chỉ có được khi đạt đến độ tuổi nhất định và nó còn sẽ được tiếp tục phát triển