Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

CHUYÊN đề KINH tế CHÍNH TRỊ lưu THÔNG TIỀN tệ và QUAN hệ tài CHÍNH TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.53 KB, 17 trang )

2
LỜI NÓI ĐẦU

Tiền tệ, lưu thông tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình sản xuất và
trao đổi hàng hoá, khi còn tồn tại sản xuất hàng hoá thì vẫn còn tồn tại tiền tệ
và lưu thông tiền tệ để đo lường giá trị của hàng hoá, môi giới trong trao đổi
hàng hoá. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tổ chức các
hoạt động kinh tế cần phải tạo lập các quỹ tiền tệ khác nhau, phân phối và sử
dụng một cách hợp lý có hiệu quả. Các chức năng của tiền tệ cần được phát
huy, tiền tệ - tài chính, tín dụng - ngân hàng đan xen nhau như một hệ thống
hữu cơ thống nhất với tư cách là công cụ quản lý kinh tế của nhà nước. Nhận
thức đúng vị trí, vai trò và tác dụng của mỗi lĩnh vực là cơ sở khách quan để
nhà nước đề ra chính sách, giải pháp có hiệu quả trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
1. LƯU THÔNG TIỀN TỆ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM

1.1. Lưu thông tiền tệ và tác dụng của lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

- Khái niệm về lưu thông tiền tệ.
Lưu thông tiền tệ là sự vận động liên tục của tiền tệ lấy lưu thông hàng
hoá làm tiền đề, làm cơ sở.
Trong lưu thông hàng hoá tiền làm môi giới trung gian, vận động theo
công thức H - T - H. Quá trình trao đổi hàng hoá diễn ra một cách liên tục, do
đó, tiền cũng vận động liên tục để phục vụ lưu thông hàng hoá.
- Tác dụng của lưu thông tiền tệ.
Thứ nhất, lưu thông tiền tệ là điều kiện quan trọng bảo đảm cho tái sản
xuất xã hội được thuận lợi.
Tái sản xuất xã hội muốn tiến hành bình thường, tổng sản phẩm xã hội


phải được bù đắp lại bằng giá trị, được thay thế bằng hiện vật, mà sự đền bù
giá trị sản xuất và thay thế hiện vật đều không tách rời quá trình lưu thông
tiền tệ.
Thứ hai, lưu thông tiền tệ là khâu quan trọng của việc thực hiện mục
đích của nền sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


3

Mục đích của sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thoả mãn
nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi người. Muốn vậy phải sản xuất ra ngày
càng nhiều sản phẩm xã hội, nhưng muốn cho sản phẩm xã hội đến được tay
mọi người thì sản phẩm phải thông qua khâu lưu thông, lấy việc lưu thông
tiền tệ làm môi giới. Lưu thông tiền tệ thông suốt làm cho sản phẩm nhanh
chóng đến tay người tiêu dùng, từ đó thực hiện được tốt việc phân phối.
Thứ ba, lưu thông tiền tệ thông suốt với tốc độ nhanh có thể nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tốc độ lưu thông có nghĩa là việc sử dụng tiền có hiệu quả cao, nhờ đó,
với một số lượng tiền tệ nhất định có thể tham gia vào nhiều quá trình sản
xuất, tạo ra nhiều sản phẩm, thu được nhiều lợi nhuận, nền sản xuất xã hội
phát triển với tốc độ cao, tình hình tài chính quốc gia ổn định, đời sống nhân
dân không ngừng được cải thiện.
Thứ tư, lưu thông tiền tệ là khâu quan trọng để xúc tiến giao lưu kinh
tế, kỹ thuật với bên ngoài.
Trong thời đại ngày nay, trước xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và thị
trường, không có lưu thông tiền tệ không thể giao lưu kinh tế, kỹ thuật với
bên ngoài. Xuất khẩu, tín dụng quốc tế… đều gắn với lưu thông tiền tệ.
Tiền tệ và lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là tất yếu khách quan. Bởi vì, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần. Lưu thông hàng hoá diễn ra trên cơ sở tiền tệ nên

tiền tệ phải vận động để phục vụ cho lưu thông hàng hoá. Đồng thời, trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ vai trò quản lý của nhà nước
về kinh tế, việc sử dụng tiền tệ như một công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế
nên tiền tệ và lưu thông tiền tệ tồn tại để thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã
hội và vẫn mang đầy đủ các chức năng của tiền tệ. Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: “Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt hơn, giá trị đồng tiền
cơ bản ổn định, cán cân thanh toán quốc tế giữ được cân bằng, dự trữ ngoại
tệ tăng dần, giảm được tỉ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng; nợ Chính phủ
và nợ quốc gia vẫn trong giới hạn an toàn”1.

1

Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.149


4
1.2. Đặc điểm và phương hướng đổi mới hoạt động tiền tệ trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

- Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lưu thông tiền
tệ có những đặc điểm:
Thứ nhất, lưu thông tiền tệ mang tính cấp phát không ổn định, lạm phát
cao, chuyển sang hướng kinh doanh tiền tệ, giảm lạm phát, củng cố được sức
mua của đồng tiền và trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi.
Thứ hai, ngân hàng từ chỗ một cấp chuyển sang hệ thống ngân hàng hai
cấp hoạt động với hai chức năng quản lý và kinh doanh tiền tệ.
Thứ ba, hoạt động của tiền tệ từ chỗ hầu như thông qua độc quyền của
hệ thống ngân hàng nhà nước chuyển sang nhiều hình thức ngân hàng thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau.
Thứ tư, hoạt động của tiền tệ từ chỗ mang tính “khép kín” trong nước

chuyển sang hoạt động theo cơ chế “mở” hội nhập khu vực và thế giới.
Nghiên cứu những đặc điểm và tác dụng của lưu thông tiền tệ trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tạo cơ sở, tiền đề để xem xét
đánh giá, đưa ra những biện pháp, giải pháp kịp thời và phù hợp để tác động
vào quá trình lưu thông tiền tệ.
- Phương hướng đổi mới hoạt động tiền tệ trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Phát triển thị trường vốn và tiền tệ với các hình thức đa dạng và thích
hợp nhằm thu hút các nguồn vốn trong nước và ngoài nước. Đảng ta xác
định: “Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ thông suốt nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích
đầu tư phát triển. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách
tiền tệ như tỷ giá, lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở theo nguyên tắc của
thị trường”1.
2. QUAN HỆ TÀI CHÍNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

2.1. Quan hệ tài chính và vai trò của quan hệ tài chính trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1

Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.248


5

- Quan niệm về quan hệ tài chính.
Quan hệ tài chính là quan hệ kinh tế trong lĩnh vực phân phối tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới hình thái tiền tệ để hình thành và sử
dụng có kế hoạch, có hiệu quả các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ tái sản xuất xã

hội và đời sống dân cư.
Các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế nước ta bao gồm: Quỹ của các doanh
nghiệp sản xuất và cung ứng dịch vụ (trực tiếp sản xuất kinh doanh), quỹ của
các tổ chức trung gian, quỹ của nhà nước được sử dụng tập trung để giải
quyết các vấn đề phát triển kinh tế – xã hội quốc gia, quỹ của khu vực gia
đình và dân cư.
- Các quan hệ kinh tế trong quan hệ tài chính gồm:
+ Quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp: Phát sinh khi doanh nghiệp
nộp thuế cho ngân sách nhà nước theo luật định và gắn liền với việc hình
thành nguồn thu ngân sách nhà nước. Quan hệ này còn phát sinh khi nhà nước
thông qua ngân sách nhà nước để cấp phát vốn, tài trợ vốn cho các doanh
nghiệp và gắn liền với việc sử dụng quỹ ngân sách nhà nước.
+ Quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các cơ quan quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế – xã hội: Phát sinh trên cơ sở nhà nước cấp kinh phí hoạt động
từ ngân sách nhà nước cho các tổ chức đó.
+ Quan hệ kinh tế giữa nhà nước với dân cư: Thông qua quá trình phân
phối lại quỹ ngân sách nhà nước và quỹ tiền tệ trong khu vực dân cư.
+ Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với thị trường: Thông qua việc cung
ứng, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ giữa các chủ thể tham gia trên thị trường.
+ Quan hệ kinh tế trong nội bộ từng doanh nghiệp: Phát sinh khi hình
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với
người lao động trong doanh nghiệp.
+ Quan hệ giữa cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội với ngân hàng.
Tổng thể các quan hệ kinh tế nói trên phát sinh trong quá trình phân
phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ với
mục đích tích lũy hay tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội.
- Sự tồn tại của quan hệ tài chính trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là khách quan.



6

Thứ nhất, tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan xuất hiện gắn
liền với sự ra đời của nhà nước, sản xuất hàng hoá và tiền tệ.
Khi sản xuất hàng hoá ra đời, phát triển đồng thời với sự phát triển của
hình thái giá trị làm xuất hiện tiền tệ. Một mặt, trên thị trường tiền tệ tham gia
lưu thông, thực hiện giá trị hàng hoá và phát sinh thu nhập cho người sản xuất
hàng hoá. Các khoản thu nhập này là nguồn hình thành những quỹ tiền tệ của
các chủ thể kinh tế. Bên cạnh đó, sự vận động liên tục của quá trình sản xuất
hàng hoá đòi hỏi các quỹ tiền tệ này phải được tạo lập, phân phối và sử dụng.
Như vậy, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá với việc sử dụng tiền tệ đã làm
nảy sinh các quan hệ tài chính.
Khi có sự xuất hiện của nhà nước cũng làm xuất hiện quan hệ tài chính.
Bắt đầu khi chế độ tư hữu ra đời, có sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Nhà nước đầu tiên ra đời là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Để nhà nước tồn tại và
hoạt động phải dùng đến quyền lực buộc các tổ chức, cá nhân trong xã hội phải
đóng góp một phần thu nhập của mình, của cải của mình cho nhà nước nhằm
tạo lập quỹ tiền tệ đáp ứng nhu cầu chi tiêu quốc gia. Như vậy, sự ra đời của
nhà nước làm nảy sinh các quan hệ kinh tế gắn với sự hình thành, phân phối và
sử dụng quỹ tiền tệ riêng có của mình phục vụ các chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước. Điều đó dẫn đến sự hình thành lĩnh vực tài chính nhà nước.
Thứ hai, xuất phát từ vai trò của tài chính là công cụ điều tiết nền kinh
tế, bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước sử dụng công cụ tài
chính thông qua chính sách tài khoá với công cụ chủ yếu là thuế để điều tiết
nền kinh tế.
- Vai trò và chức năng của quan hệ tài chính.
Với sự tồn tại của quan hệ tài chính trong nền kinh tế ở nước ta đã có
những vai trò quan trọng, quan hệ tài chính điều tiết kinh tế; xác lập và tăng
cường các quan hệ kinh tế – xã hội; tập trung, tích lũy, cung ứng vốn đầu tư
cho các nhu cầu xây dựng bảo vệ đất nước; tăng cường tính hiệu quả cho sản

xuất kinh doanh; hình thành quan hệ tích lũy và tiêu dùng hợp lý; củng cố nhà
nước, tăng cường an ninh quốc phòng.
Tài chính có hai chức năng, bao gồm chức năng phân phối và chức
năng giám đốc.


7

Chức năng phân phối,là sự phân chia các nguồn tài chính mà chủ yếu
là tổng sản phẩm quốc dân, thu nhập quốc dân dưới hình thức tiền tệ theo
những tỷ lệ và xu hướng nhất định cho tiết kiệm và tiêu dùng nhằm tích tụ,
tập trung vốn để đầu tư phát triển và thoả mãn các nhu cầu chung của nhà
nước, xã hội và dân cư.
Đây là chức năng quan trọng nhất, thông qua chức năng này mà các
nguồn tài chính đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được bố trí cho
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội. Phân phối của tài chính gồm
phân phối lần đầu và phân phối lại.
Trong đó, phân phối lần đầu là phân phối ở các đơn vị sản xuất kinh
doanh và trực tiếp phân phối những giá trị được tạo ra ở các đơn vị sản xuất
kinh doanh. Phân phối lần đầu diễn ra trong sản xuất và hình thành những bộ
phận của những quỹ tiền tệ hay những khoản thu nhập, bao gồm: Quỹ bù đắp
tư liệu sản xuất đã hao phí trong sản xuất kinh doanh; quỹ lương hoặc thu
nhập ban đầu của những người lao động trong các đơn vị sản xuất kinh
doanh; các khoản nộp cho nhà nước (thuế và các bảo hiểm…); Lợi nhuận
trích lại để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, thành lập quỹ tích
lũy, khen thưởng, phúc lợi, …
Như vậy, kết quả của phân phối lần đầu hình thành nên những phần thu
nhập cơ bản của các chủ thể, hình thành những khoản thu cho các quỹ tiền tệ.
Nhưng nếu chỉ dừng ở lại đây thì chưa thể đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của toàn
xã hội, vì vậy nảy sinh yêu cầu khách quan của xã hội đối với phân phối lại.

Phân phối lại là tiếp tục phân phối một phần những quỹ tiền tệ hay
những khoản thu nhập đã hình thành trong phân phối lần đầu. Phân phối lại
diễn ra ngoài quá trình sản xuất trên phạm vi toàn xã hội, phục vụ các mục
đích thực hiện quá trình tái sản xuất xã hội, tăng ngân sách nhà nước, tạo
nguồn thu cho những người lao động ở khu vực không tham gia trực tiếp sản
xuất kinh doanh, điều hòa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
Chức năng giám đốc, là sự kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền đối với các
hoạt động kinh tế. Giám đốc thông qua việc kiểm tra thường xuyên và đột xuất.


8

Hai chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phân phối và phân
phối lại chỉ phát huy có hiệu quả khi nó gắn liền với chức năng giám đốc và
ngược lại. Và đều nhằm thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
2.2. Đặc điểm và phương hướng đổi mới của quan hệ tài chính trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

- Đặc điểm của quan hệ tài chính trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam được biểu hiện qua các nhóm quan hệ tài chính sau:
+ Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, dân cư, các tổ
chức xã hội với nhà nước.
Đây là nhóm quan hệ phản ánh quá trình tập trung của cải dưới hình
thức giá trị có tính chất bắt buộc vào ngân sách nhà nước và sự phân phối của
cải đó đảm bảo cho các hoạt động của nhà nước. Trong mối quan hệ này, giá
trị dịch chuyển theo 2 chiều: từ “dân” (doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức…)
vào tay nhà nước và từ ngân sách nhà nước xuống bên dưới. Trong chủ nghĩa
tư bản, mối quan hệ “từ dưới lên” biểu hiện nghĩa vụ của dân, phục vụ cho bộ
máy cai trị chính bản thân mình. Mối quan hệ “từ trên xuống” cũng nhằm
mục đích phục vụ cho giai cấp tư sản cầm quyền. Ở đây, nhà nước tư bản sử

dụng tài chính như công cụ phục vụ cho sự thống trị của mình.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của thời kỳ quá
độ, nhóm quan hệ thứ nhất biểu hiện ở mức độ và phạm vi khác nhau tuỳ thuộc
vào hình thức sở hữu của các thành phần kinh tế cũng như cơ chế quản lý kinh
tế vĩ mô của nhà nước trong từng thời kỳ. Đối với các doanh nghiệp nhà nước,
các quan hệ này phản ánh tính chất hai chiều. Ngân sách nhà nước là vốn sản
xuất ban đầu do nhà nước giao cho các doanh nghiệp khi mới bước vào hoạt
động. Với tư cách là người nhận và được quyền sử dụng vốn, các doanh nghiệp
đồng thời có trách nhiệm bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và trích
nộp đầy đủ, kịp thời các khoản phải nộp ngân sách… Đối với sở hữu ngoài sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, quan hệ này thể hiện thông qua
các khoản thuế phải nộp và sự hỗ trợ, đầu tư của nhà nước.
Trong nền kinh tế thời kỳ quá độ, mối quan hệ giá trị giữa nhà nước và
dân mang bản chất “của dân, vì dân”, thể hiện sự thống nhất về cơ bản lợi ích
giữa nhà nước và nhân dân. Tuy nhiên, do còn tồn tại và phát triển sở hữu tư


9

nhân và sở hữu tư bản nước ngoài, nên trong mối quan hệ nhà nước – dân, tài
chính còn biểu hiện như công cụ điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
+ Nhóm các quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, tổ chức xã hội,
dân cư với hệ thống ngân hàng.
Trong thời kỳ quá độ, quan hệ hàng hóa tiền tệ, quan hệ thị trường được
sử dụng và phát triển mạnh mẽ. Hệ thống các ngân hàng, các tổ chức tín dụng
ngày càng giữ vị trí quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động xã hội nói
chung, sản xuất kinh doanh nói riêng. Đặc biệt, hệ thống ngân hàng, tổ chức tín
dụng nhà nước sẽ tạo đà phát triển mạnh mối quan hệ tài chính giữa các doanh
nghiệp, các tổ chức và dân cư với ngân hàng. Các mối quan hệ này được thể
hiện thông qua việc các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư nhận những

khoản tiền vay để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của
mình, đồng thời trả nợ và trả lãi vay cho ngân hàng. Trong điều kiện mở rộng
sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, nguồn tín dụng trở thành một trong những
nguồn tài chính quan trọng tài trợ cho các hoạt động của nhân dân, đặc biệt và
trước hết trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Do đó, để đảm bảo cho nền kinh
tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và tăng trưởng cao, hệ thống
ngân hàng nhà nước cần được củng cố và giữ vai trò then chốt trong hệ thống
ngân hàng. Dựa trên luật pháp và chính sách điều tiết, nhà nước phải khống chế
được hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng và đảm bảo cho toàn bộ hệ
thống hoạt động có hiệu quả. Lãi suất ngân hàng phải vừa bảo đảm cho hệ
thống hoạt động năng động, vừa bảo đảm cho người vay hoạt động hiệu quả.
+ Nhóm các quan hệ tài chính giữa các chủ thể với thị trường.
Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua bán các “quỹ tiền tệ” tồn tại dưới
các hình thức khác nhau. Trong thời kỳ quá độ, các quan hệ này được sử dụng
và mở rộng nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực tài chính trong xã hội. Tham
gia vào thị trường tài chính có mặt hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội.
Ngay trong quan hệ giữa nhà nước – dân, ngoài các quan hệ thuộc nhóm 1,
nhà nước cũng tham gia cả vào nhóm này với tư cách như người mua, bán các
quỹ tiền tệ. Nhà nước có thể bán các quỹ tiền tệ của mình bằng việc phát hành
công trái… Đặc biệt quan trọng trong các mối quan hệ này là quan hệ mua
bán “vốn” giữa các doanh nghiệp và nhân dân nói chung.


10

Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, thị trường vốn, thị trường tài
chính hình thành một cách tự phát và bị các tập đoàn tài chính lũng đoạn.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như ở nước ta, nhà nước chủ
động tạo ra các điều kiện và hướng dẫn sự hình thành, phát triển của thị
trường tài chính nhằm hướng sự phát triển của nền kinh tế theo phương

hướng đã xác định.
+ Nhóm các quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể (doanh nghiệp,
tổ chức xã hội, dân cư…).
Biểu hiện của các quan hệ này là sự dịch chuyển của giá trị trong quá
trình hoạt động của mỗi tổ chức như việc chi trả lương, thưởng cho viên chức,
công nhân, người lao động; các khoản thu về tiền phạt do vi phạm hợp đồng,
vi phạm vật chất; hay việc cấp phát vốn, phân phối, điều hoà vốn; phân phối
thu nhập giữa các thành viên trong nội bộ tổ chức…
Trong chủ nghĩa tư bản, các quan hệ tài chính trong nội bộ các chủ thể
chủ yếu do tư nhân khống chế và phục vụ lợi ích của các nhà tư bản và nhằm
bóc lột tối đa người lao động. Chỉ khi thật cần thiết, nhà nước mới có những
quy định điều chỉnh nhất định nhằm xoa dịu cuộc đấu tranh của người lao
động hoặc làm nâng cao hơn tỷ suất giá trị thặng dư.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các quan hệ tài chính trong
nội bộ các chủ thể tuỳ thuộc vào loại hình sở hữu. Trong các doanh nghiệp
nhà nước hoặc tổ chức nhà nước, các quan hệ này do nhà nước quy định và
phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Trong các doanh nghiệp ngoài nhà
nước, hay các tổ chức xã hội phi nhà nước, các tổ chức nhân dân… ngoài sự
quy định của pháp luật, nhà nước cũng hướng dẫn và điều tiết các quan hệ tài
chính ở mức độ nhất định. Sự hướng dẫn và điều tiết này vừa đảm bảo cho
các quan hệ tài chính không phát triển một cách tự phát, vừa hướng dẫn sự
phát triển ấy theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phương hướng đổi mới quan hệ tài chính trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Căn cứ vào các đặc điểm của quan hệ tài chính tồn tại trong nền kinh tế
nước ta, để quan hệ tài chính thực sự là công cụ của nhà nước trong quản lý
kinh tế - xã hội cần phải:


11


+ Đảm bảo sự phát triển an toàn lành mạnh của thị trường tài chính –
tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
+ Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý tài chính, đảm bảo tính
thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò của ngân sách trung ương.
+ Thực hiện chế độ tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính doanh
nghiệp, tách biệt tài chính doanh nghiệp với tài chính nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Phát triển thị trường tài chính
đồng bộ và có cơ cấu hoàn chỉnh; tăng nhanh quy mô và mở rộng phạm vi
hoạt động; vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả. Khuyến
khích mở rộng các dịch vụ hỗ trợ thị trường tài chính; bảo vệ lợi ích hợp
pháp của mọi đối tượng tham gia thị trường”1.
3. QUAN HỆ TÍN DỤNG TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

3.1. Quan hệ tín dụng, các hình thức, chức năng và vai trò của tín dụng

- Tín dụng và lợi tức tín dụng.
+ Tín dụng là một quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả
(vốn và lợi tức) sau một khoảng thời gian nhất định.
Trong đó, chủ thể của quan hệ tín dụng gồm chủ thể đi vay và cho vay.
Người đi vay cũng có thể là người cho vay. Thực hiện quan hệ tín dụng chỉ
đổi quyền sử dụng không thay đổi quyền sở hữu vốn tín dụng. Thời hạn cho
vay được xác định do thỏa thuận giữa người cho vay và người đi vay. Và đến
thời hạn đã thỏa thuận thì người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay cả
vốn lẫn lợi tức.
+ Lợi tức tín dụng là khoản chênh lệch giữa vốn thu về và vốn đã cho
vay. Lợi tức được xem như giá cả của vốn vay.
Vốn vay được người đi vay sử dụng vào đầu tư sản xuất, đầu tư chứng
khoán, cho vay lại để thu về lợi nhuận và đem trả một phần lợi tức và hoàn trả

vốn. Bên cạnh đó, trích lại một phần của mình. Như vậy, người đi vay và
người cho vay cùng chia nhau lợi nhuận sinh ra từ việc sử dụng vốn tín dụng.
Do đó, nguồn gốc lợi tức là một phần lợi nhuận tạo ra trong việc sử dụng vốn
tín dụng của người đi vay.
1

ĐCSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr 241


12

- Các hình thức tín dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
+ Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng phát sinh giữa người mua
và người bán hàng hoá. Đó là quan hệ mua bán chịu đến kỳ hạn mới thanh
toán (kỳ phiếu). Cụ thể là cho vay dưới dạng hàng hóa, các chủ thể là các
doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, sự vận động và phát triển của tín dụng
thương mại phù hợp với quá trình phát triển và sản xuất lưu thông hàng hoá.
+ Tín dụng ngân hàng là hình thức tổ chức tín dụng mà quan hệ tín dụng
thực hiện qua vai trò trung gian của ngân hàng. Thực hiện quan hệ tín dụng,
người cho vay sẽ cho vay dưới dạng tiền tệ được huy động từ vốn nhàn rỗi…,
người đi vay gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế – xã hội,… Người
cho vay là các ngân hàng. Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân
hàng phù hợp với quá trình phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa.
+ Tín dụng nhà nước là một quan hệ tín dụng giữa nhà nước với nhân
dân dưới hình thức phát hành công trái, trái phiếu kho bạc để bổ sung vào
nguồn thu ngân sách trong những thời điểm cần thiết.
+ Tín dụng tập thể là hình thức tự nguyện góp vốn của các thành viên
cho nhau vay hoặc để cùng nhau kinh doanh tín dụng. Nó tồn tại dưới hình
thức tổ chức như các hiệp hội tín dụng, hợp tác xã tín dụng… Tín dụng tập

thể là hình thức có vai trò bổ sung cho tín dụng ngân hàng về huy động và cho
vay chủ yếu ở nông thôn.
- Chức năng của tín dụng.
+ Chức năng tập trung và phân phối vốn tiền tệ trên nguyên tắc có hoàn
trả. Tập trung nguồn vốn tạm thời trong xã hội (từ các cá nhân, tổ chức) đáp
ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, cá nhân, ngân sách nhà nước. Phân
phối của tín dụng khác với phân phối của ngân sách nhà nước. Phân phối của
tín dụng: cung cấp vốn có hoàn trả. Phân phối của ngân sách nhà nước: cung
cấp vốn không có hoàn trả. Thông qua ngân hàng và các tổ chức tín dụng để
cung cấp vốn.
+ Chức năng giám đốc thông qua kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền.
Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả để thu hồi vốn và lợi


13

tức đúng kỳ hạn. Đối tượng bị kiểm tra là người đi vay. Chủ thể kiểm tra là
người cho vay.
Thực hiện tốt hai chức năng trên góp phần khai thác tốt hơn nguồn vốn,
giúp cho các đơn vị mở rộng quy mô sản xuất, và sử dụng vốn có hiệu quả.
Từ đó, điều hòa lưu thông hàng hoá, tiền tệ, ổn định thị trường.
- Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế nước ta.
+ Tạo khả năng và khuyến khích đầu tư vào các công trình lớn, các
ngành, các lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng đối với quốc kế dân sinh, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
+ Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, thông qua tín dụng, tập trung
và đáp ứng được nhu cầu về vốn cho các chủ thể sản xuất kinh doanh. Rút
ngắn được thời gian tích lũy vốn, đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích lũy vốn
cho nền kinh tế.
+ Góp phần phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, do sự phân

công và hợp tác quốc tế, vốn được điều tiết vượt ra khỏi phạm vi quốc gia
hình thành tín dụng quốc tế.
+ Góp phần ổn định tiền tệ và giá cả, tập trung vốn nhàn rỗi làm giảm
lượng cung tiền, từ đó làm giảm lạm phát. Thanh toán không dùng tiền mặt
làm giảm lượng cung tiền. Điều tiết thông qua lãi suất của chính sách tiền tệ.
+ Góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự
xã hội.
3.2. Đặc điểm và phương hướng đổi mới các hoạt động tín dụng trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

- Đặc điểm của tín dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
+ Quan hệ tín dụng phản ánh quan hệ kinh tế – xã hội đa dạng do nhiều
chủ thể có bản chất kinh tế – xã hội khác nhau tham gia với những mục đích,
lợi ích khác nhau. Trong đó, nhà nước và doanh nghiệp nhà nước là chủ thể
có vốn và nhu cầu vế vốn lớn nhất. Tín dụng nhà nước và tín dụng doanh
nghiệp giữ vai trò chủ đạo chi phối các loại tín dụng khác.


14

+ Tín dụng đặt dưới sự quản lý của nhà nước, đồng thời là công cụ đắc
lực để nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế (trong chính sách tiền tệ để tác
động vào nền kinh tế).
- Phương hướng đổi mới hoạt động tín dụng ở nước ta trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để hoạt động tín dụng có hiệu quả, tác động thúc đẩy tạo điều kiện
thúc đẩy nền kinh tế phát triển thì cần tăng cường đổi mới cơ chế theo hướng:
+ Bảo đảm quyền tự chủ, tăng cường năng lực tự kiểm tra của các tổ
chức tín dụng và công tác thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng,

không để xảy ra đổ vỡ tín dụng.
+ Xóa bỏ bao cấp thông qua tín dụng đầu tư và quỹ hỗ trợ phát triển.
+ Tách chức năng tín dụng ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân
hàng thương mại quốc doanh.
+ Giúp cho các tổ chức tín dụng trong nước nâng cao được năng lực
quản lý và trình độ nghiệp vụ, nâng cao tính cạnh tranh với các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Phát triển hệ thống quỹ tín
dụng nhân dân thực sự trở thành tổ chức tín dụng hợp tác độc lập, dựa
trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động. Tiếp tục đổi mới hoạt động của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân bảo
đảm an toàn và hiệu quả” 1.
4. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

4.1. Ngân hàng và hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội

- Khái niệm về ngân hàng.
Ngân hàng là xí nghiệp kinh doanh tiền tệ, có uy tín với khách hàng trở
thành trung tâm tín dụng, trung tâm tiền mặt, trung tâm thanh toán.
- Hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế nước ta chia làm 3 loại:

1

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr 250


15


+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: (hay Ngân hàng Trung ương) có
nhiệm vụ chủ yếu là ổn định tiền tệ, đề xuất chính sách tiền tệ và hệ thống
tiền tệ của đất nước, hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế quốc dân.
+ Ngân hàng đầu tư: Là ngân hàng kinh doanh nghiệp vụ đầu tư dài hạn.
+ Ngân hàng thương mại: Là ngân hàng chủ yếu thu hút tiền vốn ngắn
hạn và cung cấp dịch vụ cho xí nghiệp công thương. Bao gồm: ngân hàng
thương mại nhà nước: 100% vốn nhà nước (doanh nghiệp nhà nước); ngân
hàng thương mại cổ phần: theo hình thức công ty cổ phần; ngân hàng thương
mại tư nhân: vốn thuộc sở hữu của tư nhân một chủ, ngân hàng thương mại
nước ngoài: là cơ sở (chi nhánh) của nước ngoài tại Việt Nam. Thực hiện các
nghiệp vụ như: huy động vốn, cho vay vốn, thanh toán.
- Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và kinh tế mở, căn cứ
vào chủ thể sở hữu vốn khi thành lập ngân hàng, các ngân hàng thương mại
được phân ra theo các hình thức:
+ Ngân hàng thương mại nhà nước, là ngân hàng thương mại được
thành lập bằng 100% vốn của nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc của
doanh nghiệp.
+ Ngân hàng thương mại cổ phần, là ngân hàng được thành lập theo
hình thức công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp với số cổ phần thuộc
sở hữu của mỗi cổ đông không quá tỷ lệ do ngân hàng nhà nước quy định.
+ Ngân hàng thương mại tư nhân, là ngân hàng kinh doanh mà vốn
thuộc sở hữu của tư nhân một chủ.
+ Ngân hàng thương mại nước ngoài, là những cơ sở của nước ngoài tại
Việt Nam.
- Vai trò tác dụng của hệ thống ngân hàng nước ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
+ Điều tiết kinh tế vĩ mô thông qua nắm tình hình kinh tế nói chung mà
phát hiện những mất cân đối trong nền kinh tế quốc dân để từ đó điều tiết quy
mô tác dụng và lượng cung tiền.
+ Điều tiết lưu thông tiền tệ và phân phối tiền bằng vốn huy động và

cho vay.


16

+ Giám đốc đối với sản xuất kinh doanh bằng hình thức cho vay, phát
triển tín dụng ngân hàng.
+ Quản lý ngoại hối.
4.2. Chức năng, nhiệm vụ và công cụ của Ngân hàng Nhà nước

- Chức năng của Ngân hàng Nhà nước.
+ Phát hành tiền tệ, điều tiết lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán.
+ Là người đại diện về tài chính, tiền tệ của Nhà nước, quản lý vốn của
Nhà nước, cung cấp tín dụng cho Nhà nước, nhận mua quốc trái.
+ Thông qua cho vay, huy động tiền gửi, tiến hành quản lý các ngân
hàng và các cơ cấu tiền tệ khác, định ra chính sách tiền tệ, điều tiết giá cả và
nhu cầu tiền tệ, hỗ trợ nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
- Nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước:
+ Thực hiện vai trò là chủ ngân hàng (ngân hàng của ngân hàng) đối
với các ngân hàng thương mại, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động
bình thường.
+ Thực hiện vai trò là chủ ngân hàng đối với Nhà nước, chịu trách
nhiệm kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và tài trợ cho thâm hụt ngân sách của
Nhà nước.
Cụ thể:
+ Tham gia xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, các chính sách liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng.
+ Xây dựng các dự án pháp luật, soạn thảo pháp luật về tiền tệ, tín
dụng, ngoại hối, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện hệ thống pháp
luật đã ban hành.

+ Quản lý nhà nước các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương
mại, các tổ chức tín dụng trong các thành phần kinh tế, kể cả ngân hàng nước
ngoài thông qua chính sách tiền tệ.
+ Tổ chức in, đúc và bảo quản tiền dự trữ phát hành. Thông qua lưu
thông tiền tệ để khống chế lạm phát và thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền tệ.
+ Thực hiện vai trò ngân hàng của các ngân hàng kinh doanh và các tổ
chức tín dụng.


17

+ Bảo quản dự trữ nhà nước và quản lý nhà nước về ngoại tệ, vàng; đại
diện cho Nhà nước ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ, tín dụng, thanh toán
ngoại hối; lập cán cân thanh toán quốc tế; thực hiện các nghiệp vụ hối đoái,
kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế.
+ Bám sát diễn biến thị trường, công bố lãi suất tối thiểu về tiền gửi, lãi
suất tối đa về tiền vay, tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam với các ngoại tệ.
+ Tổ chức đào tạo nghiệp vụ kinh tế và kỹ thuật cho cán bộ nhân viên
của ngành.
- Công cụ của Ngân hàng Nhà nước: Phát hành giấy bạc ngân hàng,
hoạt động thị trường mở, lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
4.3. Phương hướng đổi mới các hoạt động ngân hàng trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của ngân hàng, hệ thống
ngân hàng ở nước ta cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Kiềm chế lạm phát, đảm bảo tính vững chắc, từng bước ổn định giá trị
đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Việc xác định lãi suất cần phải căn cứ vào quan hệ cung - cầu vốn,
hiệu quả thực tế của đồng vốn trong nền kinh tế, vào mức độ trượt giá của

đồng tiền thông qua chỉ số giá cả.
- Tăng cường vai trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại nhà nước
trên cơ sở hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính.
- Toàn bộ hệ thống ngân hàng hướng vào phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng
trưởng kinh tế ở mức hợp lý.
- Đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật của bản thân ngành ngân hàng theo
hướng hiện đại hóa.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước,
nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước trong việc
hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động của
các tổ chức tín dụng và toàn bộ thị trường tiền tệ; đồng thời, phát triển hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam đa dạng về sở hữu và loại hình tổ chức;


18

áp dụng đầy đủ các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về quản trị ngân hàng
thương mại nhà nước. Xây dựng các ngân hàng thương mại nhà nước lớn
mạnh về mọi mặt, đủ sức làm nòng cốt trong hệ thống ngân hàng thương mại
trong cơ chế thị trường. Thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo
lộ trình hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ
chức tài chính nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng phù hợp với các cam kết
quốc tế của nước ta. Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật và ngăn chặn hình
sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng”1.
KẾT LUẬN

Nghiên cứu nội dung về tiền tệ, tài chính, tín dụng, ngân hàng trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cơ sở lý luận cho phép chúng ta nghiên cứu, xem xét,

đánh giá vai trò của từng lĩnh vực với tư cách là một trong những công cụ mà Nhà
nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Bên cạnh đó, nghiên cứu tình hình hoạt
động thực tiễn của các lĩnh vực này trong nền kinh tế, từ đó xác định, xây dựng mục
tiêu, phương hướng tác động thúc đẩy phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối với lực lượng vũ trang nói chung, Quân đội ta nói riêng, việc
nghiên cứu lưu thông tiền tệ, quan hệ tài chính, tín dụng và ngân hàng trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa thiết thực trong việc chi tiêu,
sử dụng có hiệu quả các quỹ tiền tệ, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay.

1

ĐCSVN: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr 249-250



×