MỤC LỤC
1
1
DANH MỤC BẢNG VÀ CÁC SƠ ĐỒ
2
2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NSNN
: Ngân sách nhà nước
TC-KH: Tài chính- Kế hoạch
THCS
: Trung học cơ sở
HĐND
: Hội đồng nhân dân
UBND
: Uỷ ban nhân dân
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
TSCĐ
: Tài sản cố định
GD&ĐT
: Giáo dục và đào tạo
3
3
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ xã hội và quốc gia nào, nhân tố con người đều là nhân tố
quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế-xã hội. Bác Hồ đã từng nói “Con
người vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã
hội và giải phóng chính bản thân con người”. Người coi “con người” là vốn
quý nhất, là yếu tố quyết định của sự nghiệp cách mạng. Người cũng thường
xuyên nhắc nhở rằng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mượn câu nói trên để chỉ
ra tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục. Giáo dục ngày nay là phải phát triển
con người toàn diện cả về thể lực, đạo đức, trí lực, tài năng và thẩm mỹ. Không
những thế, phải gắn giáo dục với mục tiêu phát triển chung của đất nước, để
thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hóa _Hiện đại hóa trong tương lai.
Nhận thức được tầm quan trọng của Giáo dục, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm và chú trọng đến sự nghiệp “trồng người”, giành mọi sự ưu tiên
về nguồn lực cho giáo dục. Luật giáo dục đã quy định rõ nguồn gốc kinh phí
đầu tư cho giáo dục hiện nay bao gồm nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước
cấp và nguồn kinh phí khác, trong đó nguồn vốn từ ngân sách nhà nước phải
chiếm vị trí quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí đầu tư cho giáo
dục. Vì vậy, hàng năm nguồn đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước là rất
lớn và được tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế đất nước.
Qua sự tiếp xúc và nghiên cứu của bản thân về quản lý chi thường xuyên
ngân sách sự nghiệp giáo dục tại Phòng Tài chính – kế hoạch huyện Trấn Yên,
Yên Bái, tôi xin đi sâu nghiên cứu về đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng
cường quản lý chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho các trường trung
học cơ sở trong Huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái”.
Mục tiêu nghiên cứu
4
4
Tập trung phân tích cụ thể thực trạng quản lý chi thường xuyên NSNN thông
qua phân tích cơ cấu chi thường xuyên NSNN cho các trường THCS.Từ đó rút
ra ưu nhược điểm, nguyên nhân của những nhược điểm đó cũng như các giải
pháp nhằm tăng cường quản lý chi thường xuyên NSNN cho các trường THCS
trong huyện Trấn Yên.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý chi thường xuyên NSNN
cho các trường THCS trong huyện Trấn Yên.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Lĩnh vực nghiên cứu: Chi thường xuyên cho các trường THCS trong
huyện Trấn Yên.
+ Về không gian: nghiên cứu quản lý chi thường xuyên NSNN cho các
trường THCS trong huyện Trấn Yên.
+ Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng quản lý chi thường
xuyên NSNN cho các trường THCS trong huyện Trấn Yên giai đoạn (20112013).
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Sử dụng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac
– Lênin là cở sở phương pháp luận, Kết hợp lý luận với phân tích thực tế, thực
trạng của quản lý chi thường xuyên qua cơ cấu chi, kết hợp phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, diễn giải, so sánh, phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu và
kế thừa các kết quả đã nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài được chia ra làm ba phần:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý chi thường xuyên và
quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục.
5
5
Chương 2: Những đánh giá thực trạng quản lý chi thường xuyên NSNN
cho các trường THCS trong huyện Trấn Yên trong thời gian qua.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý chi thường xuyên
NSNN cho các trường THCS trong huyện Trấn Yên.
6
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ CHI
THƯỜNG XUYÊN VÀ QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN
NSNN CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC
1.1.
1.1.1.
Chi thường xuyên của NSNN:
Khái niệm chi thường xuyên.
Chi thường xuyên là một bộ phận của chi NSNN. Nó phản ánh quá trình
phân phối và sử dụng quỹ NSNN để thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên về
quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước. Xét về tính chất kinh tế, chi thường xuyên
của NSNN bao gồm các khoản chi lương, phụ cấp lương, chi hàng hoá và dịch
vụ phát sinh thường xuyên của Nhà nước. trong cân đối ngân sách, các khoản
chi thường xuyên được tài trợ bằng những khoản thu mang tính thường xuyên
như thuế, phí, lệ phí. Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, các nhiệm vụ
thường xuyên của Nhà nước ngày càng gia tăng, do đó đã làm phong phú nội
dung chi thường xuyên của NSNN. Căn cứ vào chức năng và nhiệm vụ của
Nhà nước, chi thường xuyên của NSNN bao gồm các khoản chi cho những lĩnh
vực như: chi cho sự nghiệp kinh tế, chi cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo, chi
quản lý hành chính, chi sự nghiệp văn hoá xã hội, chi an ninh quốc phòng.
1.1.2.
-
Đặc điểm của chi thường xuyên.
Chi thường xuyên là những khoản chi mang tính liên tục. Xuất phát từ sự tồn
tại của bộ máy Nhà nước, từ việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ kinh tế xã
hội đã làm nảy sinh các khoản chi thường xuyên và đòi hỏi phải tạo lập nguồn
lực tài chính thường xuyên để trang trải các khoản chi này. Trong quá trình cân
đối NSNN thì nguồn tài chính thích hợp nhất để trang trải nhu cầu chi thường
xuyên là nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí.
-
Chi thường xuyên mang tính chất tiêu dùng. Các khoản chi thường xuyên chủ
yếu nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản lý hành chính nhà nước, về quốc
7
7
phòng an ninh, về các hoạt động sự nghiệp và các hoạt động xã hội khác do
Nhà nước tổ chức. Xét về mặt tiêu hao vật chất, chi thường xuyên của Nhà
nước được xếp vào loại chi tiêu tiêu dùng, song xuất phát từ thực tiễn phát triển
kinh tế thì chi thường xuyên của Nhà nước có ý nghĩa đầu tư tích luỹ bởi vì
trong chi thường xuyên nhóm chi cho sự nghiệp giáo dục, y tế, khoa học công
nghệ đóng góp trực tiếp vào phát triển con người, phát triển kinh tế. Ngày nay
những hoạt động này được coi là lực lượng sản xuất trực tiếp góp phần vào
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
-
Phạm vi, mức độ chi thường xuyên phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của bộ máy
Nhà nước và quy mô cung ứng các hàng hoá công cộng của Nhà nước. Chi
thường xuyên hướng vào đảm bảo hoạt động bình thường của bộ máy Nhà
nước, cho nên nếu bộ máy Nhà nước gọn nhẹ hoạt động có hiệu quả thì quy mô
chi thường xuyên giảm và ngược lại… Bên cạnh đó, những quyết định của Nhà
nước trong việc lựa chọn phạm vi và mức độ cung ứng các hàng hoá và dịch vụ
công cộng cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phạm vi và mức độ chi thường
xuyên. Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, Nhà nước không đảm trách
mọi công việc của xã hội. Với việc thực hiện chính sách xã hội, Nhà nước đã
điều chỉnh lại quy mô chi thường xuyên đối với các lĩnh vực này nhằm hướng
vào xác lập lại quy mô khu vực công, phạm vi can thiệp của Nhà nước vào nền
kinh tế cho phù hợp với năng lực quản lý và mức độ chi tiêu công.
8
8
1.2.
1.2.1
Quản lý chi thường xuyên của NSNN.
Sự cần thiết quản lý chi thường xuyên.
Trong quản lý chi NSNN nói riêng cũng như quản lý kinh tế tài chính nói
chung thì tính tiết kiệm hiệu quả luôn được coi trọng và đặt lên hàng đầu, đó
cũng là một trong những nguyên tắc quan trọng trong quản lý chi NSNN.
Đối với nước ta hiện nay, nguồn lực tài chính là có giới hạn nhất định
nhưng nhu cầu chi tiêu thì vô hạn, từ thực tế đó đòi hỏi các nhà quản lý kinh tế
tài chính phải làm sao với một nguồn lực nhỏ nhưng đạt kết quả cao nhất, có
thể mang lại hiệu quả cao nhất cho mỗi đồng vốn. Nâng cao hiệu quả của các
khoản chi thường xuyên sẽ làm giảm chi NSNN cho chi thường xuyên, từ đó
tập trung nguồn lực, tạo điều kiện đầu tư nhiều hơn vào chi đầu tư phát triển.
Thực tiễn ở nước ta hiện nay công tác quản lý chi NSNN còn có nhiều
điểm chưa hợp lý như trong quá trình lập dự toán, chấp hành và quyết toán
NSNN chưa sát với thực tế, từ đó dẫn đến tình trạng lãng phí, thất thoát vốn
hoặc chi tiêu không hiệu quả. Thêm vào đó các đơn vị, các cơ quan ban ngành
thường coi NSNN như một quỹ chung - tiền chùa nên tìm cách nhận được
nhiều kinh phí để sau đó là tiêu pha thoải mái gây lãng phí một phần không nhỏ
NSNN. Mặt khác, công tác quản lý, kiểm tra, giám sát còn thiếu chặt chẽ, năng
lực quản lý còn hạn chế nên dễ dẫn đến sai phạm, buông lỏng quản lý gây thất
thoát NSNN.
Một thực trạng nữa đang diễn ra hiện nay là trong quá trình phân bổ NSNN
còn dàn trải, chưa đúng với chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị dẫn
đến tình trạng nơi có hiệu quả hoạt động tốt thì thiếu kinh phí còn nơi thì thừa
kinh phí nhưng hoạt động lại kém hiệu quả.
Như vậy chi NSNN nói chung mà cụ thể là chi thường xuyên hiện nay chưa
thực sự đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan, đơn vị nên làm cho hiệu quả
hoạt động chưa cao. Do đó việc nâng cao hiệu quả chi thường xuyên là một
9
9
việc làm thiết thực, là bước đệm cần thiết để phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, và đó cũng là một câu hỏi lớn cho các nhà quản lý kinh tế.
Chi thường xuyên là một bộ phận của chi NSNN, chính vì vậy cho nên
trong quá trình tổ chức quản lý chi thường xuyên cũng phải dựa trên cơ sở các
nguyên tắc quản lý của chi tiêu NSNN nhằm nâng cao hiệu quả, tiết kiệm cho
chi thường xuyên nói riêng và chi NSNN nói chung trong thực trạng NSNN ta
hiện nay còn eo hẹp và còn có nhiều nhiệm vụ phải giải quyết.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý chi thường xuyên.
Nguyên tắc quản lý theo dự toán.
Lập dự toán là khâu đầu tiên và cũng là khâu quan trọng nhất cho toàn bộ
chu trình NSNN, nó quyết định số lượng, chất lượng phân bổ và sử dụng nguồn
lực tài chính.
Lập dự toán đồng thời cũng là căn cứ quan trọng cho việc quản lý và kiểm
soát chi thường xuyên phát sinh hằng năm. Hay nói cách khác, quản lý theo dự
toán đối với chi thường xuyên là cơ sở để đảm bảo cân đối NSNN, tạo điều
kiện cho việc chấp hành NSNN, hạn chế tính tuỳ tiện của các đơn vị trong quá
trình sử dụng NSNN. Tuy vậy, điều quan trọng ở đây là cần phải nâng cao chất
lượng lập và xét duyệt dự toán trên cơ sở bố trí NSNN sát đúng với thực tế
nhiệm vụ của từng đối tượng, từng loại hình hoạt động.
Dự toán chi sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì có giá trị như là
chỉ tiêu pháp lệnh. Các ngành, các cấp, các đơn vị phải có trách nhiệm chấp
hành các chỉ tiêu chi thường xuyên đã được duyệt. trong trường hợp khi dự
toán NSNN và phương án phân bổ NSNN chưa được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền quyết định hoặc phải điều chỉnh dự toán NSNN theo quy định thì
cơ quan tài chính và kho bạc Nhà nước thực hiện tạm cấp kinh phí NSNN cho
các nhiệm vụ chi được quy định trong các văn bản pháp lý.
10
10
Nguyên tắc hiệu quả, tiết kiệm.
Tiết kiệm, hiệu quả là nguyên tắc quan trọng trong quản lý kinh tế tài chính
nói chung và quản lý chi NSNN nói riêng trong đó có chi thường xuyên. Tính
hiệu quả trong quản lý chi thường xuyên được biểu hiện:
-
Đối với một nền kinh tế, nguồn lực tài chính là có giới hạn nhất định, cho nên
trong quá trình phân bổ và sử dụng nguồn lực cần phải tính toán để sao cho đạt
được những mục đích đề ra.
-
Tính hiệu quả đòi hỏi các đơn vị sử dụng NSNN phải cung cấp hàng hoá và
dịch vụ công cho xã hội với mức chi phí hợp lý nhất. Để có được tính hiệu quả
yêu cầu các đơn vị phải sử dụng nguồn lực một cách tiết kiệm. Những quy định
truyền thống về quản lý NSNN theo yếu tố đầu vào (hay còn gọi là quản lý
NSNN theo mục) đã tạo ra tiền lệ cho người quản lý tìm mọi cách chi tiêu hết
tất cả nguồn lực sẵn có, thậm chí việc chi tiêu đó làm giảm đi hiệu quả phân bổ
nguồn lực tài chính. Họ cho rằng nếu không chi tiêu hết ngân sách năm nay thì
họ sẽ bị cắt giảm hoặc được phân bổ nguồn lực ít hơn trong những năm tiếp
theo. Hơn thế nữa, những người quản lý hoạt động trong một môi trường bị
kiểm soát hết sức cứng nhắc. Những công cụ truyền thống để thực hiện kiểm
soát là định mức và khoản mục hoá các khoản chi tiêu, mua sắm các khoản
mục đầu vào. Thế nhưng chính sự kiểm soát đầu vào đã gây ra tính kém hiệu
quả trong hoạt động bởi vì nó không khuyến khích tiết kiệm, không tạo ra mối
gắn kết giữa khối lượng chi tiêu với khối lượng đầu ra. Thêm vào đó, những
hoạt động của người quản lý chủ yếu được đánh giá dựa trên tính tuân thủ,
chấp hành những luật lệ quy định mang tính thủ tục hành chính chứ không
đánh giá dựa trên kết quả mà họ tạo ra.
11
11
Từ hạn chế trên, để nâng cao tính hiệu quả trong quản lý chi thường xuyên
đòi hỏi:
Người quản lý được trao quyền tự chủ trong việc điều hành hoạt động của họ,
-
nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của họ về kết quả.
Người quản lý có đủ năng lực và chủ động đề ra những giải pháp làm giảm chi
-
phí hoạt động và nâng cao khối lượng hoặc chất lượng đầu ra cung cấp cho xã
hội.
Tạo ra những đòn bẩy kinh tế khuyến khích người quản lý cải thiện và nâng
-
cao chất lượng hoạt động.
Nguyên tắc đảm bảo sự tự chủ về tài chính của đơn vị sử dụng NSNN .
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả như đã được đề
cập ở trên. Có thể khái quát những nội dung cơ bản của nguyên tắc này như
sau:
-
Các đơn vị chủ động xây dựng dự toán chi hợp lý, phù hợp với nhu cầu chi và
nhiệm vụ hoạt động của đơn vị.
-
Trên cơ sở dự toán được duyệt, các đơn vị chủ động phân bổ và sử dụng kinh
phí theo nhu cầu thực tế của đơn vị mình.
Đối với những đơn vị sự nghiệp có thu, tuỳ vào mức độ đảm bảo nhu cầu
chi, các cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định giao quyền tự chủ về tài chính
cho đơn vị. Theo đó đơn vị được để lại nguồn thu khai thác được và chủ động
sử dụng để phục vụ cho hoạt động của đơn vị.
Đối với các đơn vị hành chính thực hiện khoán chi và đơn vị sự nghiệp có
thu được giao quyền tự chủ tài chính, đơn vị chủ động xây dựng quy chế chi
tiêu nội bộ theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền và áp dụng quy chế
trong việc sử dụng kinh phí, nguồn thu của mình. Số tiết kiệm chi so với mức
khoán hay số tăng thu trong năm đơn vị được sử dụng theo đúng quy định của
cơ quan có thẩm quyền.
12
12
Đối với đơn vị hành chính không khoán chi trong phạm vi nhóm chi được
cơ quan tài chính thông báo đơn vị chủ động sử dụng và điều hoà cho nhiều
mục chi của nhóm, đảm bảo nhu cầu chi cụ thể của từng mục chi nhưng không
ảnh hưởng đến tổng số nhóm chi đã được thông báo.
Nguyên tắc chi trả trực tiếp qua Kho bạc Nhà nước.
Nguyên tắc này khẳng định hai nội dung: KBNN là cơ quan tài chính được
Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý về quỹ NSNN do vậy có nhiệm vụ trực tiếp
thanh toán mọi khoản chi NSNN; mặt khác KBNN có nhiệm vụ kiểm soát mọi
khoản chi NSNN và có quyền từ chối thanh toán đối với các khoản chi sai chế
độ và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Các khoản chi NSNN phải
được thanh toán trực tiếp đến đúng đối tượng thụ hưởng, hạn chế tối đa thanh
toán qua các trung gian. KBNN chỉ thực hiện chi trả, thanh toán các khoản chi
NSNN khi có đủ các điều kiện: đã có trong dự toán chi NSNN được duyệt;
đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quy định; đã được cơ quan tài chính hoặc thủ trưởng đơn vị sử dụng
NSNN hoặc người được uỷ quyền quyết định chi; có đủ hồ sơ, chứng từ thanh
toán.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này yêu cầu:
-
Các đơn vị dự toán mở tài khoản tại KBNN để thực hiện các giao dịch của
mình, chịu sự kiểm tra của KBNN trong quá trình sử dụng kinh phí do NSNN
cấp phát, sử dụng nguồn thu sự nghiệp của đơn vị, kể cả quá trình lập dự toán
và quyết toán của đơn vị.
-
Cơ quan tài chính chịu trách nhiệm thẩm tra dự toán thu, chi của đơn vị, sau đó
thông báo kết quả thẩm tra dự toán đến KBNN. Căn cứ vào thông báo và yêu
cầu chi trả, thanh toán, KBNN thực hiện kiểm tra các hồ sơ chứng từ của đơn
vị và thực hiện chi trả thanh toán các khoản chi theo nguyên tắc chi trả trực tiếp
cho người thụ hưởng khoản chi.
13
13
Ngoài ra theo quy định hiện hành, KBNN có trách nhiệm tạm dừng thanh toán
-
một số khoản chi về mua sắm sửa chữa theo yêu cầu (bằng văn bản) của cơ
quan tài chính, nhưng không ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ hoạt động
chính của đơn vị. Đây là trường hợp nhu cầu chi vượt quá khả năng thu, huy
động và vay tạm thời của NSNN.
1.3.
1.3.1
Quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục
Chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục
*Khái niệm, đặc điểm chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục:
Chi thường xuyên NSNN cho giáo dục là quá trình phân phối và sử dụng
quỹ NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi của lĩnh vực giáo dục nhằm đảm bảo
thực hiện tốt các nhiệm vụ đặt ra.
Chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi thường xuyên vì vậy nó
các đặc điểm sau:
- Chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục mang tính ổn định.
- Chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục mang tính chất tiêu dùng xã hội. Vì
kết quả của các hoạt động trên không tạo ra của cải vật chất cho xã hội.Mục
đích của nó là đầu tư cho con người, tạo ra con người có đủ đức và tài phục vụ
cho đất nước.
- Phạm vi, mức độ chi NSNN gắn chặt với sự lựa chọn của nhà nước trong
việc cung ứng hàng hóa giáo dục. Giáo dục một mặt được coi là hàng hóa cá
nhân nhưng mặt khác nó cũng là hàng hóa công cộng bởi giáo dục đem lại lợi
ích cho toàn xã hội chứ không riêng cá nhân được giáo dục.Khoản chi này
thường chiếm tỷ trọng lớn, có tính chất quyết định trong việc hình thành và
phát triển hệ thống giáo dục quốc dân.
* Nội dung chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục.
Chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi thuộc nhóm
chi hoạt động sự nghiệp cho lĩnh vực văn hóa- xã hội.Qua đó chúng ta sẽ thấy
14
14
rằng chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục là quá trình phân phối, sử dụng vốn
từquỹ ngân sách để đáp ứng các nhu cầu chi của toàn bộ nghành giáo dục nhằm
đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ đã đặt ra.
Chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục xét theo cơ cấu chi bao gồm:
-
Các khoản chi thanh toán cá nhân.
-
Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn.
-
Chi mua sắm, sửa chữa và xây dựng nhỏ.
-
Chi thường xuyên khác.
•
Thứ nhất: Chi thanh toán cá nhân.
Là khoản chi quan trọng trong các yếu tố đầu vào của bất kỳ cơ quan, tổ
chức nào muốn tồn tài và hoạt động. Là các khoản chi theo chế độ mà Nhà
nước đã quy định chi trả cho các cơ quan nhà nước, các đơn vị giáo dục. Gồm:
+ Chi tiền lương, tiền công.
+ Chi phụ cấp.
+ Các khoản nộp theo lương: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,…
+ Học bổng…
Nội dung chi này chiếm tỷ trọng lớn nhất vào trong tổng chi NSNN cho hệ
thống giáo dục. Nó đáp ứng được nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần cho
cán bộ giáo viên nhằm tái sản xuất sức lao động của họ, từ đó động viên tinh
thần giảng dạy, khuyến khích học sinh tích cực học tập thông qua các chương
trình học bổng của các cấp. Qua đó nâng cao chất lượng giáo dục.
•
Thứ hai: Các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn.
Bao gồm các khoản chi:
+ Chi trả các dịch vụ liên quan trực tiếp đến giảng dạy và học tập: tiền điện;
tiền nước; vệ sinh trường, lớp học;…
+ Chi phí đi học tập và giảng dạy (sách giáo khoa, đồ dùng học tập, tài liệu
tham khảo cho giáo viên…).
+ Chi hội nghị, hội thảo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
+ Chi phí nghiệp vụ chuyên môn khác.
15
15
Đây là các khoản chi cần thiết cho hoạt động giảng dạy và học tập.Các
khoản chi này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng dạy và học của giáo viên cũng
như học sinh. Do đó, cần được chú trọng cho các khoản chi này.
•
Thứ ba: Chi mua sắm, sửa chữa và xây dựng nhỏ.
Bao gồm các khoản chi về mua sắm, sửa chữa có tính ổn định không cao phụ
thuộc vào tình trạng nhà cửa và trang thiết bị của nhà trường.Mỗi năm sẽ dành ra
một phần trong tổng số hạn mức kinh phí được cấp để trang trải cho kinh phí này.
•
Thứ tư: Chi khác.
Ngoài các khoản chi ở ba nhóm mục trên thì các đơn vị trường học còn phát
sinh các khoản chi khác như: trợ cấp thôi việc, chi trợ cấp khó khăn cho các học
sinh gặp hoàn cảnh khó khăn có thành tích tốt, trích lập các quỹ,…Các khoản chi
này phát sinh tương đối ít nhưng nó vẫn có vai trò lớn trong hoạt động giáo dục.
* Vai trò chi thường xuyên NSNN cho giáo dục:
Hiện nay, nguồn kinh phí đầu tư cho sự nghiệp giáo dục được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau: Từ nguồn vốn NSNN, từ nguồn thu sự nghiệp, từ
nguồn tài trợ. Chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là từ nguồn vốn NSNN, trong đó chi
thường xuyên NSNN đóng vai trò vô cùng quan trọng:
+ Chi NSNN nói chung và chi thường xuyên nói riêng có vai trò quan trọng
trong việc định hướng giáo dục phát triển theo đúng chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước: Giáo dục đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng
CNXH và bảo vệ tổ quốc, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.
+ Chi thường xuyên NSNN là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi
NSNN cho sự nghiệp giáo dục đảm bảo đời sống của cán bộ giáo viên, tạo ra
cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị… và nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng của giáo dục.
+Tạo điều kiện ban đầu để khuyến khích nhân dân cùng đóng góp và xây
dựng, bảo vệ, tăng cường cơ sở vật chất để phục vụ cho giảng dạy tốt hơn, thu
hút các nguồn lực, thu hút nhân tài cùng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục.
16
16
1.3.2.
Quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục
Quản lý chi NSNN nói chung và chi cho sự nghiệp giáo dục nói riêng là
quản lý theo chu trình ngân sách, được thực hiện bằng công cụ kế hoạch thông
qua ba khâu chủ yếu là:
-
Lập ngân sách nhà nước.
-
Chấp hành ngân sách nhà nước.
-
Quyết toán ngân sách nhà nước.
Lập dự toán.
Đây là khâu đầu điên của một chu trình ngân sách, nhằm mục đích để nhân
tích, đánh giá giữa các khả năng và nhu cầu các nguồn tài chính của nhà nước
nhắm xác lập các chỉ tiêu thu chi ngân sách nhà nước hàng năm một cách đúng
đắn, khoa học và hiệu quả. Việc lập dự toán phải được thực hiện theo đúng quy
trình, định mức và được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt.
•
Căn cứ lập dự toán ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục hàng năm:
+ Chủ trương của nhà nước về duy trì và phát triển hoạt động sự nghiệp
giáo dục trong từng giai đoạn nhất định.
+ Dựa vào các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là các
chỉ tiêu có liên quan trực tiếp đến hoạt động của sự nghiệp giáo dục.
+ Khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng cho nhu cầu chi sự nghiệp kỳ kế hoạch.
+ Các chính sách, chế độ chi sự nghiệp của NSNN hiện hành và dự toán
những điều chỉnh hoặc thay đổi có thể xảy ra trong kỳ kế hoạch.
+ Tình hình thực hiện dự toán năm trước.
17
17
•
Trình tự lập dự toán.
-
Bước 1: Căn cứ vào mức chi dự kiến cơ quan tài chính phân bổ cho nghành
giáo dục và các văn bản hướng dẫn lập dự toán, nghành giáo dục giao chỉ tiêu
và hướng dẫn cho các đơn vị lập dự toán chi.
-
Bước 2: Sự nghiệp giáo dục căn cứ vào chỉ tiêu được giao và văn bản hướng
dẫn của các cấp trên để lập dự toán kinh phí của đơn vị mình gửi cơ quan quản
lý cấp trên hoặc cơ quan tài chính. Cơ quan tài chính xét duyệt tổng thể dự toán
chi cho giáo dục vào dự toán chi NSNN nói chung để trình cơ quan chính
quyền và cơ quan quyền lực nhà nước xét duyệt.
-
Bước 3: Căn cứ vào dự toán chi đã được cơ quan quyền lực nhà nước thông
qua, cơ quan tài chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ chính thức
phân bổ theo dự toán cho sự nghiệp giáo dục thông qua hệ thống kho bạc nhà
nước.
Chấp hành ngân sách.
Là khâu tiếp theo trong chu trình quản lý chi NSNN. Các căn cứ để tổ chức
chấp hành dự toán chi thường xuyên của NSNN cho sự nghiệp giáo dục:
-
Dựa vào mức chi của từng chỉ tiêu đã được duyệt trong dự toán. Đây là căn cứ
quyết định trong chấp hành dự toán chi thường xuyên của NSNN cho sự
nghiệp giáo dục. Do nhu cầu chi thì đã có định mức chi, tiêu chuẩn, đã được cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt và thông qua.
-
Dựa vào khả năng nguồn kinh phí có thể dành cho nhu cầu cho chi thường
xuyên trong mỗi kỳ. Các khoản chi thường xuyên luôn bị giới hạn bởi khả năng
huy động các khoản thu thường xuyên và luôn tuân theo quan điểm “lường thu
mà chi”.
-
Dựa vào các định mức, chính sách, chế độ chi NSNN hiện hành cho giáo dục.
Đây là căn cứ có tính pháp lý bắt buộc quá trình cấp phát sử dụng các khoản
chi phải tuân thủ, là căn cứ để đánh giá tính hợp lệ, hợp pháp của việc cấp phát
và sử dụng các khoản chi.
18
18
Quyết toán chi NSNN.
Quyết toán là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý ngân sách. Là quá
trình nhằm kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau một
năm để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán, rút ra kinh nghiệm và
bài học cần thiết cho kỳ chấp hành dự toán tiếp theo. Do đó, cần có các yêu cầu
cho quá trình quyết toán như sau:
-
Phải lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời các loại báo cáo này
cho các cơ quan thẩm quyền theo đúng quy định.
-
Số liệu trong báo cáo phải đảm bảo chính xác, trung thực. Nội dung các báo cáo
phải theo đúng nội dụng ghi trong dự toán được duyệt và theo đúng mục lục
NSNN quy định.
-
Báo cáo quyết toán năm phải có xác nhận của Kho bạc nhà nước đồng cấp
trước khi trình cho cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
-
Thủ trưởng các đơn vị dự toán cấp trên có trách nhiệm kiểm tra và duyệt quyết
toán chi ngân sách của các đơn vị trực thuộc và lập quyết toán gửi cơ quan tài
chính cung cấp.
-
Báo cáo quyết toán không được xảy ra chi lớn hơn thu.
-
Cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán xác định tính đúng đắn, hợp
pháp của báo cáo quyết toán .
Sự nghiệp giáo dục đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội và
tăng trưởng kinh tế. Vì vậy mà Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, đầu tư ngày
càng tăng cho lĩnh vực giáo dục. Chi NSNN nói chung và chi thường xuyên nói
riêng có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển sự nghiệp giáo dục
theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước nên chi thường xuyên
NSNN cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi
NSNN cho giáo dục, đảm bảo kinh phí hoạt động cho các đơn vị sự nghiệp giáo
dục.
19
19
Trong những năm gần đây, quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục đã có
những tiến bộ đáng kể, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại chưa được giải quyết triệt để.
Để tìm hiểu kỹ hơn về những mặt đã đặt được cũng như những mặt hạn chế, bất cập
trong quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục, sau đây chúng ta sẽ
đi sâu vào thực trạng của các trường THCS trong huyện Trấn Yên.
20
20
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI THƯỜNG XUYÊN CHO CÁC
TRƯƠNG THCS TRONG ĐỊA BÀN HUYỆN THỜI GIAN QUA
2.1 Khái quát về các trường THCS trong huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái
2.1.1 Nhiệm vụ phát triển các trường THCS trong toàn huyện
Vài nét về huyện Trấn Yên:
Trấn Yên là một huyện miền núi vùng thấp của tỉnh Yên Bái, có điều kiện
tự nhiên và địa hình tương đối thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh – quốc phòng. Phía Bắc giáp với huyện Văn Yên, phía Nam giáp huyện
Hạ hoà tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp huyện Yên Bình và thành phố Yên Bái,
phía Tây giáp với huyện Văn Chấn. Tổng diện tích tự nhiên là 62.859,54 ha,
chiếm 9,13 diện tích toàn tỉnh Yên Bái.
Trung tâm huyện cách thành phố Yên Bái 13,5 km, cách thủ đô Hà
Nội gần 200km. Có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ
rất thuận lợi cho việc đi lại và trao đổi hàng hoá giữa các địa phương
trong và ngoài huyện. Toàn huyện được chia thành 22 đơn vị hành chính
xã, thị trấn, trong đó có 7 xã vùng cao, 1 xã đặc biệt khó khăn, 12 xã khu
vực II có thôn bản đặc biệt khó khăn.
Trấn Yên có địa hình chuyển tiếp từ trung du lên miền núi, được kiến tạo
bởi dãy Pú Luông phía hữu ngạn và dãy con Voi phía tả ngạn sông Hồng, đều
chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Độ cao trung bình từ 100 – 200 m so
với mặt nước biển. Nơi thấp nhất là xã Minh Quân có độ cao 20m. Nhìn chung
địa hành cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc. Các xã phía Nam có địa hình phần
lớn là đồi bát úp, đỉnh bằng sườn thoải thuận tiện cho việc trồng cây lương thực
và cây công nghiệp. Các xã nằm dưới chân núi con Voi và dãy Pú luông có địa
hình phức tạp, chia cắt, núi đồi xen lẫn với thung lũng sâu, có độ dốc lớn nên
khó khăn cho đi lại và giao lưu kinh tế. Song có điều kiện thuận lợi cho phát
triển nghề rừng và chăn nuôi đại gia súc.
21
21
Huyện có 6 dân tộc sinh sống, trong đó: Dân tộc Kinh chiếm 66,5%, dân
tộc Tày chiếm 20,5%, dân tộc Dao chiếm 7,2%; dân tộc Mường chiếm 2,3%,
dân tộc Cao Lan chiếm 1,2%, dân tộc H’Mông chiếm 1,9%, dân tộc khác
chiếm 0,4%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1, 035%; mật độ dân số 132
người/km2.
Hiện tại , Trấn Yên vẫn là một huyện gặp rất nhiều khó khăn trong việc
phát triển kinh tế-xã hội. Và đầu tư vào giáo dục là một trong những mục tiêu
quan trọng nhất của huyện. Do đó, các cấp lãnh đạo cũng đã có các chính sách
thiết thực để phát triển hệ thống GD&ĐT trong huyện. THCS là một cấp đặc
thù và do đó, cần có những đầu tư cần thiết và phù hợp. Trong toàn huyện có
19 trường. Với quy mô như sau:
BẢNG2.1: QUY MÔ CÁC TRƯỜNG THCS TRONG HUYỆN TRẤN YÊN
Năm học
2010 – 2011
2011 – 2012
2012 – 2013
Số trường
19
19
19
Số lớp
133
133
132
Số học sinh
3510
3627
3798
(Nguồn: Phòng GD&ĐT huyện Trấn Yên)
Với hệ thống như vậy các trường THCS đang phát triển hướng tới mục
tiêu đạt chuẩn quốc gia.Nâng cao chất lượng giảng dạy và kết quả học tập của
các học sinh. Đồng thời phát triển đất nước theo hướng kinh tế tri thức.
22
22
2.1.1
Các yếu tố quyết định đến quá trình giảng dạy, học tập tại các trường và
những thành quả cơ bản
*Các điều kiện cần thiết để các trường hoạt động:
Yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến quá trình học tập và giảng dạy
tại các trường THCS là đội ngũ giáo viên và điều kiện về cơ sở vật chất. Một cơ
sở vật chất khang trang có đầy đủ các trang thiết bị dạy và học (như dụng cụ thí
nghiệm, thực hành; máy chiếu; …), một đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên
môn, có trình độ sư phạm giỏi, nhiệt huyết với nghề sẽ đảm bảo phát triển của
nghành giáo dục.
Theo đánh giá gần đây năm học 2012-2013 xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết
bị các trường có sự chuyển biến mạnh.Các phòng học đã được sửa chữa và xây mới
tạo cho các trường có khung cảnh khang trang, sạch sẽ. Quá trình giảng dạy và học
tập đã được nâng cao và tạo điều kiện cho việc đào tạo có kết quả sâu rộng.
Các trường tiến hành xây dựng và sửa chữa năm học 2011-2012: THCS
Thị trấn Cổ Phúc xây dựng mới được thêm một dãy nhà 2 tầng gồm 12 phòng
học, năm học 2012- 2013 trường Đào Thịnh thực hiện sửa chữa và xây dựng
thêm được 3 lớp học, trường Tân Đồng xây dựng thêm được 2 lớp, trường Quy
Mông xây dựng thêm được 3 lớp. Ngoài ra các trường còn tiến hành cải tạo và
sửa chữa khung cảnh trường( sân, tường rào…).
Việc sửa chữa và cải tạo của các trường đã cho thấy sự quan tâm của các
cấp lãnh đạo đến sự nghiệp giáo dục của thành phố.Việc đầu tư đó đã đưa bộ
mặt của các trường THCS trong huyện vươn lên, nâng cao các tiêu chuẩn để
đạt chuẩn Quốc gia.
Bên cạnh cơ sở vật chất đó là việc đào tạo đội ngũ giảng dạy tại các
trường THCS được coi trọng, phong trào học tập nâng cao trình độ chuyên,
nghiệp vụ phát triển mạnh mẽ trong các nhà trường.Hàng năm, Phòng giáo dục
đào tạo huyện Trấn Yên tiến hành các hội thảo về nâng cao nghiệp vụ giảng
dạy cho các trường và tổ chức các cuộc thi giáo viên dạy giỏi từ cấp trường lên
23
23
đến cấp huyện, cấp tỉnh.Và hàng tháng Huyện đều tổ chức kỳ thi hội giảng cho
các giáo viên ở các trường. Huyện luôn khuyến khích các giáo viên có nhu cầu
đi học nâng cao trình độ với các cơ chế ưu đãi cho các giáo viên. Số giáo viên
đạt chuẩn và trên chuẩn năm trong 3 năm học gần đây là:
- Năm 2010-2011: 1280/1335 chiếm 95,8%
- Năm 2011-2012: 1327/1349 chiếm 98,4%
- Năm 2012-2013: 1357/1368 chiếm 99,2%
Cùng với đó là đội ngũ quản lý trong các trường đã đủ theo quy định,
đảm bảo hoạt động hàng ngày cho các trường.
*Những thành quả cơ bản.
Cùng với sự quan tâm, đầu tư đúng mức của nhà nước cũng như của Đảng
ủy huyện Trấn Yên và với sự nỗ lực cố gắng của thầy trò của các trường trong
huyện, chất lượng của giáo dục THCS của các trường trong huyện đã đạt được
những thành tựu lớn. Thể hiện qua bảng số liệu sau:
BẢNG 2.2: KẾT QUẢ XẾP LOẠI HẠNH KIỂM CÁC TRƯỜNG THCS TRONG
HUYỆN TRẤN YÊN GIAI ĐOẠN 2011- 2013
Đơn vị tính: %.
Năm học
Chỉ tiêu
2010 – 2011
2011– 2012
2012 – 2013
Tốt
64,15
64,84
67,12
Khá
29,31
29,97
30,1
Trung Bình
6,23
4,95
2,58
Yếu, Kém
0,31
0,24
0,2
(Nguồn: Phòng GD&ĐT huyện Trấn Yên )
Qua bảng trên có thể thấy tỷ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm tốt ngày một
tăng và tỷ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm trung bình giảm từ 6,23 xuống chỉ còn
2,58%, cùng với đó là tỷ lệ học sinh yếu kém cũng giảm đáng kể từ 0,31%
24
24
xuống chỉ còn 0,2%. Đó là một kết quả đáng mừng cho giảng dạy của các trường
THCS huyện Trấn Yên. Được kết quả đó là do có sự quan tâm và giúp đỡ của
Đảng ủy, chính quyền huyện đã có các chính sách ưu đãi đối với các nhà trường.
Cùng với đó là sự cố gắng của các học sinh trong trường và các giáo viên của
nhà trường nên đã có thành quả đáng tự hào như vậy.
Bên cạnh giáo dục về văn hóa đạo đức thì giáo dục nâng cao kiến thức là
rất quan trọng. Bảng sau cho chúng ta thấy chất lượng học tập và giảng dạy tại
các trường THCS huyện Trấn Yên ra sao:
BẢNG 2.3: KẾT QUẢ HỌC LỰC CÁC TRƯỜNG THCS TRONG
HUYỆN TRẤN YÊN GIAI ĐOẠN 2011-2013
Đơn vị tính: %.
Năm học
Chỉ tiêu
2010– 2011
2011 – 2012
2012 – 2013
Giỏi
4,45
4,76
4,9
Khá
30,5
30,76
31,0
Trung Bình
58,12
57,49
58,6
Yếu
6,18
6,87
5,3
Kém
0,15
0,12
0,1
(Nguồn: Phòng GD&ĐT huyện Trấn Yên)
Qua bảng trên ta thấy, qua các năm, tỷ lệ học sinh khá, giỏi tăng đều đồng
thời tỷ lệ học sinh trung bình, yếu kém giảm. Từ năm học 2010-2011 đến năm
2012-2013, tỷ lệ học sinh giỏi tăng 0,45%, tỷ lệ học sinh khá tăng 0,5%, tỷ lệ
học sinh yếu giảm 0,88% và tỷ lệ học sinh 0,05%. Ngoài ra, hàng năm, phòng
GD&ĐT đều tổ chức các cuộc thi học sinh giỏi cấp trường, cấp huyện để chọn
lọc và bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh. Huyện Trấn Yên tự hào là
một trong những huyện có số học sinh đạt giải cao trong kỳ thi Chọn học sinh
giỏi cấp tỉnh. Trong năm học 2012-2013, huyện có 1 giải Nhất, 6 giải Nhì, 5
giải Ba và 10 giải khuyến khích trong các môn Toán, Lý, Hóa, Anh, Văn, Địa,
25
25