Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ THI TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.26 KB, 54 trang )

----------

“Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và
giải pháp”

Mục lục


Trường đại học Ngoại thương

Tiểu luận Tài chính tiến tệ.

PHẦN I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chính là những tế bào tham gia
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh để duy trì sự sống cho toàn bộ thị trường. Tuy
nhiên, để những tế bào ấy hoạt động, để việc sản xuất kinh doanh được tiến hành thì
trước tiên phải có vốn. Vốn là một yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng mà các doanh
nghiệp cần phải tiếp cận và sử dụng hợp lý. Cùng với sự phát triển của thị trường, thị
trường vốn cũng luôn song hành và ngày càng trở nên phong phú, đã dạng.
Thực tế cho thấy rằng, những quốc gia có nền kinh tế phat triển mạnh mẽ đều có
một thị trường vốn là nền tảng vững trãi. Các biến động trong nền kinh tế đều ảnh
hưởng tới thị trường vốn, và thị trường vốn cũng có thể tác động ngược trở lại nền
kinh tế. Có thể coi thị trường vốn là một nền kinh tế tượng trưng cho nền kinh tế thực
Thật vậy, thị trường vốn là nơi cung cấp dưỡng chất cho doanh nghiệp. Việc
điều tiết thị trường vốn sau cho ổn định và hiệu quả có thể coi là yếu tốt sống còn, vô
cùng quan trọng tới sự phát triển của doanh nghiệp, suy rộng ra cả nền kinh tế. Với
nền kinh tế còn non trẻ, lại đang trên đà phát triển như Việt Nam, nhu cầu về vốn lại
càng trở nên cấp thiết.
Từ những lí do trên, chúng em thấy rõ được vai trò quan trọng của thị trường
vốn với nến kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt nam nói riêng, cũng như
nhận thức được tính cấp thiết của việc nghiên cứu thực trạng thị trường vốn tại Việt


Nam từ đó đưa ra các giải pháp để khắc phục nhược điểm và hoàn thiện hơn nữa thị
trường vốn.
Vì vậy chúng em đã chọn đề tài “Thực trạng thị trường vốn Việt Nam và giải
pháp”, với kết cấu gồm ba chương:




Chương I:Lý luận về thị trường vốn.
Chương II:Thực trạng thị trường vốn Việt Nam.
Chương III:Những giải pháp đối với thị trường vốn ở Việt Nam.

Trang 2


Trường đại học Ngoại thương

Tiểu luận Tài chính tiến tệ.

PHẦN II. NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Chương I: Lý luận về thị trường vốn.
I, Khái niệm về vốn, phân loại
Cùng với sự phát triển chung của kinh tế, vốn là một trong những khái niệm không
thể tách rời, chúng có lịch sử hình thành và phát triển cùng với chiều dài của sự phát
triển chung giữa các nhóm ngành và thường xuyên được nhắc tới. Vậy vốn là gì?
Hiện nay có khá nhiều khái niệm về vốn, cụ thể cần chia vốn theo hai hướng: nghĩa
rộng và nghĩa hẹp.
• Theo nghĩa hẹp: Vốn là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, tổ chức, mỗi doanh
nghiệp hay mỗi quốc gia.
Ví dụ: Bạn đang có 1 triệu trong tay đó là vốn, doanh nghiệp của bạn đang có 1 tỷ

đó là vốn, quốc gia bạn đang sinh sống có nguồn ngân sách 1 tỷ đô đó là vốn.
• Theo nghĩa rộng: Vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất
hàng hóa, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình và các kiến thức kinh tế, kỹ
thuật của doanh nghiệp được tích lũy, sự khéo léo về trình độ quản lý và tác nghiệp
của các cán bộ điều hành, cùng đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp,
uy tín của doanh nghiệp. Quan điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác
đầy đủ hiệu quả của vốn trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc xác định vốn
theo quan điểm này rất khó khan phức tạp nhất là khi nước ta trình độ quản lý kinh
tế còn chưa cao và pháp luật chưa hoàn chỉnh.
• Theo quan điểm của Mác: Vốn (tư bản) không phải là vật, là tư liệu sản xuất, không
phải là phạm trù vĩnh viễn. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc
lột lao động làm thuê. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản ứng tiền ra mua tư liệu sản
xuất và sức lao động, nghĩa là tạo ra các yếu tố của quá trình sản xuất. Các yếu tố
này có vai trò khác nhau trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Mác chia tư bản thành tư
bản bất biến và tư bản khả biến. Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình
thức tư liệu sản xuất( máy móc, thiết bị, nhà xưởng..) mà giá trị của nó được chuyển
nguyên vẹn vào sản phẩm. Còn tư bản khả biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình
thức lao động, trong quá trình sản xuất thay đổi về lượng, tăng lên do sức lao động
của hàng hóa tăng.
• Theo David Begg, Stenley Ficher, Rudiger Darubused: Vốn hiện vật là giá trị của
hàng hóa đã sản xuất được sử dụng để tạo ra hàng hóa và dịch vụ khác. Ngoài ra còn
có vốn tài chính. Bản thân vốn là một hàng hóa nhưng được trực tiếp sử dụng vào
sản xuất kinh doanh tiếp theo. Quan điểm này đã cho thấy nguồn gốc hình thành vốn
và trạng thái biểu hiện của vốn, nhưng hạn chế cơ bản là chưa cho thấy mục đích
của việc sử dụng vốn.

Trang 3


Trường đại học Ngoại thương

 Phân loại vốn

Tiểu luận Tài chính tiến tệ.

1. Theo ý nghĩa của vốn, vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng
gồm:
Vốn pháp định: là vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật
quy định.
Vốn điều lệ: là số vốn ghi trong điều lệ cho từng loại nghề của doanh nghiệp khi
thành lập, khi bố cáo thành lập do các chủ sở hữu góp.
Vốn huy động: là số vốn do doanh nghiệp ( nhà nước) huy động dưới các hình thức
phát hành trái phiếu, nhận vốn liên kết, vay các tổ chức cá nhân để kinh doanh.
2. Theo tính chất hoạt động, vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây
dựng gồm:
-Vốn ở dạng hiện vật
-Vốn ở dạng tiền
-Vốn ở dạng khác (ngân phiếu, nhãn hiệu, thông tin…)
3. Theo tính chất hoạt động và nghĩa hẹp thì số vốn sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp xây dựng bao gồm hai bộ phận chính: vốn cố định và vốn lưu
động
3.1. Vốn cố định:
Để hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có vốn. Với doanh
nghiệp xây dựng, vốn dung vào sản xuất kinh doanh gọi là vốn sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp xây dựng. Theo nghĩa rộng, vốn của doanh nghiệp bao gồm tất cả
các yếu tố phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhờ vốn cố định, vốn lưu
động, nhân lực, thông tin các bí quyết công nghệ. Có thể nói , vốn là tài nguyên của
doanh nghiệp. Vốn trong doanh nghiệp được chia làm hai loại vốn cố định và vốn lưu
động.
• Khái niệm vốn cố định:
Là một bộ phận của vốn sản xuất, là số vốn ứng trước để mua sắm, xây dựng các

tài sản cố định nên quy mô vốn cố định lớn hay bé hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô
của tài sản cố định. Ngược lại, quy mô của tài sản cố định doanh nghiệp xây dựng lại
phụ thuộc đặc thì loại hình sản xuất, tính chất cảu dây truyền công nghệ và trình độ
trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp. Trong ngành xây dựng, quy mô vốn cố định của
các doanh nghiệp rất khác nhau nên trong nền kinh tế thị trường và trong điều kiện
khoa học kỹ thuật phát triển thì doanh nghiệp nào có vốn cố định lớn thường có quy
mô và năng lực sản xuất lớn, kinh tế hiện đại. Với một nguồn vốn xây dựng tìm ra
cách sử dụng để đạt hiệu quả tối ưu là mục tiêu mà doanh nghiệp nào cũng tìm cách
đạt đến.
Trang 4


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Vì vậy, đặc điểm của vốn
cố định phụ thuộc đặc điểm của tài sản cố định. Đó là vốn cố định tham gia vào nhiều
chu kỳ sản xuất kinh doanh
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Về số lượng ( số tài sản cố định)
không đổi, nhưng về mặt giá trị, vốn cố định được dịch duyển dần vào trong giá
thành sản phẩm mà vốn cố định đó sản xuất ra. Thông qua hình thức khấu hao mòn
tài sản cố định, giá trị dịch chuyển dần đó tương ứng với mức độ hao mòn thực tế của
tài sản cố định.
• Phân loại vốn cố định
Cách phân loại và nhận biết vốn cố định cũng là cách phân loại và nhận biết tài sản
cố định vì vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định.
Phân loại theo tính chất tài sản cố định:
 Tài sản cố định hữu hình: Là những tài sản có hình thái vật chất do
doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh phù hợp
với tiêu chuẩn ghi nhận tài sản cố định do Bộ tài chính quy định. Đó là loại tài
sản tham gia nhiều lần vào quy trình sản xuất chuyển một phần giá trị vào sản

phẩm và vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc,
máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải…
Doanh nghiệp có thể thuê tài sản cố định theo hai hình thức:
-Thuê ngắn hạn
-Thuê dài hạn
 Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất
nhưng xác định được giá trị của nó và doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong
sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ thể hiện một lượng giá trị đã được đầu
tư thỏa mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu
kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng, chi phí
về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả,...
Phân loại theo chức năng, tác dụng của tài sản cố định:
 Tài sản cố định trực tiếp: sản xuất, thi công xây lắp ( nhà cửa, công
trình, phương tiện vận tải máy móc, thiết bị cơ giới,..)
 Tài sản cố định gián tiếp: tham gia vào quá trình thi công xây lắp:
không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất mà chỉ có tác dụng phục vụ
trong lĩnh vực gián tiếp nhưng không thể thiếu.
3.2 Vốn lưu động
Là tiền ứng vào tài sản lưu động, là một bộ phận của vốn sản xuất của doanh
nghiệp xây dựng mà hình thái vật chất của nó chủ yếu thuộc đối tượng lao động. Vốn
lưu động của doanh nghiệp xây dựng là toàn bộ số vốn mà doanh nghiệp phải ứng ra
Trang 5


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
nhằm thỏa mãn nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu trong giai đoạn sản xuất và như cầu
lưu thông. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động luôn biến đổi từ hình
thái tiền tệ sang hình thái hiện vật rồi trở về hình thái tiền tệ thực hiện một vòng chu
chuyển.

Sau mỗi vòng chu chuyển, vốn lưu động sẽ được thu hồi toàn bộ dưới hình thức tiền
tệ.
Vòng chu chuyển của vốn lưu động là khoảng thời gian cần thiết để vốn lưu động
biến đổi từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật rồi trở lại hình thái tiền tệ. Sự biến
đổi của vốn có tính chất tuần hoạn, như vậy gọi là chu chuyển của vốn.
Vòng chu chuyển này gồm ba giai đoạn:
 Doanh nghiệp dung tiền để mua sắm nguyên, nhiên vật liệu, phụ tùng thay
thế…dự trữ trong kho cho quá trình sản xuất ( tiền tệ đến hiện vật)
 Giai đoạn trực tiếp sản xuất. Doanh nghiệp xuất các nguyên vật liệu trong kho
dự trữ của đơn vị đẻ đưa vào sản xuất thi công xây lắp. Quá trình sản xuất dưới
tác động của người lao động thông qua tư liệu lao động đã biến nguyên, nhiên
vật liệu…thành các sản phẩm hoàn chỉnh. Vốn lưu động trong giai đoạn này
chính là giá trị các sản phẩm đã hoàn chỉnh và một số sản phẩm đang chế tạo
dễ dàng, các bán thành phẩm. Thời gian vốn lưu động dừng lại trong giai đoạn
sản xuất gọi là thời gian sản xuất.
 Kết thúc quá trình sản xuất. Doanh nghiệp tiến hành bàn giao, thanh toán khối
lượng sản phẩm để thu tiền về. Trong giai đoạn này, vốn lưu động từ hình thái
hàng hóa về hình thái tiền tệ. Thời gian vốn lưu động dừng lại trong lưu thông
gọi là thời gian lưu thông. Tổng thời gian dự trữ sản xuất, thời gian sản xuất,
thời gian lưu thông gọi là chu kỳ của vốn lưu động.

Trang 6


Trường đại học Ngoại thương
II, Khái niệm thị trường vốn, phân loại
1.Khái niệm thị trường vốn

Tiểu luận Tài chính tiến tệ.


Là một bộ phận của thị trường tài chính.
Thị trường vốn là thị trường - nơi diễn ra giao dịch mua bán các loại tài sản tài
chính hoặc công cụ nợ trung hoặc dài hạn(các chứng khoán nợ dài hạn (long-term
debt securities), có thời hạn đến hạn trên một năm và các chứng khoán vốn (equity
securities)) . Do các chứng khoán mua bán trên thị trường vốn có thời hạn dài nên các
nhà phát hành có thể sử dụng vốn thu được để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy
thị trường vốn được coi là thị trường cung ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Do thời gian luân chuyển vốn trên thị trường này dài hạn hơn so với thị trường tiền
tệ nên các công cụ trên thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn và đi theo nó là lợi tức kì
vọng cũng cao hơn.
Chứng khoán của thị trường vốn có tính thanh khoản kém hơn so với các loại
chứng khoán ngắn hạn và rủi ro lớn hơn so với chứng khoán ngắn hạn do thời gian
dài hơn và giá cả của chúng biến động nhiều.
2.Đặc điểm của thị trường vốn:
Thị trường vốn diễn ra quá trình chuyển dịch từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh
doanh
Đối tượng của thị trường vốn là quyền sử dụng các nguồn tài chính dài hạn sau đó
đầu tư dài hạn vào sản xuất kinh doanh.
Công cụ của thị trường vốn là các khoản vay hay các chứng khoán có thời hạn từ một
năm do đó tính thanh khoản thấp hơn và có nhiều rủi ro.
3.Phân loại thị trường vốn:
Gồm 3 loại là : thị trường chứng khoán, thị trường cho vay thế chấp và thị trường tín
dụng thuê mua.
a)Thị trường chứng khoán: là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại
chứng khoán.
Chứng khoán được hiểu là các giấy tờ có giá xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với nhà phát hành. Bao gồm:
Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ
Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng
tương lai, đặc quyền mua cổ phiếu/đảm bảo, chứng khoán phái sinh.

Phân loại thị trường chứng khoán:
• Dựa vào cách phát hành

Trang 7


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
Thị trường sơ cấp: Thị trường này đảm bảo nguồn vốn được huy động thông qua
phát hành chứng khoán ra công chúng.Thị trường sơ cấp thực sự là kênh huy động
vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.Ở Việt Nam, thị trường sơ cấp mới chỉ huy động
một lượng vốn cũng rất nhỏ so với quy mô đầu tư.Khi nói đến thị trường sơ cấp,
không thể không nói đến vai trò của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng
thương mại đảm nhiệm vai trò trong việc bảo lãnh phát hành chứng khoán cho đơn vị
phát hành.
Thị trường thứ cấp: Là nơi thu hút các nhà đầu tư mua bán lại chứng khoán đó, từ
đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán được giao dịch. Ở Việt Nam,
thị trường này hoạt động khá trầm lắng, kém sôi động, tình thanh khoản của thị
trường cũng không cao. Tại đây thì việc buôn bán các công cụ tài chính hết sức linh
hoạt và biến động một cách liên tục
• Dựa vào các hình thức tổ chức thị trường
Thị trường tập trung: còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán
Thị trường phi tập trung (OTC): Được tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao
dịch cố định nào mà chỉ dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế cạnh tranh và
thương lượng giữa các công ty chứng khoán với nhau thông qua một sự trợ giúp,
quyết định nhiều đến hiệu quả hoạt động.
• Dựa vào hàng hóa trên thị trường:
 Thị trường cổ phiếu:
Muốn chọn được cách tốt nhất thì nhà đầu tư trước hết phải tìm được thông tin cơ
bản về các công cụ tài chính mà họ đang xem xét. Trong thị trường chứng khoán thì

cổ phiếu là công cụ tài chính thường được sử dụng nhất, thường được buôn bán nhiều
nhất do tính đại chúng và lượng thông tin nhiều, được phổ biến rộng rãi. Thị trường
chứng khoán Việt Nam mặc dù còn non trẻ nhưng cũng nhờ đó giúp phần lớn trong
sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất
cao và được coi là thị trường đầy tiềm năng. Trên thị trường không chính thức, các
hoạt động mua bán cổ phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ phiếu được
giao dịch khá thường xuyên, mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
và được khích lệ. Làn song tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần.
Vấn đề tăng cường nội lực tài chính. Sức mạnh từ nội lực sẽ là nguồn gốc để tăng
trưởng một cách bền vững chứ không dựa vào nguồn lực từ bên ngoài. Quá trình
nhảy vào của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường vốn ở Việt Nam. Tăng khả
năng huy động vốn từ đầu tư gián tiếp của nước ngoài thông qua thị trường chứng
khoán. Cổ phiếu là giấy chứng nhận cấp cho cổ đông để chứng nhận số cổ phần mà
cổ đông đó đã mua ở một Công ty cổ phần, chứng thực về việc đóng góp vào Công ty
cổ phần, đem lại cho người chủ của nó quyền chiếm hữu một phần lợi nhuận dưới
hình thức lợi tức cổ phần và được quyền tham gia quản lý công ty. Theo Luật Chứng
Khoán Việt Nam, cổ phiếu là lọai chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.
Trang 8


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
 Đặc điểm của cổ phiếu: là có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy
nhiên tính thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Cổ phiếu là chứng khoán vốn do đó không có kỳ hạn và không hoàn vốn.
Cổ tức không được xác định trước mà phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của tổ
chức phát hành (công ty có cổ phiếu niêm yết). Nếu tổ chức phát hành hoạt động kinh
doanh có hiệu quả, trả cổ tức cao, cổ phiếu của công ty sẽ thu hút nhà đầu tư và cổ
phiếu thực sự dễ mua bán trên thị trường. Ngược lại nếu công ty làm ăn kém hiệu quả

không trả cổ tức hoặc cổ tức thấp, cổ phiếu của công ty sẽ giảm giá và khó bán.
Cổ phiếu có mối quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán: Thị trường cổ
phiếu cũng như các loại thị trường khác đều chịu sự chi phối của qui luật cung cầu.
Giá cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào chất lượng công ty mà còn phụ
thuộc rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt nhưng thị
trường đang bão hòa nguồn cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng khó tăng giá.
Ngược lại khi thị trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ phiếu chất lượng
kém hơn cũng có thể bán dễ dàng.
Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu như tính
thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành tiền mặt khi cần
thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được nhiều hoạt động như
thừa kế, tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình.
Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy nhiên cổ phiếu
không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ
phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu
Cổ phiếu có tính rủi ro cao phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát triển của
Công ty cổ phần. Giá trị cổ phiếu luôn biến động theo các yếu tố này.
 Phân loại cổ phiếu
Một Công ty cổ phần có thể phát hành 2 loại cổ phiếu:
Cổ phiếu thường: Giấy chứng nhận cổ phần, thể hiện quyền lợi sở hữu của cổ đông
trong công ty, quyền sở hữu được bỏ phiếu của công ty và những cổ phiếu này vĩnh
viễn tồn tại cùng với những quãng đời hoạt động của công ty.
Đặc điểm của cổ phiếu thường là không có kỳ hạn và không hoàn vốn. Cổ tức phụ
thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh và chính sách chia cổ tức trong từng thời kỳ.
Cổ đông thường là người cuối cùng được hưởng giá trị còn lại của tài sản thanh lý khi
công ty phá sản. Giá cả biến động.
Trách nhi ệm và quyền lợi của cổ đông: Về trách nhiệm phần vốn góp xem như
góp vĩnh viễn, không được rút lại. Cổ đông phổ thong chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn
theo phần vốn góp.Về quyền lợi: Quyền có thu nhập: cổ đông thường được hưởng
phần lợi nhuận tương ứng với số cổ phần sở hữu gọi là cổ tức. Quyền được chia tài

sản thanh lý: trường hợp công ty bị giải thể, cổ đông thường cũng được chia phần
những giá trị tài sản thanh lý. Quyền bỏ phiếu: Cổ đông thường có quyền bỏ phiếu
Trang 9


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
bầu và ứng cử vào các chức vụ quản lý trong công ty, có quyền tham gia đại hội cổ
đông. Quyền mua cổ phiếu mới: Cổ đông thường có quyền được mua trước cổ phiếu
mới khi công ty phát hành thêm để tăng vốn. ¬







 Các giá trị của cổ phiếu:
Mệnh giá (Parvalue): là giá trị ghi trên giấy chứng nhận cổ phiếu.
Mệnh giá cổ phiếu mới phát hành là tỷ lệ giữa VĐL của công ty cổ phần/ Tổng số cổ
phần phát hành.
Thư giá (Book value): là giá cổ phần ghi trên sổ sách kế tóan, phản ánh tình trạng vốn
cổ phần của công ty ở một thời điểm nhất định.
Giá trị sổ sách mỗi cổ phần là tỷ lệ giữa vốn cổ phần/số cổ phần thường đang lưu
hành (Vốn CP = Tổng TS Nợ Cổ phần ưu đãi)
Giá trị nội tại (Intrinsic value): là giá trị thực của cổ phiếu ở thời điểm hiện tại, căn cứ
tính toán: + Cổ tức công ty. + Kỳ vọng phát triển công ty. + Lãi suất thị trường.
Thị giá (market value): là giá cả cổ phiếu trên thị trường tại một thời điểm nhất định.
Tùy theo quan hệ cung cầu mà thị giá có thể thấp hơn, cao hơn hoặc bằng giá trị thực
của cổ phiếu.


Trang 10


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
Cổ tức là tiền chia lời cho cổ đông trên mỗi cổ phiếu thường, căn cứ vào kết quả có
thu nhập từ họat động SXKD của công ty. Cổ tức thường được trả sau khi đã trả cổ
tức cố định cho cổ phiếu ưu đãi. Cổ tức được công bố theo năm và trả theo Quý. Các
chỉ tiêu đánh giá chính sách cổ tức:
Chính sách chia cổ tức của công ty phụ thuộc vào:
-Kết quả họat động SXKD của công ty trong năm, căn cứ là thu nhập ròng của
công ty sau khi trừ lãi và thuế.
-Số cổ phiếu ưu đãi chiếm trong tổng số vốn cổ phần.
-Chính sách tài chính trong năm tới.
-Hạn mức của quỹ tích lũy dành cho đầu tư.
-Giá trị thị trường của cổ phiếu công ty.
Lợi tức và rủi ro:
Về phần lợi tức của cổ phiếu
-Cổ tức: Phụ thuộc vào KQKD và chính sách chia cổ tức của công ty và công ty có
thể trả bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu
-Lợi tức do chênh lệch giá
Về phần rủi ro của cổ phiếu:
-Rủi ro hệ thống:
-Rủi ro thị trường: xuất hiện do phản ứng của NĐT đối với sự kiện hữu hình hay
vô hình.
-Rủi ro lãi suất: xuất hiện do sự thay đổi trong lãi s uất trái phiếu Chính phủ tác
động đến toàn bộ hệ thống chứng khoán
-Rủi ro sức mua: tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư
-Rủi ro không hệ thống: khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng dẫn đến sự thay đổi

trong thu nhập từ cổ phiếu công ty gây nên sự không chắc chắn trong khả năng thanh
toán của công ty.
Các nhân tố ảnh hưởng giá cổ phiếu:
-Nhân tố kinh tế
-Mức thu nhập DN
-Lãi suất thị trường
-Xu hướng KD
-Nhân tố phi kinh tế: thay đổi điều kiện chính trị, cơ cấu quản lý hành chính, điều
kiện tự nhiên, điều kiện văn hóa…
-Nhân tố thị trường:
-Biến động thị trường
-Tác động quan hệ cung – cầu
-Nhân tố khác: yếu tố tâm lý đầu tư theo phong trào, hành vi tiêu cực trên TTCK

Trang 11


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
Cổ phiếu ưu đãi: Thể hiện quyền lợi sở hữu trong một công ty, tuy nhiên những cổ
đông nắm loại cổ phiếu này được hưởng một số ưu đãi hơn so với những cô đông
thường
Đặc điểm: giống cổ phiếu thường
Cũng là chứng khoán vốn, không kỳ hạn, không hoàn vốn.
Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi cũng là cổ đông đồng sở hữu của công ty.
Đặc điểm giống trái phiếu
Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được ấn định một tỷ lệ lãi cố định tính trên mệnh giá.
Phân loại:
-Cổ phiếu ưu đãi có lũy kế lãi (cumulative preferred stocks): Trường hợp công ty
làm ăn không có lợi nhuận để trả cổ tức, thì phần còn lại thiếu năm nay sẽ được tích

lũy sang năm sau hay vài năm sau khi công ty có đủ lợi nhuận để trả.
-Cổ phiếu ưu đãi không có lũy kế lãi: Trường hợp công ty làm ăn không có lợi
nhuận để trả cổ tức, thì khoản cổ tức đó sẽ bị mất luôn. Qua kỳ hoạt động tiếp theo,
dù công ty làm ăn có hiệu quả, có lời cao khoản cổ tức chưa chi trả của kỳ trước cũng
không được truy lĩnh chỉ chi trả khoản cổ tức của kỳ hiện hành.
-Cổ phiếu ưu đãi dự phần (participating preferred stocks) Người chủ sở hữu loại cổ
phiếu này ngoài việc nhận cổ tức đã công bố có thể nhận thêm khoản cổ tức đặc biệt,
nếu cổ tức của cổ phiếu thường vượt quá một lượng tiền nhất định.
-Cổ phiếu ưu đãi không dự phần (participating preferred stocks) Người chủ sở hữu
không được hưởng thêm phần lợi tức nào vào những năm công ty làm ăn phát đạt
vượt mức.
Phát hành cổ phiếu : Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phiếu lần đầu tiên của
công ty cổ phần trên thị trường sơ cấp.
Phân loại phát hành cổ phiếu:
-Căn cứ vào đợt phát hành: phát hành lần đầu và phát hành bổ sung.
-Căn cứ vào tính chất đợt phát hành: phát hành trực tiếp hoặc gián tiếp
-Căn cứ vào phương thức phát hành: phát hành chào bán toàn phần và phát hành
chào bán từng phần.
-Căn cứ vào phạm vi phân phối: phát hành nội bộ (riêng lẻ).
-Phát hành ra công chúng: Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) và phát hành cổ
phiếu bổ sung ra công chúng.
Các phương thức phát hành cổ phiếu: có 2 phương thức phát hành cổ phiếu trên thị
trường sơ cấp bao gồm
• Phát hành riêng lẻ: là việc công ty phát hành chào bán cổ phiếu của mình trong
phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tố chức có ý
định nắm giữ cổ phiếu một cách lâu dài) công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí…với những
hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công chúng.
• Phát hành cổ phiếu ra công chúng: là việc phát hành trong đó cổ phiếu có thể
chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư
Trang 12



Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát
hành phải đạt một mức nhất định. Có 2 phương thức phát hành cổ phiếu ra công
chúng:
Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán
rộng rãi cho công chúng đầu tư. Bao gồm:
-IPO sơ cấp: cổ phần được bán đầu tiên ra công chúng nhằm tăng vốn.
-IPO thứ cấp: cổ phần được bán từ số cổ phần hiện hữu.
Phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty ra công chúng
Tổng quan về thị trường cổ phiếu
Khái niệm: Thị trường cổ phiếu là thị trường mà hàng hóa được giao dịch trao đổi,
mua bán tại đó là các cổ phiếu
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường cổ phiếu: Lịch sử hình thành và
phát triển của thị trường cổ phiếu gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của thị
trường chứng khoán. Những dấu hiệu của một thị trường chứng khoán đã xuất hiện
ngay từ thời Trung cổ xa xưa. Vào khoảng thế kỷ thứ XV, ở các thành phố lớn của
các nước phương Tây, trong cácc phiên chợ hay hội chợ, các thương gia thường gặp
gỡ tiếp xúc với nhau để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hóa. Đặc điểm của hoạt
động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua
bán mà không có sự xuất hiện của bất kỳ hàng hóa, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ XV,
“khu chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước
xác định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần dần trở thành các quy
tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia. Năm 1453, ở thành phố
Bruges (Bỉ), buổi họp đầu tiên đã diễn ra tại một lữ quán của gia đình Vanber. Trước
lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình 3 túi da tượng trưng cho 3 loại giao dịch: giao dịch
hàng hóa, giao dịch ngoại tệ và giao dịch chứng khoán động sản. Vào năm 1457,
thành phố ở Burges (Bỉ) mất đi sự phồn vịnh do eo biển Even bị lấp cát nên mậu dịch

thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers (Bỉ).
Ở đây, thị trường phát triển rất nhanh chóng, các thị trường như vậy cũng được
thành lập ở Anh, Pháp, Đức, Mỹ. Sau một thời gian hoạt động, thị trường không
chứng tỏ khả năng đáp ứng được yếu cầu của 3 loại giao dịch khác nhau nên đã phân
ra thành nhiều thị trường khác nhau: thị trường hàng hóa, thị trường hối đoái, trị
trường chứng khoán,…với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch
của người tham gia trong đó. Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng
với thị trường hàng hóa và thị trường hối đoái. Quá trình phát triển của thị trường
chứng khoán đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Thời kỳ khủng hoảng nhất là vào
năm 1875 – 1913, thị trường chứng khoán phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng
của nền kinh tế. Nhưng đến ngày 29/10/1929, ngày được gọi là “ngày thứ năm đen
tối”, đây là ngày mở đầu của cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán New York,
và sau đó lan rộng ra các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản. Sau thế
chiến thứ hai, các thị trường chứng khoán phục hồi, phát triển mạnh. Nhưng rồi cuộc
khủng hoảng tài chính năm 1987, một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán
Trang 13


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
thế giới suy sụp, kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất lớn và nặng nề hơn cuộc khủng
hoảng năm 1929, nhưng chỉ 2 năm sau, thị trường chứng khoán thế giới lại đi vào ổn
định, phát triển và trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời
sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường.
Vai trò của thị trường cổ phiếu. Thị trường cổ phiếu là một định chế tài chính tất
yếu của nền kinh tế thị trường phát triển. Thị trường cổ phiếu là chiếc cầu vô hình nối
liền giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế. Một thị trường cổ phiếu lành mạnh và
hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế, tạo
sự lành mạnh trong việc thu hút và phân phối vốn trong nền kinh tế một cách có hiệu
quả nhất.

Thị trường cổ phiếu góp phần thúc đẩy sự phát tri ển nhanh chóng nền kinh tế:
Chức năng cơ bản của thị trường cổ phiếu là công cụ huy động vốn đầu tư cho nền
kinh tế và tăng tiết kiệm quốc gia thông qua việc phát hành và luân chuyển cổ phiếu
giá. Việc mua đi bán lại cổ phiếu trên thị trường cổ phiếu đã tạo điều kiện di chuyển
vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, tạo điều kiện chuyển hướng đầu tư từ ngành này
sang ngành khác, từ đó góp phần điều hòa vốn giữa các ngành kinh tế, phá vỡ “tính
ỳ” trong đầu tư sản xuất, tạo ra những động năng cho sản xuất kinh doanh, góp phần
tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều của nền kinh tế. Thị trường cổ phiếu là một
định chế rất cơ bản trong hệ thống thị trường tài chính, là chất xúc tác quan trọng
trong huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy hoạt động kinh tế.
Thị trường cổ phiếu góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn thông qua vi
ệc buộc các công ty phát hành cổ phiếu ra công chúng theo một tỷ lệ nhất định. Điều
này giúp giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế vào một nhóm nhỏ, song vẫn tập
trung cho phát triển kinh tế. Từ đó tạo sự cạnh tranh công bằng hơn, góp phần tăng
tính hiệu quả và góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Bên cạnh đó, giúp cho
việc tăng cường tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường sự giám sát của xã hội
đối với hoạt động của công ty.
Thị trường cổ phiếu tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài Việc
đầu tư vốn từ nước ngoài có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó
có đầu tư vốn thông qua thị trường cổ phiếu. Đây là hình thức đầu tư dễ dàng và hữu
hiệu. Với nguyên tắc công khai, thị trường cổ phiếu là nơi mà các nhà đầu tư có thể
theo dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp
trong nước. Hơn nữa, thị trường cổ phiếu thu hút vốn thông qua mua bán cổ phiếu, từ
đó tạo môi tường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Thị trường cổ phiếu là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là phong vũ biểu
của nền kinh tế.

Trang 14



Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
 Thị trường trái phiếu: Thị trường trái phiếu của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay mới chỉ là giai đoạn đầu với sự tồn tại sơ khai của trái phiếu chính phủ. Phát
hành trái phiếu chính quyền địa phương cũng có nhiều khởi sắc. Khái niệm về trái
phiếu: Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành
trái phiếu (người vay tiền) phải có nghĩa vụ trả lãi trái phiếu và hoàn trả vốn gốc của
trái phiếu cho chủ sở hữu của trái phiếu (trái chủ) khi đáo hạn.
• Về khái niệm trái phiếu
Các khái niệm đặc trưng của trái phiếu:
- Mệnh giá: hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi trên trái
phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định
số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người
phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn. Ở Việt Nam, mệnh giá của trái phiếu
được ấn định là 100.000 đ và các mệnh giá khác là bội số của 100.000 đ. Mệnh giá
của trái phiếu được xác định phụ thuộc vào số tiền huy động trong kỳ và số trái phiếu
phát hành. MG: Mệnh giá trái phiếu MG = VHD/ SPH VHD: Số vốn huy động SPH:
Số trái phiếu phát hành
- Lãi suất định kỳ (coupon): Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu
hoặc người phát hành công bố. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với
mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu..
- Thời hạn: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn
trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn có thời gian từ
1 năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở lên.
- Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái
phiếu. Lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái
phiếu thường được thực hiện vào một ngày xác định hoặc theo định kỳ. Thông
thường có 2 phương thức trả lãi: 6 tháng/lần và 1 năm/lần.
- Giá phát hành: Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông
thường giá phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo

tình hình của thị trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách
thích hợp. Có thể phân biệt 3 trường hợp:
• Giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá);
• Giá phát hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu);
• Giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng). Dù trái phiếu được bán với giá nào
(ngang giá, giá chiết khấu hay giá gia tăng), thì lợi tức luôn được xác định theo mệnh
giá của trái phiếu và khi đáo hạn, người có trái phiếu sẽ được thanh toán theo mệnh
giá của trái phiếu.

Trang 15


Trường đại học Ngoại thương
Các đặc điểm của trái phiếu:

Tiểu luận Tài chính tiến tệ.

- Trái phiếu là chứng khoán nợ hay một loại giấy nợ, thể hiện các quyền lợi của
chủ nợ hay trái chủ đối với tổ chức phát hành. Người mua trái phiếu chỉ là người cho
chủ thể phát hành vay tiền và là chủ nợ của chủ thể phát hành trái phiếu. Khác với
người mua cổ phiếu là người Chủ sở hữu Công ty
- Chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ có Công ty, mà còn có Chính phủ Trung
ương và Chính phủ địa phương.
- Thu nhập của trái phiếu là tiền lãi, trái chủ được hưởng lãi cố định và không phụ
thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.
- Tiền lãi trả cho trái chủ được tính vào chi phí tài chính của tổ chức phát hành, do
đó được khấu trự khi tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp.
- Người nắm giữ trái phiếu là chủ nợ, có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam
kết về giá trị và thời hạn nhưng không có quyền tham gia vào các vấn đề của bên phát
hành.

- Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trái
chủ được ưu tiên trả nợ trước cổ đông. Với những đặc điểm trên, trái phiếu có tính ổn
định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Vì vậy, trái phiếu là loại chứng khoán được
các nhà đầu tư ưa chuộng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả và lãi suất của trái phiếu:
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trái phiếu:
- Biến động lãi suất thị trường: Lãi suất thị trường là một yếu tố quan trọng trong
việc định giá chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng. Nếu lãi suất tăng thì lợi
tức của trái phiếu cũng sẽ thay đổi và ảnh hưởng đến giá trái phiếu.
- Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất: Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất biểu hiện vận động lãi
suất thị trường của thị trường vốn của một quốc gia. Trên thị trường, trái phiếu rất đa
dạng về lãi suất và kỳ hạn, vì vậy, căn cứ vào cấu trúc kỳ hạn của lãi suất mà giá và
kỳ hạn của trái phiếu có tương quan thuận chiều hoặc nghịch chiều với nhau.
- Quyền mua lại, bán lại trái phiếu trước hạn: trái phiếu kèm theo quyền mua lại
thường có lợi cho người phát hành và bất lợi đối với người đầu tư nên có thể có lãi
suất cao hơn những trái phiếu khác có cùng thời hạn. Và ngược lại, trái phiếu kèm
theo quyền bán lại tạo cho trái chủ quyền chủ động hơn, vì vậy loại trái phiếu này có
lãi suất hấp dẫn và thấp hơn so với các loại trái phiếu khác cùng thời hạn.
- Khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu: trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ
phiếu trong tương lai sẽ có giá trị cao hơn so với các loại trái phiếu không có khả
năng chuyển đổi.

Trang 16


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
- Cung cầu thị trường: trái phiếu cũng bị ảnh hưởng bởi cung và cầu thị trường.
Nếu loại bỏ các yếu tố khác thì cung lớn hơn cầu giá trái phiếu sẽ giảm và ngược lại.
- Lạm phát: nếu lạm phát dự kiến trong tương lai có khả năng tăng thì tiền lãi theo

lãi suất danh nghĩa sẽ bị giảm. Do đó giá trái phiếu sẽ giảm và ngược lại.
Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất trái phiếu:
- Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng: Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào
chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt
ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
- Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành: Cấu trúc rủi ro của
lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
- Thời gian đáo hạn của trái phiếu: Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn
chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Phân loại trái phiếu:
Phân loại theo hình thức trái phiếu:
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng chỉ cũng
như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và
khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi.
Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại
khoản cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ, trên
chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện
cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn
bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn
không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ
của chủ sở hữu trên máy tính.
Phân loại theo đối tượng phát hành trái phiếu:
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm mục đích
bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều
tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và
cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái
phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các
công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho

những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ tầng hay
công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc
chính quyền địa phương phát hành.
Trang 17


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
- Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn.
Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
 Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản thế
chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu
này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ
có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể.
 Trái phiếu không bảo đảm: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo bằng tài
sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá sản,
những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ
có bảo đảm, nhưng trước cổ đông. Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi
cho phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của
công ty phát hành. Tuỳ theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành
vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể xác định.
 Trái phiếu có thể mua lại: cho phép người phát hành mua lại chứng khoán
trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát hành
song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất
cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
 Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được quyền bán
lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền chủ
động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu
này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
 Trái phiếu có thể chuyển đổi: cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển đổi

trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người chủ nợ trở
thành người chủ sở hữu của công ty.
Phân loại theo lợi tức của trái phiếu:
- Trái phiếu có lãi suất cố định: Là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo
một tỷ lệ phần trăm (%) cố định tính theo mệnh giá.
- Trái phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi): Là loại trái phiếu mà lợi tức được
trả trong các kỳ có sự khác nhau và được tính theo một lãi suất có sự biến đổi theo
một lãi suất tham chiếu.
- Trái phiếu có lãi suất bằng không: Là loại trái phiếu mà người mua không nhận
được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn
trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn.
• Về khái niệm thị trường trái phiếu (TTTP):
Là nơi giao dịch mua bán các loại trái phiếu đã phát hành, các loại trái phiếu này
do Chính phủ hoặc Chính quyền địa phương và các công ty phát hành. TTTP đóng
vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, đối với các doanh nghiệp cũng như các nhà
đầu tư. Các chủ thể tham gia thị trường gồm có:
- Chính phủ, chính quyền địa phương.
Trang 18


Trường đại học Ngoại thương
- Ngân hàng.

Tiểu luận Tài chính tiến tệ.

- Tổ chức tài chính: công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư.
- Doanh nghiệp.
- Cá nhân, hộ gia đình
Đặc điểm của thị trường trái phiếu:
- TTTP là nơi mua bán, trao đổi và giao dịch các công cụ nợ trung và dài hạn. Tại

thị trường này nguồn vốn huy động có chi phí rẻ hơn thị trường cổ phiếu. Trái phiếu
có độ an toàn khá cao. TTTP thường gắn với thị trường giao dịch do trái phiếu
thường có thời hạn xác định. Tuy nhiên quy mô của thị trường là khá lớn song hàng
hoá trên thị trường thường thay đổi liên tục. TP mới phát hành thay thế cho trái phiếu
đáo hạn và quá trình đó diễn ra liên tục.
- Thị trường trái phiếu thường có quy mô rất lớn gấp nhiều lần thị trường cổ phiếu,
thị trường trái phiếu thường xuyên giao dịch với khối lượng và giá trị lớn. Đây là đặc
điểm quan trọng khi các thành viên tham gia thị trường chủ yếu là các trung gian tài
chính. Do đó thị trường thường được tổ chức theo mô hình OTC.
- Phương thức giao dịch chủ yếu là thỏa thuận, cách thức và thời gian giao dịch rất
linh hoạt.
Phân loại thị trường trái phiếu:
Thị trường trái phiếu bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp là thị trường thực hiện giao dịch, mua bán các loại trái phiếu do
Chính phủ hoặc công ty phát hành. Thị trư ờng thực hiện giao dịch, mua bán trái
phiếu mới phát hành gọi là thị trường sơ cấp. Thị trư ờng thực hiện giao dịch, mu a b
án trái phiếu đã phát hành gọi là thị trường thứ cấp. Mục đích của thị trư ờng sơ cấp
là phục vụ cho nhu cầu huy động vốn dài hạn cho Chính phủ hoặc công ty trong khi
m ục đích của thị trường thứ cấp là cung cấp khả năng t hanh khoản cho trái phiếu đã
đư ợc phát hành trên thị trường sơ cấp. Mặc dù không trự c t iếp huy động vốn dài
hạn nhưng thị trường thứ cấp đóng vai trò rất quan trọng. Không có thị trường thứ
cấp phát triển, thị trường sơ cấp khó thu hút được nhà đ ầu tư vì nhà đầu tư lo ngại
không thể chuy ển đổi trái phiếu thành tiền mặt khi cần thiết.Thị trư ờng sơ cấp là thị
trư ờng mua bán các trái phiếu mới phát hành. Trên thị trư ờng này vốn từ nhà đ ầu tư
sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu mua các trái phiếu m ới
phát hành. Mục đích của thị trường sơ cấp là phục vụ cho nhu cầu huy động vốn dài
hạn cho Chính phủ hoặc công ty.
Đặc điểm:
+ Thị trư ờng sơ cấp là nơi duy nhất mà các trái phiếu đem lại vốn cho ngư ời phát
hành. Là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành và đồng thời cũng tạo ra hàng hóa

Trang 19


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
cho thị trường giao dịch. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, thị trường sơ cấp làm
tăng vốn đầu tư.
+ Những người bán trái phiếu trên thị trường sơ cấp đư ợc xác định thư ờng là Kho
bạc, N gân hàng Nhà nước, công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành...
+ Thị trư ờng sơ cấp chỉ được tổ chứ c một lần cho một loại chứng khoán nhất
định, trong thời gian hạn định.
Vai trò:
+ Trái phiếu hóa các n guồn vốn cần huy động, vốn của công ty được huy động
qua việc phát hành chứng khoán
+ Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi
tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuy ển t iền sang dạng vốn dài hạn.
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu đã đư ợc phát hành trên thị
trường sơ cấp. Là thị trư ờng chuyển nhượng quyền sở hữ u trái phiếu. Thị trường thứ
cấp đảm b ảo t ính thanh khoản cho các trái phiếu đã phát hành. Mục đích của thị trư
ờng t hứ cấp là cung cấp khả năng thanh khoản cho trái phiếu đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp.
Đặc điểm:
+ Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán trái phiếu thuộc về
các nhà đầu tư và các nh à kinh doanh trái phiếu chứ không th uộc v ề nhà phát hành.
Nói cách khác, các luồng vốn không chảy vào những người phát hành trái phiếu mà
vận chuyển giữ a những người đầu tư trái phiếu trên thị trường. Thị trường thứ cấp là
m ột bộ phận quan trọng của thị trường trái phiếu, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ
cấp.
+ Giao dịch trên thị trư ờng thứ cấp phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá trái
phiếu trên thị trư ờng thứ cấp do cung và cầu Quyết định.

+ Thị trư ờng thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trư ờng thứ cấp.
Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
- Thị trư ờng sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và p hát triển của thị
trường thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa trái phiếu trên thị trường thứ cấp.
Không có thị trường sơ cấp thì không thể có sự xuất hiện của thị trường thứ cấp. Thị
trường thứ cấp là một loại thị trư ờng đặc biệt, nó không thể ra đời chừng nào vẫn
chư a có một thị trường sơ cấp rộng rãi, vững chắc v ới nhiều loại trái phiếu đa dạng,
phong phú, hấp dẫn nhiều nhà đầu và công chúng đến bỏ vốn ra để đầu tư trái phiếu.
- Ngư ợc lại, thị trường thứ cấp đến lượt nó là động lực, là điều kiện cho sự phát
triển của t hị trư ờng sơ cấp, vì một khi trái phiếu đã được phát hành ra trên thị trư
ờng, nếu không có một thị trường thứ cấp để lư u hành, mua bán, trao đổi t ạo ra tính
Trang 20


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
thanh khoản cho trái phiếu thì thật khó có thể thuyết phục nhà đầu tư bỏ t iền ra mua
trái phiếu.
- Chính việc mua bán giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp làm cho lưu động
hóa vốn đầu tư, các nhà đầu tư có thể chuyển từ trái phiếu thành tiền m ặt. - Vốn khả
dụng thanh khoản cao của trái phiếu mà tính chất năng động của thị trường thứ cấp đã
hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền ra m ua trái phiếu. Điều này chính là điều kiện cơ bản
để các nhà phát hành trái phiếu có t hể bán đư ợc trái phiếu trên thị trường sơ cấp và
huy động được nguồn vốn lớn theo nhu cầu.
2.2, Thị trường cho vay thế chấp( Mortgage market): Vay thế chấp là khoản vay
dài hạn được đảm bảo bằng bất động sản.
Đặc điểm của khoản vay thế chấp:
Lãi suất của khoản vay được quyết định bởi 3 yếu tố: thứ nhất là lãi suất dài hạn
trên thị trường, thứ hai là kỳ hạn của khoản vay và thứ ba là số điểm chiết khấu đã

trả.
Là kỳ hạn vay dài
Yêu cầu tài sản bảo đảm, thường là bất động sản được hình thành từ tiền vay.
Thanh toán trước một phần(down payments) đề nhận được một khoản vay thế
chấp.
Có một loại thi trường cho vay thế chấp khác xuất hiện sau cuộc Đại suy thoái thì
chính phủ Mỹ đã thành lập một vài tổ chức để mua các khoản vay thế chấp. Hiệp hội
vay thế chấp liên bang quốc gia (Fannie Mae) được thành lập để mua các khoản vay
thế chấp của các quỹ tiết kiệm để các quỹ này không cho vay thêm nữa. Tổ chức này
sẽ tài trợ các vụ mua bán đó bằng cách bán trái phiếu ra ngoài công chúng. Từ đó thị
trường cho vay thế chấp thứ cấp ra đời.
Chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp: đó là việc phát hành các trái phiếu
được đảm bảo bằng các khoản vay thế chấp. Nguyên nhân của việc phát hành là do
các khoản vay thế chấp thường quá nhỏ để là công cụ bán buôn, thứ hai là việc bán
khoản vay thế chấp trên thị trường thứ cấp đó là không chuẩn hóa. Thường thì các
khoản vay thế chấp có dịch vụ rất tốn kém và không biết rõ về rủi ro thanh toán.
2.3, Thị trường tín dụng thuê mua( thuê tài chính): Tín dụng thuê mua hay còn
được gọi là hoạt động cho thuê tài chính hoặc có thể được gọi là thuê vốn. Đây là
hình thức tín dụng trung và dài hạn, trong đó người cho thuê cam kết mua tài sản,
thiết bị theo yêu cầu của người thuê và là người nắm giữ quyền sở hữu tài sản đó.
Người thuê là người sử dụng tài sản và phải thanh toán tiền thuê cho người cho thuê
tài sản trong một khoảng thời gian đã được thỏa thuận trước. Trong suốt thời gian
thuê, người thuê có thể chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê không được
quyền hủy bỏ hợp đồng thuê trước kỳ hạn. Khi kết thúc hợp đồng, người thuê có thể
chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Trang 21


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.

Thông thường hoạt động tín dụng thuê mua được cung cấp bởi các ngân hàng lớn
hoặc các công ty tài chính, cho nên thị trường tín dụng thuê mua là một nơi hoạt động
của ngan hàng và công ty tài chính.
Phân loại hợp đồng tín dụng thuê mua: Tùy theo tính chất của giao dịch thuê mua
có các loại hợp đồng sau:
Hợp đồng cho thuê liên kết là hợp đồng gồm nhiều bên bán tài trợ cho một người
thuê. Sự liên kết này có thể xảy ra theo chiều ngang hoặc chiều dọc tùy theo tính chất
của loại tài sản hoặc khả năng tài chính của các nhà tài trợ.
Hợp đồng cho thuê bắc cầu là hình thức cho thuê mà người cho thuê đi vay để mua
tài sản cho thuê một hay nhóm người nào đó.
Hợp đồng bán và tái thuê là một thỏa thuận tài trợ tín dụng trong đó công ty
A( người thuê) bán một tài sản của chính họ cho công ty B( người cho thuê), đồng
thời sau đó một hợp đồng thuê mua được soạn thảo với một nội dung công ty B đồng
ý cho công ty A thuê lại chính tài sản mà họ vừa bán.
Hợp đồng thuê mua trả góp là một hình thức thuê mua trả góp tài sản trong một
khoảng thời gian từ 1 đến 5 năm, được áp dụng đối với trường hợp người mua có thế
chấp và cả không có thế chấp. Hình thức tài trợ này có nguồn gốc từ những biện pháp
khuyến mại của các công ty chế tạo lớn nhằm đẩy mạnh việc bán sản phẩm của họ.
Trong giai đoạn đầu, người bán thường giao quyền sở hữu đối với thiết bị, thay vì
nhận vật thế chấp của người mua và hình thức bán trả góp trở thành khá tương đồng
với thuê mua tài chính.
Tài sản trong thuê tài chính phổ biến là bất động sản, có thời hạn sử dụng gồm:
máy móc thiêt bị, phương tiện đơn chiếc hoạt động độc lập; dây chuyên sản xuất;
thiết bị lẻ trong dây chuyền sản xuất đồng bộ; thiết bị văn phòng, thiết bị điện tử điện
toán, viễn thông, y tế và các hoạt động khác.

Trang 22


Trường đại học Ngoại thương

Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
III, Vai trò thị trường vốn
Thị trường vốn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế chủ yếu thể hiện ở việc
khuyến khích đầu tư bằng cách cung cấp phương tiện và cách thức để người mua và
người bán thực hiện giao dịch. Các khoản đầu tư này sẽ cho phép doanh nghiệp huy
đông được vốn để phát triển kinh doanh. Việc huy động vốn của các doanh nghiệp
được thực hiện trên thị trường sơ cấp, còn thị trường thứ cấp chủ yếu cung cấp tính
thanh khoản cho các loại chứng khoán.
Thị trường vốn cũng khuyến khích đầu tư thông qua một kênh khác. Thông qua
các qui định bảo vệ các nhà đầu tư và khuyến khích áp dụng công nghệ hiện đại, thị
trường giúp các nhà đầu tư giao dịch chứng khoán hiệu quả và đảm bảo rằng họ được
đối xử công bằng và có được mức lợi tức phù hợp với rủi ro mà họ phai gánh chịu.
Sự phát triển của thị trường vốn , cùng với thị trường tài chính nói chung, đóng vai
trò quan trọng trong hệ thống tài chính và tăng trưởng kinh tế.
Thứ nhất, thị trường vốn cung cấp thêm một kênh đầu tư cho các nhà tiết kiệm
( bao gồm cả các nhân và tổ chức, doanh nghiệp hoặc các trung gian tài chính). Bên
cạnh việc gửi tiền tại các ngân hàng hoặc các tổ chức nhận tiền gửi, người tiết kiệm
có thể mua các loại chứng khoán (bao gồm cổ phiếu, trái phiếu các loại). Tất nhiên
đây là các khoản đầu tư rủi ro, tuy vậy, các nhà đầu tư có xu hướng chấp nhận rủi ro
khác nhau và sẵn sàng chấp nhập rủi ro với mực lợi tức phù hợp. Thị trường vốn sẽ
rất quan trọng đối với các nhà đầu tư khi mà các khoản đầu tư thay thế là tiền gửi tiết
kiệm hoặc tín phiếu kho bạc có lãi suất thấp. Do vậy, thị trường vốn sẽ thúc đẩy việc
tiết kiệm và huy động vốn. Nếu thị trường thứ cấp hoạt động tốt, các nhà đầu tư sẽ có
được khoản đầu tư có tính thanh khoản cao và tốt hơn so với viêc đầu tư vào vàng
hay bất động sản.
Một khía cạnh khác mà thị trường vốn có thể thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư là khả
năng chuyển đổi kỳ hạn các khoản đầu tư. Các công ty cần huy động vốn dài hạn để
mở rộng sản xuất, còn các nhà đầu tư thì cần có tính thanh khoản và các công cụ tài
chính có kỳ hạn khác nhau. Thị trường vốn có thể đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu
đối nghịch nhau này, và như vậy thúc đẩy việc tich lũy và huy động vốn nhiều hơn.

Thứ hai, thị trường vốn thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao
hiệu quả quản lý và kiểm soát công ty. Thị trường vốn thúc đẩy hiệu quả quản lý
thông qua việc thiết lập các sức ép từ bên ngoài đối với hoạt động của công ty. Nếu
như ban giám đốc công ty điều hành kém năng lực, họ sẽ bị thay thế bởi những nhóm
có năng lực hơn. Các công ty hoạt động yếu kém có thể bị phá sản hoặc bị thôn tính,
hoặc bị sáp nhập vào các công ty khác lớn mạnh hơn. Thêm vào đó, quyền lợi của
ban giám đốc trong các công ty được gắn với kết quả kinh doanh của công ty đồng
thời với biến động giá cổ phiếu trên thị trường. Ban giám đốc thường được quyền
mua cổ phiếu với giá ưu đãi. Do vậy, ban giám đốc công ty sẽ có động lực thúc đẩy
để làm việc tốt vì nêu công ty hoạt động tốt, giá cả phiếu trên thị trường tăng lên và
lợi ích của ban giám đốc cũng tăng lên.
Trang 23


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
Biến động giá cổ phiếu trên thị trường phản ánh các thông tin liên quan tới chất
lượng hoạt động, tiềm năng phát triển, mức độ khan hiếm và giá trị của cổ phiếu, do
vậy giúp cho các nhà đầu tư quyết định phân bổ vốn tới những nơi có khả năng sử
dụng vốn tốt nhất và tạo nên hiệu quả phân bổ nguồn lực.
Thị trường vốn cũng cung cấp khả năng san sẻ và quản lý rủi ro tốt. Thị trường vốn
cho phép các nhà đầu tư chia sẻ rủi ro của những dự án có mức độ rủi ro, lợi nhuận
cao và cho phép các dự án có lợi nhuận cao, rủi ro cao sẽ không được thực hiện và
như vậy sẽ không tạo thêm các giá trị mới cho nền kinh tế. Thị trường vốn do vậy
thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba, thị trường vốn là một kênh huy động vốn quan trọng của chính phủ. Thị
trường vốn cho phép chính phủ, các cơ quan của chính phủ phát hành các loại trái
phiếu để vay nợ nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách hoặc các hoạt động của chính
phủ. Thị trường vốn sẽ là một kênh để chính phủ vay nợ tài trợ cho thâm hụt ngân
sách, thay vì tài trợ thông qua vay nợ ngân hàng trung ương hoặc vay nợ từ nước

ngoài. Hoạt động của thị trường trái phiếu chính phủ cũng giúp cải thiện việc thực thi
chính sách tiền tệ thông qua việc đạt được các mục tiêu về kiểm soát tiền tệ hay kiểm
soát làm phát đồng thời cho phép thực hiện các công cụ gián tiếp của chính sách tiền
tệ. Sự tồn tại của thị trường vốn cho phép chính phủ có thể điều tiết được các chi phí
đầu tư cũng như chi thường xuyên để tránh các cú sốc về chi tiêu, đồng thời giảm chi
phí vay nợ của chính phủ và giảm các rủi ro khác liên quan tới vay nợ như rủi ro về
lãi suất, tỷ giá.
Thứ tư, thị trường vốn là một kênh thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ các nhà đầu tư
nước ngoài muốn đa dạng hóa danh mục đầu tư của họ. Nguồn vốn đầu tư từ nược
ngoài cho phép các công ty trong nước huy động vốn với chi phí rẻ hơn, đồng thời
làm tăng tính thanh khoản cho thị trường vốn trong nước.

Trang 24


Trường đại học Ngoại thương
Tiểu luận Tài chính tiến tệ.
Tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư tác động tới sự tăng trưởng kinh tế
Tăng
trưởng
kinh tế

Vốn đầu tư

Ở trên là bốn yếu tố cho thấy tầm quan trọng của thị trường vốn đối với nền kinh tế
được thừa nhận rộng rãi. Thị trường vốn hoạt động hiệu quả là yếu tố quan trọng thúc
đẩy quá trình công nghiệp hóa. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu cho phép nâng
cao việc huy động vốn từ bên ngoài, đồng thời cho phép thực hiện các dự án đầu tư
có mức sinh lợi cao, và như vậy sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này có ý nghĩa
quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách ở các nước đang phát triển, nghĩa là

các chương trình phát triển thị trường vốn phải nhận được sự ưu tiên trong chương
trình cải cách của chính phủ. Nghiên cứu của Atje và Jovanovic đối với một nhóm
hơn 40 nước trong các năm thập kỷ 1980 cho thấy có một mối liên hệ mạnh giữa giao
dịch trên thị trường chứng khoán với tăng trưởng kinh tế. Sử dụng mô hình của Atje
và Jovanovic, Murinde tìm thấy mối liên hệ tích cực giữa phát triển thị trường vốn
với tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á Thái bình dương. Gần đây hơn, một
nghiên cứu chuyên sâu của Levine và Zervos cho thấy thị trường chứng khoán đóng
góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó, các tác giả này không tìm thấy
bằng chứng tiêu cực của biến động thị trường chứng khoán hoặc sự hội nhập thị
trường chứng khoán tới tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu thực nghiệm khác cũng
cho thấy thị trường tài chính phát triển trong đó thị trường vốn có đóng góp tích cực
tới hiệu quả hoạt động của các công ty.
Một vấn đề tương đối quan trọng đối với các thị trường vốn ở các nước đang
chuyển đổi là tác động của việc tự do hóa việc kiểm soát vốn tới sự phát triển của thị
trường vốn. Thông thường, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép nắm giữ một
phần các loại chứng khoán trên thị trường , ví dụ như trường hợp cổ phiếu loại A và
B như trên thị trường chứng khoán Trung Quốc. Nghiên cứu của Levine và Zervos
cho thấy tự do hóa việc kiểm soát vốn có thể làm tăng cường sự phát triển của thị
trường vốn. Sự tự do hóa kiểm soát vốn sẽ dẫn tới một thị trường vốn có tính thanh
khoản tốt hơn, qui mô lớn hơn và cũng biến động nhiều hơn. Thêm vào đó, các nhà
nghiên cứu này cũng nhận thấy thị trường vốn lớn hơn và thanh khoản tốt hơn sẽ có
đóng góp tích cực tới tăng trưởng kinh tế dài hạn, do vậy họ ủng hộ việc tự do hóa
kiểm soát vốn.
Trang 25


×