Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý GIÁO dục đạo đức CHO học SINH TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG KIM LIÊN, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.16 KB, 123 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1.

3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2. Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường

14
14

trung học phổ thông
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý giáo dục đạo đức cho học

23

sinh Trường Trung học phổ thông Kim Liên, Hà Nội

26

Chương 2.

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG KIM LIÊN, HÀ
NỘI HIỆN NAY

2.1. Khái quát về Trường Trung học phổ thông Kim Liên, Hà Nội


2.2. Thực trạng giáo dục đạo đức và quản lý giáo dục đạo đức
cho học sinh Trường Trung học phổ thông Kim Liên, Hà Nội
2.3. Nguyên nhân ưu điểm và hạn chế trong giáo dục đạo đức

33
33
34

và quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh Trường Trung
học phổ thông Kim Liên, Hà Nội

55

Chương 3. YÊU CẦU, BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG KIM LIÊN, HÀ NỘI HIỆN NAY

59

3.1. Những yêu cầu trong xây dựng biện pháp quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh Trường Trung học phổ thông Kim
Liên, Hà Nội hiện nay
3.2. Những biện pháp cơ bản quản lý giáo dục đạo đức cho học

59

sinh Trường Trung học phổ thông Kim Liên, Hà Nội hiện nay
3.3. Khảo nghiệm sự cần thiết và mức độ khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC
MỞ ĐÂU

61
85
90
92
95

1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ
XI của Đảng đã chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
1


lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà còn diễn biến phức tạp” [8, tr.173]. Một trong những giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo được Đại hội chỉ ra là:
“nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng,
giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống” [8, tr.216]. Đây là
vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều kiện thế giới có
nhiều biến động phức tạp như hiện nay.
Sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu ngày càng
cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải tạo ra những con
người ngày càng phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú
về tinh thần và trong sáng về đạo đức. GDĐĐ cho học sinh THPT là một bộ
phận hữu cơ của quá trình giáo dục, có tính chất cốt lõi, nền tảng của công tác
giáo dục thế hệ trẻ, góp phần bồi dưỡng cho học sinh nhận thức về các giá trị
chuẩn mực đạo đức xã hội, định hướng cho các em những chuẩn mực, giá trị

đạo đức phù hợp với xã hội mới và truyền thống văn hóa của dân tộc, giúp
các em phát triển hài hòa về nhân cách và trở thành một công dân tốt. Muốn
nâng cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh THPT đòi hỏi phải thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp, trong đó quản lý tốt hoạt động GDĐĐ cho học sinh giữ
vai trò then chốt, góp phần thực hiện mục tiêu “đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [23, tr.8].
Trong những năm gần đây, công tác giáo dục, quản lý GDĐĐ cho học
sinh Trường THPT Kim Liên Hà Nội đã được cấp uỷ, BGH nhà trường quan
tâm và đạt được những chuyển biến tích cực. Nội dung, hình thức, PPGD,
quản lý GDĐĐ ngày càng được đổi mới và đi vào chiều sâu. Về cơ bản học
2


sinh đã có nhận thức, thái độ, hành vi đúng với các giá trị, chuẩn mực đạo
đức, tích cực tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống. Tuy nhiên, trên thực tế,
việc GDĐĐ cho học sinh trong quá trình dạy học - giáo dục của Nhà trường
còn chưa được chú trọng đúng mức. Một bộ phận học sinh có nhận thức thiên
lệch giữa học tập và rèn luyện, có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống,
mờ nhạt về lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân,
lập nghiệp; có những tiêu cực trong thi cử, chạy theo thành tích. Thêm vào
đó, sự du nhập văn hoá phẩm đồi truỵ thông qua các phương tiện như phim
ảnh, games, mạng Internet… làm ảnh hưởng đến những quan niệm về tình
bạn, tình yêu trong lứa tuổi thanh thiếu niên và học sinh, nhất là các em chưa
được trang bị và thiếu kiến thức về vấn đề này....
Thực trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện nhiệm
vụ dạy học - giáo dục ở Trường THPT Kim Liên, Hà Nội hiện nay. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do công tác giáo dục và quản lý

GDĐĐ cho học sinh của Nhà trường còn những hạn chế, bất cập; nhận thức
về quản lý GDĐĐ cho HS ở một bộ phận GV, CBQL giáo dục còn chưa đầy
đủ và thống nhất; Nhà trường còn chưa có những chương trình, nội dung
hướng dẫn quản lý, giảng dạy, GDĐĐ cụ thể cho học sinh. Bên cạnh đó, công
tác GDĐĐ còn chưa huy động được một cách rộng rãi các lực lượng xã hội
cùng tham gia với nhà trường. Ngoài ra, việc đánh giá kết quả GDĐĐ cho học
sinh còn đơn điệu, cứng nhắc, chưa thống nhất giữa các nhà trường phổ
thông.... Những hạn chế trên ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng GDĐĐ cho
học sinh và chất lượng dạy học - giáo dục ở Trường THPT Kim Liên, Hà Nội.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Quản lí giáo dục đạo đức cho
học sinh Trường Trung học Phổ thông Kim Liên, Hà Nội ” làm đề tài nghiên
cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

3


Đạo đức là một hình thức ý thức xã hội, có vai trò quan trọng trong bất
kỳ xã hội nào từ trước đến nay. Do đó, từ xa xưa con người đã rất quan tâm
nghiên cứu đạo đức, xem nó như động lực tinh thần để hoàn thiện nhân cách
con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Ở phương Tây, thời cổ đại, nhà triết học Socrate (469 – 399 TCN) cho
rằng cái gốc của đạo đức là tính thiện. Bản tính con người vốn thiện, nếu tính
thiện ấy được lan toả thì con người sẽ có hạnh phúc. Muốn xác định được
chuẩn mực đạo đức, theo Socrate, phải bằng nhận thức lý tính với PP nhận
thức khoa học [38, tr.34].
Khổng Tử (551 - 478 TCN) là nhà hiền triết nổi tiếng của Trung Quốc.
Ông xây dựng học thuyết “Nhân - Lễ - Chính danh”, trong đó “Nhân” - Lòng
thương người - là yếu tố hạt nhân, là yếu tố cơ bản nhất của con người. Đứng
trên lập trường coi trọng GDĐĐ, Ông có câu nổi tiếng truyền lại cho đến

ngày nay “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Thế kỷ XVII, Komemxky - Nhà giáo dục học vĩ đại Tiệp Khắc đã có
nhiều đóng góp cho công tác GDĐĐ qua tác phẩm “Khoa sư phạm vĩ đại”.
Komemxky đã chú trọng PH môi trường bên trong và bên ngoài để GDĐĐ
cho HS [21, tr.27].
Thế kỷ XX, một số nhà giáo dục nổi tiếng của Xô Viết cũng nghiên
cứu về GDĐĐ như: A.C. Macarenco, V.A Xukhomlinxky… Nghiên cứu cho
việc GDĐĐ mới trong giai đoạn xây dựng CNXH ở Liên Xô.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến đạo
đức và GDĐĐ cho cán bộ, HS. Bác cho rằng đạo đức cách mạng là gốc, là
nền tảng của người cách mạng. Bác còn căn dặn Đảng ta phải chăm lo GDĐĐ
cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, HS thành những người thừa kế xây
dựng CNXH vừa có “đức” vừa có “tài”.
Ở Việt Nam liên quan đến đạo đức, GDĐĐ và quản lý GDĐĐ có nhiều
công trình khoa học bàn đến, có thể khái quát theo các hướng nghiên cứu
chính như sau:
4


* Hướng nghiên cứu về GDĐĐ
Khi nghiên cứu về vấn đề GDĐĐ các tác giả đã đề cập đến mục
tiêu, nội dung, PP GDĐĐ. Tiêu biểu phải kể đến công trình nghiên cứu
khoa học cấp nhà nước được tổng kết trong tác phẩm “ Về phát triển toàn
diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” – do Phạm Minh
Hạc chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia, 2001). Lần đầu tiên trong lịch sử,
khái niệm đạo đức được thoát khỏi tư duy sao chép, xác định chuẩn mực
giá trị đạo đức không chỉ là quan hệ con người với con người mà trên 5
quan hệ (với bản thân, với người khác, với công việc, với môi sinh và lý
tưởng của cộng đồng).
Về mục tiêu GDĐĐ, tác giả Phạm Minh Hạc đã nêu rõ: “Trang bị cho

mọi người những tri thức cần thiết về tư tưởng chính trị, đạo đức nhân văn,
kiến thức pháp luật và văn hoá xã hội... Tổ chức tốt giáo dục giới trẻ; rèn
luyện để mọi người tự giác thực hiện những chuẩn mực đạo đức xã hội, có
thói quen chấp hành quy định của pháp luật, nỗ lực học tập và rèn luyện, tích
cực cống hiến sức lực, trí tuệ vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước” [12, tr.168-170]. Ông đã nêu lên sáu giải pháp GDĐĐ con người
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước, trong
đó có: “Tiếp tục đổi mới nội dung hình thức GDĐĐ trong các trường học,
cũng cố ý tưởng GDĐĐ ở nhà truờng trong việc GDĐĐ cho mọi người. Kết
hợp chặt chẽ với GDĐĐ với việc thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của cơ
quan thi hành pháp luật. Tổ chức thống nhất các phong trào thi đua yêu nước
và các phong trào rèn luyện đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết là cán
bộ, đảng viên, cho thầy trò các trường học...”. [12, tr.72].
Tác giả Hà Nhật Thăng với nghiên cứu “Giáo dục hệ thống giá trị đạo
đức nhân văn (1998). Cuốn tài liệu được nhiều người biết đến bởi tác giả đã

5


nêu lên được hệ thống giá trị đạo đức nhân văn của con người Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay. [26, tr.26]
Tác giả Phạm Khắc Chương đã đi sâu bàn về GDĐĐ trong tác phẩm
“Chi nam nhân cách học trò” (1992), Nxb ĐHSP Hà nội (2000) và tác phẩm
"Một số vấn đề GDĐĐ và GDĐĐ ở trường phổ thông”, Nxb Giáo dục (1995).
Tác giả Đặng Vũ Hoạt (1992), trong công trình nghiên cứu “Đổi mới
hoạt động GVCN lớp với việc GDĐĐ cho sinh viên”, Tập san nghiên cứu
giáo dục, số 8. Ông đã đi sâu nghiên cứu vai trò của GVCN trong quá trình
GDĐĐ cho học sinh và đưa ra một số định hướng cho GVCN trong việc đổi
mới nội dung, cải tiến PP GDĐĐ cho học sinh ở nhà trường phổ thông.
Tác giả Nguyễn Kim Bôi (2012) nghiên cứu về “ Một số giải pháp

nâng cao chất lượng GDĐĐ học sinh THPT Trần Đăng Ninh - Hà Tây”. Từ
thực trạng đạo đức của học sinh của nhà trường mà tác giả coi là tiêu biểu cho
đặc điểm của nhiều trường ở nông thôn Việt Nam, tác giả đã đưa ra một số
giải pháp để nâng cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh THPT.
Bên cạnh đó, có nhiều công trình bàn về chuẩn mực đạo đức của con
người Việt Nam, tiêu biểu là Nguyễn Viết Chức (chủ biên 2001), “Đạo đức,
lối sống và đời sống văn hóa Thủ đô trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội; Nguyễn Thanh
Duy (2004) “Văn hóa đạo đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội... Đặc biệt, trong 2 công trình nghiên cứu của tác giả
Huỳnh Khái Vinh, “Việt Nam tinh hoa đạo đức” (2001), Nxb Hà Nội và “Một
số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” (2001), Nxb CTQG, Hà
Nội. Tác giả đã đề cập đến vấn đề cơ bản của lối sống, đạo đức, chuẩn mực,
giá trị xã hội, mối quan hệ giữa lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội truyền
thống và cách mạng, những kinh nghiệm và bài học của một số nước, thực
trạng, phương hướng, quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống đạo đức,
chuẩn giá trị trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. [37, tr.56].
6


Tác giả Đỗ Đình Dũng với đề tài "Hệ thống biện pháp GDĐĐ cho học
sinh đào tạo sĩ quan Phòng không - Không quân ở Học viện Phòng - Không
Không quân hiện nay”, Luận văn thạc sĩ GDH năm 2006. Công trình đã
nghiên cứu đề xuất các biện pháp về đổi mới nhận thức về GDĐĐ; đổi mới về
nội dung, PP GDĐĐ; đa dạng hóa hình thức tổ chức GDĐĐ; xây dựng mội
trường sư phạm thuận lợi cho việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cho học viên.
Ngoài ra một số luận án tiến sĩ cũng trực tiếp bàn về vấn đề GDĐĐ
như: "Những giải pháp GDĐĐ cho sỹ quan Biên phòng ở đơn vị cơ sở trong
tình hình hiện nay”(2001), Luận án tiến sỹ GDH của tác giả Trần Ngọc Tuân;
"GDĐĐ nghề nghiệp cho học viên sư phạm trong các nhà trường quân sự

hiện nay” (2010), Luận án tiến sỹ GDH của tác giả Nguyễn Bá Hùng...
Ngoài ra, còn nhiều bài báo viết về đạo đức và GDĐĐ, tiêu biểu có các
công trình. “Đạo đức người thầy Việt Nam xưa và nay”(2006), của tác giả
Nguyễn Thị Thọ, Tạp chí Giáo dục, số 150. “Những ảnh hưởng của nền kinh tế
thị trường tới đạo đức nghề nghiệp cùa nhà giáo"(2007), tác giả Nguyễn Anh
Tuấn, Tạp chí Giáo dục, số 182. “Không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức nhà
giáo theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”(2008), tác giả Trần Nguyễn Khánh
Phong, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 3. “Đạo đức nhà giáo và vấn đề thể chế
hoá”(2008), tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến, Tạp chí Khoa học giáo dục, số 30. Tác
giả Trần Xuân Trường với công trình “Đạo đức cách mạng và sự nghiệp đổi
mới’’(2001), Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1.....
* Hướng nghiên cứu về quản lý hoạt động GDĐĐ cho giáo viên, học
sinh, sinh viên
Tiêu biểu có công trình của tác giả Lê Thị Thu (2005), “biện pháp quản
lý GDĐĐ cho sình viên Trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Hải Dương. Tác
giả Đặng Văn Chiến với đề tài: "Quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh
THPT ở cụm trường Gia Lâm" (2006). Tác giả Trần Thế Hùng (2006) với Đề
tài: "Một số biện pháp đổi mới quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh THPT
7


Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh". Tác giả Trần Văn Hy với đề tài: "Biện
pháp quản lý hoạt động GDĐĐ học sinh THPT ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên
Giang" (2008). Tác giả Lê Quang Thà với công trình “Tổ chức phối hợp các
lực lượng GDĐĐ cho học viên cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự”,
Luận văn thạc sỹ QLGD, năm 2008. Nội dung của những công trình này đã
đề cập những vấn đề cơ bản về quản lý, quản lý giáo dục nhà trường, các tác
giả đã chỉ ra những nội dung cơ bản của quản lý GDĐĐ cho học sinh, sinh
viên; phân tích các yếu tố tác động đến công tác quản lý GDĐĐ cho học sinh,
sinh viên. Các công trình trên cũng đã đề cập đến các giải pháp và đều nhấn

mạnh cần phải nâng cao nhận thức cho các đối tượng giáo dục; đổi mới nội
dung, hình thức GDĐĐ; xây dựng môi trường giáo dục và phối hợp giữa gia
đình, nhà trường và xã hội trong GDĐĐ cho học sinh, sinh viên.
Từ góc độ của nhà quản lý, trong công trình “Biện pháp quản lý GDĐĐ
truyền thống cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của
hiệu trưởng trường THPT Thành phố Hà Nội” (2010), tác giả Đỗ Thị Thanh
Thủy đã đề xuất 7 biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ cho
HS, tuy nhiên tác giả chỉ bàn đến vấn đề quản lý GDĐĐ thông qua hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp. Ngoài ra, còn nhiều công trình của các tác giả theo
hướng này, tiêu biểu có Tác giả Nguyễn Hữu Tân (2010), “Quản lý hoạt động
GDĐĐ trong mối quan hệ phối giữa nhà trường, gia đình và xã hội ở Trường
THPT Tân Yên 2 - Tỉnh Bắc Giang”; Luận văn thạc sĩ QLGD của tác giả Chu
Mạnh Cường (2010), “Các biện pháp quản lý nhằm tăng cường giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính
tỉnh Thái Nguyên”. Tác giả Phạm Thanh Bình với đề tài: "Quản lý hoạt động
GDĐĐ cho học sinh THPT Quận cầu Giấy thành phố Hà Nội" (2012)...
Tác giả Nguyễn Thế Vinh với đề tài ‘‘Quản lí quá trình GDĐĐ cho học
viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay”(2012), luận văn thạc sỹ QLGD.
Công trình nghiên cứu này đã nêu ra năm biện pháp tổ chức một cách khoa
học quá trình GDĐĐ; kế hoạch hóa quá trình GDĐĐ phát huy vai trò của các
8


tổ chức, các giáo dục; xây dựng môi trường giáo dục, thường xuyên kiểm tra
đánh giá kết quả GDĐĐ cho học sinh.
Tóm lại: Các công trình khoa học của các tác giả nêu trên là những định,
gợi mở quan trong giúp tác giả xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Các công trình đó đã đề cập và luận giải nhiều khía cạnh của vấn đề đạo đức,
GDĐĐ và quản lý GDĐĐ cho học sinh, sinh viên. Đồng thời, đưa ra những
giải pháp quản lý GDĐĐ cho học sinh, sinh viên ở các nhà trường hiện nay.

Tuy nhiên những công trình trên đây chủ yếu mới chỉ dừng lại ở nhận xét, nhận
định có tính chất chung nhất, chưa nêu rõ các đặc điểm, nguyên nhân, cách
thức triển khai công tác quản lý GDĐĐ cho học sinh, sinh viên một cách bài
bản, có kế hoạch, có hệ thống, mang tính hiệu quả và tính bền vững. Chính vì
vậy, đề tài nghiên cứu “Quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS Trường THPT Kim
Liên, Hà Nội là đề tài đáp ứng được với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn GDĐĐ
cũng như xu hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn quản lý GDĐĐ cho học sinh; đề xuất
các biện pháp quản lý GDĐĐ cho học sinh Trường THPT Kim Liên, Hà Nội,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học - giáo dục của Nhà trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quản lý GDĐĐ cho học sinh
trường THPT.
- Đánh thực trạng GDĐĐ và quản lý GDĐĐ cho học sinh Trường THPT
Kim Liên, Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất các biện pháp quản lý GDĐĐ cho học sinh Trường THPT Kim
Liên, Hà Nội hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
9


Quản lý giáo dục các phẩm chất nhân cách cho học sinh Trường THPT
Kim Liên, Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý GDĐĐ cho học sinh Trường THPT Kim Liên, Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và biện pháp quản lý GDĐĐ cho

học sinh Trường THPT Kim Liên, Hà Nội hiện nay.
Các số liệu điều tra, khảo sát được tính từ năm 2011 cho đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý GDĐĐ cho học sinh là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của Trường THPT Kim Liên, Hà Nội hiện nay. Đồng thời, điều này cũng là nội
dung, yếu tố thiết thực góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học
sinh, chất lượng giáo dục và dạy học của Nhà trường. Tuy nhiên, đây là vấn đề
vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Nếu các chủ thể giáo dục và chủ thể quản
lý đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ được cơ sở lý luận và thực tiễn một cách đầy
đủ về quản lý GDĐĐ cho học sinh; đồng thời đề xuất được những biện pháp
quản lý GDĐĐ cho học sinh, như: nâng cao nhận thức; tổ chức giáo dục khoa
học chặt chẽ và đánh giá khách quan kết quả GDĐĐ có tính đồng bộ, khả thi
,... thì sẽ quản lý được hoạt động GDĐĐ cho học sinh Trường THPT Kim
Liên, Hà Nội, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện, góp phần thiết thực vào
nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học - giáo dục của Nhà trường
6. Phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở PP luận duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lênin; quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm của Đảng ta về giáo dục và đào tạo, nhất là các nội dung
xung quanh đến đạo đức, GDĐĐ cho học sinh hiện nay. Trong quá trình
nghiên cứu, tác giả tiếp cận vấn đề theo quan điểm hệ thống - cấu trúc;
10


quan điểm phức hợp: hoạt động - giá trị - nhân cách; quan điểm lịch sử lô gíc; quan điểm thực tiễn.
* Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài, tác giả vận dụng tổng hợp các PP nghiên cứu khác nhau,
cụ thể là các PP nghiên cứu:
* Các Phương pháp nghiên cứu lý thuyết

- Bao gồm các PP: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ
thống hoá các vấn đề thông qua sự nghiên cứu hệ thống tài liệu lý luận,
chuyên khảo, các bài báo khoa học thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
* Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Bao gồm các PP:
- Tổng kết kinh nghiệm: Nghiên cứu các văn bản, báo cáo tổng kết của
Nhà trường, các cơ quan thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hà Nội.
- Quan sát sư phạm: tiến hành quan sát hoạt động GDĐĐ cho học sinh
Trường THPT Kim Liên, Hà Nội hiện nay.
- Điều tra xã hội học: Xây dựng bộ phiếu điều tra, khảo sát với các đối
tượng là học sinh, giáo viên, CBQL Trường THPT Kim Liên, Hà Nội và cán
bộ thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hà Nội.
- Phương pháp tọa đàm trao đổi: Xây dựng mẫu hỏi và tổ chức tọa đàm,
trao đổi với học sinh, giáo viên, CBQL Trường THPT Kim Liên Hà Nội.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên
gia giáo dục và giáo viên có uy tín, kinh nghiệm.
- Phương pháp khảo nghiệm: Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
khảo nghiệm tại Trường THPT Kim Liên, Hà Nội
- Phương pháp hỗ trợ: Sử dụng PP toán thống kê để xử lí các số liệu
điều tra.
7. Ý nghĩa của đề tài

11


Bổ sung, làm rõ những vấn đề lý luận về GDĐĐ; quản lý GDĐĐ cho
học sinh Trường THPT. Đồng thời, đề xuất các biện pháp có tính đồng bộ,
khả thi góp phần nâng cao hiệu quả quản lý GDĐĐ cho học sinh Trường
THPT Kim Liên, Hà Nội hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể cung cấp những cứ liệu, luận cứ

xác đáng cho Nhà trường để chỉ đạo, thực hiện GDĐĐ cho học sinh có cơ sở
khoa học và thực tiễn.
Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các thầy cô giảng dạy các môn
học có liên quan đến giáo dục chính trị, đạo đức, GDCD....
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài kết cấu gồm: Phần mở đầu, 3 chương (9 tiết), kết luận và kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.

12


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
* Đạo đức
Đạo đức là một phạm trù được rất nhiều lĩnh vực khoa học nghiên cứu
như: triết học, đạo đức học, giáo dục học, xã hội học, tâm lý học, giá trị học…
mỗi lĩnh vực có một cách tiếp cận riêng và đã tạo ra một hệ thống lý luận rất
phong phú và sâu sắc.
Dưới góc độ Triết học: "đạo đức là một trong những hình thái sớm
nhất của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực điều
tiết hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng.
Căn cứ vào những quy tắc ấy, người ta đánh giá hành vi, phẩm giá của mọi
người bằng các quan niệm về thiện ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ
và danh dự" [18].
Dưới góc độ Đạo đức học: "đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội" [18].

Dưới góc độ Giáo dục học: "'đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt bao gồm một hệ thống các quan niệm về cái thực, cái có trong mối quan
hệ của con người với con người" [12].
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì đạo đức: "là phép tắc về quan hệ giữa
người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội" [34].
Theo quan điểm Mác - Lênin thì đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
có nguồn gốc từ lao động, từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống cộng đồng xã
hội. Đạo đức phản ánh và chị sự chi phối của tồn tại xã hội. Mỗi phương thức
sản xuất lại làm nảy sinh một dạng đạo đức tương ứng và do vậy đạo đức có
tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc.
13


Ngày nay trong nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế, thì khái
niệm "Đạo đức" cũng có thay đổi theo tư duy và nhận thức mới. Tuy nhiên,
không có nghĩa là các giá trị đạo đức cũ hoàn toàn mất đi, thay vào đó là các
giá trị đạo đức mới. Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, các giá trị đạo
đức hiện nay là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc
với xu hướng tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Đó là tinh thần cần cù lao
động, sáng tạo, tình yêu quê hương đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có nếp sống văn minh lành
mạnh, có tinh thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả. Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế vật chất xã hội, đồng
thời nó cũng có quan hệ tương tác với các hình thái ý thức xã hội khác như
pháp luật, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, khoa học…
Các quan niệm về đạo đức kể trên tuy có cách hiểu khác nhau tùy theo
góc độ tiếp cận, nhưng về mặt tổng quát đều có những điểm cơ bản thống
nhất như sau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội,
phản ánh hiện thực đời sống xã hội. Đây là một phương thức điều chỉnh hành
vi của con người, giúp con người ngày càng hoàn thiện hơn theo tiểu chuẩn

của xã hội, giúp xã hội ngày càng phát triển hơn. Đạo đức là một hệ các giá
trị, các quy tắc, các chuẩn mực mà mọi người phải tuân thủ theo trong mối
quan hệ giữa cá nhân với các nhân, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội.
Tóm lại đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực do xã hội đề ra nhằm mục đích đánh giá và
điều chỉnh hành vi của cá nhâu trong quan hệ xã hội, với người khác, với bản
thân, làm cho hành động của cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội.
* Giáo dục đạo đức
Theo giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt “GDĐĐ là quá trình biến
các chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân
thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói
quen của người được giáo dục” [10].
14


“GDĐĐ là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ
thống và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục (học sinh) để
bồi dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức (chuẩn mực, hành vi đạo đức)
phù hợp với yêu cầu của xã hội” [17].
GDĐĐ là quá trình hai mặt, mặt tác động của nhà sư phạm và mặt tiếp
nhận tích cực của người được giáo dục, đó là sự chuyển hoá những nhu cầu
của xã hội thành những phẩm chất bên trong của cá nhân. GDĐĐ được thực
hiện trong gia đình, nhà trường và trong môi trường xã hội, với những hình
thức đa dạng và những PP phong phú, trong đó giáo dục trong nhà trường có
một vị trí đặc biệt quan trọng.
Ngày nay, GDĐĐ cho học sinh là GDĐĐ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao
chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức, pháp luật, làm cho học sinh có tinh
thần yêu nước, thấm nhuần lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thật sự say mê học tập,
có ý thức tổ chức kỷ luật, kính thầy, yêu bạn, có nếp sống lành mạnh, biết tôn
trọng pháp luật. Đó là quá trình lâu dài, liên tục về thời gian, không gian, từ

mọi phương diện, mọi lực lượng trong xã hội. Trong đó, nhà trường đóng vai
trò hết sức quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức học sinh; Là một
quá trình hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức của nhân cách dưới
tác động, ảnh hưởng có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có sự lựa chọn về
nội dung, PP, hình thức.
GDĐĐ trong trường phổ thông là một bộ phận của của quá trình giáo
dục tổng thể có quan hệ biện chứng với các quá trình giáo dục khác như giáo
dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động và giáo
dục hướng nghiệp nhằm hình thành cho học sinh niềm tin, thói quen, hành vi,
chuẩn mực về đạo đức. GDĐĐ học sinh là quá trình tác động tới học sinh của
nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm hình thành cho học sinh ý thức, tình
cảm, niềm tin đạo đức và xây dựng thể hiện được những thói quen, hành vi
đạo đức trong đời sống xã hội. Song giáo dục trong nhà trường giữ vai trò chủ
đạo định hướng.
15


Từ cách hiểu trên, có thể quan niệm, GDĐĐ cho học sinh THPT là quá
trình tác động liên tục có mục đích, có kế hoạch của các lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường đến học sinh nhằm hình thành ở các em ý thức,
tình cảm, niềm tin đạo đức và rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức phù hợp
với yêu cầu chuẩn mực xã hội.
Bản chất GDĐĐ là chuỗi tác động có định hướng của chủ thể giáo dục
và yếu tố tự giáo dục của học sinh, giúp học sinh nhận thức đúng, tạo lập tình
cảm và thái độ đúng, hình thành những thói quen, hành vi văn minh trong
cuộc sống, phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Trong quá trình giáo dục nhà giáo dục và đối tượng giáo dục có quan
hệ tương tác; những tác động của nhà giáo dục đóng vai trò định hướng, sự
tiếp nhận và chuyển hoá có ý thức các giá trị của đối tượng giáo dục đóng
vai trò quyết định sự thành công của quá trình giáo dục. Ở nhà trường phổ

thông, GDĐĐ là nhiệm vụ, trách nhiệm của các cấp uỷ, BGH nhà trường,
mà trực tiếp là của cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường và của
các lực lượng giáo dục khác để nhằm hình thành cho học sinh những tri
thức đạo đức, chuẩn mực đạo đức, quy tắc đạo đức, tình cảm đạo đức, sự
đánh giá về đạo đức, từ đó góp phần hình thành ở ngư ời học các quan hệ
đạo đức và hành vi đạo đức đúng đắn, tạo nên nền tảng vững chắc cho sự
phát triển toàn diện nhân cách.
Mục tiêu GDĐĐ. Mục tiêu của GDĐĐ là quá trình chuyển hoá
những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo
đức nhân cách cho học sinh, hình thành ở học sinh thái độ dúng đắn trong
giao tiếp, ý thức tự giác thực hiện các chuẩn mực của xã hội, thói quen
chấp hành cá quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ GDĐĐ học sinh THPT: Giáo dục cho học sinh nhận thức đúng
đắn các chuẩn mực đạo đức, những giá trị chân chính của các chuẩn mực đó.
Đồng thời, khơi dậy ở học sinh những rung động, những tình cảm đối với hiện
16


thực xung quanh, có thái độ rõ ràng với những hành vi đạo đức của bản thân
và của mọi người trong xã hội. Qua đó, rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức
đúng đắn cho học sinh.
Nội dung GDĐĐ. Nội dung GDĐĐ cho học sinh thể hiện trong hệ
thống những giá trị đạo đức nhân văn, có ý nghĩa rất quan trọng trong quá
trình giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Nội dung
GDĐĐ cho học sinh bao gồm các chuẩn mực và qui tắc đạo đức về mục đích
cuộc sống bản thân, về lối sống cá nhân, về các mối quan hệ trong gia đình,
trong tập thể và ngoài xã hội, về cuộc sống lao động sáng tạo, về nghĩa vụ lao
động và bảo vệ Tổ quốc.
Phương pháp GDĐĐ, là cách thức tác động của các nhà giáo dục
lên đối tượng giáo dục những chuẩn mực đạo đức cần thiết, phù hợp với

nền đạo đức xã hội. PP GDĐĐ cho học sinh THPT rất đa dạng và phong
phú. Các nhà giáo dục và quản lý giáo dục phải vận dụng linh hoạt cho
phù hợp với mục đích, đối tượng và tình huống cụ thể như thuyết phục;
nêu gương; đối thoại, tranh luận; tổ chức rèn luyện, hình thành thói quen
hành vi tốt đẹp, tạo tình huống giáo dục; đòi hỏi sư phạm; PP thi đua,
khen thưởng, trách phạt…
Hình thức GDĐĐ. GDĐĐ cho học sinh THPT là một phận của quá
trình giáo dục tổng thể, nó được tiến hành thông qua các hình thức như:
Thông qua giảng dạy học tập môn GDCD và các bộ môn khác theo
chương trình; thông qua việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp,
hoạt động ngoại khoá, tham quan dã ngoại; thông qua các buổi sinh hoạt
truyền thống, sinh hoạt dưới cờ vào thứ hai hàng tuần; thông qua các
phong trào thi đua của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh; qua hoạt
động văn hoá, văn nghệ; qua hoạt động từ thiện, đền ơn đáp nghĩa và
GDĐĐ bằng cách “củng cố tăng cường giáo dục ở gia đình và cộng đồng,
kết hợp chặt chẽ với giáo dục nhà trường”....
17


1.1.2. Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường
trung học phổ thông
* Quản lý
Theo nghĩa rộng, “quản lý là hoạt động có mục đích của con người. Quản
lý chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của
những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn” [19] . Quản lý còn được
hiểu là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối
tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất
định. Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển hướng
dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con người nhằm đạt tới mục
đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy luật khách quan [28].

Ở góc độ khác, tác giả Trần Kiểm cho rằng Quản lý là nhằm phát huy
sự nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành
những thành tựu của xã hội. Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục
đích đến tập thể người - thành viên của hệ - nhằm làm cho hệ vận hành thuận
lợi và đạt tới mục đích dự kiến [19].
Mặc dù có rất nhiều cách tiếp cận và khái niệm khác nhau về quản
lý, song nhìn chung các định nghĩa đều thể hiện: Quản lý là một hoạt động
luôn có trong quá trình lao động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện
quan trọng làm cho xã hội loài người tồn tại và phát triển. Nó được tiến
hành trong một tổ chức hay một hệ thống xã hội. Đó là sự tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt
được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường. Quản lý
vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Bởi thế, trong quá trình thực hiện hoạt
động quản lý, người CBQL phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo để
chỉ đạo hoạt động của tổ chức một cách khoa học nhằm đạt được mục đích
đề ra của tổ chức.

18


Như vậy, quản lý là quá trình chủ thể quản lý tác động vào đối tượng
quản lý nhằm huy động, sử dụng, điều chỉnh các nguồn lực (nhân lực, tài lực,
vật lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt
được mục tiêu của tổ chức với hiệu quả cao nhất.
* Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác, có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể quản lý quản lý
đến tất cả mắt xích của hệ thống từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục nhà
trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục.

Ở các cơ sở giáo dục, thì “quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự
giác, có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật của chủ thể
quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và
các giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và có hiệu
quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [5]. Tiêu điểm của nhà trường là quá trình
giáo dục nên cũng có thể hiểu quản lý giáo dục thực chất là những tác động của
chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học
sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các xã hội nhằm hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
GDĐĐ là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể của nhà trường.
Đây cũng là một trong những nội dung quản lý quan trọng đặc biệt của Hiệu
trưởng ở các trường phổ thông hiện nay.
Quản lý GDĐĐ là quá trình tác động có định hướng của chủ thể giáo
dục lên đối tượng giáo dục nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra. Đây là
quá trình chủ đạo, điều hành hoạt động GDĐĐ của chủ thể giáo dục tác động
đến đối tượng giáo dục để hình thành những phẩm chất đạo đức của học sinh,
đảm bảo quá trình GDĐĐ đúng hướng, phù hợp với những chuẩn mực, quy
tắc đạo đức được xã hội thừa nhận.
19


Quản lý GDĐĐ cho học sinh còn là một quá trình huy động các lực
lượng giáo dục, các điều kiện phương tiện giáo dục, phù hợp các môi trường
giáo dục, giúp học sinh có được tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và hình
thành hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Từ cách tiếp cận trên, đề tài cho rằng: Quản lý GDĐĐ cho học sinh
THPT là sự tổ chức, điều khiển của chủ thể quản lý đối với toàn bộ quá trình
GDĐĐ cho học sinh, nhằm đảm bảo cho quá trình GDĐĐ diễn ra theo đúng
kế hoạch và đạt được hiệu quả tối ưu đáp ứng mục tiêu, yêu cầu dạy học giáo dục của các trường phổ thông.
Về bản chất, quản lý GDĐĐ cho học sinh là quá trình tác động có định

hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá trình GDĐĐ nhằm
thực hiện có hiệu quả mục tiêu GDĐĐ đề ra. Như vậy, Quản lý GDĐĐ cho học
sinh là những tác động có tính hướng đích, không bó hẹp trong quá trình dạy
học, mà là tổng hợp các hoạt động sư phạm, đồng thời quản lý quá trình GDĐĐ
cũng không tách rời quản lý các nội dung học tập khác như văn hoá, chính trị,
pháp luật, kỷ luật... mà chúng đan xen vào nhau, quy định lẫn nhau, bổ sung cho
nhau nhằm giáo dục phẩm chất nhân cách toàn diện cho học sinh.
Mục tiêu quản lý GDĐĐ cho học sinh. Là những kết quả dự kiến sẽ đạt
được do quá trình vận động của đối tượng quản lý dưới sự tác động của chủ
thể quản lý; sự thống nhất trong nhận thức tư tưởng và hành động của chủ thể
và đối tượng quản lý. Mục tiêu của quản lý GDĐĐ cho học sinh là làm cho
quá trình GDĐĐ vận hành đồng bộ, hiệu quả để nâng cao chất lượng GDĐĐ.
Qua đó, giúp cho mọi người, mọi ngành, mọi cấp, mọi tổ chức xã hội nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác quản lý GDĐĐ, nắm vững
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phát
triển con người toàn diện, có thái độ, hành vi phù hợp đối với công tác quản
lý GDĐĐ. Điều quan trọng nhất của việc quản lý GDĐĐ cho học sinh là làm
cho quá trình GDĐĐ tác động đến người học để hình thành cho các ý thức,
20


tình cảm và niềm tin đạo đức, tạo lập những thói quen, hành vi đạo đức thể
hiện thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày.
Chủ thể quản lý GDĐĐ cho học sinh: Chủ thể quản lý là tập thể, cá
nhân được tổ chức giao nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc gián tiếp trong
lãnh đạo, QLGD, rèn luyện học sinh trong suốt quá trình dạy học – giáo dục ở
nhà trường phổ thông. Do đó, chủ thể quản lý GDĐĐ cho học sinh trường
THPT là: các cấp uỷ, BGH nhà trường; các cơ quan chức năng, tổ bộ môn;
đội ngũ giáo viên, cán bộ QLGD trong nhà trường; các tổ chức đoàn thể chính
trị xã hội ở địa phương; gia đình học sinh; các tập thể học sinh, tự quản lý của

học sinh. Trong những chủ thể quản lý nói trên thì cấp ủy, BGH nhà trường,
đội ngũ CBQL, giáo viên, nhân viên trong nhà trường là chủ thể trực tiếp,
thường xuyên và quan trong nhất.
Khách thể quản lý GDĐĐ: Là học sinh, tập thể học sinh, chịu sự tác
động, điều khiển, quản lý của chủ thể lãnh đạo, quản lý trong suốt quá trình
học tập, rèn luyên ở nhà trường. Như vậy, học sinh và tập thể học sinh vừa là
khách thể (đối tượng chịu sự quản lý của chủ thể) vừa là chủ thể trong quá
trình tổ chức tự quản lý, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân.
Nội dung quản lý: Bao gồm quản lý việc xây dựng kế hoạch GDĐĐ; thực
hiện nội dung, PP, hình thức GDĐĐ; quản lý; quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả
GDĐĐ; quản lý sự PH các lực lượng trong và ngoài nhà trường trong GDĐĐ cho
học sinh; quản lý quá trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện của học sinh; quản lý các điều
kiện đảm bảo cho quá trình GDĐĐ...
Phương pháp quản lý GDĐĐ: bao gồm toàn bộ những cách thức, biện
pháp tác động, điều khiển của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng hệ
thống công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định. Hệ
thống công cụ quản lý gồm: các chỉ thị, nghị quyết của các tổ chức đảng;
pháp luật của Nhà nước; điều lệ trường THPT; quy chế GDĐT và chương
trình, kế hoạch, mệnh lệnh của chỉ huy các cấp. Sử dụng đồng bộ nhiều PP
21


quản lý, song cần tập trung vào ba PP chủ yếu, đó là: PP hành chính; PP tâm
lý xã hội; PP kích thích bằng vật chất, tinh thần...
1.2. Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung
học phổ thông
1.2.1. Xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh
Việc xây dựng kế hoạch GDĐĐ cho học sinh là việc làm quan trọng,
cần thiết trong công tác quản lý giáo dục. Đây là một quá trình xác định
những mục tiêu và các biện pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu đó.

Việc xây dựng kế hoạch GDĐĐ cho học sinh giúp người quản lý tư duy một
cách có hệ thống để tiên liệu các tình huống có thể xảy ra, phát huy mọi
nguồn lực trong và ngoài nhà trường để tổ chức GDĐĐ cho học sinh có hiệu
quả hơn.
Khi lập kế hoạch quản lý GDĐĐ cho học sinh, người CBQL cần lưu ý:
Đảm bảo tính thống nhất giữa mục tiêu GDĐĐ với mục tiêu GD trong nhà
trường; nắm vững thực trạng đạo đức học sinh và công tác GDĐĐ của nhà
trường hiện tại; phối hợp chặt chẽ, hữu cơ với kế hoạch dạy học trên lớp và kế
hoạch hoạt động GD khác; lựa chọn nội dung, hình thức hoạt động đa dạng,
thiết thực và phù hợp với hoạt động tâm, sinh lý học sinh để đạt hiệu quả giáo
dục cao; thành lập Ban đức dục, phân công nhiệm vụ rõ ràng cho các thành
viên trong Ban đức dục để theo dõi, giám sát, kiểm tra, đánh giá việc GDĐĐ
cho học sinh và xây dựng kế hoạch chi tiết theo tuần, tháng, năm.
1.2.2. Chỉ đạo tổ chức thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp
giáo dục đạo đức cho học sinh
Cấp ủy, BGH nhà trường cần triển khai việc bố trí nhân lực cho công
tác GDĐĐ cho học sinh một cách hợp lý. Phát huy vai trò của Ban đức dục
trong tư vấn cho BGH nhà trường xây dựng kế hoạch, triển khai chương trình,
kiểm tra, đánh giá các hoạt động GDĐĐ trong nhà trường. Người Hiệu trưởng
cần đưa ra những quy định cụ thể, phù hợp với điều kiện của nhà trường, địa
22


phương và tâm sinh lý lứa tuổi học sinh để công tác GDĐĐ cho học sinh
trong trường THPT đạt hiệu quả cao. Không những thế, người CBQL cần bố
trí, thu xếp về tài lực, vật lực để công tác GDĐĐ cho học sinh có điều kiện
triển khai hiệu quả.
Để công tác GDĐĐ thực sự được triển khai theo đúng quy trình sư
phạm, đạt yêu cầu của kế hoạch đề ra, người CBQL cần hướng dẫn các tổ
chức trong và ngoài nhà trường, CB, GV, NV trong nhà trường cách thức

thực thi kế hoạch, đặc biệt chú trọng việc đổi mới nội dung, hình thức, PP
GDĐĐ cho phù hợp. Chú trọng quản lý nâng cao chất lượng dạy học môn
GDCD, tích hợp GDĐĐ trong các môn học khác và trong các hoạt động
ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khoá…Ngoài ra, người Hiệu trưởng phải
luôn để ý, giám sát các hoạt động GDĐĐ được thực hiện bởi các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nhà trường để điều chỉnh, động viên, kích thích và uốn
nắn việc thực thi kế hoạch đề ra.
1.2.3. Kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục đạo đức học sinh
Kiểm tra, đánh giá kết quả GDĐĐ học sinh khâu cuối cùng của hoạt động
GDĐĐ. Thực chất quản lý kết quả GDĐĐ là hoạt động kiểm tra, đánh giá mức
đạt được của mục tiêu GDĐĐ ở từng giai đoạn và tổng thể chương trình.
Việc quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả GDĐĐ là quá trình chủ thể
quản lý tiến hành kiểm tra, đánh giá chất lượng của toàn bộ quá trình GDĐĐ
theo những tiêu chí về mục tiêu, yêu cầu của chương trình, nội dung và kế
hoạch GDĐĐ đã được xác định trong từng tuần, tháng, học kỳ, năm học.
Kiểm tra, đánh giá phải chính xác, khách quan, toàn diện, công khai và công
bằng, căn cứ vào các tiêu chí đã được xác định, loại bỏ các yếu tố chủ quan,
tranh tư tưởng nể nang, thành tích. Hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả
GDĐĐ không dừng lại ở kết quả cuối cùng mà tiến hành kiểm tra đánh giá
tất cả các khâu: mục tiêu, chương trình nội dung; hình thức và kế hoạch
trong quá trình GDĐĐ cho học sinh
23


Cách kiểm tra: Kiểm tra từ trên xuống những hoạt động của các tổ
chức, cá nhân có liên quan đến GDĐĐ cho học sinh, kiểm tra qua các bài thi
tìm hiểu, kiểm tra qua quan sát, tự kiểm tra đánh giá của đội thanh niên, đội tự
quản của học sinh, kiểm tra qua các tiêu chuẩn, tiêu chí cụ thể của từng hoạt
động, kiểm tra qua các tình huống.
Đánh giá: Đánh giá thi đua, khen thưởng theo nhiều mức độ khác nhau,

xếp loại hạnh kiểm. Rút kinh nghiệm, tìm ra PP quản lý tốt, chưa tốt, bổ sung,
điều chỉnh kế hoạch quản lý GDĐĐ cho học sinh ở những năm sau.
1.2.4. Chỉ đạo phối hợp giữa các lực lượng trong giáo dục đạo đức
cho học sinh
Cấp ủy, BGH nhà trường cần nhận thức được tầm quan trọng của việc
phối hợp giáo dục giữa gia đình - nhà trường - xã hội để có sự quản lý đúng
đắn và linh hoạt bởi lẽ quá trình hình thành và phát triển nhân cách nói
chung, phát triển các phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị nói riêng luôn bị
chế ước bởi những điều kiện khách quan và chủ quan tác động. Để công tác
GDĐĐ đạt hiệu quả cao cần có một môi trường giáo dục lành mạnh, môi
trường văn hoá thuận lợi cho giáo dục, trong đó mọi người, từ gia đình đến
cộng đồng cùng nhà trường làm tốt việc định hướng giá trị của xã hội cho
học sinh. Quản lý được sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong
việc GDĐĐ cho học sinh góp phần tạo dựng môi trường giáo dục mang tính
liên kết cao, đồng thời có tác dụng thúc đẩy sự quan tâm của cộng đồng, gia
đình trong việc giáo dục trẻ nói chung, GDĐĐ nói riêng. Vì vậy cần phát
huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng trong GDĐĐ cho học
sinh, cụ thể: Hiệu trưởng phụ trách chung, Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên
môn theo dõi việc GDĐĐ qua chuyên môn, qua các bài giảng trên lớp, Phó
hiệu trưởng phụ trách Văn - Thể - Mỹ - CSVC theo dõi việc GDĐĐ qua hoạt
động lao động, sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoại khoá…; Đoàn thanh niên
chú ý GDĐĐ qua theo dõi nề nếp kỉ luật và học tập hàng ngày, qua các
24


phong trào thi đua; GVCN là những đóng vai trò quan trọng trong việc
GDĐĐ cho học sinh, GVCN là người gần gũi với học sinh nhất, là cầu nối
tích cực với các GVBM, với BGH nhà trường, với cha mẹ học sinh và các tổ
chức đoàn thể khác… Vì vậy cần thiết phải có sự liên kết gắn bó và thống
nhất hữu cơ với nhau để cùng giúp đỡ, hỗ trợ, xây dựng và triển khai mọi

hoạt động giáo dục trong nhà trường nói chung, hoạt động GDĐĐ nói riêng.
1.2.5. Theo dõi, điều chỉnh quá trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện đạo
đức của học sinh
Kết quả của quá trình GDĐĐ cho học sinh phụ thuộc rất lớn vào khả
năng tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của chính học sinh, những tác động của
các lực lượng giáo dục chỉ là những yếu tố bên ngoài. Nếu học sinh không
phát huy được vai trò năng động, chủ quan trong tiếp nhận những tác động
giáo dục và tự tự tu dưỡng, tự rèn luyện đạo đức thì không thể hình thành các
thói quen hành vi, đạo đức. Vì vậy, quá trình tự tự tu dưỡng, tự rèn luyện đạo
đức của học sinh cần có sự quản lý chặt chẽ của cấp ủy, BGH, đội ngũ cán bộ,
giáo viên, nhân viên trong nhà trường. Quản lý quá trình tự tu dưỡng, tự rèn
luyện đạo đức nhằm khơi dậy động cơ, nhu cầu, kích thích tích cực, sáng tạo
của mỗi học sinh trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Chuyển hóa những yêu
cầu, chuẩn mực đạo đức bên ngoài thành ý thức, thái độ hành vi bên trong
mỗi học sinh. Cần chú trọng vào hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch kế
hoạch tự giáo dục, tự rèn luyện; kết hợp bồi dưỡng động cơ TGD đúng đắn
cho học sinh với trang bị cho học sinh PP, cách thức tự tu dưỡng, tự rèn luyện
đạo đức và khả năng tự đánh giá bản thân so với yêu cầu chuẩn mực xã hội.
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
Trường Trung học phổ thông Kim Liên, Hà Nội
1.3.1. Tác động của môi trường kinh tế xã hội hiện nay, đặc biệt là mặt
trái của kinh tế thị trường

25


×