Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý GIÁO dục QUẢN lý HOẠT ĐỘNG xã hội hóa GIÁO dục TRUNG học cơ sở ở HUYỆN KIM bôi, TỈNH hòa BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.6 KB, 119 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1:

Trang
3

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI HÓA GIÁO
DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2. Nội dung quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung

15
15

học cơ sở
1.3. Nhân tố tác động đến quản lý hoạt động xã hội hóa giáo

23

dục trung học cơ sở huyên Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình

30

Chương 2:

CƠ SỞ THỰC TIỄN QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XÃ
HỘI HÓA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN
KIM BÔI, TỈNH HÒA BÌNH


2.1.

35

Khái quát về kinh tế - xã hội và giáo dục huyện Kim

Bôi, tỉnh Hòa Bình
2.2. Thực trạng xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở huyện

35

Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung

41

học cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình
Chương 3:

50

ĐỊNH HƯỚNG, BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG

XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN
KIM BÔI, TỈNH HÒA BÌNH

75

3.1. Những định hướng xã hội hoá giáo dục Trung học cơ
sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình

3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động xã hội hoá giáo dục trung

75

học cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình đến năm 2020
3.3. Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp

74

KẾT LUẬN VÀ KIÊN NGHỊ

100
104

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

108
111


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển xã hội loài người đã khẳng định vai trò to lớn của
giáo dục trong mọi lĩnh vực của xã hội, giáo dục quyết định tương lai của mỗi
con người và của toàn xã hội. Giáo dục có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội, nền
giáo dục có tốt thì mới góp phần tạo dựng , bảo vệ, làm nền tảng cho xã hội
phát triển và hưng thịnh, ngược lại nếu nền giáo dục kém phát triển thì quốc
gia, dân tộc đó yếu và không thể phát triển được.
Ở Việt Nam, xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược được Đảng

và Nhà nước ta xác định ngay từ khi hình thành nền giáo dục cách mạng.
Quan điểm đó được Đảng chỉ đạo xuyên suốt qua đường lối phát triển giáo
dục và được khẳng định là xây dựng một nền giáo dục “ của dân, do dân, vì
dân, được xây dựng trên nguyên tắc khoa học, dân tộc và đại chúng”. Từ sau
các mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh 146/
SL ngày 10/8/1946, trong đó khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu”. Người kêu gọi “Toàn dân tham gia diệt giặc dốt theo phương châm:
Người biết dạy cho người chưa biết… ai cũng phải học”.
Ngày 11 tháng 01 năm 1979, bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 14NQ/ TW về cải cách giáo dục và đã xác định phương châm “ Phối hợp những
cố gắng đầu tư của Nhà nước với sự đóng góp của nhân dân, của các ngành,
các cơ sở sản xuất và sức lao động của thầy trò trong việc xây dựng trường
sở, phòng thí nghiệm, xưởng trường, vườn trường”.
Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa giáo
dục được thể hiện trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, từ
Nghị quyết Trung ương 4 ( khóa VII ), Nghị quyết Trung ương 2 ( khóa
VIII ), kết luận tại hội nghị Trung ương 6 ( Khóa IX ) và văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI Đảng ta tiếp tục khẳng định: “ Hoàn thiện cơ chế
chính sách xã hội hóa giáo dục đào tạo trên cả ba phương diện: động viên
các nguồn lực trong xã hội, phát huy vai trò giám sát của cộng đồng, khuyến
khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài xây dựng xã hội học tập tạo điều
kiện để người dân được học tập suốt đời”. Như vậy xã hội hóa giáo dục là
3


một chủ trương lớn, có tầm chiến lược của Đảng và nhà nước, nhằm tạo ra
động lực và phát huy mọi nguồn lực để phát triển một nền giáo dục Việt Nam
tiên tiến, chất lượng ngày càng nâng cao trên cơ sở tham gia của toàn xã hội.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân giáo dục trung học cơ sở có vai trò
rất quan trọng trong sự nghiệp giáo dục hiện nay. Cấp trung học cơ sở cung
cấp cho học sinh học vấn phổ thông, giúp học sinh phát triển toàn diện về

đức, trí, thể , mỹ và các kỹ nămg cơ bản nhằm phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo.Trung học cơ sở còn cung cấp cho học sinh những
hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau
trung học cơ sở, tạo điều kiện để học sinh tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc
sống lao động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng và Nhà nước ta đã nhận rõ
việc phổ cập giáo dục và xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở là điều rất cần
thiết và cấp bách trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế. Bởi vậy chiến lược phát triển giáo dục của Việt
Nam giai đoạn 2011 – 2020 là thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở và
tiếp tục thực hiện xã hội hóa giáo dục.
Tăng cường quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục đối với ngành Giáo
dục huyện Kim Bôi nói chung và đối với cấp trung học cơ sở huyện Kim Bôi
nói riêng có ý nghĩa thực tiễn quan trọng trong sự phát triển giáo dục của nhà
trường, của địa phương. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Huyện
uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND huyện Kim Bôi, hoạt động xã hội hóa giáo
dục đã được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú, cùng với cuộc vận
động xã hội đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, huy động các nguồn đầu tư
cho giáo dục thông qua mối quan hệ giữa nhà trường – gia đình và xã hội. Do
vậy, sự nghiệp giáo dục cấp trung học cơ sở của huyện Kim Bôi đã đạt được
một số thành tựu đáng tự hào về sự phát triển quy mô, số lượng và chất lượng
Giáo dục và Đào tạo.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, việc thực hiện xã hội hóa
giáo dục trung học cơ sở Huyện Kim Bôi nói chung vẫn còn gặp không ít
khó khăn, trở ngại như: Một số xã , cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể, phụ
huynh học sinh vẫn chưa nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của giáo
4


dục trung học cơ sở nên sự phối kết hợp giữa nhà trường – gia đình và xã
hội chưa được thực hiện thường xuyên trong các hoạt động giáo dục của

nhà trường. Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm ảnh hưởng đến sự
quan tâm của ban đại diện cha mẹ học sinh, đặc biệt là gia đình phụ huynh
học sinh đối với việc giáo dục học sinh chưa được hiệu quả. Việc huy động
hợp lý kinh phí trong nhân dân và cộng đồng vào các hoạt động giáo dục,
đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị của nhà trường chưa thường xuyên, dẫn đến
việc đầu tư nguồn lực cho phát triển giáo dục địa phương chưa được quan
tâm đúng mức. Mặt khác, việc quản hoạt động xã hội hóa giáo dục trung
học cơ sở huyện Kim Bôi còn thiếu một số biện pháp phù hợp, hiệu quả.
Vấn đề xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở và quản lý hoạt động xã hội
hóa giáo dục trung học cơ sở đã có nhiều công trình khoa học đề cập đến.
Tuy nhiên, quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở huyện
Kim Bôi hiện nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ
thể. Từ thực trạng trên, tác giả chọn đề tài: “Quản lý hoạt động xã hội hóa
giáo dục trung học cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình”. Với đề tài này,
mong muốn được góp phần vào sự phát triển giáo dục toàn diện Trung học
cơ sở ở huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Nghiên cứu trên thế giới
Vào khoảng 30 năm cuối thế kỷ XX, đặc biệt những năm đầu của thế
kỷ XXI, đa số các nước phát triển như Anh, Đức, Mỹ, Pháp, Nhật Bản,
Malaysia, Singapore, Hàn Quốc....đều nhận thức lại vai trò, sứ mệnh của giáo
dục, coi giáo dục là nền tảng của mọi sự phát triển xã hội. Tại các nước này
có rất nhiều chương trình cải cách giáo dục được thực hiện, nhằm đổi mới
toàn diện nền giáo dục đất nước, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng với yêu cầu phát triển và sự thay đổi nhanh chóng trong xu hướng toàn
cầu hóa tri thức. Khuynh hướng cải cách giáo dục là tập trung sự thu hút và
tăng cường sự tham gia của các lực lượng xã hội, gia đình, các tổ chức trong
và ngoài nước cùng nhà nước tham gia vào hoạt động giáo dục nói chung và
giáo dục trung học cơ sở nói riêng.
5



Việc huy động các lực lượng xã hội, các tổ chức cùng với nhà nước tham
gia vào giáo dục và xã hội hóa giáo dục đã đem lại nhiều thành công cho quá trình
đẩy mạnh cải cách giáo dục: Phát huy vai trò của các đoàn thể cộng đồng địa
phương chịu trách nhiệm trực tiếp về giáo dục ở các khu vực; Mở rộng mối quan
hệ giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng, cụ thể: Tăng cường vai trò của gia
đình trong giáo dục và tăng cường sự nghiệp giáo dục cộng đồng.
Có rất nhiều tài liệu, công trình tiêu biểu đã đề cập đến vai trò quan
trọng của các lực lượng xã hội trong việc tham gia vào sự nghiệp giáo dục,
cũng như quản lý sự tham gia một cách có hiệu quả nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo của nhà trường và kết quả học tập của học sinh.
Tài liệu hướng dẫn sự tham gia hiệu quả của cha mẹ học sinh, gia đình và
cộng đồng ở các trường Bắc Carolina đã khẳng định tầm quan trọng của gia đình
và cộng đồng trong việc tham gia, giúp nhà trường nâng cao thành tích học tập
của học sinh cũng như trang bị những kiến thức tốt cho sinh viên tốt nghiệp để tìm
những việc làm hiệu quả và trở thành công dân cạnh tranh toàn cầu. Bên cạnh đó
tài liệu còn đưa ra tám yếu tố cần thiết để tăng cường sự tham gia của gia đình và
cộng đồng .
Tác giả Tangri và Moles trong cuốn sách “Cha mẹ và cộng đồng” đã
nghiên cứu và chỉ ra những ảnh hưởng khi cha mẹ học sinh có những hình thức
tham gia vào quá trình học tập của học sinh. Tác giả Walberg, H.J và cộng sự
trong cuốn “Nhà trường dựa vào gia đình và cho kết quả” đã điều tra các hiệu
ứng kết quả , thành tích của học sinh khi có sự hỗ trợ của cha mẹ học sinh vào
hoạt động của học sinh. Kết quả cho thấy học sinh nào có cha mẹ tham gia nhiều
vào hoạt động học tập của con em thì thành tích của con em họ sẽ có chất lượng
cao hơn so với học sinh không có bố mẹ tham gia.
Trong nghiên cứu “Sự tham gia của phụ huynh trong các trường học”
của tác giả Comer,J đã mô tả các mối quan hệ đang thay đổi giữa các trường
học và cộng đồng, đồng thời thảo luận về vai trò quan trọng của phụ huynh

khi tham gia vào công tác giáo dục trong nhà trường. Tác giả đã trình bày chi
tiết về các chương trình phụ huynh tham gia ở các trường học tại Connecticut,
kết quả có sự tăng vọt khi có sự tham gia của cha mẹ học sinh.
6


Tác giả Laura Brannelly và Joan Sullivan-Owomoyela trong cuốn
“Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng đóng góp cho giáo dục trong các điều
kiện xung đột ” đã đề cập đến sự tham gia của cộng đồng và phát triển mô
hình cộng đồng tham gia vào giáo dục ở các nước Afghanistan, Iraq, Liberia,
Uganda...các tác giả đã nghiên cứu sự tham gia của cộng đồng vào giáo dục
trong hoàn cảnh chính trị của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ khác nhau. Tác
giả đã khẳng định: Giáo dục đóng góp rất nhiều vào nỗ lực tái thiết và giải
quyết xung đột đất nước, nhưng trong bối cảnh như vậy cộng đồng sẽ phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức khi tham gia vào hoạt động giáo dục.
Các tác giả đã đưa ra vai trò quan trọng của cộng đồng trong việc tham gia
vào bối cảnh tái thiết đất nước sau xung đột và xây dựng lại giáo dục.
Tác giả Cotton Kathleen trong cuốn “Mối quan hệ trong nhà trường”
đã chỉ ra mối quan tâm lớn nhất đã viết về sự tham gia của cha mẹ học sinh
vào giáo dục của nhà trường, bao gồm nhiều hình thức khác nhau như: Cha
mẹ có thể hỗ trợ việc học của con em mình bằng cách tham gia các môn học
và đáp ứng các nghĩa vụ học tập. Họ có thể tham gia nhiều hơn trong việc
giúp đỡ con cái của họ, tích cực việc dạy kèm con ở nhà để cải thiện việc học,
khuyến khích, tạo điều kiện về thời gian, không gian học thích hợp cũng như
đáp ứng các mong muốn của con em mình, kết quả học của con em đạt được
những thành tích cao hơn.
* Nghiên cứu ở Việt Nam
Giáo dục là sản phẩm của xã hội, đồng thời là một trong những nhân tố
đánh dấu nấc thang trình độ văn minh của các thời đại trong lịch sử. Sự tồn tại và
phát triển của giáo dục chịu sự chi phối của sự phát triển kinh tế - xã hội, và

ngược lại với chức năng của mình, giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc tái
sản xuất sức lao động cho xã hội, khơi dậy, thức tỉnh và phát huy tiềm năng sáng
tạo của mỗi con người, tạo ra môi trường cho sự phát triển kinh tế xã hội. Chính
vì điều đó mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và cộng đồng xã hội thường
xuyên được diễn ra cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, tư tưởng lấy dân làm
gốc đã được thực hiện sâu sắc trong quá trình phát triển của đất nước, chân lý
7


về vai trò của quần chúng nhân dân đã khẳng định “Dễ trăm lần không dân
cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Sự nghiệp giáo dục của Đảng ta
đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh , luôn
nêu cao khẩu hiệu “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân”.
Những tư tưởng đó đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng có hiệu quả trong
công tác giáo dục và đã trở thành sức sống, là dòng chảy xuyên suốt trong
truyền thống giáo dục Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu”, sau khi cách mạng tháng Tám thành công, tháng 10 năm 1945 Người ra
lời kêu gọi chống nạn thất học, phát động phong trào xóa nạn mù chữ trong
toàn quốc, nêu nhiệm vụ, phương châm chống nạn thất học:
Những người đã biết chữ dạy cho những người chưa biết chữ...Những
người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết, vợ chưa biết thì chồng
bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ chưa biết thì con cái bảo, người ăn,
người làm không biết chữ thì chủ nhà bảo; các người giàu có thì mở lớp học
tư gia dạy cho những người không biết chữ...[9, tr.39].
Lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học của Hồ Chí Minh đã vạch ra
cương lĩnh hành động cho phong trào bình dân học vụ, đây là cơ sở để kiến
tạo và xây dựng một nền giáo dục toàn dân ngay sau khi đất nước giành được
độc lập. Khắp nơi từ thành thị đến nông thôn, người người đi học, nhà nhà đi

học, đâu cũng là trường ở đâu cũng có lớp xóa nạn mù chữ. Người dân hăng
hái thực hiện kkhẩu hiệu : “Người biết chữ dạy người không biết chữ, chồng
dạy vợ, cha dạy con”. Người đã nhấn mạnh ” Giáo dục là sự nghiệp của quần
chúng, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, cứ là người Việt Nam thì phải tham
gia học tập, tham gia xóa nạn mù chữ [23, tr.19].
Đến năm 1946, đất nước tiếp tục bước vào công cuộc kháng chiến
trường kì chống Pháp, đường lối lãnh đạo của Đảng là “Kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh ”.
Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất, chúng ta có
nhiều điều kiện thuận lợi hơn để đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục. Giai
đoạn này, giáo dục Việt Nam đạt được một số kết quả nhất định trong việc
8


thống nhất hệ thống giáo dục của hai miền Nam – Bắc. Đảng và nhà nước ta
đã thực hiện các đợt cải cách giáo dục: Năm 1979 Bộ Chính trị ra nghị quyết
số 14 thực hiện cải cách giáo dục, triển khai thống nhất chương trình phổ
thông cả nước. Năm 1981 Hội đồng chính phủ ra quyết định số 124 thành lập
hội đồng giáo dục ở các cấp, ngay sau đó, ngày 9 tháng 12 năm 1981 Bộ giáo
dục đã ra quyết định ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Hội đồng
giáo dục các cấp ở chính quyền địa phương.
Trong cuốn “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI” Giáo
sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc đã khẳng định:“ Xã hội hóa công tác giáo dục
là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con
đường giáo dục nước ta” và “ Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của
nhà nước mà là của toàn xã hội; mọi người cùng làm giáo dục, nhà nước và
xã hội, Trung ương và địa phương cùng làm giáo dục” [22, tr.330-331].
Bộ giáo dục và Đào tạo cũng đã có “ đề án xã hội hóa giáo dục và
đào tạo” để đánh giá thực trạng, tìm ra những giải pháp xã hội hóa mang
tầm vĩ mô, nhằm tạo ra những thay đổi trong giáo dục và đào tạo thời kì

công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực có
chất lượng cho đất nước.
Tác giả Phạm Minh Hạc trong tác phẩm “Một số vấn đề giáo dục Việt
Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI” đã khẳng định: “Sự nghiệp giáo dục
không phải chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người cùng làm
giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung ương và địa phương cùng làm giáo
dục” [15, tr.29, 71]. Đồng quan điểm đó, trong tác phẩm “Xã hội hoá công
tác giáo dục” , tác giả Phạm Tất Dong đã nhấn mạnh tầm quan trọng của
công tác này, đặc biệt tác giả đã giải quyết triệt để nội hàm của khái niệm xã
hội hóa giáo dục, quan tâm đến vai trò của các lực lượng xã hội trong việc
phát triển giáo dục nói chung.
Xã hội hóa giáo dục là chủ trương, chính sách mang tầm tư duy chiến
lược của Đảng và Nhà nước, là xu thế tất yếu khách quan của sự phát triển xã
hội. Vì vậy, tác giả Võ Tấn Quang khẳng định: “Xã hội hóa là con đường
giải quyết các mâu thuẫn trong giáo dục hiện nay, mở ra con đường dân chủ
9


hóa giáo dục, gắn với thực tiễn cuộc sống tăng cường nguồn lực cho giáo
dục” [29, tr.52]. Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, các nghiên cứu về
xã hội hóa giáo dục ngày càng được tiến hành rộng rãi, trên nhiều lĩnh vực,
các tác giả Nguyễn Mậu Bành, Trần Kiểm, Thái Duy Tuyên, Lê Đức Phúc… có
nhiều công trình viết về hoạt động xã hội hóa giáo dục, coi xã hội hóa giáo dục là
biện pháp tạo động lực phát triển xã hội, nâng tầm tri thức, trí tuệ con người Việt
Nam. Các nghiên cứu đã đề cập hầu hết đến các vấn đề cơ bản của xã hội hóa giáo
dục, xây dựng hệ thống lý luận vững chắc cũng như đề xuất các biện pháp nâng
cao hiệu quả, chất lượng công tác xã hội hóa giáo dục.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục trung học cơ sở là bậc
học đang có sự thay đổi lớn về tâm - sinh lý, do vậy hoạt động xã hội hóa
giáo dục từ nhà trường - gia đình - xã hội là rất cần thiết, thực hiện theo

phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” nhằm huy động tối đa các
nguồn lực của gia đình - xã hội góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cấp
trung học cơ sở ở các địa phương. Hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học
cơ sở cũng được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều luận văn, luận án như:
Tác giả Nguyễn Hữu Tựu nghiên cứu về “ Biện pháp quản lý công tác xã hội
hóa giáo dục để xây dựng trường trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh
Quảng Nam”, đã làm rõ mối quan hệ giữa gia đình - nhà trường và xã hội và
đề xuất một số giải pháp kết hợp trong công tác xây dựng trường trung học
cơ sở đạt chuẩn quốc gia. Đề tài luận văn thạc sỹ “ Quản lý công tác xã hội
hóa giáo dục THCS tỉnh Hòa Bình nhằm khắc phục tình trạng học sinh bỏ
học” của tác giả Nguyễn Văn Hiển cũng đã đánh giá thực trạng học sinh bỏ
học trong tỉnh và đề xuất một số nhóm biện pháp xã hội hóa để khắc phục
tình trạng bỏ học của học sinh….
Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Đặng Anh Kiệt với đề tài: “Một
số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở ở huyện
Châu Thành, tỉnh Hậu Giang”, trên cơ sở lý luận xã hội hóa giáo dục trung
học cơ sở, thực trạng công tác xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở ở địa
phương, tác giả đã xây dựng hệ thống biện pháp thúc đẩy nhanh quá trình xã
hội hóa giáo dục trung học cơ sở.Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Đình
10


Thiêm về “ Quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục ở các trường trung học cơ
sở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh”,
Qua ý kiến của các nhà nghiên cứu, có thể thấy: hoạt động xã hội hóa
giáo dục là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đã được nghiên cứu
và đề cập trong nhiều văn kiện, tác phẩm của các nhà khoa học quản lý. Tuy
nhiên, hoạt động quản lý xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở, yếu tố quyết
định sự thành công của công tác xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở ở khu
vực miền núi ít được các nghiên cứu đề cập đến hoặc được đề cập ở mức độ

chung chung của các biện pháp hoặc ở các địa phương có nhiều khó khăn về
kinh tế và xã hội. Việc nghiên cứu quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục
trung học cơ sở ở khu vực miền núi có điều kiện kinh tế kém phát triển phát
triển, có trình độ dân trí thấp như huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình thì chưa có
công trình nào nghiên cứu, đề cập một cách cụ thể và có hệ thống. Do vậy với
tầm quan trọng của hoạt động xã hội hóa giáo dục thì việc tiếp tục nghiên
cứu là hết sức cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động xã hội hoá
giáo dục trung học cơ sở huyện Kim Bôi, từ đó đề xuất những nhóm biện
pháp quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở trên địa bàn
huyện nhằm góp phần phát triển chất lượng giáo dục trung học cơ sở trên địa
bàn trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ cơ sở lý luận về vấn đề quản lý hoạt động xã hội hoá
giáo dục nói chung và xã hội hoá giáo dục bậc trung học cơ sở nói riêng.
- Khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng quản lý hoạt động xã hội hoá
giáo dục trung học cơ sở Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động xã hội hoá giáo dục
trung học cơ sở huyện Kim Bôi trong thời gian tới.
11


4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục cấp trung học cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở huyện Kim Bôi,
tỉnh Hòa Bình.

* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu cụ thể quản lý hoạt động xã hội hóa giáo
dục trung học cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Đi sâu vào các lĩnh vực:
nhận thức về hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở; sự phối hợp và
cộng đồng trách nhiệm, cơ chế chính sách trong việc phát triển giáo dục trung
học cơ sở ở huyện Kim Bôi trong giai đoạn hiện nay.
Thời gian nghiên cứu khảo sát từ 2012 đến 2015.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng, hiệu quả của hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó phụ thuộc rất lớn
vào hoạt động quản lý. Nếu các chủ thể xác định và thực hiện tốt các biện pháp
như: tổ chức tuyên truyền, vận động về hoạt động xã hội hóa giáo dục; xây dựng
kế hoạch phát triển giáo dục trung học cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
của địa phương; uy động tất cả lực lượng tham gia hoạt động xã hội hóa giáo
dục... quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động của 3 môi trường giáo dục nhà trường
- gia đình và xã hội thì chất lượng, hiệu quả hoạt động xã hội hóa giáo dục Trung
học cơ sở huyện Kim Bôi sẽ được nâng lên.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động xã hội hóa giáo dục, tác
giả vận dụng quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc, quan điểm logic – lịch sử
và quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích các vấn đề liên quan.
12


* Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hoá những
vấn đề lý luận cơ bản của các công trình nghiên cứu khoa học, các tài liệu lí
luận về hoạt động xã hội hóa giáo dục để làm cơ sở cho nghiên cứu thực tiễn

các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
trên địa bàn huyện Kim Bôi – tỉnh Hòa Bình.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các bảng hỏi với đối tượng cán bộ quản lý phòng giáo dục, đội ngũ
hiệu trưởng, hiệu phó các trường, đội ngũ giáo viên trung học cơ sở nhằm thu được
kết quả nghiên cứu.
Tiến hành xin ý kiến chuyên gia, tổng kết kinh nghiệm về hoạt động xã hội
hóa giáo dục và quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục những ưu điểm và hạn chế
bất cập để rút ra những kết luận cần thiết.
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động xã hội hóa giáo dục của các
trường trung học cơ sở để rút ra những kết luận về nội dung nghiên cứu.
Phương pháp tọa đàm, trao đổi, phỏng vấn: Tọa đàm, trao đổi, phỏng
vấn đối với cán bộ quản lý, giáo viên, cha mẹ học sinh, các tổ chức xã hội
...từ đó rút ra những kết luận cho nhiệm vụ nghiên cứu.
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu từ những vấn đề đã và
đang diễn ra hoạt động xã hội hóa giáo dục, nhằm đúc rút thành những kinh
nghiệm nâng cao hiệu quản hoạt động xã hội hóa giáo dục và quản lý hoạt
động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở ở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình có
tính đặc thù còn gặp nhiều khó khăn trong đó có hoạt động xã hội hóa giáo
dục trung học cơ sở.
Nhóm phương pháp hỗ trợ
Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản lý
về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan tới việc nghiên cứu đề tài;

13


học tập trao đổi kinh nghiệm các trườngtrong tỉnh về quản lý hoạt động xã hội
hóa giáo dục.
Sử dụng thống kê xử lý kết quả khảo sát nhằm rút ra các kết luận khoa

học khái quát cho đề tài.
7. Ý nghĩa của đề tài
Bổ sung và làm phong phú về lý luận về quản lý xã hội hóa giáo dục; làm
rõ thực trạng quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở và đề xuất các
biện pháp quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở huyện Kim Bôi
hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học
cho các nhà lãnh đạo quản lý xã hội hóa giáo dục vận dụng thực tiễn trong
công tác Giáo dục và Đào tạo, làm tài liệu tham khảo cho các hiệu trưởng, các
nhà quản lý giáo dục ở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Bao gồm mở đầu, 3 chương (9 tiết) kết luận kiến nghị, danh mục các tài
liệu tham khảo, phụ lục.

14


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Xã hội hóa giáo dục
Thuật ngữ xã hội hóa được các nhà kinh tế học, xã hội học, giáo dục
học sử dụng nhiều vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhằm biểu
đạt những vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu của mình. Năm 1968 trong cuốn
“Giáo dục học”, Boloiview đã cho rằng “ Xã hội hóa là quá trình cá nhân hòa
nhập vào xã hội hay vào một trong các nhóm của họ thông qua quá trình
chuẩn mực và giá trị cho từng nhóm xã hội”, năm 1989 G.Endrweit đã quan
niệm “Xã hội hóa được hiểu chung như là một quá trình biện chứng, trong đó

mỗi người, với tư cách là thành viên của xã hội trở nên có năng lực hành động
trong xã hội đó và mặt khác thông qua quá trình này duy trì và tái sản xuất xã
hội”. Tuy cách diễn đạt về khái niệm xã hội hóa của các nhà khoa học là khác
nhau nhưng bản chất đều cho thấy, xã hội hóa là quá trình động viên mọi
tầng lớp nhân dân tham gia một cách tích cực và chủ động vào một lĩnh vực
xã hội nào đó, huy động hợp lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của
Nhà nước và của nhân dân nhằm đạt được các mục tiêu phát triển xã hội.
Trong thực tiễn cách mạng, thuật ngữ xã hội hóa được dùng để chỉ cách triển
khai, thực hiện chủ trương của Đảng bằng con đường giác ngộ, vận động và
tổ chức sự tham gia tích cực, tự nguyện của mọi lực lượng xã hội, của toàn
dân vào sự nghiệp chung, đồng thời cũng tăng cường trách nhiệm của Đảng
và Nhà nước đối với mọi mặt của đời sống nhân dân.
Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, nằm trong kiến trúc thượng
tầng nhưng đồng thời là bộ phận của cơ sở hạ tầng. Khái niệm xã hội hóa giáo
dục được các nhà giáo dục học và chính trị học tiếp cận trên hai phương diện:
thứ nhất, khái niệm chỉ sự tăng cường chú ý, hưởng ứng, quan tâm của xã hội
đóng góp vật chất và tinh thần cho sự nghiệp giáo dục; thứ hai, khái niệm chỉ
sứ mệnh của ngành giáo dục, của nhà trường làm cho người học được thích
ứng nhanh với đời sống xã hội ( xã hội hóa cá nhân). Theo UNESCO, xã hội
15


hóa giáo dục đồng nghĩa với thuật ngữ “xã hội học tập”, thể hiện trên hai khía
cạnh song hành, gồm: mọi tổ chức, mọi tập thể, mọi cá nhân theo khả năng của
mình đều có thể cung ứng cơ hội học tập cho cộng đồng và mọi người dân trong
cộng đồng đều có thể tận dụng cơ hội để có cơ hội học tập và tham gia phát triển
giáo dục cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân.
Nói về vấn đề này, tác giả Phạm Minh Hạc cũng cho rằng: “Mọi thành
viên trong xã hội đều phải tham gia xây dựng giáo dục và được hưởng thụ giáo
dục” [13, tr. 85]. Với ý nghĩa đó, xã hội hóa giáo dục chính là: giáo dục cho

mọi người (Education for all) và tất cả cho giáo dục (All for Education). Điều
này có nghĩa: Xã hội hóa giáo dục là quá trình giáo dục gia nhập và hòa nhập
vào cộng đồng, đồng thời xã hội tiếp nhận giáo dục như là một công việc
chung mà mọi cá nhân, đoàn thể, tổ chức, bộ máy đều có trách nhiệm tham gia.
Bản chất của xã hội hóa giáo dục là tổ chức xây dựng một nền giáo dục
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, giảm bớt gánh nặng cho ngân
sách của nhà nước, đưa giáo dục gắn với xã hội, với cộng đồng và giáo dục
phục vụ mục tiêu xã hội, phục vụ cộng đồng.
Nội dung xã hội hóa giáo dục bao gồm: huy động các lực lượng xã hội
tham gia đầu tư cho giáo dục; tham gia vào quá trình đa dạng hóa các loại hình
trường, lớp, hình thức học tập; tạo lập và đẩy mạnh phong trào học tập rộng khắp
trong xã hội; mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt tuổi tác nghề nghiệp,
giới tính, dân tộc, tôn giáo đều được học tập, học tập thường xuyên và học tập
suốt đời; huy động các lực lượng xã hội tham gia xây dựng, quản lý môi trường
giáo dục lành mạnh; tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội,
làm cho mọi người, mọi tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các doanh
nghiệp và mọi cá nhân trong xã hội nhận thức và thực hiện đầy đủ trách nhiệm
của mình trong sự nghiệp giáo dục; tham gia đóng góp, đổi mới cơ chế quản lý,
điều hành giáo dục, tích cực chống lại các tiêu cực trong ngành giáo dục đang diễn
ra tương đối phổ biến hiện nay.
Là cuộc vận động lớn trong xã hội, phương pháp và hình thức xã hội
hóa giáo dục được thể hiện thông qua: sự tham gia đóng góp của toàn Đảng,
toàn dân, trong đó ngành giáo dục là nòng cốt, đa dạng hóa các nguồn đầu tư
16


về nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực cho giáo dục; phát triển đa dạng các loại
hình giáo dục chính quy và phi chính quy: Công lập, dân lập, tư thục. Mọi
người đều có trách nhiệm đối với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục vừa có
quyền lợi được thụ hưởng những thành quả do giáo dục mang lại. Mọi người

đều được học tập, học thường xuyên, học suốt đời, tiến tới một xã hội học tập.
Xã hội hóa giáo dục đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhanh quá
trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Xã hội hóa giáo dục đã huy động được sức mạnh
tổng hợp của toàn dân, của xã hội vào việc tham gia công tác giáo dục. Đây là
điều kiện tiên quyết để phát triển toàn diện và hiệu quả sự nghiệp giáo dục thế
hệ trẻ nói riêng và nền giáo dục toàn dân nói chung.
Điều 12, Luật giáo dục năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 ghi rõ:
Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của
toàn dân; thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các hình thức giáo dục;
khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển
sự nghiệp giáo dục.
Bản chất xã hội của xã hội hóa giáo dục là tổ chức thực hiện xây dựng
một nền giáo dục xã chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Giảm bớt được gánh
nặng và sự ''khoán trắng'' về đầu tư cho giáo dục. Bên cạnh đó xã hội hóa giáo
dục chính là ''giáo dục cho tất cả mọi người; tất cả mọi người cho sự nghiệp
giáo dục '', đó là đưa giáo dục gắn với xã hội, với cộng đồng; giáo dục phục
vụ mục tiêu xã hội, phục vụ cộng đồng. Cơ sở tư duy của xã hội hóa giáo dục
là đặt giáo dục vào đúng vị trí của nó. Giáo dục là bộ phận không thể tách rời
của hệ thống xã hội. Giáo dục cùng với khoa học công nghệ là động lực phát
triển kinh tế xã hội.
Nhiều chuyên gia có tâm huyết đã có những bài viết, công trình nghiên
cứu xung quanh vấn đề xã hội hóa giáo dục; Nguyên Bộ trưởng Phạm Minh
Hạc trong cuốn Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI đã khẳng
định: Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã
hội, mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, trung ương và địa
phương cùng làm giáo dục. Chuyên gia Nguyễn Trần Bạt trong bài ''Xã hội
17



hoá giáo dục'', sau khi nêu rõ: Xã hội hóa giáo dục là tinh thần, là nội dung
quan trọng nhất của cải cách giáo dục, bảo đảm sự thành công của cải cách
giáo dục, tác giả đã khẳng định: Xã hội hóa giáo dục có nghĩa là Nhà nước
tạo ra không gian xã hội, pháp luật và chính trị cho việc hình thành một khu
vực giáo dục mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp cho sự nghiệp giáo dục,
thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng giáo dục, tức là giáo dục phải thuộc về
xã hội. Tác giả còn đề cập và nhấn mạnh: Xã hội hóa giáo dục không chỉ là
đa dạng hoá hình thức và các nguồn đầu tư cho Giáo dục và Đào tạo, mà
quan trọng nhất là đa dạng hoá nội dung hay đa dạng hoá, hiện đại hoá
chương trình giáo dục thích ứng với những đòi hỏi của xã hội.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020 của nước
ta đã đề ra mục tiêu về giáo dục và đào tạo là: “Nhà nước tăng đầu tư, đồng
thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục.
Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.Theo quan điểm của Đại hội XI thì đẩy
mạnh xã hội hoá giáo dục, huy động mọi nguồn lực để phát triển sự nghiệp
giáo dục và xây dựng xã hội học tập là chuyển từ chủ trương “giáo dục cho
mọi người sang chủ trương mọi người phải học tập suốt đời”. Xã
hội hoá giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là một trong những giải pháp chủ yếu
để phát triển giáo dục, đào tạo.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu:
Xã hội hoá giáo dục là một quá trình mà cả cộng đồng và xã hội cùng
tham gia vào giáo dục. Trong đó mọi tổ chức ,gia đình và công dân có trách
nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục
tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
1.1.2. Hoạt động xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, trường trung học cơ sở được tiếp
nhận học sinh từ 11 đến 15 tuổi ( học từ lớp 6 đến lớp 9), cấp trung học cơ sở
được nối liền bậc tiểu học và bậc trung học phổ thông. Học sinh ở lứa tuổi
trung học cơ sở với đặc điểm tâm sinh lý thay đổi lớn. Do vậy quản lý trường

trung học cơ sở phải nhằm đạt mục tiêu của giáo dục trung học cơ sở quy định
18


trong luật giáo dục là : Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và
phát triển kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông ở trình độ
cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
trung học phổ thông , trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Nội dung của giáo dục trung học cơ sở là phải củng cố, phát triển
những nội dung đã học ở bậc tiểu học, tiếp tục hoàn thành nội dung giáo dục
trung học cơ sở, đồng thời nhằm đảm bảo kiến thức, kỹ năng phát triển toàn
diện và hướng nghiệp dạy nghề cho mọi học sinh. Bên cạnh đó còn nâng cao
một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh
sau khi tốt nghiệp cấp trung học cơ sở để tiếp tục học lên trung học phổ
thông, trung cấp, cao đẳng, đại học hoặc học nghề.
Nhiệm vụ của giáo dục trung học cơ sở nhằm thực hiện các hoạt động
giáo dục theo mục tiêu, chương trình, kế hoạch giáo dục trung học cơ sở do
Bộ giáo dục ban hành. Tổ chức cho giáo viên và học sinh tham gia các hoạt
động văn nghệ, thể dục thể thao, bảo vệ môi trường, tuyên truyền pháp luật,
vận động nhân dan xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh góp phần thực
hiện mục tiêu giáo dục.
Phương pháp giáo dục trung học cơ sở phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khă năng làm việc theo nhóm, rèn luyện
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
hứng thú học tập cho học sinh.
Từ cách tiếp cận khái niệm xã hội hóa giáo dục và những vấn đề cơ bản
trên, chúng tôi quan niệm như sau:
Hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở là một bộ phận của xã hội
hóa giáo dục; là huy động và phát huy trách nhiệm của nhà trường, gia đình và

xã hội cùng tham gia phát triển giáo dục trung học cơ sở nhằm đáp ứng mục
tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục trung học cơ sở, giúp học sinh
hình thành những cơ sở cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học phổ
thông hoặc đi vào cuộc sống lao động.
19


Xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở không phải là trách nhiệm riêng của
cá nhân hay tổ chức nào, thực chất đây là nhiệm vụ và trách nhiệm của các lực
lượng xã hội , huy động các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể quần chúng,
các đơn vị sản xuất kinh doanh, các nhà máy, xí nghiệp chung tay, góp sức xây
dựng và phát triển giáo dục trung học cơ sở, là quá trình huy động trí tuệ của
nhân dân vào hoạt động giáo dục toàn diện đối với học sinh lứa tuổi trung học sơ
sở nói riêng. Hơn nữa trong hoàn cảnh, điều kiện đất nước ta hiện nay vẫn còn
nhiều trẻ em ở lứa tuổi trung học cơ sở còn chưa có đủ điều kiện để được đến
trường vì vậy xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở còn có ý nghĩa giúp cho các
bậc cha mẹ và những người thân của trẻ có được kiến thức, thái độ, kỹ năng
đúng trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ tại gia đình. Để nâng cao chất lượng xã
hội hóa giáo dục trung học cơ sở, mỗi lực lượng trong xã hội: nhà trường, gia
đình, xã hội đều phải nhận rõ được trách nhiệm của mình và cần có sự kết hợp
đồng bộ với nhau trong công tác giáo dục:
Trách nhiệm của nhà trường: “Nhà trường có trách nhiệm chủ động phối hợp
với gia đình và xã hội để thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục” [11, điều 93]
Trách nhiệm của gia đình: “Mọi người trong gia đình có trách nhiệm
xây dựng gia đình văn hóa, tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ của con em; người lớn tuổi có trách
nhiệm giáo dục, làm gương cho con em, cùng nhà trường nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục” [11, mục 2, điều 94].
Trách nhiệm của xã hội: “Góp phần xây dựng phong trào học tập và

môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn, ngăn chặn những hoạt động có ảnh
hưởng xấu đến thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Tạo điều kiện để người
học được vui chơi, hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao lành mạnh; Hỗ trợ về
tài lực, vật lực cho sự nghiệp phát triển giáo dục theo khả năng của
mình”[11, điều 97].
Trẻ em ở lứa tuổi trung học cơ sở có sự thay đổi rất lớn về tâm – sinh lý,
đây là lứa tuổi không còn là trẻ con và cũng chưa trở thành người lớn, do đó sự
hình thành và phát triển nhân cách, đạo đức ảnh hưởng rất nhiều từ xã hội.
20


1.1.3. Quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong
các hoạt động của con người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận thức
được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được những thành công to
lớn. Quản lý là một khái niệm rộng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó,
khái niệm quản lý khi được nêu ra phải luôn gắn với các loại hình quản lý cụ
thể. Trong mỗi cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những
khái niệm khác nhau
Theo lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin: “ Quản lý xã hội một cách khoa
học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hay những hệ
thống khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn
những quy luật khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo cho nó hoạt động và
phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra”. Nhấn mạnh về vai trò và chức năng của
quản lý, Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Quản
lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt
động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [3,
tr.9]. Tác giả Trần Khánh Đức cho rằng: “Quản lý là hoạt động có ý thức của
con người nhằm định hướng, tổ chức, sử dụng các nguồn nhân lực và phối
hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng người để đạt được

các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất”[12, tr.328].
Từ quan niệm như đã trình bày ở trên, chúng tôi cho rằng:
Quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở là quản lý cách thức
và biện pháp của các chủ thể quản lý tác động đến các trường trung học cơ sở
trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhằm huy động và phát huy trách nhiệm của
nhà trường, gia đình và xã hội cùng tham gia phát triển giáo dục trung học cơ sở
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trung học cơ sở.
Khái niệm quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục chỉ rõ:
Quản lý xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở trước hết là xây dựng cơ
chế vận hành của hoạt động xã hội hoá, tạo hành lang để hoạt động xã hội
hoá đi đúng quỹ đạo theo mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Quản lý hoạt
động xã hội hoá giáo dục trung học cơ sở đòi hỏi phương pháp mềm dẻo,
21


linh hoạt, tạo được phong trào, định hướng được phong trào, phát huy dân chủ
trong nhân dân, tăng cường nguồn lực của xã hội và cộng đồng cho giáo dục
và đào tạo.
Quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở là cách làm cụ thể
của các chủ thể quản lý tác động đến các trường trung học cơ sở thực hiện có
hiệu quả xã hội hóa giáo dục, cùng giúp cho công tác quản lý có những phương
pháp linh hoạt và thích hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Nếu quản lý
theo phương pháp máy móc, cứng nhắc sẽ rơi vào tình trạng hành chính hóa, làm
thui chột tính năng động của hoạt động xã hội hóa. Nếu quản lý nghiêng về
phương pháp dễ dãi, đơn giản sẽ đẩy hoạt động xã hội hóa vào những sai lầm,
nhất là huy động các nguồn thu. Vì vậy, quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục
trung học cơ sở cần phải có phương pháp mềm dẻo, linh hoạt, tạo được phong trào,
định hướng được phong trào, phát huy dân chủ trong nhân dân, tăng cường nguồn
lực của xã hội và cộng đồng cho giáo dục trung học cơ sở.
Dưới góc độ của người đi học: quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục ở

đây có nghĩa tạo điều kiện để người đi học được tham gia vào việc quản lý
của trường cũng như xây dựng chương trình học tập, giảng dạy.
Nhìn từ phía thầy giáo: quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục nhà trường
chính là nhằm mục tiêu đảm bảo quyền tự do giảng dạy của họ hơn nữa. Với quá
trình xã hội hóa, từng trường, từng địa phương, từng đối tượng học sinh được quyền
có chương trình cũng như cách thức giảng dạy riêng cho phù hợp.
Dưới góc độ phụ huynh: quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục là nhằm
đảm bảo cho họ quyền tự do lựa chọn nơi học tập cho con em của họ. Có
những gia đình giàu có, muốn con em của họ vào học ở những trường tốt hơn
thì nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức mở những cơ sở
giáo dục tiện nghi, chất lượng cao hơn để đáp ứng nhu cầu. Nhưng quản lý xã
hội hóa giáo dục không có nghĩa là nhà nước chuyển giao hay phó thác nhiệm
vụ hiến định của mình cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, mà là tạo điều
kiện để toàn xã hội tham gia vào giáo dục, sao cho nó đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của mọi thành viên trong xã hội, sao cho ai cũng được đến trường, ai
cũng có điều kiện hưởng cơ hội vào đời như nhau.
22


Quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục nói chung và quản lý hoạt động
xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở nói riêng nhằm nâng cao nhận thức của
các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể, tổ chức kinh tế - xã hội, các cá
nhân, cộng đồng về vai trò quan trọng của xã hội hoá giáo dục; xác định trách
nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội và nhân dân đóng
góp để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo của từng địa phương...Vì vây,
để quản lý xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở có hiệu quả trước hết đòi hỏi
nhà trường phải là chủ và chủ động, nhà trường xuất phát từ nhu cầu của mình
và của địa phương mà chủ động đề xuất ra nội dung cần thiết quản lý xã hội
hóa giáo dục, tiến hành việc thu thập thông tin, thăm dò dư luận, gợi ý sự
tham gia của những lực lượng cần thiết, chuẩn bị các phương án, các chương

trình, kế hoạch cụ thể…Trên cơ sở đó, chủ động tham mưu với các cấp lãnh
đạo và quản lý ngành cũng như địa phương về phương hướng, chủ trương,
mục đích yêu cầu, nội dung, cách thức thực hiện. Sau khi có chủ trương, nhà
trường phải là trung tâm tập hợp các lực lượng quần chúng, xây dựng các mối
quan hệ trong cơ chế phối hợp hành động, thống nhất theo kế hoạch, là trung
tâm thông tin hai chiều, trung tâm tư vấn chỉ đạo quản lý xã hội hóa giáo dục.
Đồng thời, nhà trường phải là nòng cốt xây dựng kế hoạch, nòng cốt trong các
việc làm cụ thể của các khâu tổ chức thực hiện như thực sự làm, theo dõi, đôn
đốc, quan sát, kiểm tra, đánh giá, sơ, tổng kết…qua đó để tạo niềm tin và sự
phấn khích trong cộng đồng cùng tham gia quản lý xã hội hóa giáo dục trung
học cơ sở một cách có hiệu quả.
1.2. Nội dung, đặc điểm quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung
học cơ sở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình
1.2.1. Nội dung quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình
Quản lý hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở huyện Kim Bôi bao
gồm nhiều nội dung khác nhau, trong đó tập trung ở các nội dung cơ bản sau:
* Mục tiêu, chương trình xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
Mục tiêu của xã hội hóa giáo dục là nhằm đào tạo con người phát triển
toàn diện. Mục tiêu cao nhất của giáo dục là xã hội hóa cá nhân đáp ứng được
23


yêu cầu xã hội để tăng nguồn lực, mở rộng quy mô, hình thức tổ chức, loại
hình giáo dục, thực hiện mục tiêu giáo dục, đáp ứng những yêu cầu và hoạt
động giáo dục trong nền kinh tế thị trường, tạo nguồn nhân lực có chất lượng
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, góp phần
làm cho “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, quản
lý mục tiêu, chương trình xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở phải phát huy
tiềm năng, trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự

nghiệp giáo dục - đào tạo. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ
chức đoàn thể, tổ chức kinh tế - xã hội, các cá nhân, cộng đồng về vai trò
quan trọng của xã hội hoá giáo dục; xác định trách nhiệm và nghĩa vụ của tổ
chức kinh tế, các tổ chức xã hội và nhân dân đóng góp để phát triển sự nghiệp
giáo dục và đào tạo của từng địa phương. Khuyến khích toàn xã hội tham gia phát
triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân có tâm
huyết được đóng góp để phát triển giáo dục và đào tạo và được bình đẳng trong
thụ hưởng dịch vụ, thành quả của giáo dục và đào tạo nhằm thực hiện một nền
giáo dục dân chủ rộng mở cho tất cả mọi người trong xã hội, một nền giáo dục
tiên tiến, hiện đại và giàu bản sắc dân tộc.
* Xây dựng kế hoạch xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
Đây là một nội dung quan trọng nhằm tạo được sự đồng thuận cao nhất
của các lực lượng xã hội, vận động được sức mạnh tổng hợp của các ban
ngành đoàn thể, kêu gọi được sự đóng góp hỗ trợ của các mạnh thường quân,
các nhà hảo tâm,… đặc biệt là sự đồng thuận, sự đóng góp của từng phụ
huynh học sinh để xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp, trang thiết bị dạy học,
cảnh quan, môi trường sư phạm. Bởi vì, kế hoạch là sản phẩm của hoạt động
quản lý, nó là kết quả của quá trình tư duy. Xây dựng kế hoạch là một phương
pháp tiếp cận hợp lý để đạt mục tiêu đã định từ trước, hơn nữa đây là phương
pháp tiếp cận không tách rời khỏi môi trường. Kế hoạch là công cụ quan trọng
của người quản lý, của người hiệu trưởng. Nó thể hiện sự hoạt động có trình
độ tổ chức cao, thay thế hoạt động manh mún, thiếu phối hợp, thất thường
bằng hoạt động theo các quyết định đã được cân nhắc; thay thế quản lý ứng
phó bằng quản lý theo mục tiêu.
24


Trong công tác xây dựng kế hoạch phải thực sự lôi cuốn các lực lượng
xã hội tham gia, đặc biệt với nhóm đối tượng thứ nhất vì như vậy đảm bảo các
điều kiện cơ bản cho sự thành công của kế hoạch. Các trường căn cứ vào tình

hình cụ thể của mình và các điều kiện khách quan khác xây dựng kế hoạch
nhưng nếu không có sự tham gia của nhóm đối tượng thứ nhất thì rất khó khăn
trong thực hiện. Nhóm đối tượng thứ hai tham gia xác định rõ các chỉ tiêu, biện
pháp cụ thể để hoàn thành kế hoạch. Vai trò cơ bản ở đây vẫn là vai trò quản lý
của các trường. Cán bộ quản lý các trường trung học cơ sở tham mưu xây dựng
kế hoạch phát triển giáo dục, các cấp uỷ Đảng, chính quyền tổ chức tham gia
góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục hàng năm và chiến lược phát
triển lâu dài. Trên cơ sở đó các ban ngành, đoàn thể mới thực sự đóng góp, xây
dựng kế hoạch. Lúc này kế hoạch không phải chỉ của ngành giáo dục, của cấp
trên, mà trở thành kế hoạch chung của mọi ngành, mọi cấp, mọi lực lượng cùng
thực hiện kế hoạch thông qua hội nghị, các nghị quyết, chỉ thị trở thành yêu
cầu, pháp lệnh cho tất cả mọi tổ chức, ban ngành cùng thực hiện.
Khi xây dựng kế hoạch phải có sự phân công nhiệm vụ cụ thể rõ ràng,
hợp lý cho mỗi tập thể, cá nhân. Sự phân công này dựa trên cơ sở là chức
năng của từng tổ chức, khả năng của từng người, với các việc cụ thể để có thể
đánh giá, kiểm tra được. Từ đó các ngành, các tổ chức đoàn thể phát huy tính
chủ động, sức sáng tạo để hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao. Ngành
giáo dục trên cơ sở nhiệm vụ được giao là cơ quan thường trực, có trách
nhiệm tiếp thu ý kiến, tham mưu chính quyền xây dựng kế hoạch, tổ chức,
phân công nhiệm vụ, phối hợp các nhiệm vụ và nguồn lực để đạt được mục
tiêu đề ra. Trong việc huy động các lực lượng xã hội tham gia xã hội hóa giáo
dục các trường trung học cơ sở cần tập trung chú ý huy động toàn xã hội tham
gia xây dựng môi trường thuận lợi để phát triển giáo dục; tổ chức các lực
lượng xã hội cùng tham gia thực hiện mục tiêu, nội dung giáo dục; huy động
các lực lượng xã hội tham gia xây dựng, phát triển hệ thống trường lớp và các
loại hình giáo dục trung học cơ sở; huy động xã hội đầu tư các nguồn lực cho
giáo dục phát triển. Đây là những vấn đề quan trọng, cấp bách đối với các
trường trong giai đoạn hiện nay khi Nhà nước đang trao quyền tự chủ, tự chịu
25



trách nhiệm đối với các trường tiểu học. Để thực hiện có hiệu quả nội dung
này cần phải xây dựng một cơ chế, chính sách phù hợp, tạo ra động lực cho sự
tham gia tích cực, chủ động, tự giác của các lực lượng tham gia.
* Triển khai tổ chức thực hiện xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
Xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta. Chủ trương này trở thành một cuộc vận động lớn mang lại hiệu
quả tích cực cho nền giáo dục Việt Nam. Xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở
là một chủ trương đúng đắn nhưng tổ chức thực hiện như thế nào cho có hiệu
quả là một thách thức lớn đối với các nhà quản lý, những người có trách
nhiệm chỉ đạo việc tổ chức thực hiện.“ Quản lý là điều khiển, tổ chức thực
hiện công việc”, nên quá trình quản lý, chỉ đạo triển khai tổ chức thực hiện xã
hội hóa giáo dục ở các trường Trung học cơ sở cần có những biện pháp tác
động đến cơ chế quản lý và chính sách tạo động lực thu hút đầu tư. Vì vậy,
khâu tổ chức thực hiện có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đảm bảo những
nguyên tắc và nội dung của hoạt động xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở. Từ
thực tiễn đã chứng minh rằng: để giáo dục và nhà trường thực sự phát huy
được vai trò chủ động, trung tâm và nòng cốt đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý
phải thực hiện đầy đủ, bài bản các bước của quá trình tổ chức thực hiện xã hội
hóa giáo dục. Nếu không tổ chức đúng đắn việc thực hiện chương trình hoạt
động thì việc lập kế hoạch cũng mới chỉ là mong muốn trên giấy. Mặt khác,
trong cấu trúc của quá trình quản lý nếu kế họach được coi là “xương sống”
thì tổ chức thực hiện chính là phần còn lại của “cơ thể” quản lý.
Tổ chức là một quá trình phân công và phối hợp các nhiệm vụ và các
nguồn lực để đạt được các mục tiêu đã vạch ra. Vì vậy, quản lý việc tổ chức thực
hiện xã hội hóa giáo dục cần nắm vững các yêu cầu cơ bản như vấn đề phân
công cá nhân hoặc nhóm cá nhân sao cho phù hợp với nguyện vọng, năng lực, sở
trường sẽ bảo đảm thắng lợi trong việc huy động các lực lượng tham gia vào sự
nghiệp giáo dục.
* Kiểm tra, đánh giá xã hội hóa giáo dục trung học cơ sở

Kiểm tra, đánh giá là một yếu tố cơ bản hết sức quan trọng của toàn bộ
quá trình điều hành và tổ chức thực hiện xã hội hoá giáo dục. Kiểm tra, đánh
26


×