Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ HIỆU QUẢ sử DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ nước PHƯỜNG PHÚ LA, QUẬN hà ĐÔNG, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.45 KB, 103 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG

3
13

1.1.

NGÂN SÁCH PHƯỜNG PHÚ LA
Quan niệm về ngân sách nhà nước, ngân sách phường

13

1.2.

và sử dụng ngân sách phường
Quan niệm, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng

24

Chương 2

đến hiệu quả sử dụng ngân sách phường Phú La
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGÂN

36


2.1.

SÁCH PHƯỜNG PHÚ LA
Đặc điểm địa lý, hành chính, kinh tế - xã hội liên quan

36

2.2.

đến sử dụng ngân sách phường Phú La
Thành tựu và hạn chế về hiệu quả sử dụng ngân sách

41

2.3.

phường Phú La thời gian qua
Nguyên nhân thành tựu, hạn chế và một số vấn đề cần

56

tập trung giải quyết để nâng cao hiệu quả sử dụng ngân
Chương 3

sách phường Phú La
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

65

NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH

3.1.

PHƯỜNG PHÚ LA
Quan điểm cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng

65

3.2.

ngân sách phường Phú La
Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử

72

dụng ngân sách phường Phú La
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

86
88
92


MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Xã, phường, thị trấn là cấp chính quyền cơ sở trong tổ chức hành chính

4 cấp ở nước ta. Đây là cấp trực tiếp triển khai mọi chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến với người dân; là nơi trực
tiếp giải quyết toàn bộ các quan hệ và lợi ích giữa Nhà nước với người dân.
Ngoài những điểm giống với xã và thị trấn, phường là đơn vị hành chính cơ
sở ở nội thành, nội thị, tổ chức theo khu vực dân cư ở đường phố, dưới quận.
Quyết định số 3940/QĐ-UB ngày 25/8/1990 của UBND thành phố Hà Nội đã
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp phường; trong đó chỉ rõ:
"Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị; là nơi trực tiếp thực
hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thực
hiện quyền và nghĩa vụ công dân. Chính quyền cấp phường có chức năng chủ
yếu là quản lý hành chính nhà nước, quản lý xã hội và chăm lo phục vụ đời
sống dân cư". Muốn thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, chính
quyền phường phải có nguồn ngân sách được hình thành từ nguồn cân đối
NSNN để đảm bảo nhu cầu chi tiêu theo những nguyên tắc ổn định, bền vững.
Với nguồn ngân sách ổn định, việc sử dụng có hiệu quả nguồn ngân sách này
sẽ góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn phường.
Ngân sách phường là một bộ phận cấu thành NSNN. Xét về hình thức,
ngân sách phường là toàn bộ các khoản thu chi trong dự toán đã được HĐND
phường quyết định và thực hiện trong một năm nhằm đảm bảo nguồn tài
chính cho chính quyền nhà nước cấp phường thực hiện chức năng, nhiệm vụ
về quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn. Xét về bản chất, ngân sách phường là
hệ thống các quan hệ kinh tế giữa chính quyền nhà nước cấp phường với các
chủ thể khác phát sinh trong quá trình hình thành và phân phối các nguồn tài
chính nhằm tạo lập quỹ tiền tệ tập trung để đáp ứng các nhu cầu chi gắn với

3


việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của chính quyền nhà nước

cấp phường.
Phú La là một phường trung tâm của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội,
mới thành lập từ tháng 5 năm 2008. Trong 5 năm qua (2010 -2015), để hoàn
thành chức năng, nhiệm vụ của một cấp chính quyền đô thị, HĐND và UBND
phường đã sử dụng có hiệu quả cao ngân sách được giao, thể hiện ở các chỉ
tiêu đặt ra từ đầu nhiệm kỳ (Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ I nhiệm kỳ
2010-2015) đều hoàn thành ở mức cao, với nhiều chỉ tiêu vượt định mức. Tuy
nhiên, trong 5 năm qua, bên cạnh những kết quả đạt được, thì việc sử dụng
ngân sách phường Phú La vẫn còn một số hạn chế, chẳng hạn như: việc sử
dụng vượt kế hoạch dự toán ngân sách hằng năm; tình trạng sử dụng điện,
nước, văn phòng phẩm còn chưa tiết kiệm; việc chi tổ chức hội nghị còn chưa
đúng so với các văn bản hiện hành, v.v. Một trong những nguyên nhân của
tình trạng này là nhận thức của nhiều cán bộ, công chức và người lao động
trong bộ máy hoạt động của Phường về vấn đề HQSD ngân sách còn chưa
đầy đủ; trong đó, có một số người cho rằng: ngân sách là khoản tiền cấp trên
cho, thiếu thì trên lại cấp tiếp, không phải băn khoăn tính toán chi li, v.v (!).
Điều đó đã hạn chế đến việc sử dụng có hiệu quả hơn nữa ngân sách phường.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế đó ở Phường Phú La; hơn nữa là do yêu
cầu sử dụng NSNN trong mọi thời điểm, mọi lĩnh vực đều phải đặt lên hàng
đầu tính hiệu quả, bởi năm nay đơn vị sử dụng có hiệu quả, không tự động
năm sau đơn vị tiếp tục sử dụng có hiệu quả, nên việc nghiên cứu vấn đề
“Hiệu quả sử dụng ngân sách phường” là rất cần thiết.
Từ lý do đó, tôi chọn đề tài "Hiệu quả sử dụng ngân sách phường
Phú La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội" làm đề tài thạc sĩ chuyên
ngành kinh tế chính trị, với mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào
sự phát triển của địa phương nơi tôi công tác và sinh sống.

4



2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đã có một số tài liệu, công trình nghiên cứu và các báo cáo tổng kết có
liên quan đến vấn đề mà đề tài luận văn nghiên cứu.
2.1. Về vị trí, chức năng, nội dung của ngân sách xã, phường, thị trấn
trong hệ thống NSNN và các quy định về sử dụng NSNN nói chung, có các
sách: Nguyễn Văn Tuyến (2007), Giáo trình Luật NSNN, Nxb Tư pháp, Hà
Nội; Bộ Tài chính (2005, 2010), Hệ thống mục lục NSNN, Nxb Tài chính,
Hà Nội; Bộ Tài chính (2010), Hướng dẫn thực hiện Luật NSNN, Nxb Tài
chính, Hà Nội. Nội dung các cuốn sách này đã chỉ ra vị trí, vai trò và nội dung
của ngân sách phường (xã, thị trấn); trong đó, đã chỉ rõ ngân sách phường là
một cấp ngân sách trong hệ thống 4 cấp NSNN, có vai trò đảm bảo nguồn tài
chính cho chính quyền nhà nước cấp phường thực hiện chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước về các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa
bàn. Cùng với đó, nội dung các cuốn sách này cũng đã chỉ ra những nguyên
tắc chung nhất trong việc sử dụng NSNN nói chung, mà việc sử dụng ngân
sách phường (xã, thị trấn) cũng phải chấp hành, bởi ngân sách phường là một
cấp NSNN. Do đó, đây là các cuốn sách tham khảo rất quan trọng đối với học
viên trong quá trình triển khai đề tài luận văn; bởi vấn đề HQSD ngân sách
phường phải được xem xét trước hết ở chỗ có chấp hành đúng với các nguyên
tắc sử dụng NSNN hay không?
2.2. Về nội dung quản lý ngân sách xã, phường, thị trấn có một số sách
tham khảo và công trình tiêu biểu như sau:
Về các sách tham khảo, có: Bộ Tài chính (2006), Chế độ kế toán ngân
sách và tài chính xã, Nxb Tài chính, Hà Nội; Bộ Tài chính (2010), Quản lý
Ngân sách xã, phường, Nxb Tài chính, Hà Nội; Bộ Tài chính (2010), Hướng
dẫn quản lý thu, chi Ngân sách xã, phường, thị trấn, Nxb Tài chính, Hà Nội;
Bộ Tài chính (2012), Công tác quản lý tài chính kế toán đối với chính quyền
xã, phường, thị trấn, Nxb Tài chính, Hà Nội; Bộ Tài chính (2006), Thông tư

5



60/2003/TT-BTC quy định về quản lý ngân sách xã và các hoạt động tài
chính khác của xã, phường, thị trấn, Nxb Tài chính, Hà Nội. Nội dung các
cuốn sách này đã cung cấp những kiến thức cơ bản về công tác quản lý thu –
chi ngân sách phường (xã, thị trấn); trong đó đã chỉ ra nội dung các khoản
thu, chi ngân sách phường (xã, thị trấn), những nguyên tắc cơ bản của công
tác quản lý ngân sách phường (xã, thị trấn) và những điểm khác biệt trong
thu, chi của ngân sách phường so với thu và chi của ngân sách xã. Các cuốn
sách nói trên là những tài liệu tham khảo rất quan trọng cho học viên trong
quá trình triển khai đề tài luận văn của mình; bởi nội dung của các cuốn sách
đó đã trực tiếp cung cấp những kiến thức cơ bản về quản lý ngân sách phường
(xã, thị trấn), cũng như cơ sở pháp lý cho việc sử dụng ngân sách phường, mà
việc đánh giá hiệu quả sử dụng ngân sách phường không thể xa rời những
nguyên tắc cơ bản trong quản lý ngân sách đã được các cuốn sách đó nêu ra.
Về tài liệu tham khảo, tiêu biểu có: Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của
Quốc hội, Dự án VIE/02/008 “Tăng cường năng lực của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân trong việc thẩm tra, quyết định và giám sát ngân sách”, Tài
liệu tập huấn cho Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn về lĩnh vực ngân
sách (Chuyên để 1 – 4). Nội dung của tài liệu này, trực tiếp là các chuyên đề
từ 1 đến 4, đã chỉ rõ vị trí, chức năng, nội dung của ngân sách phường (xã, thị
trấn) trong hệ thống 4 cấp NSNN; đồng thời, chỉ ra phạm vi, thẩm quyền của
HĐND, UBND phường (xã, thị trấn) trong việc sử dụng ngân sách phường
(xã, thị trấn). Đây là tài liệu rất bổ ích để học viên có thể tiếp thu làm rõ cơ sở
lý luận xem xét vấn đề “HQSD ngân sách phường”.
Về luận văn, luận án, tiêu biểu có: Nguyễn Hà Phương (2011), Nghiên
cứu công tác quản lý ngân sách xã, phường ở thành phố Việt Trì, luận văn
thạc sĩ kinh tế, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội; Hoàng Thị Yến (2014), Một
số giải pháp nâng cao công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn tỉnh Bắc
Cạn, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.


6


Trong luận văn của mình, tác giả Nguyễn Hà Phương đã luận giải
những vấn đề lý luận chung về quản lý ngân sách xã, phường; tác động của
việc thu chi ngân sách xã, phường đến đời sống kinh tế - xã hội của địa
phương; hệ thống quản lý ngân sách cấp xã, phường và các nguyên tắc quản
lý ngân sách xã, phường; trong đó, đã làm nổi bật đặc điểm, chức năng của
ngân sách xã, phường và vai trò của hoạt động thu chi ngân sách đối với việc
thực thi chức năng nhiệm vụ của chính quyền xã, phường trên địa bàn Thành
phố Việt Trì. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý
ngân sách xã, phường dưới góc độ của công tác quản lý tài chính – tiền tệ.
Điểm đáng chú ý trong 3 nhóm giải pháp mà tác giả Nguyễn Hà Phương đề
xuất là nhóm giải pháp nâng cao trình độ, nhận thức của cán bộ xã, phường
trong việc quản lý ngân sách xã, phường.
Trong luận văn của Hoàng Thị Yến, tác giả đã tập trung đánh giá tổng
quát công tác thu, chi ngân sách xã trên địa bàn tỉnh Bắc Cạn để đề xuất các
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý ngân sách xã.
Trong các giải pháp mà tác giả đề xuất có những giải pháp mà học viên có thể
tham khảo là: tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động tài chính
ngân sách xã; tiếp tục củng cố và kiện toàn bộ máy quản lý tài chính, ngân
sách xã; thực hiện tốt quy chế dân chủ công khai tài chính; tăng cường công
tác tuyên truyền phổ biến giáo dục thực hiện pháp luật. Mặc dù nội dung hai
luận văn nói trên không đề cập đến vấn đề HQSD ngân sách phường, nhưng
vẫn là những tài liệu bổ ích cho học viên tham khảo khi trình bày lý luận
chung về ngân sách phường và nghiên cứu đề xuất các giải pháp trong luận
văn của mình.
2.3. Về hiệu quả quản lý, sử dụng NSNN nói chung, cấp huyện và cấp
xã (phường, thị trấn) nói riêng, có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ

đã công bố, tiêu biểu là các công trình, như: Tô Thiện Hiền (2013), Nâng cao
hiệu quả quản lý NSNN tỉnh An Giang giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn

7


2020, luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh;
Phạm Công Hưng (2013), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chi ngân
sách huyện Thuận Thành, luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Nông nghiệp I Hà
Nội; Hoàng Thị Xinh (2014), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chi ngân
sách xã hội cho sự nghiệp xã hội, luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Duy Tân;
Nguyễn Đức Thọ (2007), Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí
ngân sách nhà nước tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp thuộc Bộ Tài
chính, luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị, Đại học Kinh
tế Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trong luận án của Tô Thiện Hiền, tác giả đã trình bày quan niệm về
NSNN, bao gồm 4 cấp ngân sách, trong đó có ngân sách phường; quan niệm
về vấn đề hiệu quả quản lý NSNN và đưa ra quan niệm về hiệu quả chi
NSNN và cách đánh giá hiệu quả chi NSNN. Cùng với đó, trên cơ sở phân
tích thực trạng về hiệu quả quản lý ngân sách của tỉnh An Giang và kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới, luận án nêu ra mục tiêu, quan điểm
quản lý NSNN ở tỉnh An Giang và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý NSNN tỉnh An Giang trong giai đoạn 2011-2015 tầm nhìn
đến 2020; trong đó có đề cập đến việc nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách
xã, phường, thị trấn của tỉnh An Giang.
Trên cơ sở luận giải vai trò, tầm quan trọng của ngân sách huyện và tác
động của việc chi ngân sách huyện đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
huyện, tác giả Hoàng Công Hưng đã phân tích sự cần thiết phải nâng cao hiệu
quả quản lý chi ngân sách huyện và tập trung đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý chi ngân sách của một huyện cụ thể là Thuận Thành, Bắc

Ninh. Mặc dù tác giả không đề cập trực tiếp đến hiệu quả quản lý chi ngân
sách xã, nhưng trong các giải pháp mà tác giả đề xuất, có nội dung nâng cao
hiệu quả quản lý chi ngân sách xã.

8


Tác giả Hoàng Thị Xinh trong luận văn của mình, trên cơ sở phân tích
thực trạng chi chi ngân sách xã hội cho sự nghiệp xã hội, đã đề xuất các giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả khoản chi này, gồm: hoàn thiện
pháp luật về quy trình lập, chấp hành và quyết toán NSNN đối với từng lĩnh
vực; phối hợp chặt chẽ giữa các cấp lập dự toán để tránh tình trạng thiếu hoặc
thừa các nội dung chi; chi ngân sách cần phải gắn liền với việc xác định đúng
đắn cơ cấu chi tối ưu, có tỷ trọng hợp lý; thường xuyên rà soát, cơ cấu lại các
khoản chi theo kịp với tình hình kinh tế - xã hội đang ngày càng phát triển;
hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi chặt chẽ; nâng cao trình độ chuyên môn và ý
thức trách nhiệm cho những người lập dự toán.
Trong luận văn của Nguyễn Đức Thọ, tác giả hệ thống hóa công tác
quản lý và sử dụng kinh phí NSNN trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp; phân
tích thực trạng công tác quản lý và sử dụng kinh phí NSNN trong lĩnh vực
hành chính sự nghiệp tại các cơ quan thuộc Bộ Tài chính giai đoạn 20012007; đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý, nâng cao
hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí NSNN tại các cơ quan hành chính sự
nghiệp thuộc Bộ Tài chính và các cơ quan hành chính sự nghiệp nói chung.
Điểm đáng chú ý trong luận văn này, mà học viên có thể tham khảo, là tác giả
đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí
NSNN tại các cơ quan hành chính - sự nghiệp.
Nội dung những luận án, luận văn nói trên không bàn đến vấn đề
HQSD ngân sách phường Phú La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, nên đề
tài mà học viên lựa chọn làm luận văn thạc sĩ không có sự trùng lặp. Tuy
nhiên, một số luận cứ của các luận án, luận văn nói trên, nhất là quan niệm về

hiệu quả chi NSNN và cách đánh giá hiệu quả chi NSNN mà tiến sĩ Tô Thiện
Hiền đưa ra là những cứ liệu tham khảo rất bổ ích đối với học viên trong quá
trình triển khai đề tài luận văn của mình.

9


2.4. Về sử dụng ngân sách phường Phú La, quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội.
Đến nay, chưa có công trình khoa học nào tập trung nghiên cứu vấn đề
sử dụng ngân sách phường Phú La nói chung, HQSD ngân sách phường Phú
La nói riêng. Về vấn đề này, chỉ có Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
phường Phú La nhiệm kỳ 2015-2020 và các thông báo hằng năm của UBND
quận Hà Đông (Phòng Tài chính – Kế hoạch) về việc thực hiện ngân sách
năm là có đánh giá. Đó là những tài liệu có thể cung cấp những luận điểm
đánh giá và số liệu tin cậy cho học viên tham khảo để phân tích, so sánh, làm
cơ sở thực tiễn của đề tài luận văn.
Tóm lại, các sách, tài liệu, luận án, luận văn đã dẫn ở trên có những nội
dung liên quan đến đề tài mà học viên theo đuổi; nên chúng là những tư liệu
bổ ích để học viên tham khảo trong quá trình triển khai viết luận văn của
mình. Tuy nhiên, trong các công trình và tài liệu đó, chưa có công trình nào
tập trung nghiên cứu vấn đề “Hiệu quả sử dụng ngân sách phường Phú La,
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội”. Do đó, đề tài mà học viên lựa chọn làm
luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị không trùng lặp với các tài liệu, công trình đã
công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về HQSD ngân sách phường Phú
La. Trên cơ sở đó, đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao HQSD ngân sách phường Phú La trong những năm tiếp theo.

* Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận về HQSD ngân sách phường Phú La.
- Đánh giá đúng thực trạng HQSD ngân sách phường Phú La giai đoạn
2010-2015.

10


- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao HQSD ngân sách phường Phú La trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả sử dụng ngân sách phường dưới góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu HQSD các khoản ngân sách chi
thường xuyên và ngân sách chi cho đầu tư phát triển của NSNN cấp phường.
- Về không gian: ngân sách của phường Phú La, quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội.
- Về thời gian, việc phân tích thực trạng HQSD ngân sách phường Phú
La được giới hạn trong thời gian từ năm 2010 đến 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để nghiên cứu HQSD ngân sách phường.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, luận văn sử dụng phương
pháp trừu tượng hóa khoa học của kinh tế chính trị Mác - Lê-nin; dựa vào
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về sử dụng
NSNN để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về HQSD ngân sách phường. Đồng thời,
dựa vào các nghị quyết của Đảng bộ phường Phú La, các báo cáo thẩm định

quyết toán ngân sách phường của phòng Kế hoạch – Tài chính quận Hà Đông
và báo cáo quyết toán ngân sách của UBND phường Phú La, luận văn sử
dụng các phương pháp: tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích, kết hợp lô-gíc
với lịch sử, cùng một số phương pháp khác để phân tích thực trạng, đề xuất
quan điểm và giải pháp nâng cao HQSD ngân sách phường Phú La.

11


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học
để HĐND, UBND phường Phú La quận Hà Đông, thành phố Hà Nội tham
khảo nhằm nâng cao hơn nữa HQSD ngân sách phường. Bên cạnh đó, các
luận cứ khoa học trong luận văn này cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho một số phường bạn trên địa bàn quận Hà Đông trong quá trình sử
dụng ngân sách phường; hoặc có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong các
lớp tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý xã, phường, thị trấn về vấn đề
quản lý ngân sách.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu; 3 chương, 7 tiết; Danh mục tài liệu tham
khảo và Phụ lục.

12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH PHƯỜNG PHÚ LA
1.1. Quan niệm về ngân sách nhà nước, ngân sách phường và sử
dụng ngân sách phường

1.1.1. Quan niệm về ngân sách nhà nước
Để hiểu về ngân sách phường, trước hết cần tìm hiểu quan niệm về NSNN.
Ngân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế và là một phạm trù lịch sử.
Sự hình thành và phát triển của NSNN gắn liền với sự xuất hiện và
phát triển của kinh tế hàng hóa và của nhà nước. Nói cách
khác, sự ra đời của nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hóa
là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của
NSNN.
Luật NSNN ngày 16/12/2012 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã nêu định nghĩa về NSNN tại Điều 1: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ
các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước” [16]. Tại Điều 4 của Luật này cũng
xác định: “Ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các
cấp có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân”. Theo đó, ngân sách phường là
một cấp ngân sách trong hệ thống NSNN; bởi cấp phường (xã, thị trấn) là một
đơn vị hành chính có HĐND và UBND. Tuy nhiên, khi phân tích bản chất của
phạm trù NSNN, người ta lại có nhiều cách hiểu khác nhau về NSNN.
Theo tiến sĩ Tô Thiện Hiền, hiện nay đang có 3 cách hiểu khác nhau về
NSNN. Cách hiểu thứ nhất coi NSNN là một bảng dự toán thu chi trong năm
của Nhà nước. Cách hiểu thứ hai coi NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà

13


nước. Cách hiểu thứ ba coi NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và phân phối các
nguồn tài chính [11, tr. 22]. Bình luận về các cách hiểu này, tiến sĩ Tô Thiện
Hiền cho rằng: mỗi cách hiểu chỉ đúng một phần, mặc dù không khác xa nhau

quá lớn, bởi đều chưa xác định được vị trí, vai trò của NSNN trong cân đối vĩ
mô nền kinh tế; chưa phân biệt được các quỹ tiền tệ của NSNN với các quỹ
tiền tệ khác và chưa phản ánh được tính chất các quan hệ kinh tế của NSNN
là gì, có phải là các quan hệ tài chính – ngân sách hay không? [11, tr. 23].
Trên cơ sở sự bình luận đó, tiến sĩ Tô Thiện Hiền đã đưa ra cách hiểu về
NSNN “là toàn bộ các khoản thu - chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước” [11, tr. 23]. Thật ra, cách
hiểu này của tiến sĩ Tô Thiện Hiền vẫn chỉ là một cách nhắc lại định nghĩa về
NSNN mà Luật NSNN (năm 2002) đã đưa ra ở Điều 1; phản ánh cách tiếp
cận NSNN của tiến sĩ ở góc độ chuyên ngành quản lý tài chính – ngân sách.
Trên cơ sở kế thừa những cách hiểu nói trên về NSNN, tiếp cận dưới
góc độ kinh tế chính trị, tác giả luận văn cho rằng: NSNN là một phạm trù
kinh tế phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh giữa Nhà nước với các đơn vị,
tổ chức và công dân trong xã hội; gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối,
sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, khi Nhà nước tham gia phân
phối các nguồn tài chính quốc gia, nhằm thực hiện các chức năng của Nhà
nước trên cơ sở luật định. Quan niệm này không chỉ khẳng định NSNN bao
gồm các khoản thu – chi và vai trò của của NSNN trong cân đối vĩ mô khi
Nhà nước tham gia vào quá trình phân phối các nguồn tài chính quốc gia, mà
còn khẳng định đó là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của quốc gia được dùng
vào bảo đảm cho Nhà nước thực hiện các chức năng của mình theo luật định;
đồng thời, cũng phản ánh được hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức

14


quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các thành viên của xã hội trong quá trình
hình thành, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của quốc gia.
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm và vai trò của ngân sách phường

* Quan niệm về ngân sách phường
Chuyên đề 1 của Tài liệu tập huấn cho Hội đồng nhân dân xã, phường,
thị trấn về lĩnh vực ngân sách do Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội
ban hành theo Dự án VIE/02/008 “Tăng cường năng lực của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân trong việc thẩm tra, quyết định và giám sát ngân sách” đã xác
định: “Ngân sách xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách xã) là một cấp
ngân sách trong hệ thống ngân sách Nhà nước. Vì vậy ngân sách xã cũng có
đầy đủ những đặc điểm chung như đối với ngân sách các cấp chính quyền địa
phương như: Được phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi theo quy định của pháp
luật; được điều hành ngân sách theo dự toán và theo chế độ, tiêu chuẩn, định
mức do cơ quan có thẩm quyền quy định; hoạt động của ngân sách xã gắn với
hoạt động của chính quyền Nhà nước cấp xã. Bên cạnh các đặc điểm chung
của cấp ngân sách, ngân sách xã còn có những đặc điểm riêng, đó là: xã vừa
là cấp ngân sách vừa là đơn vị sử dụng ngân sách...” [20, tr. 3]. Mặc dù tiếp
cận dưới góc độ quản lý tài chính – ngân sách, tài liệu nói trên cũng đã khẳng
định ngân sách phường chỉ là một cấp ngân sách nằm trong hệ thống NSNN,
nên xét về bản chất, đó chính là một bộ phận NSNN, nhưng được phân cấp
cho chính quyền cấp phường thực hiện. Tính khách quan của ngân sách
phường gắn liền với sự tồn tại khách quan của NSNN; bởi ngân sách phường
chỉ là một bộ phận của NSNN. Chừng nào Nhà nước và kinh tế hàng hóa còn
tồn tại thì ngân sách các cấp còn tồn tại, nhất là khi mọi quốc gia đều có sự
phân công, phân cấp quản lý kinh tế - xã hội cho chính quyền địa phương, nên
hệ thống NSNN bao giờ cũng bao gồm các cấp ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương. Ở nước ta, trong cơ cấu hành chính, cấp phường là đơn vị

15


hành chính thấp nhất, có HĐND và UBND, nên sự tồn tại của ngân sách
phường là một tất yếu khách quan trong quá trình quản lý Nhà nước.

Kế thừa quan niệm về NSNN đã được phân tích ở tiểu tiết 1.1.1, có thể
coi ngân sách phường là một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của chính quyền
cấp phường, dùng để đảm bảo cho các hoạt động của chính quyền nhà nước
cấp phường theo chức năng, nhiệm vụ đã được luật pháp quy định; góp phần
thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
phường. Dưới góc độ kinh tế chính trị, có thể quan niệm ngân sách phường là
một phạm trù kinh tế, dùng để chỉ một bộ phận của NSNN; phản ánh hệ thống
các quan hệ kinh tế giữa chính quyền nhà nước cấp phường với các đơn vị, tổ
chức, cá nhân, phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ
tiền tệ của chính quyền cấp phường nhằm phục vụ cho việc thực hiện các
chức năng của Nhà nước ở cấp cơ sở trong khuôn khổ đã được cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên phân cấp quản lý. Quan niệm này thống nhất với
quan niệm về NSNN đã trình bày ở trên, chỉ khác nhau cơ bản ở cấp độ quan
hệ, mà theo đó, đại diện cho Nhà nước ở đây là chính quyền cấp phường.
Cũng như NSNN nói chung, ngân sách phường không chỉ là những
quan hệ kinh tế - tài chính trừu tượng, mà tồn tại trên thực tế là một quỹ tiền
tệ tập trung. Về mặt định lượng, ngân sách phường là tổng số thu, tổng số chi
trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, phục vụ
cho phần lớn các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn phường, được hình
thành trên cơ sở phân chia nguồn thu, đảm nhiệm nhiệm vụ chi và tổ chức
thực hiện trong thời gian một năm. Ngân sách phường cung cấp các phương
tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước ở cơ sở và đó
chính là một công cụ đặc biệt quan trọng để chính quyền cấp phường thực
hiện quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội tại địa phương.
* Đặc điểm của ngân sách phường

16


Theo Luật NSNN của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì

ngân sách phường là cấp ngân sách cuối cùng trong hệ thống ngân sách địa
phương của NSNN, nên ngân sách phường có đặc điểm chung của NSNN. Đó
là một loại quỹ tiền tệ tập trung của cơ quan chính quyền nhà nước cấp cơ sở,
phản ánh các mối quan hệ kinh tế (tiền tệ - tài chính) giữa Nhà nước (ở đây là
cấp chính quyền cơ sở) với các tập thể (doanh nghiệp, tổ chức), cá nhân trong
cộng đồng ở địa phương; Hoạt động của ngân sách phường luôn gắn chặt với
hoạt động của chính quyền nhà nước cấp phường, thể hiện trên hai phương
diện: huy động nguồn thu vào quỹ (gọi tắt là thu ngân sách) và phân phối, sử
dụng các khoản vốn quỹ đó (gọi tắt là chi ngân sách) cho các hoạt động quản
lý nhà nước ở phường; Ngân sách phường gắn chặt với sở hữu nhà nước,
luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công cộng.
Bên cạnh những đặc điểm chung như ngân sách của các cấp ngân sách
địa phương khác, do phường là đơn vị dự toán đặc biệt (dưới phường không
còn cấp nào xây dựng dự toán ngân sách), phường không chỉ là một cấp ngân
sách mà còn là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách, nên ngân sách phường có
những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, hoạt động thu - chi của ngân sách phường luôn gắn với chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền phường đã được HĐND tỉnh, thành phố
phân cấp phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở phường.
Thứ hai, HĐND cấp tỉnh, thành phố quy định cụ thể nội dung thu – chi
của ngân sách phường trên cơ sở dự toán của UBND phường. UBND phường
xây dựng dự toán và thống nhất tổ chức, quản lý thực hiện dưới sự giám sát
của HĐND phường.
Thứ ba, các quan hệ thu - chi ngân sách phường rất đa dạng và biểu
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng số thu hoặc chi theo từng hình
thức chỉ thực thi khi đã được ghi vào dự toán và được các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt. Các khoản chi của ngân sách phường được thực

17



hiện theo phương thức phân phối lại và không hoàn trả một cách trực tiếp,
như: chi cho đầu tư phát triển (xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội, các công
trình phục vụ hoạt động văn hoá, xã hội, thể dục thể thao của phường…) và
chi thường xuyên. Chi thường xuyên ở phường bao gồm các khoản: lương và
phụ cấp cho công chức, viên chức, các chức danh hoạt động chuyên trách và
không chuyên trách theo Quyết định của UBND Thành phố; chi các hoạt
động của dân quân tự vệ, bảo vệ an ninh trật tự; chi cho giáo dục thường
xuyên, sự nghiệp y tế, sự nghiệp văn hóa thông tin, sự nghiệp thể dục thể
thao, thủy lợi (nếu có), sự nghiệp xã hội; quản lý nhà nước (UBND, HĐND),
MTTQ, Đoàn Thanh niên, Hội LHPN, Hội CCB, Hội Nông dân tập thể, Hội
Chữ Thập đỏ, Hội Người cao tuổi trong phường…).
Thứ tư, hoạt động thu, chi của ngân sách phường có một số khác biệt so
với ngân sách xã, mặc dù đều là cấp ngân sách cuối cùng trong hệ thống ngân
sách địa phương.
Do xã là đơn vị hành chính cơ sở ở nông thôn, phường là đơn vị hành
chính cơ sở ở đô thị, nên giữa ngân sách phường và ngân sách xã có một số
điểm khác nhau. Chẳng hạn về khoản thu, đối với xã, thị trấn thì tất cả các
khoản thu đều được hưởng 100%; nhưng đối với phường, các khoản thu được
chia ra làm hai loại: các khoản thu được hưởng 100% và các khoản thu được
hưởng theo tỷ lệ % nhất định (như thuế môn bài và lệ phí trước bạ nhà đất).
Với các khoản chi, theo phân cấp của Thành phố về bảo vệ môi trường,
thì ngân sách xã chi hỗ trợ hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải
thông thường trên địa bàn do xã, thị trấn quản lý; trong khi đó, ngân sách
phường không phải chi hỗ trợ cho hoạt động này. Mục chi sửa chữa cải tạo
các công trình phúc lợi, các công trình hạ tầng cơ sở do xã, phường, thị trấn
quản lý, như: nhà văn hoá, thư viện, đài tưởng niệm, cơ sở thể dục thể thao,
thì ngân sách phường được chi cho các công trình nói trên với giá trị đến 1 tỷ
đồng; trong khi đó việc sử dụng ngân sách xã, thị trấn không quy định giá trị
công trình đến 1 tỷ đồng (xem chi tiết tại Phụ lục 1) .


18


* Vai trò của ngân sách phường
Là một bộ phận của NSNN, ngân sách phường thực hiện vai trò của
NSNN trên địa bàn phường.
Thứ nhất, ngân sách phường là nguồn tài chính chủ yếu để đảm bảo cho
chính quyền nhà nước cấp phường thực thi chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh… trên địa bàn
phường. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý trên địa bàn theo sự phân
cấp trong hệ thống chính quyền nhà nước, chính quyền phường phải có nguồn
tài chính đủ lớn. Do vậy, chính ngân sách phường là quỹ tiền tệ tập trung đảm
bảo về mặt tài chính cho bộ máy quản lý nhà nước cấp phường hoạt động; đó
là công cụ quan trọng để chính quyền phường thực hiện quản lý toàn diện các
hoạt động kinh tế - xã hội tại địa phương.
Thứ hai, ngân sách phường là công cụ tài chính quan trọng giúp chính
quyền phường khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương để phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn. Thông qua các hoạt động thu, chi ngân sách theo
sự phân cấp của Luật NSNN, ngân sách phường góp phần điều tiết các hoạt
động kinh tế, văn hóa, xã hội… trên địa bàn, thúc đẩy việc khai thác các tiềm
năng, thế mạnh về tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương để xây
dựng phường ngày càng giàu, đẹp, văn minh.
Thứ ba, ngân sách phường là công cụ tài chính giúp chính quyền nhà
nước cấp trên giám sát hoạt động của chính quyền phường. Bản chất của ngân
sách phường là hệ thống các quan hệ tiền tệ - tài chính được hình thành thông
qua các hoạt động thu – chi quỹ tiền tệ tập trung của phường. Thông qua các
quan hệ tài chính đó, mà kết quả của chúng được thể hiện trên các văn bản,
hợp đồng, chứng từ, sổ sách kế toán…, cơ quan chức năng của chính quyền
nhà nước cấp trên có thể giám sát, kiểm tra, đánh giá hoạt động của chính

quyền cấp phường. Qua đó, thúc đẩy chính quyền cấp phường hoạt động đúng
chức năng, ngày càng hiệu quả.
1.1.3. Quan niệm, nội dung, nguyên tắc sử dụng ngân sách phường

19


* Quan niệm về sử dụng ngân sách phường
Sử dụng NSNN là một nội dung của quá trình chi NSNN. Trong thực
tế, chi NSNN là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã
được tập trung vào NSNN và đưa chúng đến những mục tiêu cần
sử dụng theo dự toán đã được xác định. Theo đó, quá trình chi ngân sách
bao gồm hai nội dung: phân phối và sử dụng NSNN. Phân phối NSNN là việc
phân chia kinh phí từ quỹ tiền tệ tập trung thành các loại quỹ nhỏ hơn và cấp
phát kinh phí từ các quỹ đó cho từng mục tiêu, từng hoạt động và
từng công việc thuộc chức năng của nhà nước đã được dự toán,
trước khi đưa vào sử dụng. Sử dụng NSNN là việc trực tiếp chi dùng
khoản kinh phí được cấp phát từ NSNN để thanh toán cho các chi phí
phát sinh trong quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ được xác định
trong bảng dự toán ngân sách. Do đặc điểm phường vừa là một cấp ngân sách,
vừa là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách; nên cấp phường chỉ có thẩm quyền
xây dựng dự toán và quản lý, sử dụng ngân sách đã được cấp phát theo các
nội dung thu – chi mà HĐND cấp tỉnh, thành phố phê duyệt và quy định cụ
thể. Do đó, hoạt động chi của ngân sách phường, về cơ bản là sử dụng ngân
sách đã được cấp phát theo bảng dự toán mà UBND phường trình, HĐND cấp
tỉnh (thành phố) phê duyệt; chỉ trong trường hợp thật cần thiết, Luật NSNN
mới cho phép HĐND phường quyết định điều chỉnh dự toán (danh mục chi)
trên cơ sở phần ngân sách đã được cấp phát. Do vậy, nói đến sử dụng ngân
sách phường cũng là nói đến hoạt động chi ngân sách phường.
Từ đây, có thể quan niệm sử dụng ngân sách phường là tổng thể các

hoạt động của UBND (trực tiếp là chủ tài khoản ngân sách phường và những
người được ủy quyền) liên quan đến hoạt động chi ngân sách phường nhằm
đảm bảo cho chính quyền phường hoàn thành các nhiệm vụ quản lý nhà nước
trên địa bàn phường. Dưới góc độ kinh tế chính trị, thì đó chính là tổng thể
các quan hệ kinh tế - tài chính giữa chính quyền nhà nước cấp phường với
20


những đối tượng (tổ chức, cá nhân) được thụ hưởng ngân sách trên địa bàn
phường, phát sinh trong quá trình sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của chính
quyền nhà nước cấp phường, gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ theo chức
năng của chính quyền phường.
Quan niệm nói trên cho thấy thực chất hoạt động sử dụng ngân sách
phường, chủ thể và mục đích sử dụng ngân sách phường. Theo đó, thực chất
sử dụng ngân sách phường là toàn bộ (tổng thể) các hoạt động chi quỹ tiền tệ
tập trung của phường cho các nhiệm vụ quản lý nhà nước của chính quyền
nhà nước cấp phường.
Chủ thể sử dụng ngân sách phường là UBND, mà trực tiếp là Chủ tịch
UBND với tư cách là chủ tài khoản ngân sách phường và những người được
chủ tài khoản ủy quyền thực hiện chi ngân sách phường. Hoạt động sử dụng
ngân sách của UBND phường được thực hiện dưới sự giám sát của HĐND
phường và các tầng lớp nhân dân – những người được thụ hưởng ngân sách
thông qua hoạt động của UBND phường. Ở đây, UBND phường là người trực
tiếp xây dựng dự toán ngân sách; đồng thời là người trực tiếp quản lý, sử
dụng ngân sách sau khi đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt và cấp kinh
phí. HĐND phường là người quyết định phân bổ dự toán ngân sách của
UBND phường trước khi trình HĐND tỉnh, thành phố phê duyệt; quyết định
điều chỉnh dự toán ngân sách phường khi cần thiết trong quá trình UBND
phường sử dụng ngân sách đã được cấp phát; quyết định phê chuẩn quyết toán
ngân sách phường; đồng thời, là người trực tiếp giám sát việc thực hiện ngân

sách đã được HĐND phường quyết định. Với tư cách là người thụ hưởng lợi ích
từ các nội dung chi ngân sách phường đem lại, các tầng lớp nhân dân cùng với
HĐND phường là những người giám sát các hoạt động sử dụng ngân sách của
UBND phường.

21


Mục đích sử dụng ngân sách phường chính là nhằm để thanh toán cho
những chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp
về quản lý nhà nước của chính quyền nhà nước cấp phường trên địa bàn
phường. Qua đó, góp phần tăng cường các mối quan hệ mật thiết giữa Nhà
nước, mà đại diện là chính quyền cấp phường, với các tổ chức và công dân
trên địa bàn vì mục tiêu xây dựng phường vững mạnh về mọi mặt; bởi bản
chất của quá trình chi ngân sách phản ánh những quan hệ kinh tế - tài chính
giữa Nhà nước với cộng đồng (doanh nghiệp, tổ chức và công dân) trong việc
sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
* Nội dung sử dụng ngân sách phường
Nội dung sử dụng ngân sách phường chính là nội dung các mục chi đã
xác định trong dự toán của UBND phường, được HĐND tỉnh, thành phố phê
duyệt, quyết định. Tài liệu tập huấn của Ủy ban kinh tế và ngân sách của
Quốc hội trong Dự án VIE/02/008 đã chỉ rõ nội dung sử dụng ngân sách
phường gồm có: chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên [20, tr. 15-17].
Thứ nhất, chi đầu tư phát triển, gồm 3 mục:
(1) Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
không có khả năng thu hồi vốn theo phân cấp của tỉnh, thành phố.
(2) Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
của phường từ nguồn huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho từng
dự án nhất định theo quy định của pháp luật, do HDND phường quyết định
đưa vào ngân sách phường quản lý.

(3) Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật.
Định mức chi cụ thể từng công trình được thực hiện dựa trên những
quy định của Nhà nước.
Thứ hai, các khoản chi thường xuyên, bao gồm:
(1) Chi cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở phường: Tiền lương,
tiền công cho cán bộ, công chức phường; Sinh hoạt phí cho đại biểu HĐND;

22


Các khoản phụ cấp khác theo quy định của Nhà nước; Công tác phí; Chi về
hoạt động văn phòng, như: chi phí điện, nước, văn phòng phẩm, phí bưu điện,
điện thoại, hội nghị, chi tiếp tân, khánh tiết; Chi mua sắm, sửa chữa thường
xuyên trụ sở, phương tiện làm việc; Chi khác theo chế độ quy định….
(2) Kinh phí hoạt động của cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam ở
phường.
(3) Kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội ở phường
(MTTQ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội CCB Việt
Nam, Hội LHPN Việt Nam) sau khi trừ các khoản thu theo điều lệ và các
khoản thu khác (nếu có).
(4) Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho cán bộ phường và các đối
tượng khác theo chế độ quy định.
(5) Chi cho công tác dân quân tự vệ, trật tự an toàn xã hội: Chi huấn
luyện dân quân tự vệ, các khoản phụ cấp huy động dân quân tự vệ và các
khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách phường
theo quy định của Pháp lệnh về dân quân tự vệ; Chi thực hiện việc đăng ký
nghĩa vụ quân sự, công tác nghĩa vụ quân sự khác thuộc nhiệm vụ chi của
ngân sách phường theo quy định của pháp luật; Chi tuyên truyền, vận động và
tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn phường;
Các khoản chi khác theo chế độ quy định.

(6) Chi đảm bảo xã hội và hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể
thao do phường quản lý: Chi thăm hỏi các gia đình chính sách; cứu tế xã hội
và công tác xã hội khác; Chi hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao,
truyền thanh do phường quản lý.
(7) Chi sự nghiệp giáo dục: hỗ trợ thêm cho các lớp bổ túc văn hoá, nhà
trẻ, lớp mẫu giáo, kể cả trợ cấp cho giáo viên mẫu giáo và cô nuôi dạy trẻ do
phường quản lý.

23


(8) Chi sự nghiệp y tế: hỗ trợ chi thường xuyên và mua sắm các khoản
trang thiết bị phục vụ cho khám chữa bệnh của trạm y tế phường
(9) Chi sửa chữa, cải tạo các công trình phúc lợi, các công trình kết cấu
hạ tầng do phường quản lý, như: trạm y tế, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà văn
hoá, đài tưởng niệm, sân thể thao, cầu, đường, giao thông, công trình cấp và
thoát nước công cộng...;
(10) Các khoản chi thường xuyên khác ở phường theo quy định của
pháp luật.
Căn cứ vào định mức, chế độ, tiêu chuẩn của Nhà nước, HĐND cấp
tỉnh, thành phố quy định cụ thể mức chi thường xuyên cho từng công việc phù
hợp với tình hình đặc điểm và khả năng ngân sách địa phương.
* Các nguyên tắc sử dụng ngân sách phường
Cũng theo Tài liệu tập huấn của Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc
hội trong Dự án VIE/02/008, việc sử dụng ngân sách phường phải tuân thủ
các nguyên tắc sau đây:
Một là, các khoản chi phải có trong dự toán được giao, trừ trường hợp
dự toán và phân bổ dự toán chưa được cấp có thẩm quyền quyết định và chi từ
nguồn tăng thu, nguồn dự phòng ngân sách;
Hai là, phải đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có

thẩm quyền quy định;
Ba là, được Chủ tịch UBND phường hoặc người được uỷ quyền quyết định.
Ngoài ra, đối với những khoản chi cho công việc cần phải đấu thầu thì
còn phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
Như vậy, các nguyên tắc sử dụng ngân sách phường thống nhất với
nguyên tắc sử dụng NSNN nói chung ở tất cả các cấp ngân sách; được cụ thể
ra ở cấp phường thể hiện ở danh xưng của người chủ tài khoản, người trực
tiếp quản lý và sử dụng NSNN ở phường là Chủ tịch UBND phường.

24


1.2. Quan niệm, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng ngân sách phường Phú La
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng ngân sách phường Phú La
* Khái niệm hiệu quả
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm hiệu quả; song
bản chất của khái niệm hiệu quả đều được người ta hiểu là chỉ số so sánh giữa
các yếu tố đầu vào và đầu ra; cụ thể là giữa chi phí bỏ ra với kết quả đạt được
để thực hiện một nhiệm vụ, một hoạt động nào đó.
Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm hiệu quả được hiểu là: kết quả
như yêu cầu của việc làm mang lại. Từ điển Lepetit Lasousse định nghĩa:
"Hiệu quả là kết quả đạt được trong việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định"
[19, tr. 57]. Trong khi đó, các nhà quản lý kinh tế lại cho rằng: hiệu quả là sự
so sánh giữa các chi phí đầu tư với các giá trị của đầu ra, sự tăng tối đa lợi
nhuận và tối thiểu chi phí, là mối tương quan giữa tỷ lệ đầu ra - đầu vào, là
trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào của nhà đầu tư.
Như vậy, khái niệm hiệu quả có nội dung khác nhau ở những lĩnh vực
khác nhau. Thông thường, khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó,
người ta hay gắn ngay tên của lĩnh vực đó liền sau từ “hiệu quả”, như: hiệu

quả kinh tế, hiệu quả kinh doanh, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường, v.v.
Trong sản xuất, nói đến hiệu quả có nghĩa là nói đến hiệu suất, năng
suất lao động, được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm; hoặc bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong
một đơn vị thời gian. Trong kinh doanh, hiệu quả được thể hiện ở lãi suất,
lợi nhuận trên một đơn vị vốn đầu tư. Trong các hoạt động xã hội phi lợi
nhuận, thì hiệu quả ở đây là hiệu quả xã hội, được coi là kết quả đạt được
so với mục đích đặt ra của hoạt động xã hội đó.
Mặc dù có cách tiếp cận khác nhau khi xem xét khái niệm “hiệu quả”,
nhưng nhìn chung, mọi người đều thừa nhận “hiệu quả” là một phạm trù

25


khoa học phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí đã bỏ ra
để đạt được kết quả đó trong một thời kỳ nhất định. Hiệu quả được đo bằng
chỉ số:
H = K/C
Trong đó:

H - Hiệu quả
K - Kết quả đạt được
C - Chi phí để đạt được kết quả đó

Tuy nhiên, việc xác định chỉ số so sánh này không phải lúc nào cũng
định lượng được bằng những con số cụ thể. Trong hoạt động kinh tế, việc xác
định hiệu quả thường cho chúng ta những con số chính xác và cụ thể, nghĩa là
có thể lượng hoá được; nhưng việc xác định hiệu quả của bất kỳ hoạt động xã
hội nào lại rất khó khăn và phức tạp, bởi loại hoạt động này chủ yếu mang
tính chất định tính, nên rất khó lượng hoá bằng những con số cụ thể, mà sự

đánh giá thường chỉ là định tính [11, tr. 44].
* Quan niệm về hiệu quả sử dụng ngân sách phường Phú La
Hiện nay, quan niệm về “hiệu quả quản lý NSNN” được một số luận án,
luận văn, bài báo… trình bày; nhưng quan niệm về “hiệu quả sử dụng NSNN”
có rất ít tài liệu bàn đến. Liên quan đến vấn đề này, tiến sĩ Tô Thiện Hiền có
đưa ra cách hiểu về “hiệu quả chi NSNN”; theo đó: “hiệu quả của chi NSNN
được hiểu là những lợi ích về kinh tế - xã hội mà toàn xã hội thụ hưởng” [11,
tr. 46], do vậy: “Khi đánh giá tính hiệu quả của chi NSNN phải có quan điểm
toàn diện, phải xem xét mức độ ảnh hưởng của mỗi khoản chi tới các mối
quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và phải tính đến thời gian phát huy tác dụng
của nó” [11, tr. 46]. Để cụ thể hóa hơn cách hiểu về “hiệu quả chi NSNN”,
tiến sĩ Tô Thiện Hiền đã chỉ ra những biểu hiện của cách hiểu đó, khi cho
rằng: “Hiệu quả chi NSNN được thể hiện trên 2 nội dung cơ bản: (1) Chi đầu
tư phát triển… phải lấy hiệu quả làm đầu; hiệu quả ở đây là đầu tư có trọng
tâm, trọng điểm cho các công trình kinh tế - xã hội, bảo đảm trực tiếp hay

26


×