MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
3
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CẤP XÃ
Những vấn đề chung về ngân sách nhà nước cấp xã
Nội dung, yêu cầu về quản lý ngân sách nhà nước cấp xã
Kinh nghiệm quản lý ngân sách nhà nước cấp xã của một số
12
12
22
địa phương
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
34
1.1
1.2
1.3
CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Hoài Đức
Thành tựu và hạn chế công tác quản lý ngân sách nhà nước
42
42
cấp xã trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
2.3
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
45
61
2.1
2.2
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CẤP XÃ TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
THỜI GIAN TỚI
3.1
Những phương hướng cơ bản nhằm tăng cường quản lý NSNN
3.2
cấp xã trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
Một số giải pháp tăng cường quản lý ngân sách nhà nước cấp
66
66
xã trên địa bàn huyện Hoài Đức
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
70
83
PHỤ LỤC
87
85
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền tài chính quốc gia của nước ta đã và đang được đổi mới một cách
toàn diện trong sự chuyển đổi sâu sắc của cơ chế quản lý kinh tế. Trong cơ
chế quản lý kinh tế mới, Tài chính là tổng hòa các mối quan hệ kinh tế, là
tổng thể các nội dung và giải pháp tài chính tiền tệ. Tài chính không chỉ có
nhiệm vụ khai thác các nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng doanh
thu mà còn phải tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực,
mọi nguồn tài nguyên của đất nước. Hoạt động tài chính cần phải được quản
lý bằng luật pháp, bằng các công cụ và biện pháp, giải pháp có hiệu lực trong
một khuôn khổ pháp lý rõ ràng, lành mạnh.
Từ khi thực hiện Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 đến nay, Luật
Ngân sách nhà nước mới đã chứng tỏ được tính khoa học, hiệu quả và phù
hợp thực tiễn với vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, mặc dù
Chính phủ và chính quyền địa phương đã có nhiều nỗ lực để nâng cao hiệu
quả phân bổ và sử dụng nguồn tài chính công nhưng kết quả đạt được chưa
cao. Nhiều địa phương đã không thực hiện tốt những nội dung mà Luật Ngân
sách quy định, đặc biệt là công tác lập dự toán, quyết toán và thực hiện việc
công khai minh bạch, chính xác khách quan trong công tác quản lý điều hành
ngân sách. Một trong những cấp còn nhiều bất cập, hạn chế, chủ yếu lại là ngân
sách cấp xã.
Hiện đại hóa quản lý ngân sách nhà nước từ khâu lập kế hoạch, thực
hiện quản lý ngân sách, báo cáo quyết toán ngân sách và tăng cường trách
nhiệm, nâng cao tính minh bạch trong quản lý ngân sách, hạn chế đến mức
thấp nhất những tiêu cực trong việc sử dụng ngân sách, đảm bảo an toàn tài
chính trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế tăng cường gắn
kết giữa yêu cầu quản lý ngân sách với các mục tiêu tài chính phát triển và
3
các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật thông qua việc xây dựng kế hoạch tài chính và
chỉ tiêu dài hạn, trung hạn.
Để đạt được mục tiêu đó, trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ của ngành
tài chính hết sức nặng nề, khó khăn nhằm đảm bảo cân đối thu – chi đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội, do vậy việc quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả
các khoản chi, khai thác và quản lý tốt các khoản thu là trách nhiệm chính của
các cơ quan quản lý nhà nước và cả hệ thống chính trị phải vào cuộc.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xã là đơn vị hành chính cơ sở có
tầm quan trọng đặc biệt. Chính quyền cấp xã là chính quyền cơ sở, nơi trực
tiếp nắm bắt, giải quyết các nguyện vọng của nhân dân, trực tiếp lãnh đạo và
tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà
nước vào thực tiễn. Các nội dung công việc của chính quyền cấp xã đòi hỏi
một nguồn tài chính rất lớn và có ý nghĩa tiên quyết mà chủ yếu do ngân sách
nhà nước đảm bảo. Ngân sách cấp xã phải là công cụ thực sự và phương tiện
vật chất bằng tiền tương xứng để thực hiện nhiệm vụ đó. Chính vì thế việc
quản lý ngân sách và tài chính xã một cách tiết kiệm, hiệu quả, công khai,
minh bạch và khoa học càng cần thiết hơn bao giờ hết.
Hoài Đức là huyện nằm ở phía Nam của thủ đô Hà Nội, cách trung tâm
thành phố khoảng 15 km với vị trí địa lý thuận lợi này Hoài Đức đã trở thành
một cửa ngõ quan trọng của thủ đô với nhiều huyết mạnh giao thông quan
trọng như Đại lộ Thăng Long, Quốc lộ 32, Các trục tỉnh lộ 422,423 và nhiều
dự án đang thực hiện như đường vành đai 3.5, đường vành đai 4...Trong
những năm qua với những thuận lợi và khó khăn đan xen tốc độ đô thị hóa
nhanh theo quy hoạch kinh tế xã hội của thủ đô đến năm 2020 thì trên 50%
đơn vị hành chính của huyện trở thành khu đô thị, tình tình hình kinh tế - xã
hội của huyện đã có những bước phát triển nhanh và khá vững chắc. Điều này
đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và điều hành ngân sách của huyện
4
trong những năm gần đây đã dần đi vào nề nếp, các xã, thị trấn đã rất quan
tâm thực hiện theo các quy định về quản lý tài chính.
Tuy nhiên, thực tế công tác quản lý ngân sách cấp xã vẫn còn nhiều tồn
tại thiếu sót, bất cập như: Chưa khai thác hết nguồn thu trên địa bàn đối với
các khoản thu tại xã, chưa chủ động nuôi dưỡng nguồn thu, một số xã thu
chưa đúng quy định như đấu thầu đất công vượt thẩm quyền ( Nhiều năm, thu
một lần dẫn đến rất khó khăn về ngân sách cho các năm tiếp theo), tình trạng
nợ đọng đầu tư xây dựng cơ bản kéo dài, nhưng không có giải pháp bố trí
nguồn thanh toán, công tác điều hành chi ngân sách chưa tốt, chưa quản lý
chính xác từng nguồn ngân sách, chưa phân định rõ ràng từng nhiệm vụ chi
dẫn đến chi sai nguồn, chi cho các nhiệm vụ không có trong dự toán nhưng
không bổ sung..
Từ những lý do trên, vấn đề: “Quản lý ngân sách nhà nước cấp xã ở
huyện Hoài Đức, Thành Phố Hà Nội” được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quản lý ngân sách nhà nước là một trong những nội dung quan trọng
cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa to lớn và cũng khá
phức tạp, đang đặt ra nhiều vấn đề cần tập trung nghiên cứu, giải quyết. Xung
quanh vấn đề này có nhiều công trình khoa học, nhiều bài báo nghiên cứu ở
các phạm vi, cấp độ, cùng với cách tiếp cận khác nhau. Cụ thể:
- “Quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở
Huyện Núi Thành”, luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Ngọc Kiêm, bảo vệ
tại Đại học Đà Nẵng. Tác giả đã phân tích luận giải những vấn đề lý luận về
quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở địa phương
như, khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến
quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản. Trên cơ sở đó
tác giả đã đánh giá thực trạng, nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đặt ra
trong quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở huyện
5
Núi Thành tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những giải pháp
hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ
bản ở huyện Núi Thành như, làm tốt công tác kế hoạch; tổ chức tốt công tác
nghiệm thu và quản lý công trình; nâng cao chất lượng kiểm soát thanh toán
vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản qua kho bạc nhà nước huyện.
- "Nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách nhà nước tỉnh An Giang giai
đoạn 2011 – 2015 và tầm nhìn 2020" Luận án Tiến sỹ của tác giả Tô Thiện
Hiền, trường Đại học ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012. Tác giả
luận án đã làm rõ bản chất, chức năng, vai trò của ngân sách nhà nước, đồng
thời làm rõ hiệu quả ngân sách nhà nước trên một số nội dung như, hiệu quả
quản lý thu, hiệu quả quản lý chi ngân sách, hiệu quả vay và sử dụng vốn vay,
hiệu quả trong khai thác tối đa các nguồn lực tài chính hiện hữu và nguồn lực
tiềm năng và hiệu quả tổng hợp, được đánh giá thông qua việc cân đối ngân
sách nhà nước, thực chất là cân đối thu chi và tác giả làm rõ các nhân tố ảnh
hưởng đến quản lý ngân sách nhà nước. Trên cơ sở đó, luận án đã làm rõ thực
trạng về hiệu quả quản lý ngân sách nhà nước tỉnh An Giang và đề ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách nhà nước ở tỉnh An Giang.
- "Một số giải pháp nâng cao công tác quản lý ngân sách xã trên địa
bàn tỉnh Bắc Kạn" Luận văn thạc sĩ kinh tế của Hoàng Thị Yến, Học viện Tài
chính năm 2009. Tác giả luận văn đã làm rõ những lý luận chung về ngân
sách cấp xã như, quá trình hình thành; nội dung thu, chi ngân sách xã; vai trò
ngân sách xã đối với sự phát triển kinh tế xã hội và làm rõ sự cần thiết nâng
cao công tác quản lý ngân sách xã. Trên cơ sở đó tác giả đã làm rõ những
những mặt đạt được, hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của công tác quản lý
ngân sách xã trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Từ đó, tác giả đề xuất những giải
pháp nâng cao công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn tỉnh, tập trung vào
giải pháp tăng nguồn thu và thực hiện chi hợp lý, hiệu quả.
- "Quản lý ngân sách cấp xã, phường trên địa bàn quận Hoàng Mai,
thành phố Hà Nội" Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Tuấn Anh, Học viện
6
chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2012. Tác giả luận văn đã
hệ thống hóa cơ sở lý luận về ngân sách cấp xã, phường, quản lý ngân sách
cấp xã, phường như, khái niệm, đặc điểm, vị trí vai trò và nội dung quản lý,
các nhân tố tác động. Trên cơ sở đó tác giả phân tích, làm rõ thực trạng quản
lý ngân sách cấp xã, phường trên địa bàn quận Hoàng Mai giai đoạn 2009 2011. Qua việc phân tích thực trạng để đánh giá những ưu, nhược điểm,
những hạn chế tồn tại trong quản lý và điều hành ngân sách cấp xã, phường
trên địa bàn quận Hoàng Mai. Nghiên cứu các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
những hạn chế trong quản lý ngân sách xã, phường trên địa bàn quận Hoàng
Mai. Tác giả đề xuất các giải pháp để hoàn thiện quản lý ngân sách cấp xã,
phường trên địa bàn quận Hoàng Mai, nhằm góp phần ổn định và phát triển
kinh tế xã hội ở cơ sở.
- “Hoàn thiện quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của thành phố Nha
Trang, tỉnh Khánh Hòa”, luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Anh Tuấn, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007. Tác giả luận văn đã làm rõ
những vấn đề lý luận về quản lý thu, chi ngân sách nhà nước trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội như làm rõ, khái niệm; vai trò, đặc điểm, các nhân
tố ảnh hưởng và nội dung quản lý thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn
thành phố trực thuộc tỉnh. Trên cơ sở đó tác giả làm rõ thực trạng thu chi ngân
sách nhà nước của thành phố Nha Trang, về những kết quả đạt được, những
tồn tại hạn chế và nguyên nhân trong quản lý thu, chi của thành phố. Từ đó
tác giả đề xuất nhóm giải pháp về quản lý thu thuế như, đổi mới cơ chế quản
lý thu; đẩy mạnh công tác tuyên truyền; tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra; nâng cao năng lực, phẩm chất đội ngũ; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin vào công tác quản lý thu thuế; tăng cường vai trò lãnh đạo. Đối với
công tác quản lý chi, tác giả tập trung vào nội dung, nâng cao chất lương công
tác lập kế hoạch và phân bổ dự toán; rà soát lại hệ thống định mức sử dụng;
thực hiện nghiêm luật phòng chống tham nhũng, lãng phí…
7
- “Nâng cao tính bền vững của ngân sách nhà nước Việt Nam”, luận án
tiến sĩ kinh tế của Võ Văn Hợp, Học viện tài chính, 2013. Tác giả luận án đã
làm rõ cơ sở lý luận về tính bền vững của ngân sách nhà nước như, khái niệm,
đặc điểm, nội dung, các nhân tố tác động và những dấu hiệu của một ngân sách
nhà nước thiếu bền vững. Trên cơ sở đó tác giả đánh giá thực trạng thu chi
ngân sách nhà nước và tính bền vững của ngân sách nhà nước từ năm 2001 2010. Từ đó tác giả đề xuất các nhóm giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm hướng
tới bảo đảm tính bền vững của ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 - 2020.
- “Quản lý đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước trên địa bàn thành
phố Hà Nội”, Luận án tiến sỹ kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Thanh Nhàn,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2012. Tác giả luận án đã làm rõ sự
cần thiết, yêu cầu, huy động mọi nguồn lực vào đầu tư phát triển cho xã
hội và thấy được vai trò quan trọng của ngân sách nhà nước trong việc mở
đường, hướng dẫn, giữ vai trò chủ đạo để đầu tư phát triển; làm rõ sự cần
thiết phải quản lý ngân sách đầu tư cho phát triển để đảm bảo hiệu quả.
Trên cơ sở đó tác giả đánh giá thực trạng quản lý đầu tư phát triển từ ngân
sách nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội, là rõ những thành tựu, hạn
chế, nguyên nhân những yếu kém trong công tác quản lý đầu tư phát triển
từ ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó, đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư phát
triển từ ngân sách nhà nước ở Hà Nội những năm tiếp theo.
- Quản lý chi ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản trên
địa bàn tỉnh Bình Định,Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Trịnh Thị Thúy
Hồng, 2012. Tác giả làm rõ vai trò của quản lý NSNN trong đầu tư xây dựng
cơ bản và đưa ra các chỉ tiêu đánh giá, quản lý chi NSNN trong đầu tư xây
dựng cơ bản; Kết quả chi, hiệu quả chi NSNN; Khảo sát chu trình quản lý
NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản từ khâu lập dự toán, chấp hành dự toán,
quyết toán cho đến khâu kiểm tra, thanh tra, đánh giá các chương trình. Các
8
phân tích về thực trạng quản lý chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản trên
địa bàn tỉnh Bình Định cho thấy được điểm mạnh nhất, yếu nhất trong từng
khâu của chu trình quản lý chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa
bàn tỉnh, các nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong quản lý chi NSNN trong đầu
tư xây dựng cơ bản. Từ đó tác giả đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường
quản lý chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Trong các công trình này, các tác giả đã đề cập về phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước nói chung và quản lý ngân sách xã, phường nói riêng
tại từng địa phương.
Tuy nhiên chưa có tác giả nào nghiên cứu và công bố đề tài về quản lý
ngân sách nhà nước cấp xã ở huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội. Đặc thù
của mỗi địa phương là khác nhau, do đó việc nghiên cứu quản lý ngân sách
nhà nước cấp xã tại huyện Hoài Đức có những đặc thù riêng biệt khác với các
địa phương khác. Mặt khác trong từng giai đoạn thì việc phân cấp nguồn thu,
nhiệm vụ chi cũng khác nhau, thực trạng về kinh tế - xã hội cũng khác nhau,
do đó một số tài liệu nghiên cứu đã không còn phù hợp với thực tế hiện nay.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của các tác giả trên là nguồn tài liệu
tham khảo có giá trị khi nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về ngân sách nhà nước cấp xã, quản lý
ngân sách nhà nước cấp xã phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; Trên cơ sở đó phân tích thực trạng về quản lý
ngân sách nhà nước cấp xã trên địa bàn huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội,
đồng thời đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác quản lý ngân
sách nhà nước cấp xã trên địa bàn huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội đến
năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030.
9
* Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Phân tích cơ sở lý luận về quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên địa
bàn huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội
+ Phân tích đánh giá thực trạng quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên
địa bàn huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2014.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân
sách nhà nước cấp xã trên địa bàn huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội đến năm
2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Các khâu trong quy trình quản lý Thu – Chi ngân sách nhà nước cấp xã
của 20 xã, thị trấn trên địa bàn huyện Hoài Đức: Từ quản lý lập dự toán, quản
lý chấp hành dự toán, quản lý quyết toán ngân sách nhà nước cấp xã.
* Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích, so sánh, đánh giá về thực trạng
và kết quả quản lý thu - chi Ngân sách Nhà nước cấp xã trên địa bàn huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội
Nội dung nghiên cứu
Quản lý thu -chi ngân sách Nhà nước cấp xã trên địa bàn huyện Hoài
Đức, thành phố Hà Nội
Thời gian nghiên cứu
Số liệu thứ cấp chủ yếu thu thập từ năm 2010 đến năm 2014.
Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 11/2014 đến tháng 6/2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
- Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam,
10
những vấn đề cơ bản của kinh tế chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội; Đồng thời kết hợp quan điểm đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước về Ngân sách Nhà nước cấp xã. Để phân tích, luận giải.
- Tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước để vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể về quản lý ngân sách nhà nước
cấp xã ở huyện Hoài Đức
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, bao gồm:
- Hệ thống phương pháp nền tảng là phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Phương pháp nghiên cứu đặc thù của Kinh tế chính trị Mác - Lênin
(phương pháp trừu tượng hóa khoa học), cùng các phương pháp phân tích,
thống kê, so sánh, hệ thống hoá, khái quát hoá.
6. Ý nghĩa của đề tài
Hệ thống hóa, kế thừa có chọn lọc để làm rõ các vấn đề lý luận và thực
tiễn về quản lý ngân sách nhà nước cấp xã.
Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý ngân sách nhà nước cấp xã trên
địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Chỉ ra được những kết quả, hạn
chế bất cập, nguyên nhân và hoàn thiện quản lý ngân sách nhà nước cấp xã
trong thời gian tới.
Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý ngân sách nhà nước cấp xã
nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà
nước của chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận của luận văn và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương (8 tiết)
11
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CẤP XÃ
1.1. Những vấn đề chung về ngân sách nhà nước cấp xã
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước
Nước ta, đã có hàng nghìn năm lịch sử tồn tại và phát triển gắn liền với
các triều đại phong kiến và cùng đó là sự hình thành và phát triển của làng xã.
Chính từ việc đặt định và quản lý làng xã từ thời xa xưa, thực thể làng xã và
văn minh làng xã đã hình thành: Từ quá trình định cư và cộng cư của người
Việt lấy trồng trọt là nông nghiệp lúa nước làm chủ lực, Nhà nước qua các
triều đại phong kiến đến đô hộ của phong kiến Trung Quốc hàng ngàn năm
lịch sử, trong đó các vấn đề thu- chi ngân sách - thuế khóa tiền tệ… trong lịch
sử là một trong những đặc trưng quan trọng của làng xã và văn minh làng xã.
Theo nhà sử học Lê Văn Lan, NSX ở Việt Nam có quá trình phát triển
từ rất lâu đời. Trong bản hương ước ngày trước có ghi: “ Nước có thuế nước
như: thuế đinh điền, môn bài để chi công việc công ích trong nước. Dân phải
đóng thuế ở dân như thuế trâu, bò, ngựa, nhà cửa để lo công việc cho dân”.
Thuật ngữ và khái niệm “dân” ở đây chính là dùng cho làng xã.
Câu văn cổ này chính là một tuyên ngôn cho sự ra đời và tồn tại của
NSNN cấp xã trong xã hội và văn minh làng xã ngày xưa. Với lý do: làng xã
là một đơn vị có tính tự tôn - tự trị - tự quản cao, nên cũng cần phải có quỹ
làng xã, sự ra đời và tồn tại “Ngân sách” hiển nhiên là một tất yếu truyền
thống.
Đến nay theo luật ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2002 và các văn
bản hướng dẫn thực hiện ( NĐ số 60/2003/NĐ – CP ngày 06/06/2003 của
Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật NSNN; thông tư số
59/2003/TT – BTC ngày 23/06/2003 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện
12
nghị định số 60/2003/NĐ – CP). NSNN cấp xã là một bộ phận của NSNN, là
hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa chính quyền nhà nước cấp xã với nhân
dân phát sinh trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm
đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý, điều hành nền kinh tế - xã
hội trên địa bàn xã. NSNN cấp xã là Ngân sách của chính quyền nhà nước cấp
xã, do ủy ban nhân dân xã xây dựng, quản lý, điều hành, được hội đồng nhân
dân xã phê chuẩn và giám sát thực hiện.
Như vậy, quá trình hình thành NSNN cấp xã luôn gắn chặt với bộ máy
chính quyền cấp xã nhằm duy trì sự tồn tại và phát huy hiệu lực của bộ máy
chính quyền xã, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà chính quyền cấp
xã đảm nhận trong từng thời kỳ do HĐND xã giao cho.
Theo quy định tại điều 1 Luật Ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 đã được
Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ hai
ngày 16 tháng 12 năm 2002 thì: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi
của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực
hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Về hình thức biểu hiện, NSNN là toàn bộ các khoản chi tiêu của Nhà
nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo
quy định của Luật NSNN. Những nội dung bên trong của NSNN có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau, phần lớn nguồn thu NSNN mang tính bắt buộc, thu
không hoàn lại thông qua hình thức thuế, phí, lệ phí; còn các khoản chi phần
lớn mang tính chất cấp phát không hoàn lại, trừ trường hợp góp vốn tham gia
các tổ chức kinh tế. Chính nội dung này đóng vai trò quyết định sự tồn tại của
NSNN nói chung, của ngân sách nhà nước cấp xã nói riêng. Chủ thể của
NSNN chính là nhà nước.
Tuy nhiên, bản chất kinh tế của NSNN được hình thành từ các mối
quan hệ bên trong quá trình hoạt động của nó. Hoạt động của NSNN cấp xã là
13
hoạt động phân phối các nguồn tài chính trong phạm vi thẩm quyền quy định.
Nguồn này được chia thành hai phần, một phần nộp vào NSNN và một phần
để lại cho xã hội; hai phần này tiếp tục được phân phối cho tiêu dùng và đầu
tư. Vì vậy, hoạt động của NSNN là quá trình giải quyết các lợi ích kinh tế
giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội được thể hiện qua các khoản thu,
chi của NSNN.
Như vậy, hệ thống các quan hệ tài chính gắn với việc tạo lập và sử
dụng các quỹ NSNN tạo nên bản chất kinh tế của NSNN và bản chất kinh tế
của NSNN được thể hiện thông qua các mối quan hệ chủ yếu: quan hệ kinh tế
giữa NSNN với khu vực doanh nghiệp; quan hệ kinh tế giữa NSNN với các
cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội, các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội phát sinh
trong quá trình phân phối lại các khoản thu nhập; quan hệ kinh tế giữa NSNN
với các tầng lớp dân cư, quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài chính.
Các biểu hiện của NSNN mặc dù rất đa dạng và phong phú, nhưng thực chất
chúng phản ánh những nội dung cơ bản đó là:
Thứ nhất, NSNN là phạm trù kinh tế khách quan nhưng được sử dụng
theo ý định chủ quan của nhà nước.
Thứ hai, xét về nội dung vật chất thì NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn
nhất của Nhà nước, do Nhà nước quản lý, sử dụng.
Thứ ba, xét về nội dung quản lý thì NSNN là kế hoạch tài chính cơ bản
của Chính Phủ, được thể trong một thời kỳ (thường là một năm), có 3 đặc
trưng: tính dự toán, tính cân đối và tính thời hạn.
Thứ tư, xét về pháp lý thì NSNN là một đạo luật tài chính.
Thứ năm, quy mô của NSNN quyết định bởi hoạt động của nền kinh tế
quốc dân.
Từ đó, có thể đi đến kết luận: Bản chất của NSNN là tổng thể các mối
quan hệ kinh tế được phát sinh trong quá trình phân phối bằng giá trị tổng sản
14
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung nhằm
thực hiện các chức năng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước
trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
Cũng theo Luật Ngân sách nhà nước thì hệ thống Ngân sách nhà nước
ở nước ta bao gồm: ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Trong
đó ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp
có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Phù hợp với mô hình tổ chức
chính quyền Nhà nước ta hiện nay ngân sách địa phương bao gồm: Ngân sách
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ngân sách huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và Ngân sách xã, phường, thị trấn. Cơ cấu tổ chức của hệ
thống Ngân sách nhà nước ta có thể mô tả theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Hệ thống Ngân sách nhà nước Việt Nam
Hệ thống NSNN
NSTW
NSĐP
NS Tỉnh
NS Huyện
NS Xã
Từ sơ đồ khái quát trên cho thấy: NSNN cấp xã là một bộ phận của hệ
thống ngân sách nhà nước. Các khoản thu, chi của NSNN cấp xã là những
15
khoản thu, chi của Ngân sách nhà nước giao cho Uỷ ban nhân dân xã xây
dựng, tổ chức quản lý. Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn và giám sát thực hiện
theo nhiệm vụ quyền hạn của Luật Ngân sách nhà nước quy định. Tuy nhiên,
điểm khác biệt giữa NSNN cấp xã với các cấp ngân sách khác trong hệ thống
Ngân sách nhà nước, đó là: NSNN cấp xã vừa là một cấp ngân sách lại vừa là
một đơn vị dự toán ngân sách.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm ngân sách nhà nước cấp xã
* Khái niệm ngân sách nhà nước
NSNN là một phạm trù kinh tế; là một bộ phận trong hệ thống tài chính
quốc gia. Sự hình thành và phát triển của NSNN gắn liền với sự xuất hiện và
phát triển của nhà nước. Sự ra đời của nhà nước và sự tồn tại của kinh tế hàng
hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của NSNN.
Luật NSNN của Việt Nam quy định: NSNN là toàn bộ các khoản thu,
chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước.
NSNN có thể hiểu là một kế hoạch tài chính quốc gia bao gồm chủ yếu
các khoản thu và chi của Nhà nước được mô tả dưới hình thức cân đối bằng
giá trị tiền tệ. Phần thu thể hiện các nguồn tài chính được huy động vào
NSNN; phần chi thể hiện chính sách phân phối các nguồn tài chính đã huy
động được để thực hiện mục tiêu KTXH, an ninh, quốc phòng. NSNN được
lập và thực hiện cho một thời gian nhất định, thường là một năm và được
Quốc hội phê chuẩn thông qua.
NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Quỹ này thể hiện lượng
tiền huy động từ thu nhập quốc dân để đáp ứng cho các khoản chi tiêu của
Nhà nước, có hai mặt đó là: mặt tĩnh và mặt động. Mặt tĩnh thể hiện các
nguồn tài chính được tập trung vào NSNN mà chúng ta có thể xác định được
vào bất kỳ thời điểm nào. Mặt động thể hiện các quan hệ phân phối dưới hình
16
thức giá trị gắn liền với quỹ tiền tệ tập trung vào NSNN và từ NSNN phân bổ
các nguồn tài chính cho các ngành, các lĩnh vực, các địa phương của nền kinh
tế quốc dân.
NSNN là một phạm trù kinh tế tài chính, được coi là một hệ thống
quan hệ kinh tế tồn tại khách quan. Hệ thống các quan hệ kinh tế này được
đặc trưng bởi quan hệ tiền tệ phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn
lực tài chính và bằng các quan hệ kinh tế đó mà quỹ tiền tệ tập trung của Nhà
nước được tạo lập và sử dụng. Hệ thống các quan hệ kinh tế này bao gồm:
Quan hệ kinh tế giữa NSNN với khu vực doanh nghiệp; quan hệ kinh tế giữa
NSNN với các đơn vị hành chính sự nghiệp; quan hệ kinh tế giữa NSNN với
các tầng lớp dân cư; quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài chính.
Đằng sau hình thức biểu hiện bên ngoài của NSNN là một loại quỹ tiền
tệ của Nhà nước với các khoản thu và các khoản chi của nó thì NSNN lại
phản ảnh các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối, thể hiện các quan hệ
phân phối và các quan hệ lợi ích kinh tế gắn với một chủ thể đặc biệt, đó là
Nhà nước nhằm tạo lập và sử dụng nguồn tài chính quốc gia để giải quyết các
nhiệm vụ về KTXH.
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách có quan hệ hữu cơ với
nhau trong quá trình tổ chức huy động, quản lý các nguồn thu và thực hiện
nhiệm vụ chi của mỗi cấp ngân sách. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hệ
thống NSNN được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy quản lý hành
chính nhà nước. Ở nước ta, bộ máy bộ máy quản lý hành chính nhà nước
được tổ chức 4 cấp: trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và xã, phường, thị trấn. Mỗi cấp chính
quyền đều phải có ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ được giao theo quy
định của pháp luật và phù hợp với khả năng quản lý của cấp chính quyền đó.
Như vậy, NSNN cấp xã nằm trong ngân sách địa phương, do hội đồng
nhân dân (HĐND) cấp xã phê chuẩn dự toán thu và phương án chi ngân sách
17
cho các đơn vị trực thuộc cấp ngân sách quản lý; Đồng thời chịu sự quản lý
và điều hành của UBND xã trực tiếp là Ban tài chính cấp xã tham mưu. Việc
quy định nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ điều tiết giữa các cấp trong ngân
sách địa phương là do cấp thành phố quyết định phù hợp với Luật NSNN quy
định. UBND cấp xã lập quyết toán ngân sách cấp xã trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp phê chuẩn và báo cáo UBND huyện, cơ quan tài chính cấp trên trực
tiếp và kiểm tra nghị quyết của HĐND cấp xã về tài chính - ngân sách.
* Khái niệm ngân sách nhà nước cấp xã
NSNN cấp xã có thể hiểu là toàn bộ các hoạt động thu, chi NSNN đã
được UBND cấp xã trình và HĐND xã phê chuẩn, giám sát và được thực hiện
trong một năm để đảm bảo thực hiện các mục tiêu ổn định chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn xã.
* Khái niệm về quản lý ngân sách nhà nước cấp xã
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả
trong và ngoài nước đã đưa ra những khái niệm khác nhau về quản lý. Đến
nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc biệt là kể từ các
quan niệm về quản lý lại càng phong phú. Các trường phái quản lý học đã đưa
ra những định nghĩa về quản lý như sau:
Theo Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình,
doanh nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch,
tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”.
Quản lý nói chung là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Quản lý NSNN là quá trình mà chủ thể quản lý thông qua việc sử
dụng có chủ định các phương pháp và các công cụ quản lý để tác động và
điều khiển hoạt động của NSNN nhằm đạt được mục tiêu đã định trong từng
thời kỳ nhất định.
18
Mỗi cấp ngân sách có hoạt động quản lý NSNN tương ứng. Do vậy,
quản lý NSNN có thể được xem xét trên các cấp độ khác nhau: quản lý
NSNN cấp trung ương và quản lý NSNN cấp địa phương. Quản lý NSNN địa
phương bao gồm: quản lý NSNN cấp tỉnh, quản lý NSNN cấp huyện và quản
lý NSNN cấp xã.
Quản lý NSNN cấp xã là quá trình chính quyền địa phương vận dụng
các quy luật khách quan, sử dụng hệ thống các công cụ, phương pháp quản lý
để tác động, điều chỉnh các hoạt động thu, chi NSNN của chính quyền cấp xã
nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã và bảo đảm
hoạt động bộ máy chính quyền xã.
Khi xem xét khái niệm này, có một số điểm cần lưu ý:
Một là, chủ thể quản lý NSNN cấp xã là chính quyền cấp xã. Đó là
UBND xã, HĐND xã và các cán bộ chuyên môn cấp xã.
Hai là, đối tượng quản lý là các tổ chức kinh tế, các đơn vị sử dụng
ngân sách trên địa bàn xã theo phân cấp quản lý.
Ba là, công cụ quản lý NSNN là kế hoạch, pháp luật về thu, chi NSNN,
các phương pháp quản lý kinh tế.
Bốn là, mục tiêu quản lý NSNN là bảo đảm việc hoạt động, phân phối
và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu
phát triển KT-XH của địa phương.
Năm là, quản lý NSNN cấp xã bao gồm quản lý thu NSNN cấp xãvà
quản lý chi NSNN cấp xã.
Như vậy, Quản lý NSNN cấp xã là hoạt động của cơ quan nhà nước cấp xã
có thẩm quyền trong lĩnh vực tổ chức, quản lý nguồn thu, kiểm soát chi NSNN
nhằm bảo đảm khả năng thanh toán, chi trả và sử dụng có hiệu quả NSNN.
* Đặc điểm của ngân sách nhà nước cấp xã
Thứ nhất, cấp xã là một trong 4 cấp quản lý hành chính và là mắt xích
quan trọng trong hệ thống hành chính ở nước ta hiện nay với chức năng,
19
nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức HĐND và UBND. Tuy nhiên, về
quản lý NSNN của cấp này chỉ mang tính độc lập tương đối, chịu sự lãnh đạo
toàn diện của cấp huyện.
Thứ hai, theo Luật NSNN hiện hành, ngân sách nhà nước cấp xã là
một cấp ngân sách hoàn chỉnh với nguồn thu và nhiệm vụ chi được quy định
cụ thể để đảm bảo hoàn thành chức năng nhiệm vụ của cấp xã. Tuy nhiên, do
Luật NSNN cũng đã quy định đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp
ngân sách thì Quốc hội quyết định tỷ lệ điều tiết ngân sách giữa Trung ương
và địa phương; HĐND cấp tỉnh quyết định tỷ lệ % điều tiết giữa ngân sách
cấp tỉnh với ngân sách cấp xã. Do đó, quy mô ngân sách và khả năng tự cân
đối của ngân sách cấp xã hoàn toàn phụ thuộc vào việc phân cấp nguồn thu,
phân cấp nhiệm vụ chi của cấp tỉnh đối với ngân sách cấp xã cũng như quy
định tỷ lệ % điều tiết ngân sách giữa ngân sách cấp tỉnh đối với ngân sách cấp
xã. Ngân sách cấp xã có tự cân đối được hay không phụ thuộc vào sự phân
chia về ngân sách giữa các cấp chính quyền địa phương trong tỷ lệ % điều tiết
và phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi do HĐND, UBND cấp tỉnh quyết định.
Thứ ba, do không phải là cấp có thể hình thành các chính sách, chế độ
về thu, chi ngân sách nên nội dung thu, chi của ngân sách cấp xã do cấp tỉnh
(HĐND &UBND cấp tỉnh) quyết định. Trong thực tiễn hay phát sinh mâu
thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ phát triển KTXH ở địa phương cũng như những
nhiệm vụ chi được giao thêm với cân đối ngân sách đã được ổn định (với thời
gian từ 3-5 năm theo luật ngân sách quy định). Vấn đề này đặt ra yêu cầu là
các cơ quan hoạch định chính sách, xây dựng chính sách chế độ thu, chi ngân
sách tham mưu việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ điều tiết cho
ngân sách cấp xã phải xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn mang tính
đầy đủ để tham mưu cho quan có thẩm quyền của cấp tỉnh quyết định, tránh
yếu tố cảm tính, thiếu cơ sở khoa học. Đồng thời, phân cấp phải trên quan
điểm tăng quyền chủ động của ngân sách cấp xã để hoàn thành tốt nhiệm vụ
phát triển KTXH ở địa phương.
20
Thứ tư, quy mô ngân sách cấp xã thường không ổn định qua các giai
đoạn. Đối với nguồn thu của ngân sách cấp xã thường chủ yếu là các khoản
thu về thuế, phí, lệ phí, thu chuyển quyền sử dụng đất và thu khác. Trong đó,
thu từ thuế và phí, lệ phí là nguồn thu quan trọng chiếm tỷ trọng từ 70-80%
tổng thu ngân sách. Tuy nhiên, từ thực tế thấy rằng khoản thu thuế được giao
chủ yếu là các sắc thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp
từ khu vực ngoài quốc doanh của các doanh nghiệp loại nhỏ, đặc biệt ở thời
điểm kinh tế suy thoái như hiện nay là rất khó thực hiện, thường xuyên thất
thu làm giảm chi ngân sách cấp xã. Những khoản thu này có quy mô số thu
không lớn, nhưng chi phí phải bỏ ra cho công tác thu không nhỏ và đó cũng là
những vấn đề còn bất cập đối với việc phân cấp nguồn thu cho cấp xã. Đối
với chi ngân sách thường thì xảy ra tình trạng mâu thuẫn giữa nhiệm vụ chi
được giao, đặc biệt là ấn định tăng dự toán một số khoản thu (khi giao dự toán
ngân sách hàng năm) để bố trí các khoản chi cho chính sách mới, nhưng thực
tế rất khó hoàn thành nguồn để đảm bảo trang trải nhiệm vụ chi, đôi khi tạo ra
cảm giác không bình đẳng, có sự ấn định chưa hợp lý từ cấp tỉnh.
1.1.3. Vai trò của ngân sách cấp xã
NSNN là khâu tài chính tập trung quan trọng nhất, là kế hoạch tài chính
cơ bản, tổng hợp của nhà nước. Nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài
chính và có vai trò quyết định sự phát triển KTXH. Vai trò của NSNN được
xác lập trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn
cụ thể. Phát huy vai trò của NSNN như thế nào là thước đo đánh giá hiệu quả
điều hành, lãnh đạo của nhà nước các cấp trong đó có chính quyền cấp xã. Ở
nước ta hiện nay, NSNN cấp xã có các vai trò chủ yếu sau:
Thứ nhất, NSNN cấp xã duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà
nước của xã, bằng việc huy động, khai thác các nguồn lực tài chính từ mọi
lĩnh vực, các thành phần kinh tế theo các hình thức bắt buộc hay tự nguyện.
Từ đó, Nhà nước sẽ tiến hành phân phối nguồn tài chính đó để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước của xã theo tỷ lệ hợp lý, tiết kiệm, có hiệu
21
quả nhằm duy trì và đảm bảo sức mạnh của bộ máy vừa đảm bảo thực hiện
được chức năng KTXH hội trên địa bàn xã.
Thứ hai, NSNN cấp xã là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế
trên địa bàn xã. Thông qua NSNN cấp xã, HĐND và UBND xã sẽ định hướng
đầu tư, mục tiêu phát triển kinh tế trên địa bàn xã theo đúng định hướng phát
triển. Góp phần khắc phục khiếm khuyết thị trường, qua đó tạo điều kiện
thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, ổn định, nâng cao đời sống dân cư trên địa bàn.
Thứ ba, NSNN cấp xã đóng vai trò trong việc thực hiện công bằng và giải
quyết các vấn đề xã hội trên địa bàn xã. Kinh tế thị trường phân phối nguồn lực
theo phương thức riêng của nó, vận hành theo những quy luật riêng của nó. Mặt
trái của nó là phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng trong xã hội, tạo ra sự bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn định xã hội. Bên cạnh đó,
do mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên các chủ sở hữu nguồn lực thường khai thác
tối đa mọi nguồn tài nguyên, môi trường sinh thái bị hủy hoại, nhiều loại hàng hóa
và dịch vụ mà xã hội cần nhưng khu vực tư nhân không cung cấp như hàng hóa
công cộng. Do đó, nếu để KTTT tự điều chỉnh mà không có vai trò của Nhà nước
thì sẽ phát triển thiếu bền vững. Vì vậy, Nhà nước sử dụng NSNN thông qua công
cụ là chính sách thuế khóa và chi tiêu công để phân phối lại thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư trong xã hội, cung cấp hàng hóa dịch vụ công cho xã hội, chú ý
phát triển cân đối giữa các vùng, miền đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái, thông qua NSNN cấp xã, chính quyền xã sẽ thực hiện cung cấp
các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, văn hoá, xoá đói giảm nghèo, phòng
chống tệ nạn xã hội, giữ gìn môi trường, đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn…
1.2. Nội dung, yêu cầu về quản lý ngân sách nhà nước cấp xã
1.2.1. Nội dung quản lý ngân sách nhà nước cấp xã
UBND cấp xã thực hiện việc quản lý NSNN cấp xã thông qua việc
thông báo, hướng dẫn các khoản thu chi mà các xã có quyền quản lý trực tiếp.
22
HĐND cấp xã thực hiện kiểm tra, giám sát các hoạt động ngân sách của cấp
xã bảo đảm cân đối chung của cấp xã.
* Đối với phân cấp quản lý NSNN của xã
Từ quyết định của UBND cấp huyện và hướng dẫn của Phòng Tài
chính; UBND cấp xã chỉ đạo cán bộ tài chính kế toán là người trực tiếp
tham mưu cho UBND cấp xã quản lý NSNN cấp xã thực hiện phân cấp
theo quy định. HĐND xã thực hiện kiểm tra, giám sát các hoạt động thu,
chi đảm bảo cân đối ngân sách trên địa bàn xã.
* Đối với khâu lập dự toán ngân sách nhà nước
Dự toán NSNN cấp xã gồm dự toán thu ngân sách và dự toán chi ngân
sách. Mục tiêu cơ bản của việc lập dự toán ngân sách là nhằm tính toán
đúng đắn ngân sách trong kỳ kế hoạch, có căn cứ khoa học và căn cứ thực
tiễn các chỉ tiêu thu, chi của ngân sách trong kỳ kế hoạch.
* Đối với khâu chấp hành ngân sách nhà nước
Mục tiêu của chấp hành ngân sách là biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong
kế hoạch ngân sách từ khả năng, dự kiến thành hiện thực. Kiểm tra việc thực
hiện các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức về kinh tế - tài chính của
nhà nước. Thông qua chấp hành ngân sách mà tiến hành đánh giá sự phù hợp
của chính sách với thực tiễn.
Về quyền hạn của cơ quan quản lý thu NSNN trong chấp hành NSNN,
Luật NSNN năm 2002 quy định: Chỉ có cơ quan tài chính, cơ quan thuế, cơ
quan hải quan và cơ quan khác được giao nhiệm vụ thu ngân sách (gọi chung
là cơ quan thu) được tổ chức thu NSNN; Cơ quan thu có nhiệm vụ, quyền hạn
phối hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan tổ chức thu đúng pháp luật; chịu
sự chỉ đạo, kiểm tra của UBND và sự giám sát của HĐND về công tác thu
ngân sách tại địa phương; phối hợp với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm
chỉnh nghĩa vụ nộp ngân sách theo quy định của Luật ngân sách và các quy
23
định khác của pháp luật; Cơ quan thu các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra các tổ chức, cá nhân có nghĩa
vụ nộp ngân sách phải nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản nộp vào ngân sách
nhà nước.
Về phân bổ và giao dự toán chi ngân sách, sau khi UBND huyện giao
dự toán ngân sách, UBND các xã lập dự toán trình HĐND cùng cấp phê
chuẩn, tiến hành phân bổ và giao dự toán chi ngân sách cho các đơn vị sử
dụng ngân sách trực thuộc theo các nguyên tắc được quy định tại Điểm a
khoản 1 điều 44 của Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính
phủ. Dự toán chi thường xuyên được giao cho đơn vị sử dụng ngân sách được
phân bổ theo từng loại của mục lục NSNN, theo các nhóm mục: chi thanh
toán cá nhân; chi nghiệp vụ, chuyên môn; chi mua sắm, sửa chữa; các khoản
chi khác.
Đối với chi đầu tư phát triển, các khoản chi này được thực hiện trên
nguyên tắc quản lý cấp phát thanh toán vốn đầu tư XDCB như cấp phát vốn
trên cơ sở thực hiện nghiêm chỉnh trình tự đầu tư và xây dựng, đảm bảo đầy
đủ các tài liệu thiết kế, dự toán; việc cấp phát thanh toán vốn đầu tư và XDCB
phải đảm bảo đúng mục đích, đúng kế hoạch; cấp phát vốn đầu tư XDCB chỉ
được thực hiện theo đúng mức độ thực tế hoàn thành kế hoạch, trong phạm vi
giá dự toán được duyệt; việc cấp phát vốn đầu tư XDCB được thực hiện bằng
hai phương pháp cấp phát không hoàn trả và có hoàn trả; cấp phát thanh toán
vốn đầu tư XDCB phải thực hiện giám đốc bằng đồng tiền với việc sử dụng
vốn đúng mục đích có hiệu quả vốn đầu tư.
* Đối với khâu quyết toán NSNN
Theo Nghị định 60/2003/NĐ-CP, ngày 06/6/2003 của Chính phủ, quyết
toán ngân sách phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, số quyết toán ngân sách nhà nước là số thu đã được thực nộp
hoặc hạch toán thu ngân sách nhà nước qua KBNN.
24
Thứ hai, số quyết toán chi ngân sách nhà nước là số chi đã thực thanh
toán hoặc đã hạch toán chi theo quy định tại điều 62 của Luật ngân sách nhà
nước và các khoản chi chuyển nguồn sang năm sau để chi tiếp theo quy định
tại khoản 2 điều 66 của Nghị định 60/2003/NĐ- CP.
Thứ ba, số liệu trong báo cáo quyết toán ngân sách phải chính xác,
trung thực, đầy đủ. Nội dung báo cáo quyết toán ngân sách phải theo đúng các
nội dung ghi trong dự toán được giao và chi tiết theo mục lục NSNN. Thủ
trưởng đơn vị sử dụng ngân sách phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
tính chính xác, trung thực, đầy đủ; chịu trách nhiệm về những khoản thu, chi
hạch toán, quyết toán ngân sách sai chế độ.
Thứ tư, báo cáo quyết toán năm của chính quyền cấp xã gửi Phòng Tài
chính huyện.
Thứ năm, báo cáo quyết toán năm gửi cấp có thẩm quyền để thẩm định,
phê duyệt phải có xác nhận của KBNN huyện về tổng số và chi tiết.
Thứ sáu, báo cáo quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán và của
các cấp chính quyền địa phương không được quyết toán chi lớn hơn thu.
Về trình tự lập, gửi, xét duyệt báo cáo thu, chi NSNN năm đối với đơn
vị dự toán: sau khi kết thúc công tác khóa sổ kế toán cuối ngày 31/12, số liệu
trên sổ sách kế toán của đơn vị phải bảo đảm cân đối và khớp đúng với chứng
từ thu, chi ngân sách của đơn vị và số liệu của KBNN huyện về tổng số và chi
tiết; trên cơ sở đó đơn vị dự toán tiến hành lập báo cáo quyết toán năm.
Về trình tự lập, thẩm định, phê chuẩn và gửi báo cáo quyết toán thu, chi
NSNN năm của ngân sách cấp xã: mẫu, biểu báo cáo quyết toán năm của
ngân sách nhà nước nói chung và ngân sách nhà nước cấp xã nói riêng thực
hiện theo chế độ kế toán nhà nước và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài
chính. Ban tài chính xã có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán thu, chi ngân
sách cấp xã trình UBND xã xem xét gửi phòng Tài chính - Kế hoạch huyện
đồng thời trình HĐND xã phê chuẩn. Trường hợp báo cáo quyết toán năm của
25
xã do HĐND xã phê chuẩn có thay đổi so với báo cáo quyết toán năm do
UBND xã đã gửi phòng Tài chính – Kế hoạch huyện, thì UBND xã báo cáo
bổ sung, gửi phòng Tài chính – Kế hoạch huyện. Sau khi HĐND xã phê
chuẩn, Ban tài chính xã gửi báo cáo quyết toán đến Phòng Tài chính – Kế
hoạch huyện đồng thời gửi Kho bạc nhà nước huyện Nghị quyết phê chuẩn
quyết toán của HĐND xã. Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện có trách nhiệm
thẩm định quyết toán thu, chi ngân sách xã.
Duyệt quyết toán năm đối với đơn vị dự toán: Phòng Tài chính kế
hoạch huyện xét duyệt từng khoản thu, chi phát sinh tại đơn vị, các khoản thu
phải đúng pháp luật, pháp lệnh thuế, pháp lệnh phí, lệ phí và các chế độ thu
khác của nhà nước; các khoản chi phải đảm bảo các điều kiện chi quy định,
thu chi phải hạch toán theo đúng chế độ kế toán, đúng mục lục ngân sách nhà
nước, đúng niên độ ngân sách; Chứng từ thu, chi phải hợp pháp. Sổ sách và
báo cáo quyết toán phải khớp với chứng từ và khớp với số liệu của KBNN.
* Kiểm tra, thanh tra về ngân sách nhà nước
Cơ quan thanh tra tài chính huyện có nhiệm vụ thanh tra việc chấp
hành thu, chi và quản lý ngân sách. Khi thực hiện nhiệm vụ, Thanh tra tài
chính huyện có quyền: yêu cầu tổ chức, cá nhân được thanh tra xuất trình
các hồ sơ, các tài liệu kèm theo; yêu cầu các cơ quan có liên quan tham gia
phối hợp thực hiện thanh tra; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, Thanh tra
tài chính xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử
lý các vi phạm theo quy định của pháp luật; khi tiếp nhận các kiến nghị của
cơ quan Thanh tra tài chính, cơ quan có thẩm quyền phải xử lý và thông báo
kết quả xử lý cho cơ quan Thanh tra tài chính. Thanh tra tài chính phải chịu
trách nhiệm về kết luận thanh tra của mình. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Thanh tra tài chính trong việc thanh tra quản lý, sử dụng ngân
sách được quy định trong văn bản riêng của Chính phủ.
26